• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Hang dã thú
  3. Trang 25

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 52
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 24
  • 25
  • 26
  • More pages
  • 52
  • Sau

Chương 19

C

ác nghi lễ buổi tối của gia đình Kohl đã kết thúc. Bát đĩa đã khô, khăn trải bàn bằng vải lanh được giặt và gấp gọn gàng.

Thanh tra cảm thấy hai bàn chân đã đỡ nhiều, ông đổ nước, lau khô chân rồi đi tất. Ông đóng hộp muối lại, để vào dưới bồn rửa.

Quay lại phòng riêng, chiếc tẩu vẫn đang đợi ông. Một phút sau, Heidi vào phòng ông, ngồi xuống chiếc ghế riêng của bà đang để đồ đan len. Kohl giải thích với bà về cuộc nói chuyện với Günter.

Bà lắc đầu. “Thời thế, thế thời thôi mà. Chiều qua về nhà từ sân bóng, nó cũng đã rất buồn. Nhưng nó chẳng nói gì với em. Chả nói gì với mẹ về những chuyện như thế.”

Kohl nói, “Chúng ta cần phải nói chuyện với chúng. Ai đó phải dạy chúng những gì chúng ta được học. Cái đúng và cái sai.”

Vũng bùn đạo đức...

Heidi thoăn thoắt điều khiển hai que đan bằng gỗ kêu lách cách, bà đang đan chăn cho con đầu lòng của Charlotte và Heinrich, có lẽ sẽ tốn khoảng chừng chín tháng rưỡi sau ngày cưới của hai đứa là tháng Năm sang năm. Bà hỏi bằng tiếng thì thầm khàn khàn, “Rồi chuyện gì xảy ra? Trên sân trường, Günter nói chuyện với bạn nó rằng, bố nó bảo đốt sách là sai, hay chúng ta nên cho phép báo chí Mỹ được phép bán trong nước? Chà, rồi sau đó anh bị đưa đi và không bao giờ quay về nữa. Hay chúng sẽ gửi em một hộp đựng tro cốt của anh với dấu thập ngoặc bên ngoài.”

“Chúng ta dặn chúng không được kể với những đứa khác. Như kiểu chơi một trò chơi. Phải biết giữ bí mật.”

Một nụ cười trên môi người vợ. “Chúng chỉ là trẻ con, anh yêu. Chúng không biết giữ bí mật đâu.”

Đúng, Kohl nghĩ. Đúng thật. Lãnh tụ của ông và đám đông của y là lũ tội phạm mới tuyệt vời làm sao. Chúng bắt cóc dân tộc này bằng cách siết chặt lấy con cái của chúng ta. Hitler đã nói rằng đó sẽ là một Đế chế nghìn năm. Đó là cách chúng ta sẽ đạt được điều đó.”

Ông nói, “Anh sẽ nói chuyện với...”

Một tiếng uỳnh inh tai vang lên trong sảnh - cái vòng sắt đồng hình con gấu trên cửa trước nhà Kohl.

“Lạy Chúa tôi,” Heidi nói rồi đứng dậy, buông rơi que đan liếc nhìn về phía những căn phòng của lũ trẻ.

Willi Kohl bất ngờ nhận ra rằng SD hay Gestapo đã gắn thiết bị nghe trộm vào nhà ông và nghe được nhiều cuộc trao đổi đáng ngờ giữa vợ chồng ông. Đây là một kỹ năng của Gestapo - nhằm thu thập bằng chứng một cách kín đáo, sau đó sẽ bắt giữ bạn tại nhà hoặc vào sáng sớm, vào giờ ăn tối hoặc ngay sau đó, khi bạn ít mong đợi chúng nhất. “Nhanh, bật đài lên xem có sóng phát thanh không,” ông nói. Như thể việc lắng nghe những bài lải nhải của Goebbels sẽ ngăn cản được cảnh sát chính trị.

Bà làm theo. Bàn bước sóng chuyển màu vàng nhưng không có giọng nói nào phát ra loa. Phải mất một lúc các ống mới nóng lên.

Một tiếng đập cửa nữa.

Kohl nghĩ đến khẩu súng ngắn của ông, nhưng ông lại để trong văn phòng. Ông không bao giờ muốn cầm vũ khí gần lũ trẻ. Ngay cả nếu ông có muốn, tốt đẹp gì nếu dùng nó chống lại một đội Gestapo hoặc SS? Bước vào phòng khách, ông thấy Charlotte và Heinrich đang đứng cạnh nhau, nhìn nhau khó chịu. Hilde xuất hiện trên ô cửa phòng con bé, cầm cuốn sách trong tay.

Giọng nam trầm truyền cảm của Goebbels vang lên từ cái đài, đang nói về bệnh nhiễm trùng, sức khỏe và dịch bệnh.

Chân bước ra cửa, Kohl tự hỏi có phải Günter đã phun ra nhận xét vô tình nào đó về bố mẹ nó với bạn bè. Có lẽ thằng bé đã tố cáo ai đó - bố nó, dẫu chỉ vô tình. Kohl đưa mắt liếc nhìn Heidi đang đứng quàng tay ôm lấy cô con gái bé bỏng nhất. Ông mở khóa, mở bung cánh cửa bằng gỗ sồi nặng nề.

Konrad Janssen đứng trên ngưỡng cửa, trông tươi tắn như một đứa trẻ trong lễ ban thánh thể thiêng liêng. Nhìn qua thanh tra, cậu nói với Heidi, “Tha lỗi vì đường đột, bà Kohl. Quấy rầy vào giờ muộn thế này, thật không tha thứ được.”

Đức Mẹ ơi, Kohl nghĩ, đôi tay và trái tim ông run lên. Ông tự hỏi cậu thanh tra học việc này liệu có nghe được tiếng tim ông đập thình thịch. “Rồi, rồi, Janssen, giờ giấc không thành vấn đề. Nhưng lần sau, đập nhẹ vào cửa thôi nhé, nếu cậu không phiền.”

“Dĩ nhiên ạ.” Khuôn mặt trẻ trung, thường khi rất bình thản, nhưng lúc này đỏ gay lên vì quá hăng hái. “Thưa sếp, dường như tôi đã đưa ảnh nghi phạm đi khắp làng Thế vận hội và một nửa thành phố này xem.”

“Và?”

“Tôi đã tìm được tay phóng viên làm việc cho tờ báo của Anh. Anh ta đến đây từ New York trên tàu S.S. Manhattan. Anh ta đang viết bài về các môn thi đấu điền kinh trên toàn thế giới và...”

“Tên người Anh đó là nghi phạm của chúng ta, người đàn ông trong bức vẽ của tay họa sĩ?” “Không, nhưng...”

“Thế thì một phần câu chuyện của cậu không hấp dẫn chúng tôi, Janssen.”

“Dĩ nhiên, thưa sếp. Tha lỗi cho tôi. Phải nói thật đầy đủ rằng, tay phóng viên này nhận ra được nghi phạm của chúng ta.”

“À, làm tốt lắm, Janssen. Cho tôi biết những gì anh ta phải nói?” “Cũng chẳng có gì nhiều. Anh ta chỉ biết rằng hắn là một tay người Mỹ.”

Cái thông tin tầm thường này xứng đáng để ông bị trụy tim sao? Kohl thở dài.

Nhưng dường như cậu thanh tra học việc chỉ ngừng lại để kìm hơi thở. Cậu ta nói tiếp, “Và tên hắn là Paul Schumann.”

Những lời nói thốt ra trong bóng tối.

Những lời nói thốt ra như thể trong giấc mơ.

Họ ở gần nhau, tìm thấy sự mâu thuẫn dễ chịu ở trong nhau, đầu gối áp vào khoeo chân, bụng áp vào lưng và cằm đậu trên vai. Cái giường nâng đỡ họ, tấm nệm bằng lông chim trong phòng ngủ của Paul tạo thành hình chữ V dưới trọng lượng của cả hai người bao bọc họ một cách chắc chắn. Họ không thể rời xa nhau nếu họ có muốn.

Những lời nói thốt ra ẩn trong mối tình lãng mạn mới, của quá khứ đam mê cho dù chỉ trong giây lát.

Ngửi thấy mùi nước hoa của cô, thực ra có nguồn gốc hoa tử đinh hương, gã đã ngửi thấy lần đầu tiên gặp.

Paul hôn lên gáy Käthe.

Những lời nói của cặp tình nhân, nói về mọi thứ và chẳng về cái gì. Những ý nghĩ chợt đến, những câu chuyện đùa, những sự thật, những suy tính, những hy vọng... một tràng những từ ngữ.

Käthe đang kể cho gã nghe cuộc đời làm chủ nhà cho thuê của mình. Qua ô cửa sổ mở toang, họ có thể lại nghe thấy tiếng nhạc Beethoven, đang ngày càng to hơn khi ai đó trong căn hộ kế bên tăng thêm âm lượng. Một lúc sau, một giọng mạnh mẽ cất lên xuyên màn đêm ẩm ướt.

“Chà” cô nói, lắc đầu. “Lãnh tụ nói kìa. Đích thân Hitler đấy.” Thế nhưng y vẫn nói về vi trùng, về nước đọng và về bệnh nhiễm trùng.

Paul bật cười. “Tại sao hắn cứ bị ám ảnh về sức khỏe thế nhỉ?” “Sức khỏe á?”

“Suốt cả ngày người nào cũng ra rả nào là vi trùng, nào là vệ sinh. Em không thể thoát được.”

Cô đang phá lên cười. “Vi trùng á?” “Có gì vui à?”

“Anh không hiểu hắn đang nói cái gì à?” “Anh... Không.”

“Không phải y nói về vi trùng đâu. Mà là người Do Thái đấy. Y đã thay đổi toàn bộ bài diễn văn của mình trong kỳ Thế vận hội. Y không muốn nói từ “Do Thái”, nhưng đó là ý của y. Y không muốn xúc phạm những người nước ngoài, nhưng cũng không muốn làm chúng ta quên đi giáo điều của Quốc Xã. Paul, chẳng lẽ anh không biết chuyện gì đang diễn ra ở đây? Tại sao trong các tầng hầm của một nửa khách sạn, nhà trọ tại Berlin người ta đã gỡ bỏ những tấm biển dành cho Thế vận hội, rằng chúng sẽ để dành đó đến sau khi các du khách ra về. Chúng ghi rằng Cấm Người Do Thái. Hoặc Người Do Thái Không Được Tới Đây. Có sự chuyển biến đột ngột trên đường đến nhà em gái em tại Spandau. Tấm biển cảnh báo, Đường Cong Nguy Hiểm. 30 Cây Số Trên Giờ. Người Do Thái Đi 70 Cây Số Trên Giờ. Đó là biển báo giao thông! Không phải do những kẻ cố ý phá hoại, mà là do Chính phủ của chúng ta làm!”

“Em nghiêm túc đấy chứ?”

“Nghiêm túc đấy, Paul. Đúng đấy! Em đã thấy mấy lá cờ trên các căn nhà trong ngõ Magdeburger, con phố ở đây. Anh đã nhận xét về lá cờ của chúng ta khi anh đến.”

“Lá cờ Olympic.”

“Đúng, đúng. Không phải cờ Quốc Xã như hầu hết các ngôi nhà khác trên con phố này. Anh có biết tại sao không? Vì tòa nhà này thuộc sở hữu của một người Do Thái. Treo cờ Đức đối với ông ấy là phạm pháp. Ông ấy muốn tự hào về Tổ quốc của mình như tất cả mọi người khác. Nhưng ông ấy không thể làm vậy. Và làm sao ông ấy có thể treo cờ Quốc Xã được chứ? Hay treo cờ swastika? Hay thập ngoặc? Như thế có nghĩa là chống lại tư tưởng ủng hộ người Do Thái.”

À, ra đó là câu trả lời.

Anh biết rồi còn hỏi...

“Anh đã từng nghe nói đến thuyết Aryan hóa chưa?” “Chưa.”

“Chính phủ cướp nhà hoặc phá hoại việc kinh doanh của người Do Thái. Đó là hành vi trộm cắp trắng trợn và đơn giản. Göring là bậc thầy trong chuyện này.”

Paul nhớ lại những ngôi nhà trống hoác gã đi qua buổi sáng hôm đó, trên đường đến gặp Morgan tại ngõ Dresden. Những biển hiệu cho biết rằng đồ đạc trong nhà sẽ được rao bán.

Käthe xích lại gần gã hơn. Sau khi im lặng một lúc lâu, cô nói. “Có một người đàn ông... Anh ta trình diễn tại một nhà hàng.

‘Fancy,’ nó thường được gọi như thế. Có nghĩa là cách gọi tên một kiểu nhà hàng. Nhưng nó cũng lạ lùng thật. Rất đẹp. Em đã đến nhà hàng này một lần và người này ngồi trong một cái lồng kính đặt ngay giữa phòng ăn. Anh có biết anh ta là gì không? Một nghệ sĩ chết đói.”

“Cái gì?”

“Một nghệ sĩ chết đói. Giống như trong truyện của Kafka. Anh ta đã trèo vào trong cái lồng nhiều tuần trước đó và sống sót mà không ăn gì, chỉ uống nước thôi. Anh ta ngồi đó, mọi người ai cũng thấy. Anh ta chẳng bao giờ ăn gì hết.”

“Làm sao...”

“Anh ta được phép ra ngoài đi vệ sinh. Nhưng có một người luôn đi kèm anh ta, xác minh rằng anh ta không ăn gì hết. Ngày này qua ngày khác...”

Những lời nói thốt ra trong bóng tối, những lời nói của cặp tình nhân.

Đôi khi ý nghĩa những lời nói này rất quan trọng. Đôi khi không.

Paul thì thầm, “Nói tiếp đi.” “Em đã gặp anh ta sau khi anh ta ngồi trong lồng kính 48 ngày.” “Không ăn gì? Anh ta có thành bộ xương không?”

“Anh ta rất gầy, đúng. Trông ốm yếu. Nhưng anh ta bước ra khỏi cái lồng được vài tuần rồi. Em đến gặp anh ta qua một người bạn. Em đã hỏi anh ta tại sao anh ta lựa chọn làm việc này để kiếm sống. Anh ta bảo em anh ta đã làm việc cho Chính phủ được vài năm, làm nghề gì đó liên quan đến giao thông vận tải. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền thì anh ta mất việc.”

“Anh ta bị sa thải vì không phải là Quốc Xã?”

“Không, anh ta bỏ việc vì anh ta không chấp nhận những giá trị của chúng và anh ta sẽ không làm việc cho Chính phủ của chúng. Nhưng anh ta có một đứa con nên anh ta cần tiền.”

“Một đứa con?”

“Và cần tiền. Nhưng nhìn đi đâu anh ta cũng thấy nơi đó bị Đảng làm cho ô nhiễm. Anh ta thấy rằng điều duy nhất mình có thể làm mà giữ nguyên được... Cái từ đó là gì nhỉ?”

“Phẩm giá.”

“Đúng rồi, đúng rồi, phẩm giá. Đó là trở thành một nghệ sĩ chết đói. Nó trong sạch. Không thể bị vấy bẩn. Và anh có biết bao nhiêu người đến gặp anh ta không? Hàng ngàn người! Hàng ngàn người đến xem anh ta vì anh ta trung thực. Và vì bây giờ chẳng còn tí trung thực nào trong cuộc sống này nữa.” Một cơn run rẩy rất khẽ cho gã biết rằng cô đang run lên vì nước mắt.

Những lời nói của cặp tình nhân… “Käthe?”

“Chúng đã làm gì vậy?” Cô thở hổn hển. “Chúng đã làm gì?... Em không hiểu đã xảy ra chuyện gì. Bọn em yêu âm nhạc, thích trò chuyện và vui vẻ may vá quần áo cho những người đàn ông bọn em yêu thương, thích lau dọn nhà cửa và nằm ườn tắm nắng trên bãi biển tại Wannsee, mua quần áo hay kẹo bánh cho bọn trẻ, bọn em cảm động phát khóc khi nghe bản Sonate Ánh Trăng, bởi những lời thơ của Goethe và Schiller - nhưng giờ đây bọn em bị cấm đoán hết. Tại sao?” Giọng cô yếu dần. “Tại sao?” Một lúc sau cô thì thầm. “Ôi, đó là một câu hỏi mà em e rằng câu trả lời sẽ đến quá muộn.”

“Rời khỏi đất nước này đi,” Paul thì thầm.

Cô lăn người lại, nhìn thẳng vào mặt gã. Gã cảm thấy đôi cánh tay mạnh mẽ của cô, trở nên mạnh mẽ do công việc lau dọn bồn tắm và lau nhà, đang vòng qua người gã. Gã cảm thấy gót chân cô cao lên, tìm thấy eo lưng cô và kéo cô lại gần hơn, gần hơn nữa.

“Bỏ đi,” gã lặp lại.

Cơn run rẩy đã ngừng. Nhịp thở của cô dần trở nên đều đặn hơn. “Em không thể ra đi.”

“Tại sao không?”

“Đây là đất nước của em,” cô chỉ thì thầm. “Em không thể bỏ rơi nó.”

“Nhưng đây đâu còn là đất nước của em nữa. Mà là của chúng. Em đã nói gì? Tier. Những con dã thú, những kẻ du côn. Bầy dã thú đã chiếm đoạt nó rồi. Bỏ đi. Trốn thật xa trước khi mọi việc tồi tệ hơn.”

“Anh nghĩ rằng nó sẽ tệ hơn? Nói em nghe đi, Paul. Anh là một ký giả. Phong cách của thế giới không hợp với em. Không phải như giảng dạy, không phải như Goethe hay thơ thẩn. Anh là một người thông minh. Anh nghĩ sao?”

“Anh nghĩ nó sẽ tệ hơn. Em phải rời khỏi đây. Càng sớm càng tốt.”

Cô nới vòng tay đang ôm xiết lấy gã. “Ngay cả nếu muốn em cũng không thể. Sau khi bị sa thải, tên em đã vào danh sách rồi. Chúng đã giữ hộ chiếu của em. Em sẽ không bao giờ có giấy tờ xuất cảnh. Chúng sợ bọn em sẽ làm việc chống lại chúng tại Anh hay Paris. Nên chúng phải giam cầm bọn em.”

“Quay về với anh. Anh có thể đưa em ra ngoài.” Những từ ngữ của cặp tình nhân…

“Hãy đến Mỹ.” Cô ấy có lắng nghe không? Hay cô ấy đã quyết định là không? “ Bọn anh có những trường học tuyệt nhất.

Em có thể giảng dạy tại đó. Tiếng Anh của em cũng khá như bất kỳ ai.”

Cô hít một hơi thật sâu. “Anh đang đề nghị em làm gì?” “Bỏ đi cùng anh.”

Một tiếng cười khô khốc. “Khi người đàn bà khóc, đàn ông sẽ nói bất kể điều gì để nàng thôi khóc. Chà, em thậm chí còn chẳng biết anh.”

Paul nói, “Và anh chẳng biết em. Không phải anh đang cầu hôn. Anh không nói chúng ta sẽ cùng chung sống. Anh chỉ nói rằng em phải thoát ra khỏi cái nơi chết tiệt này. Anh có thể thu xếp được.”

Trong sự im lặng theo sau đó, Paul đang nghĩ không, không phải gã đang cầu hôn cô hay đại loại thế. Nhưng nói thật lòng, Paul Schumann không thể không tự hỏi, phải chăng đề nghị của gã không chỉ dừng ở việc đưa cô thoát khỏi nơi khó khăn này. Ôi, gã đang sở hữu cơ man phụ nữ - những cô gái ngoan, những cô gái hư và những cô gái ngoan đang trở thành hư. Vài người gã nghĩ mình đã yêu, và người gã biết mình đã yêu. Nhưng gã biết gã không bao giờ có cảm xúc với họ, như cảm xúc gã đã có với người phụ nữ này chỉ sau một thời gian ngắn đến thế. Phải, gã đã yêu Marion theo cách như thế. Đôi khi gã qua đêm với cô tại Manhattan. Hoặc ở Brooklyn. Họ đã nằm bên nhau, cùng chia sẻ với nhau - về phim ảnh, về xu hướng váy sang năm sẽ ngắn đến đâu, về nhà hàng của Luigi, về mẹ và em gái của cô. Về Dodgers. Nhưng Paul nhận ra, họ không phải là những kẻ yêu nhau từ lời nói. Không giống như đêm nay gã trò chuyện với người phụ nữ phức tạp, nồng nàn này.

Cuối cùng, cô nói thô bạo, giận dữ. “Chà, em không thể. Sao em đi được? Em đã nói với anh về hộ chiếu và giấy tờ xuất cảnh của em.”

“Còn anh đang nói này. Em không phải lo lắng chuyện đó.

Anh có những mối quan hệ.” “Thật không?”

“Mấy người tại Mỹ nợ anh một ân huệ.” Việc này thì đúng. Gã nghĩ đến Avery và Manielli tại Amsterdam, luôn sẵn sàng mang máy bay đến đưa gã đi bất kỳ lúc nào. Rồi gã hỏi cô, “Ở đây em còn ràng buộc nào không? Em gái em thế nào?”

“Chà, em gái em... Con bé kết hôn với một kẻ trung thành với Đảng. Nó còn chẳng buồn gặp em. Em là một nỗi xấu hổ.” Một lúc sau Käthe nói, “Không, ở đây em chỉ còn những bóng ma thôi. Và những bóng ma không phải là lý do để em ở lại. Mà là những lý do để em ra đi.”

Bên ngoài, vang lên những tiếng cười và quát tháo của kẻ say. Một giọng đàn ông líu nhíu cất tiếng hát, “Khi Thế vận hội này kết thúc, lũ Do Thái sẽ cảm thấy lưỡi dao và họng súng của chúng ta...” Sau đó là tiếng kính vỡ. Một ca khúc tiếp theo, lần này vài giọng hát cùng hòa ca. “Giơ cao băng rôn lên, xiết chặt hàng ngũ. Đoàn quân SA diễu hành với những bước chân vững chắc. Tránh ra, nhường đường cho những tiểu đoàn áo nâu, khi lực lượng Xung Kích quét sạch đất này...”

Gã nhận ra ca khúc Đoàn thanh niên Hitler đã hát hôm qua, khi chúng hạ cờ tại làng Thế vận hội. Những chiếc thập ngoặc hình móc câu ba màu đỏ, trắng và đen.

Chà, anh biết rồi còn hỏi…

“Ôi, Paul, anh có thể thực sự đưa em rời khỏi đất nước này, không cần giấy tờ ư?”

“Đúng. Nhưng anh sẽ đi sớm. Đêm mai, anh hy vọng thế. Hoặc đêm ngày kia.”

“Làm thế nào?”

“Chi tiết để sau hẵng nói. Em có sẵn sàng bỏ đi ngay lập tức không?”

Sau một lúc im lặng. “Em làm được. Vâng.”

Cô nắm tay gã, vuốt ve mu bàn tay và đan tay gã vào tay cô. Cho đến giờ, đây là giây phút thân mật nhất giữa hai người đêm nay. Gã chạm vào ngón tay cô, từ kích cỡ bàn tay và cảm xúc mang lại, gã nhận ra sức nặng những bài thơ của Goethe gã tặng cô lúc trước.

“Anh sẽ không...”

“Suỵt,” gã thì thầm, vuốt tóc cô.

Paul Schumann biết rằng có đôi khi những lời nói của cặp tình nhân trở nên thừa thãi.