• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Hang dã thú
  3. Trang 22

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 52
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 21
  • 22
  • 23
  • More pages
  • 52
  • Sau

Chương 16

N

hững khoảng thời gian bận rộn.

Có đến hàng tá vấn đề có thể làm bận rộn tâm trí của người đàn ông to lớn, đang đổ mồ hôi, khi ngồi trong văn phòng rộng rãi thích hợp của mình bên trong tòa nhà Bộ Phòng không rộng hơn 37 nghìn mét vuông mới hoàn chỉnh, vào cuối buổi chiều thứ Bảy này, tại số 81-85 phố Wilhelm. Thậm chí còn rộng hơn cả Phủ Thủ tướng lẫn các căn hộ của Hitler cộng lại.

Chẳng hạn, Hermann Göring có thể tiếp tục công việc tạo ra một đế chế công nghiệp khổng lồ vẫn đang lên kế hoạch (và sẽ được đặt theo tên của gã, dĩ nhiên). Gã có thể đang soạn thảo một biên bản ghi nhớ ban hành đến tất cả lực lượng chiến binh nông thôn trên toàn quốc, nhắc nhở họ rằng Luật Nhà nước về Bảo vệ Động vật, do đích thân gã viết ra, sẽ được nghiêm khắc thi hành. Và bất kỳ ai bị bắt quả tang săn cáo bằng chó săn sẽ bị phạt nặng.

Hoặc có một vấn đề thiết yếu đối với bữa tiệc mừng Thế vận hội của gã, đó là Göring xây dựng ngôi làng riêng Thế vận hội trong chính Bộ Phòng không (gã đã ngó qua các kế hoạch sự kiện cho chương trình diệt lũ sâu bọ trị giá hàng nghìn mác của riêng Goebbels). Và dĩ nhiên có một vấn đề ngày càng quan trọng là gã sẽ mặc gì đến bữa tiệc. Thậm chí gã có thể gặp gỡ các sĩ quan phụ tá liên quan đến nhiệm vụ hiện tại gã đảm nhiệm trong ĐỆ TAM ĐẾ CHẾ: xây dựng lực lượng không quân tinh nhuệ nhất thế giới.

Nhưng điều làm Hermann Göring bốn mươi ba tuổi bận tâm lúc này là người góa phụ được hưởng trợ cấp có số tuổi gấp đôi gã sống trong một ngôi nhà nông thôn ngoài Hamburg.

Dĩ nhiên, với các chức danh từ Bộ trưởng không bộ, Ủy viên Hội đồng Hàng không, Tổng tư lệnh Không quân, Bộ trưởng Nội vụ Phổ, Bộ trưởng Hàng không và chuyên gia săn lùng của đế chế, gã không phải đích thân tiến hành bất kỳ công tác nghiên cứu thu thập thông tin nào liên quan đến bà Ruby Kleinfeldt. Một tá tên tay sai và các sĩ quan Gestapo của gã đã tỏa đi khắp phố Wilhelm và tại Hamburg, tìm hiểu qua các ghi chép và thẩm vấn mọi người.

Bản thân Göring đang nhìn chằm chằm qua cửa sổ văn phòng sang trọng, ăn một đĩa mỳ spaghetti ú ụ. Đây là món ăn ưa thích của Hitler, hôm qua Göring đã thấy Lãnh tụ đang ăn một bát mỳ. Phần thức ăn được mang đến kích thích ham muốn trong Göring, biến nó thành cơn thèm khát mãnh liệt, dù hôm nay gã đã ăn ba suất lớn.

Chúng tôi sẽ tìm được gì về mụ? Gã lặng lẽ hỏi bà già. Bà vẫn không hề biết thông tin về chuyện mình đang được điều tra, tìm kiếm hối hả. Cuộc điều tra dường như lạc đề đến ngớ ngẩn, xét đến rất nhiều các dự án thiết yếu xuất hiện trong chương trình nghị sự của gã. Thế nhưng dự án này tối quan trọng, vì có thể dẫn đến sự sụp đổ của Reinhard Ernst.

Đi lính được xem là sự nghiệp trọng tâm trong đời Hermann Göring, gã thường xuyên nhớ lại những ngày hạnh phúc của Thế Chiến thứ I, khi cầm lái chiếc phi cơ hai tầng cánh Fokker D-7 toàn thân sơn trắng bay qua Pháp và Bỉ, giao chiến với bất kỳ tên phi công Đồng minh ngu dại nào trên các bầu trời gần đó (theo xác nhận, hai mươi hai tên đã phải trả giá cho sai lầm bằng mạng sống của chúng, cho dù Göring vẫn tin rằng mình đã giết nhiều hơn thế). Giờ đây, cơ thể gã thậm chí không còn ngồi vừa vào buồng lái chiếc máy bay cũ nữa. Một người đàn ông dành cả đời uống thuốc giảm đau, đắm chìm vào đồ ăn, tiền bạc, nghệ thuật và quyền lực. Nhưng nếu bạn hỏi gã tận trong thâm tâm thì gã là ai, câu trả lời của Göring sẽ là: Một chiến binh.

Và một chiến binh biết cách tốt nhất để biến quốc gia của gã một lần nữa thành đất nước của những chiến binh - bạn phải phô ra sức mạnh của mình. Bạn không thương lượng, không chạy khắp nơi như một thằng nhóc lẩn vào bụi rậm sau kho lúa hút trộm tẩu thuốc của cha - hành vi của Đại tá Reinhard Ernst.

Đàn ông làm việc mà tính như đàn bà. Ngay cả Roehm đồng tính, cầm đầu lực lượng Xung Kích bị Göring và Hitler giết chết hai năm trước, vẫn còn mạnh mẽ chán nếu so với Ernst. Những mối làm ăn bí mật không thân thiết với Krupp, căng thẳng chuyển tài nguyên từ xưởng đóng tàu này sang xưởng đóng tàu khác, ép buộc “quân đội” hiện tại của họ, vốn đã yếu kém, phải dùng súng gỗ và pháo gỗ chia thành nhóm nhỏ trong huấn luyện để không gây sự chú ý. Và một tá chiến thuật mèo khác…

Tại sao lại do dự? Bởi vì Göring tin rằng kẻ trung thành với Quốc Xã chính là nghi phạm. Lãnh tụ và Göring không phải là con nít ba tuổi. Chúng biết số lượng người ủng hộ chúng không phải là nhiều. Bạn có thể thắng được phiếu bầu bằng súng và nắm đấm, nhưng bạn không thể dành được trái tim. Và nhiều trái tim trong nước không dâng hiến cho Chủ nghĩa Phát xít, trong số này có những người quyền cao chức trọng trong các lực lượng vũ trang. Ernst có thể cố tính kéo dài thời gian rất tốt, nhằm ngăn cản Hitler và Göring có được thể chế chúng cực kỳ thèm muốn: một đội quân mạnh mẽ. Có khả năng chính Ernst cũng hy vọng ngồi lên ngai vàng, nếu hai kẻ thống trị này bị hạ bệ.

Nhờ giọng lưỡi dẻo quẹo của hắn, tính cách dễ chịu của hắn, những phương pháp mềm mỏng của hắn, hai Huân chương Chữ Thập Sắt khốn kiếp và hàng tá huy chương khác, Ernst hiện đang hưởng ân huệ của Sói Xám (vì điều đó khiến hắn cảm tưởng mình gần gũi với Lãnh tụ. Göring thích sử dụng biệt danh phụ nữ đôi khi hay dùng để chỉ Hitler, cho dù dĩ nhiên tên Bộ trưởng chỉ dám lẩm bẩm cái tên thân mật này trong những suy nghĩ của gã).

Hãy cứ nhìn cách hắn tấn công Göring hôm qua về vấn đề chiến đấu cơ Me 109 tại Thế vận hội! Tay Bộ trưởng Hàng không đã thức trắng nửa đêm trước, giận điên lên trước màn trao đổi này, không ngừng hình dung cảnh Sói Xám đang hướng cặp mắt xanh về phía Ernst và đồng tình!

Một cơn lửa giận nữa tràn qua người gã. “Chúa trên Thiên đàng!” Göring ném thẳng đĩa mỳ spaghetti xuống sàn. Nó vỡ tan.

Một trong những người phục vụ của gã, cựu chiến binh Thế Chiến thứ I, chạy vào, đứng như hóa đá trên cái chân tàn tật. “Thưa ngài?”

“Dọn sạch đi!”

“Tôi sẽ đi lấy xô...”

“Ta không bảo lau sàn nhà. Chỉ nhặt mảnh vỡ thôi. Tối nay sẽ lau sàn.” Nói rồi tên Bộ trưởng cao lớn liếc nhìn chiếc áo sơ mi bóng bẩy của mình, thấy bị dây bẩn cà chua. Cơn giận tăng lên gấp đôi. “Ta cần một áo sơ mi sạch,” gã ngắt lời. “Đĩa đựng thức ăn Trung Quốc quá nhỏ. Dặn đầu bếp tìm đĩa nào khác to hơn đi. Lãnh tụ đã có bộ đĩa Meissen màu trắng và xanh dương rồi. Ta muốn có những chiếc đĩa như thế.”

“Vâng, thưa ngài.” Người đàn ông đang cúi xuống những mảnh vỡ.

“Không, làm sạch áo sơ mi của ta trước.”

“Vâng, thưa Bộ trưởng Hàng không.” Người đàn ông chạy đi thật nhanh. Lát sau ông ta quay lại, tay mang một áo sơ mi màu xanh dương sẫm treo trên móc.

“Không phải chiếc đó. Lần trước khi ngươi mang đến, ta đã bảo nó khiến ta trông như Mussolini còn gì.”

“Đó là chiếc màu đen, thưa ngài, tôi đã bỏ đi rồi. Cái này màu xanh dương mà.”

“Ta muốn cái áo màu trắng. Lấy áo sơ mi trắng cho ta! Sơ mi lụa!”

Người đàn ông quay đi, rồi trở lại lần nữa mang theo chiếc áo đúng màu.

Một lúc sau, một trong số các sĩ quan phụ tá cấp cao của Göring bước vào phòng.

Bộ trưởng cầm lấy sơ mi rồi gạt qua một bên, gã ngượng ngập về trọng lượng của mình, nên không bao giờ nghĩ đến chuyện thay đồ trước mặt cấp dưới. Gã lại cảm thấy bùng lên cơn giận dữ khác, lần này nhằm vào thể hình mảnh mai của Ernst. Khi người phục vụ đang nhặt những mảnh vỡ đồ sứ, sĩ quan cao cấp của gã nói, “Thưa Bộ trưởng Hàng không, tôi nghĩ chúng ta có tin tốt.”

“Gì thế?”

“Các đặc vụ của chúng ta tại Hamburg đã tìm thấy vài lá thư viết về bà Kleinfeldt. Chúng cho biết rằng bà ta là một người Do Thái.”

“‘Cho biết?’”

“Chứng minh, thưa Bộ trưởng. Chúng chứng minh điều đó.” “Thuần à?”

“Dạ không. Là con lai. Nhưng lai theo mẹ. Thế nên không thể tranh cãi được.”

Luật pháp Nuremberg về Quyền Công dân và Chủng tộc ban hành năm ngoái đã tước quyền công dân của người Đức gốc Do Thái, biến họ thành những “đối tượng.” Cũng như hôn nhân, quan hệ tình dục giữa những người Do Thái và Aryan bị xem là vi phạm pháp luật. Luật cũng quy định chính xác ai là một người Do thái trong trường hợp hôn nhân khác chủng tộc do tổ tiên truyền lại. Với hai ông bà là người Do Thái và hai ông bà không phải là người Do Thái, bà Kleinfeldt là một người mang hai dòng máu.

Điều này không gây nguy hại như nó có thể, nhưng phát hiện này khiến Göring vui sướng, bởi vì người đàn ông là cháu nội của bà Kleinfeldt, Giáo sư-Tiến sĩ Ludwig Keitel là đối tác của Reinhard Ernst trong Nghiên cứu Waltham. Göring vẫn không hiểu cái nghiên cứu bí ẩn này nhằm mục đích gì. Tuy nhiên những sự thật này đủ gây nguy hiểm rồi. Ernst đang làm việc với một người có tổ tiên là người Do Thái và họ đang sử dụng những văn bản của một tên Bác sĩ tâm lý Do Thái tên là Freud. Và nhức nhối nhất là Ernst đã giữ bí mật nghiên cứu này khỏi hai người quan trọng nhất trong chính phủ, chính là gã và Sói Xám.

Göring ngạc nhiên khi Ernst đánh giá gã thấp đến thế. Viên đại tá đã cho rằng Bộ trưởng Hàng không sẽ không nghe trộm điện thoại trong các quán cà phê quanh phố Wilhelm. Chẳng lẽ tên đại diện toàn quyền không biết rằng, trong cái quận sặc mùi hoang tưởng này, chính những cái điện thoại là mỏ vàng lớn nhất? Gã đã có được bản sao nội dung cuộc gọi của Ernst tới Giáo sư- Tiến sĩ Keitel sáng nay, khẩn cấp đề nghị một cuộc gặp.

Chuyện gì xảy ra tại cuộc gặp đó không quan trọng. Điều quan trọng đó là Göring đã biết được tên vị giáo sư, bây giờ lại tìm hiểu được dòng máu Do Thái chảy trong huyết quản ông ta. Hậu quả của tất cả những việc này? Rằng những hậu quả đó phụ thuộc nhiều vào việc Göring muốn chúng như thế nào. Hắn sẽ bị đánh bật khỏi hàng ngũ quan chức cấp cao của Chính phủ, nhưng được giữ lại một chức vụ bợ đỡ nào đó. Phải rồi, vào tuần tới, hắn sẽ may mắn xin được chân chạy đằng sau Bộ trưởng Quốc phòng Von Blomberg, bưng bê va li cho lão hói.

Sự nhiệt tình đã trở lại, Göring uống thêm vài viên thuốc giảm đau, quát gọi thêm một đĩa mỳ spaghetti nữa rồi tự thưởng cho mình vì thành công của trí tò mò, bằng cách hướng sự chú ý về bữa tiệc Thế vận hội. Tự hỏi: Gã có nên xuất hiện trong trang phục một thợ săn Đức không, hay là một tù trưởng Ả Rập, hay Robin Hood, hoàn chỉnh với bộ cung tên và một cánh cung khoác trên vai?

Đôi khi gần như là mình không thể quyết được.

Reggie Morgan lo lắng, “Tôi không có thẩm quyền phê chuẩn 1.000 đô la. Lạy Chúa tôi. Những một ngàn à?”

Họ đang đi bộ qua Tiergarten, qua một tên lính Xung kích đứng trên bục mồ hôi vã ra như tắm. Hắn đang diễn thuyết cho một nhóm ít người bằng giọng khàn khàn. Vài người rõ ràng đang muốn đi chỗ khác, vài người quay lại nhìn với sự khó chịu trong ánh mắt. Nhưng vài người như bị mê hoặc. Paul lại nhớ đến Heinsler trên tàu thủy.

Tao yêu mến Quốc Trưởng và tao sẽ làm bất kỳ điều gì cho Người và cho Đảng…

“Đe dọa có hiệu quả không?” Morgan hỏi.

“À có. Thực ra tôi nghĩ anh ta tôn trọng tôi nhiều hơn.” “Và hắn ta có thực sự thu được thông tin hữu ích không?” “Nếu ai đấy có thể, thì đó là anh ta. Tôi biết kiểu người như anh ta. Thật kinh ngạc khi biết vài người có thể trở nên tháo vát ra sao, khi bạn vung vẩy xấp tiền trước mặt họ.”

“Thế thì để xem chúng tôi có xoay xở được một ít không.”

Họ rời khỏi công viên rẽ về phía Nam tại cổng Brandenburg. Thêm vài khối nhà nữa, họ đi qua một nơi trang trí lộng lẫy. Khi các công tác sửa chữa sau vụ cháy hoàn tất, nơi đây sẽ trở thành Đại Sứ quán Mỹ.

“Nhìn này,” Morgan nói. “Hoành tráng, đúng không? Hoặc sẽ là thế.”

Ngay cả khi tòa nhà này chưa chính thức là Đại Sứ quán Mỹ, một lá cờ Mỹ vẫn cắm trên nóc rủ xuống mặt tiền. Cảnh tượng này khuấy động tâm hồn Paul, khiến gã cảm thấy thật tốt đẹp, dễ chịu hơn nhiều.

Gã nghĩ đến hai tên thanh niên Hitler tại làng Thế vận hội.

Và màu đen... dấu thập ngoặc. Anh sẽ nói là swatiska... Chà anh biết rồi còn hỏi... Chắc chắn là anh biết...

Morgan rẽ xuống một con ngõ rồi một con ngõ nữa, ngoái nhìn sau lưng rồi mở khóa cửa ra vào. Họ tiến vào trong một tòa nhà yên tĩnh, tối om rồi bước xuống vài hành lang cho đến cho tới một cánh cửa nhỏ cạnh nhà bếp. Họ bước vào trong. Căn phòng sáng lờ mờ, đồ nội thất ít ỏi: một bàn làm việc, vài cái ghế và một cái đài to đến mức Paul chưa từng thấy. Morgan bật đài, những cái ống nóng lên và kêu ro ro.

“Họ bắt được toàn bộ sóng ngắn ở nước ngoài,” Morgan nói, “thế nên chúng ta sẽ truyền thông điệp qua chùm tia vô tuyến đến Amsterdam, rồi London, sau đó được định tuyến qua đường điện thoại đến Mỹ. Phát xít sẽ phải mất một lúc mới lần ra được tần số,” ông ta nói, đeo tai nghe lên, “nhưng chúng có thể gặp may, nên cậu phải giả sử rằng chúng đang nghe trộm. Bất kể cậu muốn nói gì, chỉ được nghĩ trong đầu thôi.”

“Tất nhiên.”

“Chúng ta sẽ phải rời khỏi đây thật nhanh. Sẵn sàng chưa?”

Paul gật đầu, đeo tai nghe Morgan đưa cho gã, rồi cắm dây vào ổ cắm ông ta chỉ. Một ngọn đèn màu xanh lá cuối cùng cũng bật lên phía trước thiết bị. Morgan bước đến ô cửa sổ, liếc nhìn ra ngoài con ngõ rồi buông rèm xuống. Ông chỉnh micro gần miệng hơn, nhấn vào một nút trên tay cầm. “Tôi cần kết nối xuyên Đại Tây Dương đến bạn chúng tôi ở phía Nam.” Ông lặp lại câu nói này rồi thả tay khỏi nút truyền, quay sang nói với Paul, “‘Bạn chúng ta ở phía Nam là Bull Gordon’, Washington, cậu biết đấy.

‘Bạn chúng ta ở phía Bắc’ là Thượng Nghị sĩ.”

“Đã nhận,” một giọng trẻ trung cất lên, giọng của Avery. “Chờ một phút. Xin giữ máy. Định vị cuộc gọi.”

“A lô,” Paul nói.

Ngập ngừng một lúc. “Xin chào,” Avery đáp lại. “Cuộc sống của anh thế nào?”

“À, rất tốt. Thật vui khi được nghe giọng cậu.” Paul không tin được anh ta vừa tạm biệt gã mới ngày hôm qua. Cứ tưởng như đã bao nhiêu tháng rồi. “Nửa kia của cậu sao rồi?”

“Đang tránh xa rắc rối.”

“Thật khó tin,” Paul tự hỏi liệu Manielli có đấu võ mồm với tên lính Hà Lan nào không, như cách cậu ta đã mỉa mai hỗn xược tại Mỹ.

“Ở đây anh đang nói ra loa đấy,” giọng tức tối của Manielli vang lên. “Chỉ muốn anh biết vậy thôi.”

Paul phá lên cười.

Tiếp theo là sự im lặng.

“Lúc này là mấy giờ ở Washington?” Paul hỏi Morgan. “Giờ ăn trưa rồi.”

“Hôm nay là thứ Bảy. Gordon đâu?”

“Chúng ta không phải lo. Họ sẽ tìm được ông ấy.”

Một giọng phụ nữ cất lên, truyền qua tai nghe, “Xin vui lòng đợi một chút. Định vị cuộc gọi.”

Một lúc sau, Paul nghe thấy tiếng điện thoại reo. Rồi một giọng phụ nữ khác trả lời. “A lô?”

Morgan nói, “Xin vui lòng cho gặp chồng bà. Xin lỗi đã quấy rầy bà.”

“Chờ máy.” Như thể bà biết ai là người gọi. Sau một lúc, Gordon hỏi, “A lô?”

“Là chúng tôi đây, thưa ngài,” Morgan nói. “Tiếp đi.”

“Thay đổi trong những thu xếp. Chúng tôi phải tiếp cận người địa phương để kiếm thông tin.”

Gordon im lặng một lúc. “Anh ta là ai? Những thuật ngữ chung.”

Morgan ra dấu cho Paul, gã nói. “Anh ta biết một người có thể đưa chúng ta gần đến với khách hàng của chúng ta.”

Morgan gật đầu với sự lựa chọn từ ngữ của gã, rồi nói thêm, “Nhà cung cấp của chúng ta hết hàng rồi.”

Tư lệnh hỏi, “Người này làm việc cho công ty khác à?” “Không. Làm tự do thôi.”

“Chúng ta có lựa chọn nào khác không?”

Morgan nói, “Lựa chọn khác duy nhất là ngồi đợi, hy vọng vào điều tốt nhất.”

“Cậu tin anh ta?”

Một lúc sau, Paul đáp, “Vâng. Anh ta là một trong chúng ta.”

“Chúng ta?”

“Là tôi,” Paul giải thích. “Anh ta trong đường dây làm ăn với tôi. Chúng tôi, à... đã thu xếp một mức độ tin tưởng nhất định.”

“Có liên quan đến tiền?”

Morgan nói, “Đó là lý do chúng tôi đang gọi. Anh ta muốn rất nhiều tiền. Ngay lập tức.”

“Nhiều là bao nhiêu?” “1.000. Bằng tiền của ông.”

Ngập ngừng một lúc. “Đó có thể là vấn đề.”

“Chúng tôi không còn lựa chọn nào,” Paul nói. “Ông phải lo được.”

“Chúng tôi có thể đưa cậu quay về sớm.”

“Không, ông không muốn làm thế,” Paul mạnh mẽ nói. Âm thanh từ chiếc radio có thể là do sóng điện từ, hoặc có thể là tiếng thở dài của Bull Gordon.

“Yên tâm đi. Tôi sẽ gọi lại cho cậu ngay khi có thể.”

“Vậy chúng ta có thể có được gì với tiền của tôi?”

“Tôi không biết chi tiết,” Bull Gordon nói chuyện với Cyrus Adam Clayborn, người đang trên đầu dây bên kia ở New York. “Họ không thể làm thế này. Lo lắng bị nghe trộm, ông biết đấy. Nhưng rõ ràng quân Phát xít đã cắt hết đường tiếp cận thông tin Schumann cần để tìm ra Ernst. Không nghi ngờ gì nữa.”

Clayborn càu nhàu.

Gordon lại thấy ngạc nhiên dễ chịu, cân nhắc đến người ông đang nói chuyện là người giàu nhất đứng thứ tư, hay thứ năm trong nước. (Ông ta vốn được xếp thứ hai, nhưng vì khủng hoảng thị trường chứng khoán, ông ta bị tụt hai bậc.) Tính cách hai người rất khác nhau nhưng họ cùng chia sẻ hai đặc trưng thiết yếu: cả hai cùng chảy trong người dòng máu lính và đều là những người ái quốc. Điều đó xóa nhòa đi khoảng cách về thu nhập và địa vị.

“1.000? Tiền mặt à?” “Vâng, thưa ngài.”

“Tôi thích tên Schumann đó. Bài bình luận tái tranh cử của hắn khá sắc sảo. FDR run sợ như một con thỏ.” Clayborn cười khúc khích. “Cho dù Thượng Nghị sĩ sắp chết điếng luôn.”

“Có vẻ như thế.”

“Được rồi. Tôi sẽ thu xếp tiền.” “Cảm ơn ngài.”

Clayborn đoán ra ngay câu hỏi kế tiếp của Gordon. “Dĩ nhiên, đã là cuối ngày thứ Bảy tại Hun-ville. Và anh ta cần tiền ngay bây giờ, đúng không?”

“Đúng vậy.” “Chờ chút.”

Mãi ba phút sau, ông trùm tư bản mới quay lại trên đầu dây.

“Bảo họ đến gặp nhân viên ngân hàng tại điểm gặp gỡ như thường lệ tại Berlin. Morgan sẽ biết. Ngân hàng Hàng hải của Mỹ. Số 88 phố Under Den Linden, hay bất kỳ cái tên quái gì cậu gọi. Tôi không bao giờ có thể nhớ nổi.”

“Unter den Linden. Có nghĩa là ‘Dưới bóng Cây Đoạn.’” “Rồi, rồi. Người gác cổng sẽ giữ những kiện hàng.”

“Cảm ơn ngài.”

“Bull này?”

“Vâng, thưa ngài?”

“Chúng ta không có đủ những anh hùng tại đất nước này. Tôi muốn thằng nhóc đó phải trở về nhà lành lặn. Xét đến những tài nguyên của chúng ta...” Những người như Clayborn sẽ chẳng bao giờ nói, “tiền của tôi.” Tay thương gia tiếp tục. “Xét đến những tài nguyên của chúng ta, chúng ta có thể làm gì để phát huy những lợi thế?”

Gordon cân nhắc câu hỏi. Chỉ một điều xuất hiện trong tâm trí.

“Cầu nguyện,” ông đáp, ép chặt ống nghe vào giá, tạm dừng một lúc rồi lại nhấc ống nghe.