Tại sao chúng ta không chịu chấm dứt đau khổ và bất hạnh? Làm thế nào để cuộc sống con người tràn trề niềm an lạc, hạnh phúc?
Đau khổ mang đến cho chúng ta nhiều thứ trong khi hạnh phúc lại lấy chúng đi. Hạnh phúc tước mất tất cả những gì bạn từng có, từng sống, hạnh phúc sẽ “hủy diệt” bạn. Còn nỗi đau khổ ư, vì có nó mà cái tôi của bạn ngày càng lớn thêm. Điều nan giải nằm ở chỗ ấy. Đó là lý do tại sao con người rất khó sống vui tươi hạnh phúc, tại sao hàng tỷ người trên thế giới hàng ngày sống trong khổ đau mà vẫn quyết định dấn sâu vào nó. Đau khổ tạo cho chúng ta một cái Tôi kiên cố cao chất ngất, còn hạnh phúc lại mang đến sự thanh thản đến mức chẳng còn thấy cái Tôi nào nữa.
Nếu hiểu rốt ráo như vậy thì mọi việc sẽ rất rõ ràng. Đau khổ khiến bạn trở nên cá biệt. Hạnh phúc lại thuộc về vũ trụ vô biên, nó không trang điểm cho cái tôi. Chim muông cây cỏ sống an nhiên giữa đất trời vì mọi sự tồn tại vốn dĩ không có đau khổ. Chỉ có con người mới thèm khát khổ đau, vì khi ấy, con người được hiện diện một cách cá biệt.
Nỗi khổ của bạn thu hút sự quan tâm của người khác. Khi bạn khổ sở, người ta sẽ hỏi han, thông cảm, thương yêu bạn. Họ bắt đầu chăm sóc bạn. Ai muốn làm tổn thương một con người đang đau khổ? Ai lại đi ghen tỵ với một người đang đau khổ? Ai lại muốn chống đối một người đang đau khổ?
Nhưng mọi sự hỏi han quan tâm ưu ái lại là một sự “đầu tư” cho đau khổ. Nếu người vợ không đau khổ thì người chồng có thể quên cô ta, và ngược lại, nhìn một người vợ đau khổ, không người chồng nào có thể thờ ơ. Nếu một người chồng đau khổ thì cả gia đình, vợ con đều vây quanh để lo lắng, chăm sóc. Điều đó làm cho con người không bị cô đơn.
Khi bị mệt mỏi đau khổ, mọi người sẽ đến an ủi bạn. Nhưng nếu bạn hạnh phúc, họ sẽ đố kỵ, thậm chí có thể chống lại bạn.
Không ai thích một người hạnh phúc, vì một người hạnh phúc sẽ làm tổn thương những người kém hạnh phúc hơn. Người ta sẽ nghĩ rằng: “Khi anh đang hạnh phúc thì chúng tôi vẫn đang lăn lộn dưới bóng tối, khổ đau và địa ngục. Tại sao anh dám hạnh phúc trong khi chúng tôi đang đau đớn đến thế?”.
Thế giới tồn tại những kẻ khổ sở, và không ai đủ can đảm để cho toàn bộ thế giới chống lại những con người khổ sở ấy; vì điều đó quá nguy hiểm. Và người ta nghĩ rằng: Tốt hơn hết là cứ sống giống mọi người, lo âu và đau khổ giống họ. Nếu bạn bất ngờ có được hạnh phúc thì bạn sẽ bị tách rời khỏi đám đông luôn luôn bất an.
Hạnh phúc ư? Bạn có biết hạnh phúc là gì không? Hạnh phúc chỉ đơn giản là hạnh phúc mà thôi. Hạnh phúc của một người là bước sang một thế giới khác - một người không còn thuộc về cái thế giới đầy phiền nhiễu này nữa, một người không còn thuộc về quá khứ mù mịt nữa, một người không còn thuộc về thời đại nào nữa. Khi tràn trề niềm hạnh phúc bình yên, thời gian và không gian cũng biến mất.
Albert Einstein nói: các nhà khoa học cho rằng thời gian và không gian là hai yếu tố của hiện thực; nhưng thực chất, đó không phải là hai yếu tố mà là hai mặt của một hiện thực duy nhất. Ông đưa ra khái niệm không-thời-gian, đây là một từ dùng để diễn tả sự hợp nhất hai khái niệm “không gian” và “thời gian”. Thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian mà thôi. Einstein không phải là một nhà thần bí, ông còn đưa một hiện thực thứ ba với cái nhìn siêu nghiệm, không phải thời gian cũng không phải không gian. Tôi gọi hiện thực đó là “kẻ làm chứng”. Chúng ta liên tưởng đến khái niệm “tam vị nhất thể”, tức ba gương mặt của Thượng Đế. Vậy là chúng ta có tất cả 4 chiều: hiện thực có ba chiều không gian và một chiều thời gian.
Chiều thứ tư mà chúng ta hình dung theo cách nói của Einstein vẫn không phải là chiều thực; nó là một sự chuyển hóa. Niềm vui cao độ đồng nghĩa với hành trình chuyển hóa. Niềm vui ấy không thuộc về xã hội hay truyền thống.
Vậy câu chuyện này có liên quan gì đến nỗi đau khổ con người? Câu hỏi bạn đặt ra thật ý nghĩa.
Có nhiều lý do. Hãy nhìn vào nỗi đau khổ của mình, bạn sẽ tìm ra nguyên nhân. Ngay lúc ấy, bạn thử cho phép mình bước vào một trò chơi, bạn sẽ thấy sự khác biệt.
Hãy nhìn thẳng vào nỗi đau khổ của mình để hiểu rõ căn nguyên của nó. Phải chăng, khi đau khổ, bạn sẽ thu hút sự quan tâm của nhiều người. Thật là một quan niệm kỳ quặc, sai lạc. Lẽ ra một người sống hạnh phúc phải có nhiều bạn mới phải. Nhưng người hạnh phúc lại bị thế giới còn lại cách ly. Niềm hạnh phúc của một người dường như không có gì chung với cái thế giới đầy nhọc nhằn này. Tại sao bạn lại hạnh phúc? Bởi vì bấy lâu nay chúng ta không hề nhận ra là mình đã máy móc dùng lý trí kìm hãm niềm vui sống hạnh phúc và cố gắng sống trong đau khổ. Cuộc sống đầy phiền não trở thành bản chất thứ hai của mỗi chúng ta.
Không nên thông cảm quá nhiều đối với những người đau khổ. Nếu có ai đó đang đau khổ, bạn hãy giúp họ nhưng đừng tỏ ra thông cảm. Đừng mang đến cho họ cái ý niệm rằng đau khổ là quý giá.
Hãy chấm dứt lối suy nghĩ máy móc này của xã hội. Hãy học cách sống hạnh phúc, học cách trân trọng những người biết sống hạnh phúc và quan tâm đến họ. Đó chính là sứ mệnh lớn lao của loài người. Không nên thông cảm quá nhiều đối với những người đau khổ. Nếu có ai đó đang đau khổ, bạn hãy giúp họ nhưng đừng tỏ ra thông cảm. Đừng mang đến cho họ cái ý niệm rằng đau khổ là quý giá.
Hãy để họ hiểu là chúng ta đang giúp họ, nhưng, lưu ý rằng: “Đó không phải là tôn trọng, mà chỉ đơn giản là sự giúp đỡ”. Chúng ta không làm bất kỳ điều gì ngoài việc giúp bạn mình thoát khỏi đau khổ bởi vì đau khổ là một thứ đáng ghét. Hãy để con người cảm nhận đau khổ là cái gì đó cần phải tránh xa, rằng đau khổ chẳng có gì là thánh thiện.
Hãy sống hạnh phúc, trân trọng hạnh phúc của người khác và giúp người khác hiểu rằng hạnh phúc là cứu cánh của cuộc đời. Hãy thay đổi suy nghĩ cũ của bạn. Giờ đây, bậc thánh nhân phải là người biết sống hạnh phúc. Nơi nào mang đến niềm vui yêu đời, nơi nào tưng bừng những lễ hội, nơi ấy phải được xem là chốn thiêng liêng.
Chúng ta phải học một ngôn ngữ mới để làm thay đổi toàn diện con người cũ. Đó là ngôn ngữ của hạnh phúc trọn vẹn và khỏe khoắn.
Có một sự thật kỳ lạ ở chỗ: Thực ra, chấm dứt khổ đau, tức giận hay cay đắng đâu phải là khó. Bạn không muốn đau khổ, nhưng có một quá trình đấu tranh phức tạp sâu sắc đằng sau ý muốn ấy. Sự phức tạp này bắt nguồn từ thời thơ ấu, khi mà bạn không được dạy cách sống hạnh phúc và chơi đùa đúng nghĩa.
Người lớn dạy cho bạn toàn những chuyện nghiêm trọng, những chuyện chỉ mang đến nỗi buồn. Bạn trở nên yếu đuối và lệ thuộc vào người khác; bạn chỉ làm những gì mà người khác khuyên bảo. Bạn đã sống một cách miễn cưỡng trong một sự chịu đựng nặng nề. Dần dần, bạn đi đến nhận thức rằng: những gì chống lại bạn là đúng. Toàn bộ sự giáo dục con trẻ theo kiểu như thế chỉ gieo thêm nỗi buồn khổ – một thứ cảm xúc chẳng có gì là tự nhiên.
Sống vui vẻ là tự nhiên. Sống lành mạnh là tự nhiên. Một người sống khỏe chẳng việc gì phải đi đến bác sĩ để hỏi: “Tại sao tôi lại khỏe mạnh?”. Nhưng khi bị đau yếu, lập tức bạn sẽ hỏi: “Vì sao tôi bị bệnh? Nguyên nhân của căn bệnh đó là gì?”.
Cũng như vậy, khi đau khổ, bạn sẽ tự hỏi tại sao mình lại đau khổ. Nhưng khi bạn vui sướng thì đâu cần phải đi hỏi thăm ai về sự sung sướng của mình. Tuy nhiên, trong một xã hội mất thăng bằng, một người tự nhiên vui sướng bị xem là mất trí. Nếu bạn cười vô cớ, người ta sẽ cho rằng đầu óc bạn có vấn đề: “Tại sao anh lại cười? Chuyện gì làm anh sung sướng đến vậy?”. Và nếu bạn trả lời: “Tôi không biết. Tôi chỉ cảm thấy rất hạnh phúc” thì họ lại càng tin chắc bạn điên mất rồi.
Nếu bạn cười vô cớ, người ta sẽ cho rằng đầu óc bạn có vấn đề: “Tại sao anh lại cười? Chuyện gì làm anh sung sướng đến vậy?”. Và nếu bạn trả lời: “Tôi không biết. Tôi chỉ cảm thấy rất hạnh phúc” thì họ lại càng tin chắc bạn điên mất rồi.
Còn khi bạn phiền muộn, người ta lại thấy đó là bình thường. Vì ai cũng cho rằng đau khổ là cái gì đó rất tự nhiên. Ai cũng có nỗi khổ riêng. Điều đó chẳng có gì đặc biệt. Những ý nghĩ đó tiêm nhiễm vào đầu óc chúng ta một cách vô thức, và chúng ta bắt đầu thừa nhận: đau khổ là đương nhiên, chỉ có hạnh phúc mới là bất thường. Nếu sống an nhiên, hạnh phúc, ta sẽ bị chất vấn, đố kỵ còn sống khổ sở thì cứ thế mà sống, không cần bận tâm đến nguồn gốc của nó. Những suy nghĩ này dần dần ăn sâu vào máu thịt của bạn, đầu độc tinh thần bạn. Chúng ta ép buộc mình hành động ngược lại với bản chất tự nhiên vốn có của chính mình. Chúng ta lãng quên bản chất chân thực của mình để sống theo ý muốn của người khác.
Toàn bộ những ý nghĩ trên đã biến cuộc sống con người thành một chuỗi dài đau khổ. Chúng ta sống ở nơi không thuộc về ta, trở thành người không giống với thực chất của ta. Bởi vì con người hầu như không hình dung nổi xứ sở đích thực của mình là đâu nên chúng ta đau khổ. Chúng ta đã đi quá xa, đến nỗi không còn nhớ đường trở về nhà. Đi đến đâu, chúng ta cũng ngỡ đó là nhà của mình; đau khổ đã trở thành một ngôi nhà kiên cố. Khi đó, nỗi tức giận, đắng cay được xem như một phẩm chất của con người chứ không phải là sự bệnh hoạn của tâm hồn.
Khi ai đó nói: “Đừng sống khổ sở như vậy nữa, nỗi đau đó không còn cần thiết nữa”, thì một câu hỏi cực kỳ quan trọng sẽ được đặt ra: “Đây là tất cả những gì tôi có. Nếu bỏ nó đi, tôi không còn là tôi nữa. Ít ra tôi cũng phải có cái gì đó giống với mọi người chứ. Nếu không đau khổ, buồn bã, phiền não thì tôi sẽ là ai giữa cuộc đời này? Nếu tôi chấm dứt tất cả thì câu hỏi đặt ra là: Cuối cùng đâu là cái riêng nhất của tôi? Tôi là ai? Tôi không biết đường trở về nhà. Ngôi nhà lầm lạc kia là do xã hội đã tạo ra cho tôi”.
Không ai muốn đứng trần truồng trên đường.
Tốt hơn là nên mặc một cái áo nào đó, cho dù đó là chiếc áo đau khổ. Có sao đâu, mọi người đều mặc nó cơ mà. Chiếc áo lạ lùng đó trở nên đắt giá cho những ai muốn mặc nó. Những ai không cố mặc chiếc áo ấy thì còn khổ sở gấp đôi, vì họ phải sống trong sự đau khổ “rẻ tiền” hơn, vì họ không có gì để khoe cái sự đau khổ của mình. Vậy là có đến hai kiểu người: những người rất đau khổ và những người không đủ đau khổ. Kiểu người thứ hai lại đêm ngày cố gắng đạt tới nỗi khổ sở cùng cực như kiểu người thứ nhất.
Kiểu người thứ ba lại bị quên lãng hoàn toàn. Kiểu người thứ ba là kiểu người sống theo cái bản chất chân thật nhất của chính họ. Họ không đau khổ.
Bạn sẽ hỏi tôi tại sao con người không chịu chấm dứt nỗi khổ của mình. Lý do đơn giản: đó là tất cả những gì mà con người có. Bạn muốn con người phải nghèo hơn nữa sao. Họ đã sẵn nghèo rồi. Thậm chí đến nỗi khổ mà họ còn có ít ỏi hơn người khác thì làm sao họ có thể từ bỏ cả nỗi khổ ấy để trở nên trống rỗng được.
Nhưng chính cái rỗng rang ấy lại là cánh cửa mở ra sự giàu có, mở ra niềm vui chân thật. Cánh cửa ấy phải hoàn toàn trống không. Người ta không thể đâm đầu vào một bức tường rắn chắc. Một cánh cửa rỗng không sẽ mở ra vô tận cơ hội cho bạn bước vào hạnh phúc. Nó chẳng bao giờ ngăn cản bạn. Nó luôn luôn gọi mời bạn. Chúng ta đã từng nhầm tưởng cái trống không là xấu xa, sự rỗng không là vô nghĩa lý; vậy nên ta nhất định không chịu chấm dứt mọi khổ đau, tức giận, đắng cay.
Ngay khi không sở hữu một điều gì là lúc bạn trở thành cánh cửa mở ra những chân trời thiêng liêng. Cánh cửa ấy đưa bạn về nhà, nối kết bạn với bản chất sâu kín bên trong. Bản chất ấy là niềm hạnh phúc viên mãn.
Hạnh phúc viên mãn không phải là một cái gì đó cần đạt tới.
Nó đang ở đây. Chúng ta sinh ra cùng lúc với niềm an lạc vĩnh hằng ấy.
Chúng ta không nên đánh mất nó, đừng đi quá xa để còn kịp quay trở lại với chính mình.
Nó ở ngay sau lưng bạn. Chỉ cần lùi lại một bước thôi và một cuộc chuyển hóa lớn lao sẽ đến trong tâm hồn bạn.
Tôi chỉ chấp nhận sự rỗng không làm cánh cửa đời mình – cái mà tôi gọi là thiền định, một tên gọi khác của trạng thái rỗng không. Vào khoảnh khắc hội nhập cùng sự an tĩnh kỳ diệu, bạn sẽ đối mặt với chính mình, và mọi khổ đau sẽ tan biến.
Điều đầu tiên cần làm là bạn hãy cười vào con người ngốc nghếch năm xưa của mình. Nỗi đau khổ không bao giờ còn tồn tại nữa. Bạn đã tạo ra nó bằng một cánh tay, và bây giờ, dùng cánh tay còn lại để chặt đứt nó đi.
Hết sức đơn giản như vậy thôi.
Cái đơn giản nhất trong cuộc đời này là sống đúng như bản chất của mình.
Chẳng cần nỗ lực làm thay đổi điều gì, bạn đã tồn tại như chính mình rồi.
Đừng bị nô lệ bởi những giáo điều của kẻ khác. Hãy lột da như con rắn và đừng bao giờ quay nhìn lại nữa. Cái nằm kia chỉ là bộ da cũ kỹ.
Nếu thấu hiểu rốt ráo, hạnh phúc sẽ đến với chúng ta trong nháy mắt. Vào thời khắc thiêng liêng đó, bạn sẽ cảm nhận được rằng chẳng thể có bất kỳ nỗi khổ đau, oán hận nào hiện hữu trong bạn.
Hãy yên lặng, đứng ở cánh cửa rỗng không, bước từng bước vào sâu trong nội tâm mình và bạn sẽ nhận ra kho báu lớn mà bạn đã chờ đợi qua hàng ngàn kiếp.
Tại sao người ta khó tha thứ, tại sao người ta cứ bám lấy những vết thương trong quá khứ?
Cái tôi bao giờ cũng sống trong đau khổ - cái tôi ấy càng sinh sôi nảy nở bao nhiêu thì nỗi đau khổ càng lớn bấy nhiêu. Trong khoảnh khắc hạnh phúc viên mãn xuất hiện, cái tôi biến mất hoàn toàn. Cái tôi ngày càng bành trướng vì bạn không muốn tha thứ, không muốn quên – nhất là những vết thương lòng, những lời sỉ nhục, những cơn ác mộng. Bạn không chỉ không quên mà còn thổi phồng cho sự việc trầm trọng thêm. Bạn có khuynh hướng quên đi những gì đẹp đẽ, những trò chơi thú vị hồn nhiên, bởi chúng không làm thỏa mãn những khát khao của cái tôi. Dường như đau khổ là thứ vitamin cần có để bồi đắp cho bản ngã con người ngày càng lớn mạnh.
Chúng ta hãy cố hiểu toàn bộ cơ chế hoạt động của cái tôi. Nếu miễn cưỡng tha thứ thì sự tha thứ ấy không có thật. Đó chỉ là sự kiềm chế. Bạn chỉ tha thứ khi nào bạn hiểu được sự ngớ ngẩn của trò chơi tâm trí. Cần phải thấu suốt toàn bộ tính chất vô nghĩa lý của cơn tức giận hay nỗi khổ đau, vì nếu không thì bạn kiềm chế nó ở chỗ này, nó sẽ trồi lên ở chỗ khác; bạn kiềm chế nó ở hình thức này, nó sẽ có mặt ở một hình thức khác – đôi khi chuyện này xảy ra một cách tinh tế, không dễ nhận ra chút nào. Đó cũng chính là biểu hiện khác của cái tôi đã được hồi sinh, được tái hiện, được tái thiết dưới dạng thức mới mà thôi.
Bản ngã con người gắn liền với sự chối từ, sự phủ định. Nó nói “không” với toàn bộ đời sống. Tình trạng “không chấp nhận” là linh hồn của cái tôi. Sao ta lại nói “không” với niềm vui hạnh phúc? Ta có thể nói “không” với nỗi đau đớn khổ sở. Sao ta có thể nói “không” với những bông hoa, những vì sao, bóng hoàng hôn diễm lệ, với bao vẻ đẹp thần thánh khác? Cuộc sống này đầy ắp hoa hồng nhưng chúng ta chỉ cố nhặt nhạnh những bụi gai. Một mặt, chúng ta cương quyết: “Không, tôi không muốn nhận nỗi đau khổ này” nhưng mặt khác, chúng ta lại gắn kết chặt chẽ với nó.
Khoảnh khắc mà bạn chấp nhận cái bình thường là lúc bạn “khác thường” nhất. Khoảnh khắc bạn chấp nhận mọi hạn chế của mình là khi tia sáng đầu tiên rọi vào cuộc sống của bạn.
Nhưng cái tôi có thể sống trong tha thứ chứ; nó sẽ bắt đầu một hành trình tốt đẹp hơn bằng ý tưởng: “Tôi tha thứ cho anh, thậm chí tôi tha thứ cho kẻ thù của mình”. Bạn hãy nhớ rằng, người bình thường không bao giờ thừa nhận cái sự bình thường của mình. Khoảnh khắc mà bạn chấp nhận cái bình thường là lúc bạn “khác thường” nhất. Khoảnh khắc bạn chấp nhận mọi hạn chế của mình là khi tia sáng đầu tiên rọi vào cuộc sống của bạn, đóa hoa đầu tiên đã bừng nở. Mùa xuân hạnh phúc không còn xa nữa.
Đức Jesus nói: Hãy tha thứ cho kẻ thù, hãy yêu thương kẻ thù của con. Người đã nói đúng, bởi vì chỉ khi nào giải thoát mình ra khỏi kẻ thù thì bạn mới yêu thương họ được, nếu không họ cứ ám ảnh mãi trong đầu óc của bạn. Hận thù là một kiểu quan hệ; nó sâu hơn cái bạn gọi là tình yêu.
Có một người đã hỏi tôi: “Osho, tại sao tình yêu hòa hợp lại buồn tẻ đến thế?”. Lý do rất đơn giản: vì đó là sự hòa hợp. Nó đánh mất mọi sự quyến rũ của cái tôi. Có vẻ như vậy đó. Khi đạt tới sự hòa hợp tuyệt đối trong tình yêu, bạn sẽ quên đi cái tôi của mình, khi đó một chút mâu thuẫn, một chút tranh chấp, một chút bạo lực, một chút căm ghét… cũng không còn nữa. Như vậy, tình yêu – theo cách gọi của bạn – không phải là một tình cảm sâu sắc, nó chỉ là thứ tình cảm hời hợt bề ngoài. Nhưng sự căm ghét của bạn thì rất sâu sắc, nó sâu thăm thẳm như bản ngã của bạn vậy.
Đức Jesus đã đúng khi nói “tha thứ”, nhưng chúng ta đã không hiểu hết ý của Người từ bao nhiêu thế kỷ qua. Đức Phật Thích Ca cũng nói như thế - tất cả những người giác ngộ đều nói như thế. Ngôn ngữ họ sử dụng có thể khác nhau – khác thời đại, khác thời điểm, khác đối tượng thẩm thấu – nhưng tư tưởng của họ là một. Nếu không thể tha thứ thì mãi mãi chúng ta chỉ sống trong hận thù và đau khổ.
Một mặt, chúng ta muốn quên đi và tha thứ, vì cách duy nhất để quên là tha thứ - không tha thứ thì không thể quên. Nhưng mặt khác, có một sự vướng víu sâu sắc hơn mà nếu không thấu hiểu thì Đức Thích Ca hay Chúa Jesus cũng không thể cứu rỗi cho bạn. Chúng ta vẫn ghi nhớ trạng thái sống tuyệt vời của những con người thánh thiện, nhưng họ không phải là một phần trong cách thế sống của ta, máu của họ đâu có chảy trong huyết quản của ta, ý thức của họ không ăn sâu vào xương tủy ta. Họ chưa bao giờ là một phần trong bầu khí quyển tinh thần của ta. Họ vẫn xa lạ với ta lắm, họ vẫn là một cái gì đó được chấp nhận từ bên ngoài. Họ lôi cuốn ta bằng trí tuệ và vẻ đẹp; thế nhưng ta vẫn chẳng có gì thay đổi.
Cái tôi chính là một hiện tượng tiêu cực nhất của sự tồn tại. Nó giống như bóng tối. Sự tồn tại của bóng tối chỉ được xác lập trong vị thế đối cực với ánh sáng. Còn sự tồn tại của ánh sáng là điều hiển nhiên, không thể phủ định. Đó là lý do tại sao chúng ta không thể tác động trực tiếp đến bóng tối dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu căn phòng của bạn chìm ngập bóng tối, bạn không thể đuổi bóng tối ra khỏi căn phòng, không thể ném nó đi, không thể hủy diệt nó một cách trực tiếp bằng bất kỳ loại vũ khí nào. Nếu cố đánh nhau với nó, bạn sẽ bị thương đấy. Bóng tối không hề bị tổn thương. Bạn có thể là một nhà đấu vật vĩ đại, song bạn vẫn không thể vật nhau với bóng tối. Đó là việc bất khả thi. Lý do rất đơn giản là vì bóng tối không hề tồn tại, nó chỉ tồn tại trong thế đối lập với ánh sáng. Nếu chúng ta muốn làm điều gì đó trong bóng tối, chắc chắn ta phải tìm ra hướng có ánh sáng. Nếu không muốn đứng trong bóng tối, hãy mang ánh sáng đến. Nếu muốn bóng tối hiện hữu, hãy tắt ánh sáng đi. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc bạn là hãy sống cùng với ánh sáng, trong bóng tối, bạn sẽ chẳng hoàn tất được việc gì cả. Khi những trạng thái đối nghịch không còn tồn tại thì cái tôi cũng biến mất.
Nếu không muốn đứng trong bóng tối, hãy mang ánh sáng đến. Nếu muốn bóng tối hiện hữu, hãy tắt ánh sáng đi. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc bạn là hãy sống cùng với ánh sáng, trong bóng tối, bạn sẽ chẳng hoàn tất được việc gì cả.
Đó là lý do vì sao tôi không khuyến khích bạn tha thứ. Tôi không khuyên bạn hãy yêu ai và đừng ghét ai. Tôi không nói bạn hãy chấm dứt mọi tội lỗi và trở thành thánh nhân. Nhân loại đang cố gắng làm điều đó và họ thất bại hoàn toàn. Công việc của tôi khác hẳn. Tôi chỉ nói: Hãy mang ánh sáng đến cuộc đời của bạn. Đừng bị bóng tối khuất phục.
Bóng tối chính là cái tôi. Ánh sáng là thiền định giúp bạn thức tỉnh thực sự. Bạn sẽ không còn cố gắng kiềm chế, kiềm chế, kiềm chế thêm nữa. Kiềm chế là vô nghĩa. Kiềm chế chỗ này thì cái cảm xúc tiêu cực lại xuất hiện ở chỗ khác. Nó vẫn tìm cách làm ta tổn thương.
Bạn hỏi: “Tại sao người ta khó tha thứ, tại sao người ta cứ bám lấy những vết thương trong quá khứ?”.
Tại sao ư? Vì đó là tất cả những gì mà bạn có. Và bạn cứ thích chơi với những vết thương cũ. Bạn không muốn nó lành.
Một người đàn ông đang ngồi ở một toa xe lửa. Khi ấy, có một thầy tu mang một chiếc túi du lịch đến ngồi gần anh. Không có gì để làm, anh ta chăm chú nhìn ông thầy tu.
Ngài mở túi và lấy ra một cái khăn nhỏ, cẩn thận trải nó lên đầu gối. Sau đó, ngài lấy một chiếc bát thủy tinh và đặt nó lên cái khăn. Ngài tiếp tục lấy ra con dao và quả táo. Ngài gọt vỏ, cắt quả táo ra thành từng miếng nhỏ đặt vào bát. Rồi ngài nâng cái bát lên, dốc nghiêng nó và đổ táo ra ngoài cửa sổ.
Mọi việc cũng diễn ra như thế với quả chuối, quả lê, quả đào, quả dứa và một hũ kem – ngài ném mọi thứ qua cửa sổ sau khi đã bày biện chúng rất cẩn thận. Cuối cùng, ngài lau sạch cái bát, gấp khăn lại và đặt nó ra sau cái túi du lịch.
Người đàn ông ngồi cạnh ông thầy tu sửng sốt kêu lên: “Xin lỗi thầy! Thầy đang làm gì vậy?”.
Vị thầy tu lãnh đạm đáp: “Ta làm món salad trái cây”.
“Nhưng sao thầy lại ném chúng qua cửa sổ?”
“Vì ta ghét salad.” - Thầy tu trả lời.
Con người ta cứ thích gánh theo mình những thứ mà họ ghét. Họ sống trong sự căm ghét. Họ chọc ngoáy vào vết thương của mình vì họ không muốn nó lành, không cho phép nó lành – toàn bộ cuộc đời của họ lệ thuộc vào quá khứ.
Hãy sống cho hiện tại, nếu không bạn sẽ không bao giờ có thể quên và tha thứ cho quá khứ.
Hãy sống cho hiện tại, nếu không bạn sẽ không bao giờ có thể quên và tha thứ cho quá khứ. Tôi không nói rằng bạn hãy quên và tha thứ tất cả những gì đã xảy ra trong quá khứ. Tôi chỉ nói: Hãy sống cho hiện tại. Đó là cách tốt nhất để tồn tại; hay nói cách khác: hãy thiền định, hãy thức tỉnh, bởi khi thức tỉnh, chúng ta sẽ sống cho hiện tại.
Hãy thoát khỏi quá khứ và tương lai để tự do tận hưởng hiện tại. Kinh nghiệm sống cho hiện tại sẽ thúc đẩy chúng ta hòa nhập vào cái toàn thể, những vết thương lòng năm xưa sẽ lành lại.
Sự thức tỉnh không nằm ở quá khứ, cũng chẳng thuộc về tương lai. Sự thức tỉnh chỉ biết đến hiện tại. Hãy thức tỉnh. Đó là khi bạn bắt đầu tham dự vào hiện tại, cảm nhận niềm vui của cuộc sống hiện tại, chấm dứt mọi nỗi muộn phiền vô lý mà bao người vẫn đang cố bám riết. Bạn sẽ không tìm về quá khứ nữa. Bạn sẽ quên và tha thứ. Bạn sẽ ngạc nhiên là vì sao mình không còn buồn khổ, đắng cay nữa. Quá khứ không còn, tương lai biến mất bởi nó cũng chỉ là dự phóng của quá khứ. Hãy thoát khỏi quá khứ và tương lai để tự do tận hưởng hiện tại. Kinh nghiệm sống cho hiện tại sẽ thúc đẩy chúng ta hòa nhập vào cái toàn thể, những vết thương lòng năm xưa sẽ lành lại. Không còn nỗi thương tâm nào, chúng ta bắt đầu một cuộc sống thực sự tốt đẹp. Điều đó khởi nguồn cho cuộc chuyển hóa lớn lao.
Tại sao chúng ta cứ nghiêm trọng hóa mọi chuyện?
Bởi vì cái tôi luôn bất an, nó thích biến đụn đất bé tí thành ngọn núi sừng sững. Nỗi đau khổ chỉ bằng một đụn đất thôi ư, nó phải là một ngọn núi hùng vĩ chứ. Cái tôi không muốn có một nỗi đau khổ bình thường, nó muốn sở hữu một nỗi khổ khác thường! Bằng cách này hay cách khác, cái tôi luôn muốn ở vị trí thứ nhất. Vậy nên nó phải cố gắng làm nghiêm trọng tất cả mọi chuyện.
Hầu hết chúng ta luôn tạo ra cho mình những vấn đề to tát, mặc dù thực chất không phải như thế. Tôi trò chuyện với hàng ngàn người về những rắc rối của họ và tôi không hề nhận thấy một khó khăn thực sự nào cả. Tất cả mọi vấn đề đều hư ngụy – chính bạn đã tạo ra nó, bởi không có nó thì bạn lại thấy trống rỗng. Không có vấn đề tức là không có gì để làm, không có gì để tranh đấu, không có gì để sống. Người ta đi từ vị đại sư này đến đại sư khác, đi từ bậc thầy này đến bậc thầy khác, đi từ nhà tâm lý học này đến nhà tâm lý học khác, đi từ cuộc chạm trán này đến cuộc chạm trán khác, bởi nếu không đi thì làm sao họ chịu nổi sự trống rỗng, sự vô nghĩa. Họ tạo ra vấn đề để cảm thấy sống là một sứ mệnh lớn lao, là sự bành trướng những tham vọng, là những cuộc đua và con người phải làm việc cật lực để giải quyết những vấn đề.
Cái tôi không muốn có một nỗi đau khổ bình thường, nó muốn sở hữu một nỗi khổ khác thường! Bằng cách này hay cách khác, cái tôi luôn muốn ở vị trí thứ nhất. Vậy nên nó phải cố gắng làm nghiêm trọng tất cả mọi chuyện.
Cái tôi chỉ tồn tại bằng tranh đấu. Vấn đề càng lớn, thử thách càng lớn, cái tôi của chúng ta càng sinh sôi nảy nở.
Chúng ta đã tạo ra nhiều vấn đề. Nhưng chúng có thực sự tồn tại đâu. Chúng ta đã tự lừa mình. “Đồng ý, đúng là không có chuyện gì nghiêm trọng. Nhưng cũng có một vài chuyện nhỏ chứ”. Không, chuyện nhỏ cũng không có. Tất cả đều do chúng ta thêu dệt. Từ cái không có, chúng ta tạo ra cái có, từ cái có chúng ta tạo ra cái lớn hơn.
Hãy nhìn vào những gì bạn đang làm xem chúng có vô nghĩa hay không. Đầu tiên, bạn tạo ra một vấn đề, sau đó bạn tìm cách giải quyết. Tại sao bạn lại làm như thế? Ngay từ đầu, bạn đừng tạo ra có hơn không. Phải chăng, cứ nghĩ ra đủ mọi vấn đề này khác thì cuộc sống mới hấp dẫn? Không cần ánh sáng, không cần giác ngộ, không cần tỉnh thức. Và bạn rơi vào một sự trống rỗng sâu thẳm, để rồi cố gắng nhồi nhét vào tâm trí mình bao nhiêu thứ.
Đầu tiên, bạn tạo ra một vấn đề, sau đó bạn tìm cách giải quyết. Tại sao bạn lại làm như thế? Ngay từ đầu, bạn đừng tạo ra có hơn không.
Hãy cố gắng thấu hiểu điều này: đừng tạo ra vấn đề nào cho mình cả. Hãy chấm dứt thói quen tạo ra vấn đề để giải quyết. Càng nhìn sâu vào hiện trạng của mình, bạn càng thấy rõ chẳng có gì ghê gớm xảy ra. Và dần dần, những việc bạn từng nghĩ là rất nghiêm trọng kia sẽ biến mất. Kiên nhẫn nhìn vào nội tâm mình, một ngày nào đó bạn sẽ bất ngờ nhận ra vẻ đẹp của hư không lặng lẽ đang bao bọc xung quanh mình. Không cần phải làm gì, không cần phải trở thành ai, tự bạn đã đầy đủ.
Giác ngộ không phải là đạt tới một cái gì đó. Nó chỉ là sự tồn tại như nhiên. Khi tôi nói tôi đạt tới giác ngộ, điều đó chỉ có nghĩa đơn giản là tôi quyết định sống đúng với bản chất của mình. Thế là quá đủ! Từ đây, tôi không còn thích tạo ra vấn đề nào nữa. Tôi quyết định kết thúc mọi trò tung hứng ngớ ngẩn những nỗi vui buồn của đời mình.
Thực ra, nỗi đau khổ âu lo chỉ là trò chơi của chúng ta. Đó là một cuộc chơi mà chúng ta tự giấu mình đi và tự tìm kiếm lại bản thân. Ta ở cả hai phía. Bạn biết rõ điều đó. Cho nên tôi mới nói rằng bạn hãy mỉm cười đi. Hãy cười lớn lên. Tất nhiên, không phải tôi nói bạn cười một cách vô nghĩa lý mà hãy cười vào chính bản thân mình. Chỉ khi nào ta biết rõ ta đang cười với chính mình, ta sẽ hiểu rõ điều gì đang xảy ra. Hầu như tất cả chúng ta đều đang sống trong một trò chơi: ta giấu mình, chờ đợi chính mình đi tìm và tìm lại được chính mình.
Bạn có thể nhận chân bản chất của mình ngay tại thời khắc này.
Giờ đây, có lẽ bạn đã hiểu vì sao các thiền sư lại dùng gậy quất vào người các thiền sinh. Bất cứ khi nào một đệ tử đến và nói: “Con muốn trở thành Phật” thì lập tức thiền sư nổi giận. Sao tên đệ tử kia lại nói điều ngớ ngẩn đến vậy. Ngươi đã là Phật rồi. Nếu Đức Phật đến gặp ta và hỏi cách nào để trở thành Phật, hãy nghĩ xem ta sẽ làm gì? Ta cũng sẽ gõ vào đầu Ngài! “Sao ngươi còn muốn trở thành ai khác nữa. Ngươi chính là Phật”.
Đừng cố gắng tạo ra bất kỳ vấn đề nào cho mình. Khi tự quán sát mình, hiểu được mình đã làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn như thế nào, bạn sẽ thấy mọi việc sáng rõ hơn. Bạn sẽ thấy tự nhiên mình bước lên đỉnh điểm đau khổ và đòi cả thế giới phải thông cảm sẻ chia. Bạn chính là một chuyên gia tầm cỡ trong việc kiến tạo những rắc rối. Nhận ra sự thật này, những “vấn đề” của bạn sẽ biến mất nhanh chóng. Bạn có hình dáng hoàn hảo, được sinh ra một cách hoàn hảo, đó là toàn bộ thông điệp. Sự hoàn hảo là bản chất bên trong của chúng ta. Hãy sống với sự hoàn hảo đó. Quyết định sống với đúng điều đó thôi.
Nếu chưa chán trò chơi này, bạn hãy tiếp tục nhưng đừng hỏi tại sao. Bạn biết rõ lý do mà. Lý do rất đơn giản. Cái tôi không thể tồn tại trong sự rỗng không, nó cần đủ thứ để chiến đấu, kể cả chiến đấu với cái bóng ma của chính mình. Cái tôi chỉ có thể tồn tại trong quan hệ mâu thuẫn. Nó không phải là một thực thể, nó là một tình trạng căng thẳng. Sự căng thẳng biến mất thì cái tôi cũng biến mất.
Điều đáng nói là hầu hết mọi người đều muốn sống căng thẳng mà không biết. Bản thân mình lo nghĩ buồn phiền chưa đủ, bạn còn cố gắng suy nghĩ về những vấn đề của nhân loại, của thế giới, của tương lai… Bạn bắt đầu nghĩ rằng hình như cả thế giới phải nghe theo lời khuyên của bạn. Rồi bạn nghĩ: “Cái gì đang xảy ra ở Israel? Ở châu Phi?”. Bạn sẽ đưa ra giải pháp này khác, và tạo ra hàng đống vấn đề.
Thế rồi mọi người đều hết sức phấn khích, gần như không thể ngủ bởi vì các cuộc chiến tranh lớn nhỏ cứ xảy ra. Cuộc sống bình thường của chúng ta trở nên bất thường. Chiến tranh văn hóa, sắc tộc bắt đầu diễn ra. Và tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng trầm trọng, đều trở nên có vấn đề.
Vậy nên, nếu thấu hiểu quá trình chúng ta đã tạo ra vấn đề của mình như thế nào, bạn sẽ tiến dần đến việc nhận thức cái hư không thanh khiết đang bao quanh cuộc sống của mình. Bản chất của giác ngộ là ở chỗ nhìn ra cái ánh sáng hư không đó, là từ bỏ vĩnh viễn những nỗi buồn đau ám ảnh bạn từ lâu.
Nếu không có gì để giải quyết, bạn sẽ làm gì? Ngay lập tức, bạn bắt đầu cuộc sống thực sự của mình. Bạn sẽ ăn uống, nghỉ ngơi, yêu thương, ca hát, nhảy múa… đúng nghĩa một đời sống phong phú, nhân bản.
Một người không có bất kỳ vấn đề nào – đó chính là Thượng Đế. Ngài sẽ làm gì với cuộc sống của mình? Ngài không cần đến một chuyên gia tâm thần học, không cần đến những đạo sư…. không cần chi phối ai. Vậy, Thượng Đế đang làm gì? Ngài sẽ làm gì? Ngài có phát điên lên như chúng ta không? Không, ngài sẽ sống một cách bình thường, một cách giản dị và điều quan trọng nhất là ngài không gặp bất kỳ một vấn đề nào cả.
Rồi bạn sẽ thấy: càng sống trọn vẹn trong mỗi phút giây của hiện tại, ta lại càng ít âu lo phiền muộn. Cái trống rỗng mà bạn sẵn có trong tâm hồn sẽ ngày một thăng hoa, bạn thấy sự sống của mình thật xứng đáng, thật ý nghĩa và chẳng còn mong trở thành một ai khác nữa. Còn nếu bạn không sống trong hiện tại thì nguồn năng lượng dồi dào đó sẽ úa tàn. Nó không bao giờ còn có thể nở hoa; nó sẽ hóa thành bụi gai trong trái tim bạn.
Nếu ta bắt buộc một đứa bé ngồi trong góc nhà và không cho nó rời khỏi đó một bước, bạn thử quan sát xem điều gì sẽ xảy ra? Chỉ một vài phút trước đó, nó hoàn toàn vui vẻ, dễ chịu; và bây giờ, nó căng thẳng, mặt mũi đỏ gay. Cơ thể nó cựa quậy không yên vì phải giữ mình một chỗ theo lệnh của người lớn. Toàn bộ năng lượng của đứa bé phải tập trung vào chỗ ngồi - nơi mà nó cảm thấy không có mục đích, không ý nghĩa, không có không gian để di chuyển, không có gì để thăng hoa nảy nở; tất cả bị kìm hãm, đóng băng, cứng nhắc. Đứa bé rất khổ sở, nó đang chết theo một nghĩa nào đó. Nếu chúng ta cấm trẻ em chạy chơi trong vườn, nó sẽ bắt đầu tạo ra vấn đề. Nó bắt đầu mơ mộng, nghĩ ra chuyện này chuyện khác, thậm chí còn tìm cách chiến đấu với mớ câu chuyện tưởng tượng của mình. Nó thấy một con chó to và sợ hãi, nó thấy bóng ma và phải chiến đấu để thoát khỏi bóng ma ấy. Giờ đây, nó đang vẽ vời một câu chuyện gì đó vô bổ - nghĩa là toàn bộ nguồn năng lượng có thể làm cho đứa bé trở nên đáng yêu đã bị ngăn cản.
Nếu chúng ta biết nhảy múa một chút, ca hát một chút, thậm chí nổi loạn một chút thì nguồn năng lượng vĩnh cửu bên trong sẽ sớm nở hoa, những rắc rối muộn phiền của chúng ta sẽ dần dần phai nhạt và biến mất.
Nếu chúng ta biết nhảy múa một chút, ca hát một chút, thậm chí nổi loạn một chút thì nguồn năng lượng vĩnh cửu bên trong sẽ sớm nở hoa, những rắc rối muộn phiền của chúng ta sẽ dần dần phai nhạt và biến mất.
Tôi nhấn mạnh đến những điệu múa. Nhảy múa chính là hạnh phúc. Toàn bộ năng lượng của chúng ta dồn vào những động tác, và bất ngờ ta sẽ không còn cảm giác về cái đầu nặng trĩu của mình – nguồn năng lượng bị ách tắc trong tâm trí sẽ được giải tỏa, mở ra vô vàn những cảnh tượng và khoảnh khắc tươi đẹp, sống động. Thân thể của chúng ta sẽ không còn cứng nhắc, nó trở nên mềm mại tinh tế. Không còn biên giới nào nữa trong khoảnh khắc chúng ta nhảy múa và tan chảy vào vũ trụ bao la.
Hãy ngắm nhìn những nghệ sĩ múa, bạn sẽ thấy họ trở thành một hiện tượng năng lượng. Cơ thể họ đâu phải là cái khung xương thịt. Họ đang sống, đang trở nên vui sống hơn bao giờ hết. Chỉ khi nào thực sự nhảy múa, bạn sẽ cảm nhận được điều này. Mọi ưu tư biến mất, chúng ta trở thành con trẻ, trở lại khoảng thời gian mà cái đầu ngây thơ của ta không hề biết tạo ra chuyện phiền phức cho đời mình.
Sống bình thường, sống vui vẻ, đừng cố tạo ra vấn đề nào nghiêm trọng cho mình, đó là những gì chúng ta cần làm. Bất cứ khi nào cần tạo ra vấn đề, chắc chắn bạn sẽ phải giải quyết nó. Nhưng nếu giải quyết, bạn sẽ phải đối mặt với một nghìn lẻ một vấn đề khác mọc lên. Phải tỉnh táo để thoát khỏi cái bẫy của chính mình, ở ngay chính bước chân đầu tiên.
Khi đối diện với buồn phiền, hãy giữ mình đừng đi sâu vào nó. Hãy bình tĩnh làm một điều gì đó để giải thoát nguồn năng lượng có nguy cơ bị đóng băng vì đau khổ. Hãy nhanh chóng đưa năng lượng của mình trở về với cội nguồn vũ trụ.
Người sơ cổ không có nhiều vấn đề. Tôi có dịp gặp nhóm người thuộc một bộ lạc hoang dã ở Ấn Độ. Họ nói rằng họ chẳng bao giờ nằm mơ. Freud hẳn là không thể tin nổi điều này. Họ không mơ, nhưng nếu có – rất hạn hữu – thì họ mơ về những ngôi làng, mơ cầu nguyện với Thượng Đế. Thực ra, khi mơ tức là có cái gì đó sai. Giấc mơ không bao giờ xảy ra với bộ lạc của họ, bởi họ chẳng lưu lại gì trong đầu mình khi say ngủ.
Những gì bạn còn níu giữ sẽ lưu dấu trong giấc mơ. Bạn đã suy nghĩ suốt một ngày. Dòng suy nghĩ ấy chứng tỏ nguồn năng lượng bạn sử dụng quá nhiều, quá liều lượng cần thiết. Nghĩa là bạn đánh mất đời sống hiện thực của mình. Khi dùng quá nhiều năng lượng thì nguồn năng lượng mới sẽ bị phí hoài. Đừng trở thành kẻ luôn phí hoài như thế. Hãy sử dụng năng lượng cho ngày hôm nay một cách hoàn hảo. Ngày mai sẽ lo việc ngày mai, đừng lo lắng về ngày mai. Nỗi lo lắng thường trực về cái ngày mai nào đó chỉ chứng tỏ bạn không yên ổn trong hiện tại, không thể tìm thấy niềm vui nào trong hiện tại. Vấn đề là ở chỗ đó.
Nếu chúng ta thực sự sống đúng với con người bên trong thuần túy của mình, cái tôi nào đó mà chúng ta ngộ nhận sẽ hoàn toàn biến mất. Cuộc sống không cần biết đến sự tồn tại của cái tôi nào cả, nó chỉ là sự sống, sự sống và sự sống – một sự sống đơn thuần, không tô vẽ. Cuộc sống không có tự ngã, không có trung tâm, không có tình trạng ngăn cách. Chúng ta hít vào - vậy là cuộc sống đi vào chúng ta. Chúng ta thở ra – vậy là ta đi vào cuộc sống. Không hề có sự ngăn cách nào. Chúng ta ăn hoa quả là thiên nhiên đi vào chúng ta. Khi chết đi, chúng ta trở về với đất và trở thành thức ăn cho thiên nhiên.
Cuộc sống là dòng chảy duy nhất luôn luôn chuyển động. Nó đi vào chúng ta, rồi đi qua chúng ta. Thực ra, không phải nó đi vào chúng ta mà là nó luôn đi qua. Chúng ta không thực sự tồn tại, chỉ có dòng sống tồn tại trong hình thức phức tạp của nó, trong mạch năng lượng của nó và trong hàng triệu niềm hân hoan mà nó mang lại cho con người. Một khi đã hiểu rõ như thế, chúng ta sẽ xem đây là quy luật duy nhất để giải thích mọi thứ.
Tại sao tôi luôn cảm thấy đau khổ? Ai đó có thể mang nó đi giúp tôi không?
Câu trả lời đã nằm trong câu hỏi. Chúng ta có xu hướng không chịu trách nhiệm cho cuộc đời của mình mà mong ai đó sẽ giải quyết cho ta. Đó là nguyên nhân duy nhất gây ra đau khổ.
Không ai có thể giải quyết nỗi đau khổ của chúng ta. Làm sao một người nào đó có thể mang đến cho ta niềm vui được. Chỉ tự mỗi người mới chọn lựa nỗi đau hay niềm vui. Hạnh phúc hay bất hạnh là do chính chúng ta.
Nhưng có lẽ hầu hết mọi người đều khó chấp nhận sự thật là: Nỗi đau khổ không đến từ bên ngoài mà ở trong hành động của mỗi người.
Chắc là ai đó đã gây cho tôi đau khổ chứ không phải tôi. Người chồng sẽ nghĩ rằng chính vợ mình đã mang đến đau khổ cho anh ta. Và ngược lại, người vợ cho rằng nỗi bất hạnh của mình xuất phát từ người chồng. Những đứa trẻ buồn phiền đổ lỗi cho bố mẹ chúng. Đó là một phức cảm. Một khi cứ khăng khăng nghĩ rằng người khác đã làm cho mình đau khổ thì chúng ta đã đánh mất tự do của chính mình. Trách nhiệm và tự do là hai mặt của một đồng xu.
Một khi cứ khăng khăng nghĩ rằng người khác đã làm cho mình đau khổ thì chúng ta đã đánh mất tự do của chính mình. Trách nhiệm và tự do là hai mặt của một đồng xu.
Chúng ta đã đẩy trách nhiệm giải quyết nỗi khổ của mình cho người khác nên chúng ta chấp nhận rằng niềm vui của chúng ta là do người khác mang lại. Chúng ta không có trách nhiệm trong nỗi khổ của mình, và cũng chẳng dính dáng gì đến hạnh phúc của mình. Vậy vai trò của chúng ta ở đâu? Mục đích của chúng ta là gì? – chẳng lẽ chỉ là tiêu điểm cho một số người đày đọa hay cứu giúp và ban hạnh phúc cho chúng ta sao? Chúng ta chỉ là con rối mà mọi sợi dây cử động đều do bàn tay của người khác điều khiển sao?
Nếu không trân trọng những phẩm chất đặc biệt của con người, chúng ta cũng sẽ không trân trọng chính mình. Khi đó, chúng ta cũng chẳng có chút tình yêu nào với cuộc sống của mình, với tự do quý giá.
Nếu trân trọng cuộc sống của mình, ta sẽ từ chối mọi sự cứu giúp.
Có lẽ đây là cách mà con người cần phải học: thất bại rồi hãy đứng lên, lạc đường rồi thì hãy tìm cách quay trở lại. Mỗi lần sai lầm là mỗi lần chúng ta sáng suốt hơn để không sai thêm nữa. Nếu vẫn tiếp tục sai tức là ta chẳng học được gì. Khi ấy, ta hành động như cái máy không chút nghĩ suy.
Mọi cố gắng của tôi là đưa mỗi người trở về với lòng tự trọng cần thiết. Bạn sẽ thấy những điều tôi chia sẻ là ngớ ngẩn nếu như bạn chưa thực sự sẵn sàng chấp nhận nỗi khổ tâm của mình, chưa sẵn sàng chịu trách nhiệm mọi đau thương.
Từ đó, bạn sẽ thấy sự phiền não không đến một cách đơn giản. Nó có thể là tính đố kỵ, sự giận dữ, lòng tham…, nhưng điều chắc chắn là chính chúng đã tạo ra nỗi đớn đau cho mình.
Bạn đã nhìn thấy ai trên thế giới này có thể làm cho một người nào đó trở nên hạnh phúc chưa? Hạnh phúc thực sự lệ thuộc vào chính chúng ta, không ai mang nó đến cho chúng ta. Hạnh phúc đến từ sự im lặng nhẫn nại, từ tình yêu, từ sự bình an và từ niềm tin mà bạn có.
Người Tây Tạng kể lại một huyền tích đẹp về Marpa. Có thể câu chuyện ấy không có thật nhưng ý nghĩa lớn lao của nó vẫn là điều làm chúng ta suy nghĩ. Điều quan trọng nhất là ý nghĩa của nó chứ không phải tính thực hư của câu chuyện.
Marpa nghe nói về một vị đạo sư. Ông tìm gặp người thầy của mình, đi bên cạnh thầy với niềm hân hoan và thái độ hoàn toàn tin tưởng. Ông hỏi: “Bây giờ thầy muốn con sẽ làm gì thưa thầy?”.
Vị đạo sư trả lời: “Một khi con đã đi cùng ta, con không cần phải làm gì cả. Chỉ cần tin vào ta. Tên của ta có một sức mạnh thiêng liêng bí mật. Bất cứ lúc nào con gặp khó khăn, hãy nhớ tên ta và mọi thứ sẽ tốt đẹp”.
Marpa ấn ấn bàn chân và bắt đầu thử làm điều thầy nói ngay lập tức. Dù chỉ là một người bình thường nhưng Marpa đã có thể đi trên nước. Những đệ tử khác theo học vị đạo sư trong nhiều năm không thể tin nổi – sao ông ta có thể đi trên mặt nước. Họ báo lại với vị đạo sư: “Thưa thầy, chúng con không hiểu nổi sao người đó có thể đi trên mặt nước?”.
Vị đạo sư hỏi: “Vậy ư?”.
Họ chạy ra bờ sông. Marpa vẫn đang đi lại trên mặt nước, ca hát, nhảy múa. Khi ông vào bờ, vị đạo sư hỏi: “Con có bí mật gì vậy?”.
Marpa ngạc nhiên: “Bí mật gì đâu thưa thầy? Chính là điều thầy nói với con: hãy gọi tên thầy. Con nói: Thưa thầy, hãy cho phép con đi trên mặt nước. Thế là điều đó xảy ra”.
Vị đạo sư không tin nổi tại sao tên của ngài lại có thể giúp cho Marpa đi trên nước. Bản thân ngài không thể đi trên nước được. Nhưng biết đâu được... Ngài vẫn chưa làm thử bao giờ. Ngài nghĩ tốt hơn hơn hết là thử thách Marpa thực hiện thêm một số việc phi thường nữa trước khi đích thân Ngài thực hiện. Nghĩ vậy, vị sư nói: “Con có thể nhảy từ vách núi xuống không?”.
Marpa trả lời: “Thầy nói gì con cũng làm”. Ông đi xuống đồi và trèo lên một vách núi. Những người còn lại đứng chờ Marpa tan xác dưới thung lũng.
Marpa bình tĩnh mỉm cười, ngồi theo tư thế hoa sen. Ông đáp xuống nhẹ nhàng trên một cành cây dưới thung lũng và ngồi xuống. Mọi người chạy đến vây quanh Marpa. Họ thấy ông thậm chí không có cả một vết xước.
Vị đạo sư hỏi: “Con lại gọi tên ta sao?”.
Marpa đáp: “Vâng”.
Vị đạo sư nói: “Thế là đủ. Bây giờ ta sẽ thử xem”.
Ngài bắt đầu bước xuống nước và chìm nghỉm.
Marpa không tin được thầy của ông lại bị chìm. Những đồ đệ nhảy xuống sông để cứu thầy. Vị đạo sư gần như sắp chết vì nước tràn vào phổi.
Marpa hỏi: “Chuyện gì vậy thưa thầy?”.
Vị đạo sư trả lời: “Hãy tha thứ cho tôi, tôi không phải là đạo sư, tôi chỉ là một kẻ tham lam hay yêu sách”.
Marpa lại hỏi: “Nếu ngài là một kẻ tham lam hay yêu sách, sao tên của ngài có thể khiến con làm được những chuyện đó?”.
Vị đạo sư rởm đời trả lời: “Tên tôi có ý nghĩa gì đâu. Chính là niềm tin của anh. Điều quan trọng không phải là anh tin ai, mà anh tin như thế nào. Tôi không tin vào tôi. Tôi không tin vào ai. Tôi chỉ lừa mọi người, làm sao tôi có thể tin được ai. Tôi sợ bị kẻ khác lừa mị vì tôi hay lừa mị họ. Tôi không thể tin bất cứ điều gì. Anh là một người ngớ ngẩn vì đã tin tôi”.
Câu chuyện trên có thật hay không, chúng ta không cần để ý. Chúng ta chỉ nên quan tâm một sự thật: chính chúng ta đã tạo nên đau khổ cho mình, và chỉ có niềm tin, tình yêu mới mang lại niềm vui hạnh phúc.
Càng cố sáng tạo ta càng bị nô lệ vào những viễn cảnh của nó; chỉ có tự do mới là bản tuyên ngôn duy nhất của chúng ta trong cuộc đời.
Bạn hỏi tôi: “Tại sao tôi lại đau khổ?”. Thực ra, bạn đau khổ vì bạn không nhận trách nhiệm cho nỗi đau khổ đó. Gốc rễ nỗi khổ nằm bên trong mỗi chúng ta. Nếu tiêu trừ gốc rễ ấy thì nỗi khổ nào cũng sẽ biến mất.
Nhưng hầu hết mọi người đều không muốn từ bỏ căn nguyên của sự khổ đau mà họ chỉ muốn từ bỏ sự khổ. Đó là điều không thể được, không có cơ sở khoa học.
Khi mong muốn người khác cứu giúp mình, bạn sẽ giống như một kẻ ăn xin. Bạn có phải là con cừu đâu. Bạn phải làm chủ hoàn toàn cuộc sống của mình mới phải.
Chỉ cần nhìn thấy trách nhiệm của bản thân mình trong mọi nỗi khổ sở của cuộc đời, chúng ta sẽ tìm thấy một chân trời ánh sáng của hạnh phúc và tự do vĩnh cửu. Không cần ai phải cứu rỗi chúng ta.
Chỉ cần nhìn thấy trách nhiệm của bản thân mình trong mọi nỗi khổ sở của cuộc đời, chúng ta sẽ tìm thấy một chân trời ánh sáng của hạnh phúc và tự do vĩnh cửu. Không cần ai phải cứu rỗi chúng ta. Cứu rỗi là giả tạo. Vì muốn người khác cứu giúp mình nên bạn phải thờ phụng họ. Bạn cần họ và họ xuất hiện.
Một khi còn lệ thuộc vào người khác, bạn sẽ đánh mất tâm hồn mình. Bạn quên rằng mình cũng có ý thức đầy đủ như bất kỳ ai khác, như Đức Phật. Và nếu không thức tỉnh thì bạn không thể nào nhìn ra sự thật đó. Bạn chỉ trông chờ vào sự cứu rỗi. Bạn phải đi xin mà không biết mình chính là chủ vương quốc của mình.
Như vậy, những nguyên tắc cơ bản nhất mà chúng ta cần thấu đáo là: tôn trọng bản thân mình, sống tự do và biết chịu trách nhiệm.
Tại sao người ta lại thích sống khác bản chất của mình? Yếu tố tâm lý nào nằm ở đằng sau sự thật đó?
Bởi vì người ta bị ép buộc sống một cách miễn cưỡng từ thuở ấu thơ. Những điều mà người ta thích làm hầu như đều bị ngăn chặn. Dần dần, lớn lên người ta cũng mang theo những ý tưởng và quan niệm sống được hình thành từ bé. Con người trở thành những đứa trẻ to xác luôn cần được cứu giúp.
Bạn đã bao giờ suy nghĩ về điều đó chưa? Đứa trẻ to xác đó là đứa trẻ yếu ớt nhất trong thế giới sinh vật, yếu ớt nhất thế giới – một loài sinh vật mỏng manh, dễ tổn thương, dễ chết. Một cách hết sức tự nhiên, người lớn đã đúc khuôn những đứa bé theo cách sống cố hữu của họ.
Vì thế, ở một góc độ nào đó, muốn sống như chính mình tức là chống lại bản thân mình. Đó là nền tảng tâm lý đằng sau sự thật con người thích sống khác bản chất của mình.
Mọi người dường như đang tồn tại trong tình trạng tâm thần phân liệt. Họ không bao giờ cho phép mình được sống thật. Họ phải sống theo một mẫu hình nào đó – kiểu người không bao giờ có thể hạnh phúc một cách chân thật.
Khi lớn lên và đứng trên đôi chân của chính mình, con người bắt đầu đòi hỏi nhiều thứ. Nhưng trong cái thế giới xô bồ này, chúng ta như bị mờ mịt. Mỗi người cố gắng trở thành một người nào đó mà họ biết rõ bản chất mình không phải như thế. Người ta vẫn biết mình bị thúc đẩy, bị lôi cuốn trở thành bác sĩ này, kỹ sư nọ, thành nhà chính trị, thành tội phạm, thành kẻ ăn xin. Có đủ thứ lực đẩy xung quanh chúng ta.
Ở Bombay, Ấn Độ, có nhiều người mà công việc duy nhất của họ là bắt cóc trẻ em và làm cho các em trở nên tàn tật, mù lòa, què quặt, sau đó bắt các em phải đi ăn xin để mang tiền về cho họ. Vâng, các em được cho ăn, có một chỗ nương náu, nhưng các em chỉ là một thứ hàng hóa để bán buôn chứ không phải con người. Điều này tất nhiên rất trầm trọng, song, xét ở một khía cạnh nào đó, chuyện chúng ta tự đối xử với mình cũng giống như vậy, cũng nghiệt ngã và u tối như những kẻ buôn bán trẻ em vậy.
Người nào cũng cố gắng tìm cách giấu mình đi bằng những mặt nạ, bằng sự khoe khoang hay thái độ đạo đức giả. Họ cảm thấy xấu hổ về con người thật của mình.
Trong thế giới này, chỉ có một hạnh phúc duy nhất: được trở thành chính mình. Hiếm ai can đảm trở thành chính mình. Người nào cũng cố gắng tìm cách giấu mình đi bằng những mặt nạ, bằng sự khoe khoang hay thái độ đạo đức giả. Họ cảm thấy xấu hổ về con người thật của mình.
Chúng ta đã biến thế giới này thành một cái chợ; cuộc sống đó không phải là một khu vườn đẹp đẽ mà mỗi người đều được phép mang theo những bông hoa tươi thắm của riêng mình. Chúng ta cứ muốn hoa cúc trở thành hoa hồng nhưng làm sao như thế được. Đó sẽ là những đóa hoa hồng nhựa không có linh hồn; trái tim sâu thẳm của những bông hoa cúc sẽ chứa chan nước mắt; nó cảm thấy khổ sở đắng cay vì “không đủ can đảm chống lại đám đông”. Họ muốn tôi làm hoa hồng nhựa mà không biết bên trong tâm hồn tôi là một bông hoa khác, một linh hồn khác. Tôi không có cách nào để nói ra sự thật ấy.
Chúng ta được dạy dỗ đủ thứ, nhưng không được dạy dỗ để sống đúng con người thật của mình. Đây là một hình thức quái đản nhất của xã hội bởi nó đã làm cho chúng ta sai lạc.
Trở thành kiểu người mà bạn không muốn, sống với người mà bạn không thích, làm những điều mà bạn chán ghét, đó là nền tảng mọi nỗi khổ của con người.
Một mặt, xã hội ở cơ cấu cực đoan nhất của nó chỉ là công cụ quản lý những con người đau khổ, mặt khác xã hội đó lại mong muốn chúng ta không thể hiện nỗi khổ của mình – ít nhất ở nơi công cộng. Đau khổ là chuyện riêng tư của bạn, nó đâu phải chuyện của đám đông ngoài kia.
Xã hội đã tạo nên nỗi khổ cho con người, rõ ràng đó là vấn đề chung của tất cả mọi người chứ không phải của riêng ai. Cái đám đông ồn ào tạo nên tất cả mọi ưu phiền bận tâm cho chúng ta cuối cùng lại nói với chúng ta rằng: “Nếu buồn thì hãy khóc một mình, còn khi vui bạn hãy bước ra ngoài. Đừng cho người khác thấy bạn đang đau khổ”. Người ta ngầm hiểu với nhau đó là một kiểu xã giao, là phong cách, là văn hóa. Thực sự, nó chỉ là một kiểu đạo đức giả.
Sớm hay muộn gì chúng ta cũng phải quyết định. Bạn sẽ phải nói: “Bằng mọi giá, tôi chỉ muốn trở thành chính mình. Tôi có thể bị lên án, bị phủ nhận, bị mọi người xa lánh, ghét bỏ nhưng nhất quyết tôi không thể tiếp tục sống dưới vỏ bọc của kẻ khác thêm một lần nào nữa”. Quyết định này và tuyên ngôn này giải thoát bạn ra khỏi áp lực của đám đông, đưa bạn trở về với bản chất nguyên sơ của mình, trở về với con người thực sự của mình.
Chúng ta không cần phải đeo mặt nạ làm gì. Chỉ cần là chính mình, đơn giản thế thôi.
Tôi sẽ trở thành chính mình bằng cách nào?
Tưởng chừng đó là điều dễ dàng nhất thế giới nhưng không phải như thế. Trở thành chính mình tức là không cần làm gì khác cả; bạn đã là chính mình rồi. Làm sao bạn có thể trở thành một ai đó khác. Làm sao bạn có thể sống ngược lại với bản chất chân thật của mình. Vậy mà cả xã hội này coi đó là điều hiển nhiên. Vậy một câu hỏi được đặt ra là: Vì đâu bạn đã bị biến thành người khác?
Vấn đề nằm ở chỗ xã hội đã làm tất cả chúng ta bị sai lạc – sai lạc suy nghĩ, sai lạc cách sống. Nó đã làm cho chúng ta có ảo giác rằng những cái bên ngoài kia là bản chất của chúng ta. Nó đẩy chúng ta ra khỏi cốt lõi bên trong của mỗi người. Và càng ngày ta càng tách rời bản thân. Cái xã hội đó muốn chúng ta trở thành thánh nhân, việc trở thành ai đó có thể rất vĩ đại, trừ việc trở thành chính con người của mình. Nó không bao giờ cho phép ta được tự do, nó bắt ta nghe theo tiếng nói bên ngoài, tin theo những tưởng tượng phong phú của đầu óc con người.
Chúng ta có thể giả vờ, nhưng giả vờ tức là không bao giờ hài lòng. Ta luôn muốn được là chính mình nhưng xã hội không cho phép. Nó muốn chúng ta mạo danh, nó không bao giờ muốn chúng ta sống thật, bởi nó cho rằng những người sống thật là những người nguy hiểm, nổi loạn. Chỉ những người biết sống thật mới làm chủ được cuộc sống của mình, mới sống theo cách riêng của mình; họ chỉ làm việc của họ, không bao giờ phiền đến xung quanh. Bạn không thể buộc họ hy sinh nhân danh bất kỳ điều gì. Họ luôn biết sống vì hạnh phúc nội tâm của họ. Đó là niềm hạnh phúc viên mãn vĩnh hằng. Họ không bao giờ hy sinh hạnh phúc ấy cho bất kỳ điều gì khác.
Ngay từ tấm bé, những định kiến, giáo điều của xã hội đã được tiêm nhiễm vào đầu óc chúng ta. Người lớn luôn dạy trẻ con phải trở thành người khác. Đứa trẻ lớn lên sẽ quen dần với việc sống giả tạo. Rồi một ngày kia, cũng chính cái xã hội ấy lại hỏi đứa bé đã lớn: Chuyện gì đã xảy ra với bạn vậy? Tại sao bạn đau khổ? Sao bạn buồn? Và sau đó bạn phải đi gặp các vị coi sóc về tinh thần. Trước hết, họ sẽ làm cho bạn suy nghĩ sai lầm về con đường hạnh phúc. Rồi họ sẽ dạy dỗ bạn làm thế nào để sống hạnh phúc. Nghĩa là họ làm cho bạn yếu đi rồi sau đó bán thuốc cho bạn. Quả là một cuộc lừa đảo xuyên không gian và thời gian. Con người sập vào cái bẫy của chính mình.
Tôi từng nghe thế này…
Một phụ nữ Do Thái ngồi trên máy bay bên cạnh một người đàn ông Na Uy lực lưỡng. Chị nhìn chằm chằm vào người đàn ông. Cuối cùng, chị lên tiếng: “Xin lỗi, anh có phải là người Do Thái không?”.
Anh ta trả lời: “Không”.
Một vài phút trôi qua, chị vẫn nhìn người đàn ông chăm chú và lại hỏi: “Anh vừa nói với tôi anh không phải là người Do Thái phải không?”.
Anh ta trả lời: “Chắc chắn là không”.
Chị vẫn quan sát người đàn ông và nói lại: “Tôi nói anh là người Do Thái”.
Để bớt phiền phức, anh ta đáp một cách lịch sự: “Đúng, tôi là người Do Thái”.
Chị lại nhìn người đàn ông và lắc đầu nói: “Anh đừng có nói như thế”.
Chúng ta cũng như vậy đấy. Bạn hỏi: “Tôi sẽ trở thành chính mình bằng cách nào?”. Chỉ cần đừng giả vờ nữa, đừng mong trở thành đấng này đấng nọ. Hãy ngưng tranh đấu và so sánh mình với người khác. So sánh là thuốc độc. Đừng nghĩ về người khác và những gì họ có để bạn phải đau khổ. So sánh sẽ khiến bạn bắt chước. Bắt chước một ai đó là đánh mất cơ hội được sống đúng với bản chất thật của mình.
Chừng nào còn sống thì bạn vẫn còn là một cá thể duy nhất. Chỉ có xác chết mới giống nhau. Chúng ta không bao giờ giống nhau, không thể giống nhau. Cuộc sống trôi đi không bao giờ lặp lại.
Đừng so sánh. Mỗi con người chúng ta đều là duy nhất. Không ai từng giống chúng ta hoặc sẽ giống chúng ta. Đơn giản chúng ta là mỗi cá thể duy nhất. Nhưng hãy nhớ rằng, tôi không hề nói bạn tốt hơn người khác. Cái duy nhất ở đây theo nghĩa là một con người bình thường trong cuộc sống. Một cá thể riêng biệt không có gì để so sánh, điều đó tự nhiên như hơi thở. Tất cả chúng ta đều là hơi thở và đều duy nhất. Chừng nào còn sống thì bạn vẫn còn là một cá thể duy nhất. Chỉ có xác chết mới giống nhau. Chúng ta không bao giờ giống nhau, không thể giống nhau. Cuộc sống trôi đi không bao giờ lặp lại. Mỗi ngày, cuộc sống cất lên tiếng hát mới, vẽ nên bức tranh mới.
Hãy trân trọng con người duy nhất trong ta. So sánh là có lỗi với chính mình.
Một khi đã so sánh, chắc chắn chúng ta sẽ đi theo con đường của người khác. Nhưng ta không phải là người khác, và người khác không phải là ta. Hãy chấm dứt mọi việc so sánh. Hãy để người khác là chính họ, còn chúng ta thanh thản sống cuộc sống của riêng mình. Hãy bắt đầu tận hưởng con người thật sự của mình. Và niềm vui bình dị ấm áp sẽ đến.
Việc so sánh sẽ dẫn đến tham vọng, thậm chí là bạo lực. Vì so sánh mà chúng ta trở nên hằn học, hận thù.
Cuộc sống không phải là hàng hóa. Hạnh phúc viên mãn cũng không phải là hàng hóa để người này có mà người khác thì không. Không thể có chuyện “nếu người khác hạnh phúc thì liệu tôi có hạnh phúc không?”. Thực ra mỗi chúng ta đều rất đủ đầy hạnh phúc trong nội tâm mình mà không ai có thể tranh giành, đuổi bắt. Hạnh phúc trong ta như một khu vườn xinh xắn; ta có thể ngắm nhìn và trân trọng nó, người khác cũng có thể ngắm nhìn và trân trọng. Không ai lợi dụng ai, không ai cản bước ai trước một khu vườn đẹp đẽ thơm tho. Người ngắm nó sẽ bị cuốn hút một cách nhẹ nhàng, và khu vườn cũng không mất mát một bông hoa nào. Khu vườn ngày càng đẹp đẽ hơn vì ai cũng trân trọng nó, và mỗi người sẽ mở thêm những chiều kích mới cho nó.
Hạnh phúc của con người là nâng cao chất lượng cuộc sống; khi sống vui tươi ta sẽ tạo ra những rung cảm hạnh phúc mới mỗi ngày. Càng nhiều người hạnh phúc thì chúng ta càng trân trọng cuộc đời này hơn. Khi đó người ta không còn hứng thú với tranh đấu, giành giật. Giành giật hạnh phúc đâu phải là hạnh phúc. Hãy nhớ, nếu người khác thấy bất hạnh thì bạn cũng sẽ khó mà hạnh phúc. Hạnh phúc dành cho tất cả mọi người. Ai mở rộng trái tim mình, người đó sẽ có hạnh phúc.
Hạnh phúc không phải là một cái ghế mà người này đã ngồi thì người khác không thể có được. Ánh sáng tin yêu hạnh phúc sẽ chiếu rọi chan hòa cho tất cả mọi người. Đức Phật đã giác ngộ, nghĩa là chúng ta đều có thể giác ngộ. Đức Jesus đã tỉnh thức, nghĩa là chúng ta đều có thể tỉnh thức. Ai đó đã khởi đầu cuộc hành trình này từ trước, dấu chân của họ vẫn còn như một lời mách bảo dành cho chúng ta. Bạn sẽ đi dễ dàng hơn, tin tưởng sâu sắc hơn, ít do dự ngập ngừng hơn. Cả trái đất này sẽ bừng sáng nếu mỗi cá nhân chúng ta đều tham dự vào hạnh phúc viên mãn.
Hàng triệu người giành giật một vị trí chính trị nào đó, chiến tranh tất nhiên sẽ xảy ra. Nhưng hàng triệu người sống an lạc thanh thản thì chẳng có vấn đề gì để tranh đấu, lo âu.
Hạnh phúc tối thượng là từ bỏ mọi sự tham lam, đòi hỏi. Xã hội đã làm mụ mị đầu óc chúng ta, nó dạy chúng ta phải tranh đấu với đời. Thiền định giúp chúng ta cân bằng trở lại. Xã hội thôi thúc chúng ta sống tham vọng. Thiền định xoa dịu cơn khát khao của chúng ta. Khi nào không còn tham vọng, chúng ta sẽ sống đúng như bản chất của mình. Thật đơn giản biết bao!
Đôi khi tôi cảm thấy, không phải như Sartre(9) đã nói: “Địa ngục là kẻ khác”, mà “Địa ngục là chính tôi”. Tôi là địa ngục. Địa ngục! Tôi phải chấp nhận sống trong địa ngục trước khi có thể tìm thấy niềm vui hay sao? Tôi không hiểu.
(9) Jean-Paul Charles Aymard Sartre, thường được gọi ngắn gọn là Jean-Paul Sartre (1905 – 1980): Nhà văn, nhà triết học hiện sinh Pháp được trao giải Nobel Văn học năm 1964. Ông là một trong những nhà triết học hàng đầu của Pháp thế kỷ XX.
Không, không phải bạn đang sống trong địa ngục. Bạn là chính địa ngục. Một cái tôi dương dương tự đắc là địa ngục. Một khi cái tôi bị xóa nhòa thì địa ngục cũng không còn. Cái tôi đã tạo ra những mớ rắc rối hỗn độn quanh ta khiến ta đau đớn. Vai trò của cái tôi giống như một vết thương – nó luôn có thể bị tổn thương. Cái tôi trở thành địa ngục.
Khi chúng ta còn cái tôi thì còn địa ngục, sự biến mất của cái tôi là thiên đường. Không tồn tại, tức là tồn tại trên thiên đường. Còn tồn tại luôn là đang ở địa ngục. “Liệu tôi có phải chấp nhận địa ngục trước khi tôi có thể tìm thấy niềm hạnh phúc?”. Bạn phải hiểu biết địa ngục, bởi vì nếu bạn không hiểu địa ngục, bạn sẽ không bao giờ thoát khỏi nó. Và bạn không thể hiểu được bất cứ điều gì nếu bạn tiếp tục phủ nhận nó. Đó là những gì chúng ta đã và đang làm. Chúng ta tiếp tục chối từ một số mặt tồn tại trong con người mình. Có thể đó là cái phần rất xấu xa trong ta. Chúng ta tiếp tục khăng khăng rằng “Cái này không phải là tôi”. Jean-Paul Sartre nói rằng người khác là địa ngục - điều này có nghĩa là khi bạn phủ nhận điều gì đó của bản thân bạn, bạn đã áp đặt nó thành cái của người khác.
Hãy xem xét cơ chế của việc sắp đặt này. Bạn gắn ghép những điều bạn không thể chấp nhận ở bản thân mình sang cho sự vật, sự việc khác. Bạn không tiêu trừ được nó. Bạn buộc phải sắp xếp nó ở đâu đó. Hơn ai hết, bạn biết rõ nó vẫn tồn tại.
Nếu bạn phủ nhận sự tồn tại của mình, nếu bạn khước từ nó, thì bạn sẽ đặt chúng ở đâu? Bạn sẽ phải sắp đặt nó vào ai đó khác bạn.
Chiến tranh vẫn tiếp diễn, xung đột sẽ tiếp tục, bạo lực sẽ vẫn còn trừ khi loài người học cách không phủ nhận mình mà biết chấp nhận nó. Hãy bình tĩnh chấp nhận cuộc đời buồn vui của mình, bởi lẽ càng che giấu nó càng cố trỗi dậy một cách không ngờ. Bất cứ điều gì bạn phủ nhận, bạn sẽ phải đặt chúng vào đâu đó. Bạn sẽ phải sắp đặt chúng vào ai đó. Phần bị phủ nhận sẽ trở thành sự phóng đại, và cuộc sống sẽ được phản chiếu qua đôi mắt ảo giác của bạn. Rồi những điều bạn tưởng tượng ra đều là không thực tế.
Jean-Paul Sartre nói rằng “người khác là địa ngục”. Nhà triết học hiện sinh này chỉ diễn đạt một lầm lạc chung nhất, một ảo ảnh chung nhất của loài người. Nếu bạn đang đau khổ, bạn nghĩ rằng ai đó đã làm bạn khổ. Nếu bạn đang giận dữ, bạn nghĩ ai đó biến mình trở nên như thế, nghĩa là trong mọi tình huống, chúng ta luôn có xu hướng đổ lỗi cho một người nào đó.
Đau khổ hay tức giận đều xuất phát từ chính bản thân ta. Chẳng ai làm chúng ta trở nên như vậy cả. Chẳng ai có thể làm bạn nổi giận, trừ khi bạn quyết định nổi giận. Trong cơn giận dữ, bạn sẽ lấy người khác làm bình phong để tưởng tượng ra đủ thứ ảo giác. Chẳng ai có thể làm bạn đau khổ trừ khi bạn quyết định chọn cách sống đau khổ. Dần dần, bạn có khuynh hướng nghĩ rằng cả cái thế giới này đã làm cho bạn đau khổ.
Cái tôi là địa ngục, người khác không thể tạo ra địa ngục cho ta. Chính ý niệm “Tôi tách rời với thế giới” là địa ngục. Trạng thái phân tách là địa ngục. Chỉ cần ta mạnh dạn vứt bỏ cái tự ngã, tất cả đau khổ sẽ biến mất, tất cả mâu thuẫn sẽ tiêu tan.
Bạn hỏi rằng: “Tôi có phải chấp nhận đớn đau trước khi tôi có thể tìm thấy niềm hạnh phúc?”. Câu trả lời là “Đúng, chắc chắn là thế”. Bạn sẽ phải chấp nhận và thấu hiểu. Trong sự chấp nhận và thấu hiểu này, địa ngục tăm tối sẽ chuyển hóa ngược trở lại thành sự hòa hợp tuyệt đối nơi thiên đường. Mọi mâu thuẫn và căng thẳng của bạn sẽ được giải quyết. Khi đó, bạn sẽ trở nên thanh thản hơn, dễ hòa hợp hơn, không còn bận tâm quá nhiều đến cái tôi nữa.
Chỉ nghĩ về mình là một căn bệnh. Khi chúng ta bị đẩy văng ra ngoài và sống trong tình trạng chia cắt, bị cuốn theo nhiều chiều nhiều hướng đối lập nhau, khi mà ta phải sống trong sự mâu thuẫn, khi đó cái tôi trỗi dậy.
Bạn đã bao giờ cảm thấy mình không bị đau đầu chưa? Còn đau đầu nghĩa là chúng ta còn cảm thấy sự tồn tại của cái đầu. Nếu sự đau đầu biến mất, cái đầu dường như cũng không hiện hữu; bạn sẽ không bao giờ cảm thấy được nó ở đó. Lúc ốm đau thì ta sẽ cảm nhận về sự có mặt của cơ thể mình; còn khi khỏe mạnh, ta thường không chú ý đến điều này. Sức khỏe hoàn hảo phủ nhận sự hiện hữu của cơ thể, bạn không cảm thấy trạng thái có mặt của cơ thể nữa. Bạn có thể quên mất cơ thể; chẳng có gì níu kéo sự chú ý của bạn với nó. Một người có sức khỏe hoàn hảo là người mù tịt về cơ thể mình bởi anh ta có gì để bận tâm đến nó đâu.
Một đứa trẻ hoàn toàn khỏe mạnh sẽ không cảm nhận được sự hiện hữu của cơ thể nó, cơ thể nó nhẹ tựa lông hồng. Ngược lại, một người già lại cảm nhận rất rõ sự nặng nề của cơ thể mình – bệnh tật, sự yếu ớt và vô số mâu thuẫn khác nảy sinh. Cơ thể người lớn tuổi không còn thực hiện tốt chức năng của nó, giữa các bộ phận không còn hòa hợp và nó không thể vận hành theo ý muốn của chủ nhân. Vì thế, người già có cảm nhận về sự hiện hữu của cơ thể rõ hơn.
Nếu bạn hiểu được hiện tượng đơn giản này, rằng cơn đau đầu làm bạn cảm nhận về cái đầu, bệnh tật làm bạn cảm nhận về cơ thể thì sẽ có điều gì đó bệnh hoạn trong tâm hồn mình đã làm cho bạn cảm nhận về bản thân. Một tâm hồn khỏe mạnh sẽ không có chút vương vấn cái tôi của mình. Đó là vô ngã – là những gì Đức Phật Thích Ca đã dạy chúng ta. Chỉ có cái vô ngã tồn tại trong thế giới tuyệt vời của sự hòa hợp. Khi có một tâm hồn khỏe mạnh và tràn ngập yêu thương, chúng ta không cần phải nhớ đến bản thân nữa.
Nhưng thông thường chúng ta vẫn tiếp tục gieo mầm cho bản ngã của mình sinh sôi nảy nở. Một mặt, ta tiếp tục cố gắng không bị đau khổ nhưng mặt khác, ta lại nuôi trồng cái tôi. Tất cả mọi điều chúng ta hướng tới đều mâu thuẫn.
Chuyện kể rằng:
Có một người kiêu ngạo và nổi tiếng, sau khi chết, linh hồn của ông ta đã tới cổng thiên đường.
Thánh Peter đứng ở cổng cất tiếng: “Chào mừng, xin mời vào”.
Linh hồn cười nhếch mép trả lời: “Tôi không vào đâu! Nếu ngài cứ để mọi người vào mà không đặt chỗ trước thì đây không phải là thiên đường như tôi đã hình dung”.
Một con người ích kỷ và kiêu ngạo vì một lý do nào đó mà tới được cổng thiên đường thì anh ta cũng không bước vào. Theo anh ta, thiên đường chỉ dành cho những ai đã đặt chỗ trước. Còn nếu bất kỳ ai cũng được lên thiên đường thì việc anh ta đến được đấy chẳng có ý nghĩa gì. Anh ta muốn mình thuộc một trong số rất ít những người đến được chốn cực lạc. Nhưng thực tế, anh chàng ích kỷ đó không thể bước vào thiên đường, mà chỉ đáng bị đày xuống địa ngục. Kẻ ích kỷ mang địa ngục của riêng mình theo sát gót chân.
Có lần Mulla Nasruddin bị ngã xuống một hố phân ở một vùng quê và không leo lên được. Do vậy anh ta đứng đó mà hét: “Cháy! Cháy!”. Vài giờ sau những người cứu hỏa tới.
“Ở đây có cháy gì đâu!”, người cứu hỏa quát lên: “Anh thét ‘cháy’ để làm gì?”.
Mulla gặng hỏi lại: “Thế ông muốn tôi hét cái gì? Hét là ‘Cứt! Cứt!’ à?”.
Ngay cả khi phải xuống địa ngục, bản ngã kiêu kỳ vẫn không bao giờ chịu thừa nhận điều đó mà nó sẽ tiếp tục tự tô điểm cho mình.
Bạn hỏi rằng “Tôi có phải chấp nhận địa ngục trước khi tìm thấy thiên đường không?”.
Đúng thế. Bạn không những phải chấp nhận mà còn phải hiểu thấu đáo. Bạn phải chịu sự dằn vặt và nỗi đau của bản ngã để có thể nhận thức rõ ràng cái tôi của mình. Khi nắm rõ con đường tạo ra cái tôi, bạn sẽ tự do lựa chọn cho nó tiếp tục có mặt hay không. Khi đó, quyền quyết định hoàn toàn do bạn. Bạn nói: “Tôi không biết phải làm thế nào”. Vâng, thật khó chấp nhận sống trong địa ngục. Mọi cố gắng của chúng ta đều nhằm chối bỏ nó. Đó là lý do vì sao bạn có thể đang khóc trong lòng nhưng lại có nụ cười bên ngoài. Có thể bạn đang rất buồn nhưng lại cố tỏ ra mình vẫn vui. Thật khó chấp nhận rằng bạn đang buồn khổ. Nhưng nếu bạn tiếp tục phủ nhận điều đó thì dần dần sự nhận thức của bạn sẽ bị đứt đoạn.
Sự đứt đoạn trong nhận thức xảy ra khi chúng ta phát ngôn thiếu tỉnh táo. Bạn đã phủ nhận ý thức của mình quá lâu, vai trò của ý thức bị xóa nhòa; sự mờ mịt đó của nhận thức sẽ biến thành một thứ nền tảng trong tinh thần của bạn. Cuối cùng, bạn không thể thức tỉnh. Sự tăm tối ngày càng lớn sẽ đầu độc cuộc sống của bạn.
Nếu bạn đang buồn mà có thể cười được thì nụ cười ấy rất đau đớn. Nụ cười trở thành bài tập thể dục của đôi môi mà không hề liên quan đến sự tồn tại của bạn. Bạn có thể cười, bạn có thể thuyết phục một phụ nữ yêu mình bằng nụ cười của bạn. Nhưng nên nhớ rằng – cô ấy cũng làm như thế. Cô ấy cũng cười và đau khổ. Cô ấy cũng đang tự lừa phỉnh mình. Vậy là hai nụ cười giả vờ đã tạo nên một tình huống được gọi là “tình yêu”. Nhưng bạn sẽ tiếp tục cười được bao lâu? Bạn sẽ phải cần nghỉ ngơi. Sau vài giờ bạn cần phải nghỉ ngơi.
Nếu bạn có cái nhìn sắc sảo, bạn có thể cảm nhận rõ điều tôi nói; chẳng hạn khi ở bên một người trong ba giờ đồng hồ, tất nhiên chúng ta có thể nhìn thấu sự giả tạo ở anh ta. Bởi vì để giả tạo trong vòng ba giờ liền thì rất là khó. Làm sao có thể cười mãi ba giờ liền nếu trong lòng không có nụ cười? Người ta sẽ quên vai diễn của mình và bộ mặt đau khổ sẽ lộ ra.
Đôi lúc bạn có thể đánh lừa người khác. Chúng ta lừa phỉnh người khác và lừa phỉnh chính mình; chúng ta hy vọng chúng ta là những kẻ rất hạnh phúc và tỏ ra mình là những kẻ rất hạnh phúc, nhưng chúng ta đâu phải vậy. Phía đối tác cũng như vậy thôi. Khi đó, mối tình nào cũng trở thành đau khổ.
Nếu trốn tránh nỗi buồn thì sẽ không thể thoát khỏi nó – bạn sẽ buồn hơn nữa. Việc đầu tiên là đương đầu với nó.
Nếu trốn tránh nỗi buồn thì sẽ không thể thoát khỏi nó – bạn sẽ buồn hơn nữa. Việc đầu tiên là đương đầu với nó. Bạn phải đối diện với bản thân mình và đừng bao giờ đóng giả là ai đó khác. Đó không phải là cách để chào đón hạnh phúc thành thật từ cõi lòng.
Hãy là chính mình. Chẳng có gì sai khi bạn buồn nếu lòng bạn đang buồn. Tất nhiên như thế thì chẳng ai bị bạn quyến rũ cả - nhưng bạn sẽ bớt được nhiều điều phiền toái. Bạn sẽ vẫn chỉ có một mình, nhưng chẳng có gì sai cả khi bạn chỉ có một mình. Chúng ta hãy đối mặt với nỗi buồn, đi sâu vào nó, tìm hiểu đến tận cùng của nó, lôi nó ra, nhổ nó ra khỏi khối vô thức và đặt trước ý thức của mình. Làm được điều này là khó đấy, nhưng thành quả sẽ là món quà lớn lao. Chúng ta nhận thức được điều đó thì sẽ dễ dàng vứt bỏ nó. Đôi khi có những cảm xúc, nghĩ suy mà chúng ta không thể nhận thấy bởi nó ở sâu trong tiềm thức, trong bóng tối. Nếu ta mang nó ra ánh sáng, hẳn nó sẽ yếu đi nhiều.
Đem toàn bộ tinh thần mình soi trước ánh sáng, bạn sẽ thấy – tất cả nỗi buồn sẽ bắt đầu héo úa và tất cả vẻ đẹp cùng niềm hạnh phúc bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Dưới ánh sáng của ý thức, cái nào còn lại là tốt, cái nào không còn là không tốt. Tội lỗi là điều không thể phát triển bằng sự nhận thức, mà nó cần sự vô thức để phát triển. Nó không thể tồn tại nếu thiếu sự vô thức. Đức hạnh là thứ có thể phát triển hoàn toàn bằng ý thức không chút khó khăn.
Cuộc sống trở nên đau khổ cùng cực khi ta phải cắt đứt mối quan hệ với ai đó. Ấy là những lúc tôi thường tự cười chính mình và cảm thấy thanh thản trở lại. Sau đó, tôi lại nhận ra rằng việc duy nhất tôi cần phải làm là đừng yêu chính bản thân mình nữa. Liệu đó có phải là cội nguồn của mọi đau khổ mà con người phải chịu đựng hay chỉ là trải nghiệm của cá nhân tôi?
Đó không chỉ là hành trình của riêng mỗi người mà đó là cảm nhận của hầu hết chúng ta nhưng không phải với ý nghĩa mà ta thường hiểu. Không phải vì chúng ta ngừng yêu chính mình và cảm thấy buồn bực, mà vì ta đã tạo ra một cái tôi không có thật. Vì thế thỉnh thoảng cái tôi ảo này bị khổ khi yêu người khác, bởi vì tình yêu không thể hiện hữu khi nó được dựng nên từ ảo tưởng. Nó cũng không phải chỉ có một mặt: hai cái ảo cố yêu nhau chẳng sớm thì muộn đều sẽ thất bại. Và lúc này, bạn tìm về với chính mình vì không còn nơi nào để đi. Vì thế bạn nghĩ rằng “Tôi đã quên yêu bản thân mình”.
Nói cách khác, đó là một cách khuây khỏa, ít nhất thì thay vì có đến hai ảo ảnh, giờ đây bạn chỉ còn một mà thôi. Nhưng bạn sẽ làm sao để yêu chính mình? Và bạn sẽ giữ được tình yêu đó trong bao lâu? Nó là ảo tưởng, nó sẽ không cho bạn nhìn thấy nó trong một thời gian dài bởi vì như thế rất nguy hiểm: Nếu bạn nhìn nó quá lâu, thì cái gọi là cái tôi này sẽ biến mất. Như vậy, sẽ có một kiểu tự do thật sự đến từ chính những phiền não. Tình yêu vẫn còn nhưng nó không được trao cho một người khác cũng như không được trao cho bản thân bạn. Tình yêu sẽ không được gửi đi bởi không có đối tượng để trao gửi. Và khi tình yêu ở đó, không trao gửi, dường như sẽ mang lại một niềm vui vô bờ.
Nhưng cái bản ngã ảo này không cho phép bạn dành nhiều thời gian cho nó. Bạn sẽ mau chóng yêu một ai đó trở lại, bởi vì bản ngã ảo này cần phải tìm sự đồng thuận của những cái ảo khác. Vì thế con người mới yêu rồi không yêu, rồi lại yêu và không yêu. Hiện tượng lạ lùng đó tái diễn trong đời họ hàng chục lần nhưng hiếm có ai nhận ra bản chất của vấn đề. Họ khốn khổ khi họ yêu ai đó; họ khốn khổ khi họ ở một mình không tình yêu dù chỉ một phút.
Ở Ấn Độ, khi một người qua đời, người ta đặt thi hài trên một cái cáng, nâng tất cả lên vai và khiêng đến giàn thiêu. Nhưng trên đường đi, họ thường đổi vị trí cái cáng từ vai trái sang vai phải và sau vài phút họ lại chuyển sang vai trái. Họ cảm thấy thoải mái hơn khi chuyển đổi như vậy. Thật ra, sức nặng của cái cáng vẫn như thế nhưng việc đổi vai giúp bạn thư giãn. Lúc đầu, vai trái cảm thấy nhẹ nhàng hơn, nhưng đó chỉ là cảm giác nhất thời, bởi vì vai phải sẽ mau chóng đau và bạn lại chuyển vai một lần nữa.
Xét ở một khía cạnh nào đó, cuộc sống của bạn cũng tương tự câu chuyện trên. Bạn cố tình chuyển đổi một phần của chính mình sang cho người khác và nghĩ rằng có lẽ người đó sẽ mang đến cho bạn thiên đường mà bạn đã luôn tìm kiếm. Nhưng người ta lại mang đến địa ngục – địa ngục chứ không phải là thất bại! Không ai đáng trách vì việc đó, bởi vì họ đang làm đúng như những gì bạn đang làm. Họ đang mang một bản ngã ảo ra khỏi nơi không có cái gì có thể phát triển được. Nó không thể nở hoa. Nó là trống rỗng - bên ngoài thì được trang hoàng, nhưng bên trong thì trống rỗng.
Vì thế, khi bạn nhìn thấy ai đó từ xa, người đó đang tìm sự giúp đỡ và thông cảm. Song, khi đến gần, bạn nhận ra rằng cảm giác lúc nãy của bạn dường như không đúng. Và khi bạn gặp họ, thì đó không còn là một cuộc gặp gỡ mà là sự xung đột. Đột nhiên bạn cảm thấy người đối diện trống rỗng, và bạn cảm thấy mình bị lừa bởi vì người đó chẳng có gì như bạn đã mong đợi. Và người đối diện với bạn cũng có cảm giác tương tự. Mọi ảo tưởng không còn và bạn trở thành gánh nặng, nỗi buồn, sự khốn khổ đối với người khác, thậm chí trở thành sự hủy hoại đối với người khác. Bạn cô độc. Trong một lúc bạn cảm thấy thoải mái, nhưng cái tôi ảo trong bạn không để cho bạn như thế được lâu, chẳng bao lâu bạn sẽ đi tìm một người khác và bạn lại mắc vào cái bẫy y như thế. Chỉ có những gương mặt là khác, còn sự thật bên trong là như nhau – tất cả đều trống rỗng.
Nếu bạn thật sự muốn từ bỏ phiền não và việc chịu đựng nó thì bạn phải tâm niệm rằng bạn không có cái tôi. Như thế, bạn không chỉ đạt được một sự thư thái cỏn con mà là một niềm an lạc vô bờ bến. Và nếu bạn không có cái tôi, thì những nhu cầu tìm kiếm một người khác cũng không còn. Cái tôi ảo đã từng cần phải được ấp ủ bởi một ai đó. Còn bạn không cần một ai khác nữa.
Khi bạn không cần đến người khác, bạn có thể yêu, và tình yêu đó không đem đến sự đau khổ. Vượt qua được sự đòi hỏi, những yêu cầu, những ham muốn, tình yêu trở thành sự chia sẻ dịu dàng, sự cảm thông sâu sắc.
Hãy chú ý lắng nghe: Khi bạn không cần đến người khác, bạn có thể yêu, và tình yêu đó không đem đến sự đau khổ. Vượt qua được sự đòi hỏi, những yêu cầu, những ham muốn, tình yêu trở thành sự chia sẻ dịu dàng, sự cảm thông sâu sắc. Khi bạn hiểu được chính mình, đó cũng là lúc bạn hiểu được toàn nhân loại. Và như thế không ai có thể làm bạn đau khổ. Bạn biết rằng họ đang phải bị chi phối bởi cái tôi ảo, và họ đang trút sự bực bội của mình lên bất cứ ai đang ở gần.
Tình yêu của chúng ta có thể giúp những người mà chúng ta yêu từ bỏ cái tôi của họ.
Tôi biết một món quà mà tình yêu có thể tặng bạn: đó là thông điệp cái tôi chỉ là tưởng tượng. Nếu chúng ta ngồi đây, và nếu mỗi người là một bản ngã thì sẽ có quá nhiều người; có thể đếm được. Nhưng khi tất cả đều im lặng tuyệt đối, thì bạn không thể đếm được có bao nhiêu người. Chỉ có một dòng ý thức, một sự im lặng, một cái không, một sự phi ngã. Và chỉ có trong tình trạng đó hai người mới có thể sống trong niềm an lạc vô tận. Chỉ có trong tình trạng đó mọi người mới sống trong vẻ đẹp hoàn hảo; và toàn thể loài người mới có thể sống trong phúc lành.
Nếu thử nhìn cái tôi, bạn sẽ không tìm thấy nó. Và việc không tìm thấy nó đó mới là điều quan trọng nhất. Tôi đã nhiều lần kể về câu chuyện Bồ Đề Đạt Ma gặp vua Trung Hoa Lương Vũ Đế, một cuộc gặp kỳ lạ và mang nhiều lợi lạc. Lương Vũ Đế lúc ấy là một hoàng đế hùng mạnh. Ông tin theo lời dạy của Đức Phật nhưng theo kiểu những học giả nghiên cứu lời Phật dạy. Những lời Phật dạy không hề thần bí. Một dạo, có tin là Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, cả nước tràn ngập không khí chờ đợi. Lương Vũ Đế chịu ảnh hưởng lớn từ những lời Phật dạy, và như thế toàn thể nước Trung Hoa khi ấy cũng chịu ảnh hưởng từ những lời dạy này. Giờ đây, một huyền thoại bằng xương bằng thịt, một vị Phật đang đến. Niềm hân hoan lan tràn khắp nơi.
Trước đó, Lương Vũ Đế chưa bao giờ đến biên giới Ấn Độ - Trung Hoa để đón một ai cả. Vậy mà lần này, ông chào đón Bồ Đề Đạt Ma với niềm tôn kính vô biên và hỏi: “Ta đã từng hỏi tất cả những vị tăng và những học giả đến đây nhưng không ai có thể giúp được ta cả. Ta đã thử tất cả các phương pháp. Làm thế nào để từ bỏ bản ngã của mình? Đức Phật nói rằng nếu không từ bỏ cái tôi thì phiền não không bao giờ đoạn diệt”.
Vua đã rất thành thật. Bồ Đề Đạt Ma nhìn sâu vào mắt vua và nói: “Ta sẽ ở trong ngôi đền bên cạnh dòng sông gần chân núi. Hôm sau, lúc bốn giờ sáng, ngài hãy đến đó và ta sẽ giúp ngài diệt cái tôi đó vĩnh viễn. Nhưng phải nhớ rằng, ngài không được mang theo tùy tùng, không được mang theo cận vệ, ngài phải đến một mình”.
Lương Vũ Đế hơi lo ngại trước yêu cầu kỳ lạ này! Đức vua tự hỏi: “Làm thế nào ông ta có thể đoạn diệt cái tôi của mình nhanh chóng như thế? Các bậc tiền bối đã nói rằng chỉ có sống và sống trong thiền định thì cái tôi mới bị đoạn diệt. Con người này thật bí ẩn. Ông ta lại muốn gặp ta trong bóng tối, bốn giờ sáng, một mình ta, không gươm đao, không cận vệ, không tùy tùng? Con người này thật kỳ lạ - ông ta có thể làm mọi chuyện. Ông ta có ý gì khi bảo rằng sẽ đoạn diệt bản ngã của ta mãi mãi? Ông ta có thể giết ta, nhưng làm thế nào để diệt cái tôi của ta?”.
Cả đêm Lương Vũ Đế không thể nào ngủ được. Ông băn khoăn đắn đo không biết nên đi hay không đi. Nhưng có cái gì đó trong đôi mắt, trong giọng nói của Bồ Đề Đạt Ma vẫn còn vang vọng trong tâm thức của nhà vua: “Hãy đến lúc bốn giờ đúng. Ta sẽ đoạn diệt cái tôi cho ngài mãi mãi. Ngài đừng quá lo lắng”. Lời của Bồ Đề Đạt Ma nghe chừng khó hiểu nhưng giọng nói của Ngài lại toát lên thần thái phi thường. Cuối cùng, Lương Vũ Đế quyết định đi đến chỗ hẹn. Nhà vua chấp nhận mạo hiểm. Ngài thầm nghĩ: “Cùng lắm ông ta cũng chỉ lấy được cái mạng sống của ta mà thôi. Ta đã thử tất cả mọi cách mà vẫn không từ bỏ được cái tôi. Khi chưa diệt được cái tôi thì phiền não vẫn còn mãi”.
Trời còn tối, nhà vua gõ cửa đền, Bồ Đề Đạt Ma nói: “Ta biết ngài sẽ tới, ta cũng biết cả đêm hôm qua ngài đã trằn trọc. Nhưng không sao cả, quan trọng là ngài đã tới. Bây giờ, hãy ngồi xuống trong tư thế hoa sen, nhắm mắt lại, ta đang ngồi trước mặt ngài. Khi ngài nhìn thấy cái tôi bên trong của mình, hãy giữ chặt nó và giết nó. Phải giữ nó thật chặt và báo cho ta hay ngài đã bắt được nó, ta sẽ giết nó và nó sẽ bị đoạn diệt. Chỉ cần tốn vài phút thôi”.
Lương Vũ Đế hơi sợ. Bồ Đề Đạt Ma trông như một người điên. Ngài cũng đã từng được mô tả như một người điên, mặc dù Ngài không như vậy. Những bức tranh chỉ là biểu tượng. Đó là ấn tượng Ngài đã để lại trong mọi người. Đó không phải là gương mặt thật, nhưng là gương mặt mà mọi người nhớ đến. Ngài đang ngồi trước Lương Vũ Đế với cái gậy to và nói với vua: “Đừng đợi dù chỉ một giây. Hãy tìm nó ở mọi ngóc ngách, và khi nào ngài bắt giữ được nó, hãy mở mắt ra và nói với ta ngài đã bắt được nó, ta sẽ kết liễu nó”.
Sau đó là im lặng. Một giờ trôi qua, hai giờ trôi qua. Sau đó mặt trời lên, và Lương Vũ Đế đã trở thành một người khác. Trong hai giờ đó, ông đã quán tâm mình một cách triệt để. Rất có thể người đang ngồi kia sẽ lấy gậy đánh vào đầu ông. Bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Bồ Đề Đạt Ma không phải là người của những quy phạm, nghi thức, Ngài không nằm dưới quyền cai trị của Lương Vũ Đế. Vì thế Lương Vũ Đế phải chú tâm tuyệt đối nhằm tìm kiếm cái tôi. Và trong khi tìm kiếm, ông cảm thấy vô cùng thư thái! Không có gì tồn tại cả. Tất cả mọi ý niệm đã biến mất. Tất cả nguồn năng lượng của cơ thể được vận dụng tối đa cho cuộc truy tìm cái tôi; do đó, không còn gì để tiêu phí cho những tham vọng, ước muốn.
Khi mặt trời lên, Bồ Đề Đạt Ma quan sát gương mặt của Lương Vũ Đế. Người đang ngồi trước mặt Ngài giờ đây không phải là bậc đế vương uy quyền tột bậc của đất nước Trung Hoa. Trên gương mặt Lương Vũ Đế lúc này chỉ còn lại sự tĩnh tịch, thâm trầm. Lương Vũ Đế của hôm qua đã hoàn toàn biến mất.
Bồ Đề Đạt Ma lay ông và bảo: “Hãy mở mắt ra, không có gì ở đây cả. Ta không giết nó. Ta không phải là người hung bạo, ta không giết cái gì cả. Bản ngã của ngài vốn không tồn tại. Bởi vì ngài chưa bao giờ tìm kiếm nó nên nó vẫn tồn tại. Nó chỉ tồn tại khi ngài không kiếm nó, nó chỉ tồn tại trong sự vô minh của ngài. Còn bây giờ, nó đã đi rồi”.
Hai giờ trôi qua và Lương Vũ Đế đã hoàn toàn an lạc. Ông chưa bao giờ được thưởng thức vị ngọt, sự tươi mát, mới mẻ và cái đẹp vô ngần này. Bồ Đề Đạt Ma đã hoàn thành lời hứa. Lương Vũ Đế quỳ xuống, hôn chân Người và nói: “Xin hãy tha thứ cho con đã nghĩ rằng Người không biết phép tắc, Người là kẻ kỳ lạ và nguy hiểm. Con chưa bao giờ được gặp một người thầy giống như Người... Con đã làm được rồi. Bản ngã của con đã bị đoạn diệt”.
Sau khi Lương Vũ Đế băng hà, trên lăng mộ ông, Bồ Đề Đạt Ma được nhắc đến trong những nét chạm khắc bằng vàng cho hậu thế biết: “Có một người trông như lão điên khùng nhưng có thể làm nên điều kỳ diệu. Ngài đã giúp ta đoạn ngã mà không phải làm gì cả. Vạn vật quanh ta không thay đổi nhưng trong ta mọi thứ đều đổi thay. Và cuộc sống đã trở thành một bài ca trong trẻo của niềm tĩnh tịch”.
Vì sao tôi cảm thấy rất đau lòng khi phải rời xa những thứ đã gây đau khổ cho tôi?
Những thứ gây đau khổ cho bạn cũng đồng thời đem đến cho bạn niềm hạnh phúc; nếu không phải thế thì câu hỏi trên sẽ không được đặt ra. Nếu chúng chỉ toàn gây đau khổ thì bạn nên từ bỏ chúng. Nhưng trong cuộc sống, không có gì là một chiều cả, mọi thứ đều pha lẫn nhiều mặt đối lập. Mọi thứ đều chứa đựng bên trong những sự đối lập.
Nhìn thấu vào bên trong cái bạn gọi là phiền não, bạn sẽ thấy chúng cho bạn một vài thứ mà bạn muốn có. Nó có thể chưa là sự thật, có thể chỉ là hy vọng, chỉ là một lời hứa cho ngày mai, nhưng bạn sẽ bám lấy nó để đau khổ với hy vọng ngày mai những cái mà bạn luôn ước mơ và muốn sở hữu sẽ đến với bạn. Khi ta chấp nhận phiền não, ta cũng hy vọng tìm thấy niềm vui. Nếu nó chỉ là sự phiền não thuần túy thì bạn không thể bám vào nó được.
Hãy quan sát các trạng thái phiền não: Nó có chút hứng thú và có cả chút hy vọng gọi mời khiến bạn không sẵn sàng từ bỏ.
Hãy quan sát, và phải cảnh giác hơn với phiền não của bạn. Chẳng hạn, bạn đang cảm thấy ghen tỵ. Nó gây nên phiền não. Nhưng hãy nhìn xung quanh - chắc hẳn phải có gì đó xác thực trong nó. Nó cũng sẽ mang đến cho bạn cảm giác về cái tôi ưu việt nào đó. Lòng ghen tỵ của bạn ít nhất làm cho bạn nghĩ rằng mình đang yêu. Nếu bạn không cảm thấy ghen bạn sẽ nghĩ rằng mình chẳng yêu cái gì cả, và bạn bị vướng vào ghen tuông bởi bạn muốn gắn mình vào tình yêu - ít ra đó cũng là ý niệm của bạn về tình yêu. Nếu người yêu của bạn đi với ai đó, và bạn không cảm thấy ghen, bạn sẽ lập tức tự cho rằng mình không còn yêu nữa. Nói cách khác, hàng thế kỷ qua người ta đều nói rằng người đang yêu hay ghen. Ghen tuông đã trở thành một phần của tình yêu; nếu không ghen tình yêu của bạn sẽ chết; bạn cho rằng ghen tuông là nguồn dinh dưỡng duy trì một tình yêu nồng đượm.
Bạn sẽ rất thông minh và khéo léo tìm ra sự giải thích hợp lý. Bạn sẽ bảo rằng, “Ghen tuông là cảm giác tự nhiên. Nó xuất hiện một cách tự nhiên bởi vì mọi người đều như vậy cả”. Ý thức của bạn sẽ bảo rằng, “Cảm giác đau khổ khi tình yêu rời xa là chuyện hoàn toàn tự nhiên, bởi vì bạn đã yêu nhiều quá! Làm thế nào để tránh đau khổ, tránh tổn thương khi người yêu rời bỏ bạn?”. Thật ra, bạn cũng đang tự gặm nhấm vết thương lòng một cách vô thức. Vết thương mang đến cho bạn ý niệm rằng bạn là một người tình tuyệt vời, rằng bạn đã yêu rất nhiều và rất sâu đậm. Tình yêu của bạn thật sâu sắc và bạn bị suy sụp vì người yêu đã ra đi. Nếu bạn không bị sốc bạn cũng sẽ giả vờ như thế, bạn sẽ tin vào sự huyễn hoặc của chính mình. Bạn sẽ xử sự như thể bạn đang rất đau khổ, bạn sẽ khóc. Những giọt nước mắt của bạn không phải hoàn toàn vì nỗi đau thật sự, mà chỉ để tự an ủi rằng bạn là một người tình tuyệt vời, và bạn phải khóc thật nhiều.
Hãy quan sát các trạng thái phiền não: Nó có chút hứng thú và có cả chút hy vọng gọi mời khiến bạn không sẵn sàng từ bỏ. Nó có vẻ rất gần gũi, chỉ cần đưa tay ra là bạn có thể chạm tới nó. Bạn đã phải vượt qua cuộc hành trình dài đầy gian khổ, và bây giờ thì đích đến đang ở ngay trước mặt bạn. Tại sao lại phải bỏ lỡ cơ hội này? Bạn sẽ tìm thấy lời giải thích hợp lý và một vài thói đạo đức giả trong nó.
Cách đây vài ngày một người phụ nữ viết thư cho tôi kể rằng người yêu cô đã bỏ rơi cô và hiện cô lại không hề đau khổ, cô muốn biết chuyện gì đang xảy ra với cô: “Tại sao tôi lại không cảm thấy đau khổ? Có phải tôi trơ lỳ quá không? Có phải tôi giống đá cuội không? Tôi chẳng thấy buồn khổ gì cả”, cô ấy viết. Cô ấy đang đau khổ bởi vì cô ấy không cảm thấy đau khổ! Cô mong rằng mình sẽ bị sốc. “Ngược lại”, cô viết, “tôi có thể khẳng định rằng tôi cảm thấy hạnh phúc - và điều đó làm tôi buồn. Kiểu tình yêu gì kỳ lạ vậy? Tôi đang hạnh phúc, lòng thanh thản; tôi đã trút được một gánh nặng ra khỏi cuộc đời mình”. Cô ấy hỏi tôi: “Như vậy có bình thường không? Tôi vẫn ổn hay có điều gì đó không ổn với tôi?”.
Không có vấn đề gì với cô ấy cả. Cô ấy hoàn toàn ổn. Sự thật là sau một thời gian dài để cho mảnh đất tình yêu của mình bị nhấn chìm giữa bao phiền muộn triền miên, hai người yêu nhau sẽ cảm thấy rất nhẹ nhõm khi chia tay. Nhưng bạn không được phép thú nhận rằng đó là một sự thanh thản. Ít nhất trong một vài ngày bạn sẽ ra ngoài với gương mặt chảy dài, với nước mắt chảy quanh khóe; thật là giả tạo nhưng đó đã trở thành ý niệm phổ biến trên thế giới.
Nếu ai đó chết mà bạn không cảm thấy buồn thì bạn sẽ bắt đầu cái cảm giác rằng có điều gì đó không đúng. Làm sao bạn có thể tránh được nỗi buồn khi ai đó ra đi vĩnh viễn? Bởi vì chúng ta được dạy rằng điều đó là hiển nhiên, là bình thường và ai cũng muốn là người bình thường cả. Thực ra, đó không phải là điều bình thường, mà chỉ là chuẩn mực của xã hội. Đó không phải là điều hiển nhiên, mà chỉ là một tập tục lâu đời và chẳng có gì đáng phải khóc than ở đây cả. Cái chết chẳng hủy hoại cái gì cả. Thân xác này chỉ là cát bụi và trở về lại cát bụi, và thần thức có hai lựa chọn: Nếu nó vẫn còn ham muốn thì nó sẽ đầu thai vào thân xác mới, hoặc giả tất cả các ham muốn đều biến mất thì nó sẽ vẫn tồn tại và tiến vào cõi bất diệt. Không có gì bị hủy hoại cả. Thân xác lại trở thành một phần của trái đất này, đi vào trạng thái nghỉ ngơi còn linh hồn hoặc di chuyển vào tâm thức vũ trụ hoặc đi vào một thân xác khác.
Nếu bạn yêu thương thực sự, thì sẽ không còn phải thắc mắc gì nữa. Một ngày kia, nếu người yêu bỏ đi, thì đơn giản rằng con đường hai người từng chung bước nay rẽ theo hai ngả. Chúng ta có thể nói tạm biệt, chúng ta có thể biết ơn nhau vì những khoảnh khắc đã có bên nhau.
Nhưng bạn khóc than và mang theo nỗi buồn đó trong nhiều ngày. Đó chỉ là hình thức hoặc nếu nó không phải là hình thức thì thực sự bạn cảm thấy ân hận vì đã chưa từng yêu thương người đã khuất. Bạn chưa hề yêu thương người đã khuất và bây giờ thì không còn thời gian nữa. Người đó đã không còn và mọi thứ trở thành vô nghĩa. Có thể bạn vừa mới tranh cãi với chồng bạn và anh ấy đã chết trong đêm đó khi đang ngủ. Và bây giờ bạn sẽ nói rằng mình khóc vì cái chết của anh ấy, nhưng thực ra bạn đang khóc vì bạn chẳng còn cơ hội để xin anh ấy tha thứ. Bạn cũng không thể nói lời vĩnh biệt. Và cuộc đấu tranh nội tâm đó sẽ như đám mây lơ lửng trong suốt phần đời còn lại của bạn.
Nếu bạn sống toàn tâm toàn ý trong từng khoảnh khắc thì sẽ không có bất kỳ sự hối hận nào, không có bất kỳ tội lỗi nào. Nếu bạn yêu thương thực sự, thì sẽ không còn phải thắc mắc gì nữa. Một ngày kia, nếu người yêu bỏ đi, thì đơn giản rằng con đường hai người từng chung bước nay rẽ theo hai ngả. Chúng ta có thể nói lời tạm biệt với lòng biết ơn sâu sắc vì những khoảnh khắc đã có bên nhau. Chúng ta đã chia sẻ thật nhiều, đã yêu thật nhiều và chúng ta làm phong phú cuộc sống của nhau – vậy thì tại sao phải khóc than vì điều đó, và tại sao phải đau khổ?
Nhưng mọi người thường tự cột mình vào những suy nghĩ duy lý của họ mà bỏ quên những điều này. Họ vướng mắc vào mọi thứ. Thậm chí những điều đơn giản hiển nhiên cũng trở thành phức tạp, rắc rối.
Bạn hỏi tôi: “Tại sao tôi cảm thấy đau lòng khi rời xa những thứ đã gây đau khổ cho tôi?”. Bạn chưa chịu thừa nhận rằng chúng là cội nguồn nỗi đau trong bạn. Tôi đang nói rằng chúng làm bạn đau khổ, nhưng bạn chưa chịu tin. Và đó không phải là câu hỏi của tôi, điều quan trọng bạn phải hiểu là “Không có gì có thể làm mình đau khổ”. Và bạn phải thấy rằng không ai gây ra đau khổ cho bạn. Nếu bạn muốn có những chướng duyên này, bạn phải học cách sống với sự phiền não. Nếu bạn muốn buông bỏ phiền não, bạn sẽ phải buông bỏ những chướng duyên này.
Bạn đã thấy điều đó chưa? Nếu bạn kể về những phiền não của mình với mọi người, họ sẽ thông cảm với bạn. Mọi người đều thông cảm với những người đang đau khổ. Bây giờ, nếu bạn thích đón nhận sự thông cảm từ mọi người, bạn không thể buông bỏ sự phiền não của bạn, và đó là chướng duyên.
Khi một người chồng đau khổ về nhà thì người vợ yêu thương, thông cảm. Anh chồng càng đau khổ bao nhiêu thì những đứa con càng e dè bấy nhiêu, còn những người bạn thì càng thân thiện với anh ta hơn. Tất cả mọi người đều quan tâm đến anh ta. Khi anh ta cảm thấy hạnh phúc thì sự thông cảm của mọi người cũng chấm dứt, vì dĩ nhiên một người hạnh phúc thì không cần sự cảm thông. Anh ta càng hạnh phúc bao nhiêu thì càng cảm thấy rằng chẳng ai quan tâm đến mình, cứ như thể mọi người bỗng nhiên trở nên lạnh lùng. Bây giờ, làm thế nào để bạn thoát khỏi phiền não đây?
Bạn sẽ phải buông bỏ ham muốn được quan tâm, được nhận sự thông cảm từ mọi người. Thực ra, chẳng đáng để mong cầu sự thông cảm của mọi người, nó khiến bạn giống như kẻ ăn mày. Và phải nhớ rằng sự thông cảm không phải là tình yêu. Khi người khác ban ơn cho bạn thì đó chỉ là nghĩa vụ họ cần thực hiện, đó không phải là tình yêu. Có thể họ không thích bạn nhưng họ vẫn sẵn sàng thông cảm với bạn. Đó chỉ là một phép xã giao, văn hóa, thông tục, nghi thức và bạn đang phải sống với những điều giả tạo. Phiền não của bạn là thực còn điều bạn nhận được trong sự trao đổi này là không thực. Dĩ nhiên, nếu bạn hạnh phúc, nếu bạn buông bỏ được phiền não thì đó là sự thay đổi cốt lõi trong cách sống của bạn. Điều ấy sẽ đưa đến một sự chuyển hóa thật sự trong tâm hồn chúng ta.
Một lần, có một người phụ nữ là vợ của một trong những người giàu nhất Ấn Độ đến gặp tôi. Bà nói: “Tôi muốn thiền định, nhưng chồng tôi không cho phép”.
Tôi hỏi rằng “Tại sao chồng bà phản đối thiền định?”.
Bà trả lời: “Chồng tôi nói: ‘Tôi yêu con người vốn có của em. Tôi không biết điều gì sẽ thay đổi sau khi em thực tập thiền định. Nếu em bắt đầu tập thiền thì em cũng bắt đầu thay đổi, và tôi không biết liệu tôi có thể yêu em nữa hay không, bởi vì em đã biến thành một người khác’”.
Tôi bảo bà ấy: “Chồng bà có quan điểm rằng mọi thứ chắc chắn sẽ khác đi khi bà thiền định. Bà sẽ tự do hơn, tự chủ hơn. Bà sẽ an lạc hơn và chồng bà sẽ phải học cách sống với một người phụ nữ mới. Có thể ông ấy không thích như thế, ông ấy sẽ có thể cảm thấy thua kém. Hiện nay ông ấy cảm thấy cao hơn bà.
Chồng bà nói đúng. Trước khi thiền định, bà phải xem xét cẩn thận vì sẽ có nhiều thử thách phía trước.”
Bà ấy không nghe tôi và bắt đầu thiền định. Và bây giờ bà ấy đã ly dị chồng. Bà ấy đến gặp tôi sau một vài năm và nói: “Ông đã đúng. Tôi càng an định bao nhiêu thì chồng tôi càng giận dữ với tôi bấy nhiêu. Trước đây, ông ấy chưa bao giờ hung dữ như vậy, một sự bất thường đã xảy ra”. Bản tính muốn chế ngự của đàn ông trong ông ấy bị đe dọa. Ông ta muốn phá hủy sự bình yên và tĩnh lặng đang đến với vợ mình để duy trì sự độc tôn của mình. Và bởi vì mọi việc không diễn ra như ông ấy muốn nên ông ấy đã ly dị vợ.
Nếu bạn có được cuộc sống an nhiên tĩnh tại thì mối quan hệ của bạn với mọi người sẽ thay đổi vì bạn đã trở thành con người khác. Và nếu những mối quan hệ này bện chặt với những phiền não của bạn thì các mối quan hệ đó sẽ biến mất.
Thật là một thế giới kỳ lạ! Nếu bạn có được cuộc sống an nhiên tĩnh tại thì mối quan hệ của bạn với mọi người sẽ thay đổi vì bạn đã trở thành con người khác. Và nếu những mối quan hệ này bện chặt với những phiền não của bạn thì các mối quan hệ đó sẽ biến mất.
Tôi có một người bạn là giáo sư ở trường đại học tôi đang giảng dạy. Ông ấy là một nhà hoạt động xã hội nhiệt tình. Ở Ấn Độ, bất kỳ việc gì liên quan đến những góa phụ đều có thể trở thành tâm điểm chú ý của dư luận. Không ai muốn cưới họ, và những góa phụ không phải là sự chọn lựa cho hôn nhân. Đó là một điều cấm kỵ. Vị giáo sư này lại quyết định cưới một góa phụ. Ông không để ý đến việc mình có yêu người phụ nữ đó hay không, đó là điều thứ yếu. Điều ông ta quan tâm là bà ấy phải là một góa phụ. Ông đã kiên trì thuyết phục một người phụ nữ và bà ấy đã bằng lòng.
Tôi bảo ông ấy: “Trước khi hành động, hãy suy nghĩ một mình ít nhất ba ngày. Ông có yêu người phụ nữ ấy không hay đó chỉ là hành động phụng sự xã hội?”. Việc cưới một góa phụ ở Ấn Độ có thể được xem là một hành động cách mạng triệt để. “Có phải ông đang cố chứng tỏ rằng ông đang làm cách mạng? Nếu ông đang cố làm việc đó thì ông đang sai lầm. Khi ông cưới bà ấy thì bà ấy không còn là một góa phụ nữa và điều ông quan tâm đã không còn”.
Ông ta không nghe lời tôi. Ông ta kết hôn và sau sáu tháng ông ấy bảo tôi: “Ông nói đúng”. Ông ta khóc và nói: “Tôi đã không nhìn thấy vấn đề, tôi chỉ yêu cái danh góa phụ của cô ấy chứ không yêu chính con người cô ấy, và bây giờ cô ấy đã không còn là một góa phụ”.
Tôi trả lời: “Ông hãy tự sát đi và biến cô ấy thành góa phụ lần nữa, và cho người khác cơ hội làm cách mạng!”. Trong trường hợp này, bạn còn có thể làm gì được nữa?
Suy nghĩ của con người thật khờ dại, không tỉnh táo. Nó chẳng khác nào một giấc ngủ dài.
Bạn không thể buông bỏ nỗi khổ của mình bởi vì bạn chưa nhìn sâu vào căn nguyên của nó. Bạn cũng chưa nhìn thấy được những niềm vui từ sự phiền não của bạn. Bạn sẽ phải buông bỏ cả hai, và sẽ không còn khúc mắc gì nữa. Thật ra, phiền não và hạnh phúc chỉ có thể buông bỏ cùng lúc. Và chỉ còn an lạc hiện hữu.
An lạc không chỉ là vui sướng. An lạc không chỉ là hạnh phúc. Hạnh phúc là phải luôn luôn gắn với một cái gì đó bất hạnh và vui sướng thì luôn đồng hành với phiền não. Bạn muốn buông bỏ phiền não để có được hạnh phúc. Đó là cách làm hoàn toàn sai lầm. Bạn phải buông bỏ cả hai. Khi thấy rằng chúng đồng hành, thì ta biết rằng phải buông bỏ cả hai, không thể chỉ chọn một.
Trong cuộc sống, mọi thứ đều có quan hệ hữu cơ với nhau. Phiền não và hạnh phúc không phải là hai phạm trù tách biệt. Bạn muốn có hoa hồng mà không muốn có gai nhọn, bạn muốn ngày và không muốn đêm, bạn muốn yêu thương mà không có căm ghét. Điều này không bao giờ xảy ra, đó không phải là bản chất của mọi việc. Bạn phải buông bỏ cả hai, và rồi một thế giới hoàn toàn khác hiện ra: thế giới của sự an lạc.
An lạc nghĩa là thực sự bình an, không quá đau buồn hay vui sướng.
Để kỷ niệm bốn mươi năm ngày cưới, Seymour và Rose trở lại đúng căn phòng ở tầng hai của khách sạn mà họ đã hưởng tuần trăng mật.
Seymour nói: “Bây giờ, cũng như đêm đầu tiên, chúng ta hãy cởi bỏ quần áo, đứng ở hai góc phòng, tắt đèn rồi chạy đến và ôm chầm lấy nhau”.
Họ trút bỏ y phục, đi về hai góc phòng, tắt đèn và chạy đến với nhau. Nhưng tri giác của họ đã không còn nhạy như bốn mươi năm trước. Vì thế Seymour bắt trượt Rose và lao thẳng ra cửa sổ. Ông rơi xuống bãi cỏ trong sự sửng sốt.
Seymour gõ lên cửa sổ hành lang, nói nhỏ với nhân viên khách sạn: “Tôi vừa bị ngã, tôi không mặc quần áo và tôi muốn trở lại phòng”.
Anh nhân viên bảo rằng: “Được thôi. Sẽ không ai thấy ông đâu”.
“Anh có điên không đấy? Tôi sẽ phải đi ngang qua hành lang mà tôi lại đang trần truồng”.
Người nhân viên lặp lại: “Không ai thấy ông đâu. Mọi người ở trên lầu đang cố gắng để gỡ một người phụ nữ lớn tuổi ra khỏi tay nắm cửa!”.
Rất ít người trong chúng ta dành thời gian tự quan sát chính mình.
Hãy nhìn nhận phiền não của bạn là gì, những nguyên nhân nào đã gây ra nó, và tại sao bạn lại phải bám vào đó. Đây không phải là lần đầu tiên bạn buộc chặt mình vào những ham muốn này. Nó đã trở thành quán tính cả một đời chúng ta. Bạn đi vòng quanh và bạn không bao giờ tiến lên được chút nào. Bạn vẫn chỉ là một đứa trẻ ngốc nghếch. Bạn được sinh ra với sự thông tuệ sánh ngang Đức Phật nhưng nó đã bị mất đi vì những nguyên nhân phù phiếm.
Một người nông dân có hai con bò đực già khọm và vừa mua thêm một chú bò trẻ đầy sinh lực. Chú bò mới lập tức “ve vãn” hết chị bò này đến chị bò khác trên đồng cỏ. Sau khi quan sát cảnh tượng này trong một giờ, một trong hai con bò già bắt đầu giậm chân và khịt mũi.
“Có chuyện gì thế?”- Con bò kia hỏi. - “Anh có ý gì hay à?”.
Con bò nọ đáp: “Không có gì. Nhưng tôi không muốn anh chàng trẻ tuổi kia nghĩ rằng tôi là một trong những con bò cái”.
Thậm chí ở tuổi già, con người vẫn còn bận tâm đến cái tôi của mình. Họ phải giả vờ, làm bộ làm tịch dù cuộc đời họ chẳng có gì ngoài một chuỗi phiền não. Nhưng họ vẫn bảo vệ nó hơn là sẵn sàng thay đổi nó. Họ rất bảo thủ.
Hãy bỏ tất cả sự phòng vệ, hãy bỏ tất cả áo giáp. Hãy bắt đầu quan sát cuộc đời của bạn ngày này qua ngày khác, phút giây này đến phút giây khác. Và dù bạn đang làm gì, hãy để ý đến từng chi tiết. Bạn không cần phải gặp một bác sĩ phân tâm học, bạn có thể tự phân tích từng mảnh của cuộc đời bạn. Nó là một tiến trình đơn giản. Chỉ cần quan sát là bạn có thể thấy điều gì đang xảy ra, điều gì đã xảy ra. Bạn đã và đang chọn lựa, và đó chính là vấn đề. Bạn chọn một phần đối nghịch với phần kia nhưng chúng lại luôn đồng hành. Đừng chọn lựa gì cả. Chỉ quan sát và nhận thức mà không lựa chọn, và bạn sẽ tìm được chính bạn ở thiên đường.
Có phải một người nên tự chiêm nghiệm sự cô đơn của bản thân trước khi bắt đầu những mối quan hệ?
Vâng, bạn phải tự chiêm nghiệm sự cô đơn của bản thân cho đến khi sự cô đơn chuyển thành tự tại. Chỉ khi đó bạn mới có thể có một mối quan hệ sâu sắc và phong phú. Chỉ khi đó bạn mới có thể tiến đến tình yêu. Điều tôi muốn nói là một người phải tự chiêm nghiệm sự cô đơn của mình cho đến khi sự cô đơn chuyển thành sự tự tại.
Cô đơn là một trạng thái tinh thần tiêu cực. Tự tại thì tích cực. Cô đơn là một trạng thái tinh thần khi bạn hoài nhớ ai đó. Tự tại là trạng thái tinh thần khi bạn luôn tự thắp sáng mình. Cô đơn thì đau khổ. Tự tại thì an lạc. Cô đơn luôn làm bạn lo lắng, nhớ nhung, khao khát, ước muốn điều gì đó. Tự tại là bài tập tâm linh sâu sắc, không vọng tưởng, mãn nguyện, an lạc và hân thưởng. Khi cô đơn, bạn không là trung tâm. Trong trạng thái tự tại, bạn là trung tâm và là khởi nguyên của mọi thứ. Tự tại thì hoàn mỹ, tao nhã, thanh lịch và mãn nguyện. Cô đơn thì nghèo nàn, tất cả xung quanh chỉ là sự van nài và không còn gì khác nữa. Nó không hề thanh nhã mà lại xấu xí. Cô đơn thì phải phụ thuộc, tự tại thì hoàn toàn tự chủ.
Bây giờ, nếu bạn thiết lập một mối quan hệ khi bạn đang cảm thấy cô đơn thì bạn sẽ tìm cách chiếm hữu người khác. Người đó sẽ trở thành một phương tiện để thỏa mãn bạn. Bạn sẽ lợi dụng người đó và người đó cũng sẽ lợi dụng lại bởi vì không ai muốn trở thành công cụ cho người khác. Mỗi người là một sự chấm hết với chính mình. Không ai muốn trở thành phương tiện của người khác. Ai cũng muốn mình được tôn sùng như một ông hoàng. Không ai muốn phải nghe lệnh người khác, ai cũng muốn là bản thân mình. Vì vậy khi bạn thiết lập một mối quan hệ trong sự cô đơn thì mối quan hệ này đã đi vào ngõ cụt. Thậm chí trước khi bắt đầu thì nó đã đi vào ngõ cụt. Như là trước khi sinh ra thì đứa bé đã chết. Hãy nhớ rằng, khi bạn mang theo sự cô đơn, bạn sẽ gặp một ai đó cũng đang tuyệt vọng như mình, bởi vì không có ai sống một cách tự tại có thể thu hút bạn. Bạn khác xa họ. Họ có thể thông cảm với bạn nhưng họ không yêu bạn. Một người ở trên đỉnh cao của sự tự tại chỉ có thể thu hút một người nào đó đang tự tại như họ. Vì thế, bất cứ khi nào hành xử theo sự cô đơn của mình thì bạn sẽ tìm thấy một người giống như bạn. Bạn sẽ thấy hình ảnh phản chiếu của mình ở đâu đó trong họ. Hai kẻ ăn mày gặp nhau tức là hai kẻ đau khổ gặp nhau. Hãy nhớ rằng, khi hai người đau khổ gặp nhau thì nó không là một phép cộng đơn giản mà nó là phép nhân. Lúc này, họ sẽ tạo ra khối đau khổ gấp bội cho chính họ và cho người khác. Khối đau khổ này lớn hơn gấp nhiều lần nỗi sầu khi mỗi người ôm một mối cô đơn riêng.
Đầu tiên hãy ở một mình. Hãy bắt đầu tận hưởng sự hiện hữu duy nhất của bản thân và hãy yêu chính mình. Hãy tìm niềm vui đích thực ngay cả khi không có ai đến bên bạn. Bản thân bạn là tất cả. Nếu không ai gõ cửa nhà bạn thì bạn vẫn thế, không nhớ đến ai cả. Bạn không mong chờ ai đến gõ cửa. Bạn ở nhà và nếu có ai đến thì sẽ rất vui. Nhưng nếu không ai đến thì càng vui hơn. Và khi đó, hãy thiết lập một mối quan hệ. Giờ đây, bạn giống như một ông chủ, một vị hoàng đế, chứ không phải một tên ăn mày.
Ai sống tự tại đều có thể thu hút những người cũng sống tự tại bởi vì đồng khí tương cầu. Khi hai người chủ gặp nhau, ít ra họ cũng làm chủ cuộc sống của chính họ, niềm an lạc không là phép cộng mà được nhân lên. Niềm an lạc không tăng theo cấp số cộng mà tăng theo cấp số nhân. Họ không chiếm hữu, họ chia sẻ. Họ không lợi dụng lẫn nhau. Ngược lại, họ trở thành một và tận hưởng mọi sự hiện hữu xung quanh mình. Đó là một trạng thái thưởng thức cuộc sống một cách kỳ diệu.
Hai người cô đơn luôn đối đầu nhau. Hai người sống tự tại đối mặt với những vấn đề vượt lên trên bản ngã của chính họ. Tôi vẫn thường đưa ra ví dụ rằng hai người mới yêu nhau luôn đối diện nhau; nhưng hai người yêu nhau sâu đậm thì sẽ không bao giờ đối diện nhau trong một đêm trăng đẹp. Họ sẽ nắm tay nhau và cùng nhìn vầng trăng trên bầu trời. Họ không nhìn nhau mà họ cùng nhau nhìn về một cái gì khác. Thỉnh thoảng họ sẽ cùng nhau nghe một bản giao hưởng của Mozart, Beethoven hay Wagner. Thỉnh thoảng họ ngồi bên nhau dưới một tán cây và tận hưởng bóng mát đang che chở họ. Thỉnh thoảng họ sẽ ngồi bên một thác nước và lắng nghe bản giao hưởng của thiên nhiên. Thỉnh thoảng họ cùng nhau ngồi trước biển và nhìn về nơi xa ngút tầm mắt. Khi hai người cô đơn gặp nhau, họ sẽ nhìn nhau bởi vì họ vẫn đang tìm cách để chiếm hữu đối phương, để lợi dụng nhau và để tìm hạnh phúc từ đối phương. Nhưng hai người yêu nhau sâu sắc sẽ không tìm cách lợi dụng nhau. Hơn nữa, họ trở thành bạn đồng hành trên con đường hành hương. Mục đích sống của họ trở nên cao đẹp hơn. Những quan tâm giống nhau mang họ lại gần nhau.
Hai người cô đơn luôn đối đầu nhau. Hai người sống tự tại đối mặt với những vấn đề vượt lên trên bản ngã của chính họ.
Quan hệ giữa hai người khác phái thường bắt đầu từ sức hút trong quan hệ ân ái. Tình dục có thể kết hợp hai người làm một trong một thoáng giây, song sự hòa hợp này chỉ mang tính thất thường và nông nổi. Hai người yêu nhau thực sự có một mối quan tâm chung đến những vấn đề lớn lao hơn. Như thế không có nghĩa là trong tình yêu không có tình dục, mà tình yêu là sự hòa hợp ở cấp độ cao hơn. Lắng nghe những bản giao hưởng của Mozart hay Beethoven có thể đưa hai người đang yêu đến rất gần nhau và họ có thể quan hệ với nhau trong sự hòa hợp với bản giao hưởng của Beethoven. Bản giao hưởng là thứ có thật, còn từng bước đi của tình yêu diễn ra như một phần tất yếu của bản hợp âm tuyệt diệu. Khi tình yêu diễn ra trong sự hòa hợp của chính nó, không tìm kiếm, không nghĩ suy, diễn ra một cách tự nhiên như một phần của sự hòa hợp hoàn hảo hơn, thì bản chất của tình yêu đó hoàn toàn khác những tình yêu thông thường. Đó là tình yêu thần thánh, đó không còn là tình yêu của con người.
Tình dục có thể kết hợp hai người làm một trong một thoáng giây, song sự hòa hợp này chỉ mang tính thất thường và nông nổi. Hai người yêu nhau thực sự có một mối quan tâm chung đến những vấn đề lớn lao hơn.
Từ hạnh phúc (happiness) có nguồn gốc từ từ “hap” trong ngôn ngữ Bắc Âu cổ. Từ “happening” cũng có cùng gốc từ với “happiness”. Vì vậy, hạnh phúc (happiness) là những gì đang xảy ra (happening). Bạn không thể tạo ra nó, bạn không thể làm chủ nó, bạn không thể chi phối nó. Và tất cả những gì bạn có thể làm là luôn chuẩn bị vị thế sẵn sàng để hòa cùng bước đi của tình yêu bất cứ khi nào nó đến.
Hai người yêu nhau thật sự vẫn luôn luôn có mặt ở đó nhưng họ không bao giờ cố tìm kiếm hạnh phúc. Vì thế họ không bao giờ nản lòng, bởi vì họ biết rằng khi nào nó đến thì nó sẽ đến. Mỗi người tạo dựng vị thế của riêng mình. Thật ra, nếu bạn hạnh phúc với chính bản thân mình thì bạn đã có một vị thế, và nếu người khác hạnh phúc với chính bản thân họ thì họ cũng có vị thế của riêng mình. Khi hai vị thế này đến gần nhau, thì một vị thế lớn hơn sẽ được tạo lập. Ở đó, không phải làm gì cả.
Con người không cần phải làm gì cả để có được hạnh phúc. Người ta chỉ việc đi và sống. Chỉ đơn giản như vậy thôi.
Vấn đề được đặt ra là: “Có phải mỗi người đều phải trải qua quá trình chiêm nghiệm về sự cô đơn trước khi thiết lập một mối quan hệ mới?”. Chắc chắn phải như vậy. Đó là một quy luật. Cho dù nó có thể làm bạn thấy nản lòng nhưng với tình yêu tự nhiên tuôn chảy trong huyết quản, bạn sẽ làm được điều gì đó còn cao hơn cả tình yêu.
Bí mật của hạnh phúc thực sự chỉ có vậy thôi ư? Cuộc sống của tôi dường như vô nghĩa và trống rỗng. Tôi luôn nghĩ rằng đáng lẽ phải có gì đó nữa. Tôi muốn phải có thêm gì đó nữa.
Chính lòng ham muốn của bạn là rào chắn khiến bạn không có được nhiều thứ bạn đang khao khát. Ham muốn giống như một bức tường vây quanh bạn, còn từ bỏ ước muốn lại chính là cánh cửa.
Đây là một trong những nghịch lý phổ quát của cuộc đời: Khi ham muốn bạn sẽ bỏ lỡ, còn khi không ước vọng thì bạn sẽ có nó.
Jesus nói: Hãy tìm đi rồi con sẽ gặp. Đức Phật nói: Khi tìm kiếm con sẽ bỏ lỡ. Jesus nói: Hãy ước mong và con sẽ có nó. Phật nói: Khi cầu mong con sẽ không có nó. Jesus nói: Hãy gõ đi và cửa sẽ mở. Phật nói: Hãy chờ đợi và hãy nhìn, cửa không hề đóng. Nếu con gõ thật ra con đang gõ lên đâu đó trên tường bởi vì cửa luôn mở.
Jesus và Phật đều là những bậc sáng suốt, bởi vì những chân lý của họ đều chất chứa một ánh sáng nội tâm siêu việt. Thế thì tại sao lại có sự khác biệt? Sự khác biệt xuất phát từ người mà Jesus trò chuyện. Ngài đang nói chuyện với những người chưa được khai tâm, vẫn còn chưa hiểu nỗi khổ của cuộc sống. Đức Phật lại đang nói với một nhóm người hoàn toàn khác - những bậc trí giả thấu hiểu mọi nghịch lý huyền nhiệm của đời.
Bạn nói rằng: “Cuộc sống của tôi dường như vô nghĩa và trống rỗng”. Nó vô nghĩa và trống rỗng bởi vì bạn luôn muốn nhiều hơn nữa. Hãy buông bỏ sự ham cầu, bạn sẽ được chuyển hóa một cách trọn vẹn.Trạng thái trống rỗng sẽ biến mất ngay khi bạn ngưng đòi hỏi. Trạng thái trống rỗng là tác dụng phụ của việc đòi hỏi. Nó là cái bóng bám theo những ham muốn của bạn. Hãy để lòng ham muốn biến mất rồi nhìn lại phía sau, sẽ chẳng còn cái bóng nào nữa.
Lý trí của con người luôn đòi hỏi, đòi hỏi đến vô tận; cho dù chúng ta sở hữu bao nhiêu thứ đi nữa thì lý trí vẫn đói khát. Lúc nào chúng ta cũng thấy thiếu thốn, thấy chưa đủ, đến mức có cảm giác là mình sống một cách trống rỗng. Càng khát khao mong cầu thì càng thấy trống rỗng.
Mong cầu là nguyên nhân của sự trống rỗng vô nghĩa trong tâm hồn ta. Nếu mọi sự chờ đợi khát khao quá mức biến mất thì sự trống rỗng cũng tan đi. Và niềm vui sâu sắc sẽ đến với chúng ta. Cảm giác đầy đủ chỉ xuất hiện khi tâm hồn ta bắt đầu tuôn chảy sự nhẫn nại bình an. Sự dồi dào của tinh thần sẽ giúp ta sẵn sàng chia sẻ và cho đi, sẵn sàng tham dự vào trò chơi vũ trụ mà không vì một lý do nào khác. Bạn sẽ thấy mình giống như đám mây tràn trề nước mưa phủ đầy khắp nơi, thấm đẫm cả lớp sỏi đá khô cằn – nơi chẳng có gì sống sót nổi. Dòng nước mát của tâm hồn sẽ tưới tắm vạn vật trong nỗi hân hoan vô tư. Nó không cần biết mình sẽ tưới cho mảnh đất này hay xứ sở khác. Nó trĩu nặng, cuồn cuộn sức chảy nhưng chính nó lại thanh thoát vô cùng.
Lý trí của con người luôn đòi hỏi, đòi hỏi đến vô tận; cho dù chúng ta sở hữu bao nhiêu thứ đi nữa thì lý trí vẫn đói khát. Lúc nào chúng ta cũng thấy thiếu thốn, thấy chưa đủ, đến mức có cảm giác là mình sống một cách trống rỗng. Càng khát khao mong cầu thì càng thấy trống rỗng.
Đừng mong cầu hão huyền, bạn sẽ chạm tới niềm vui và sống trong trạng thái toại nguyện tràn trề. Cuộc chuyển hóa đó đến một cách lặng lẽ theo cách riêng của nó. Với kinh nghiệm sống như vậy, chúng ta mới thấy cuộc đời này thực sự có ý nghĩa. Thơ ca, nghệ thuật và lòng thành kính sẽ xuất hiện; rồi sẽ có âm nhạc và những hòa âm tuyệt đẹp, cuộc sống chúng ta trở thành một vũ điệu bất tận.
Chúng ta đang sống một cách trống rỗng và vô nghĩa. Giờ, hãy làm ngược lại. Ta có thể làm cho đời sống của mình trở nên phong phú, nhưng không phải bằng cách cứ mãi ước ao, chờ đợi. Thêm đòi hỏi tức là thêm vấn đề, thêm rắc rối. Những gì chúng ta thấy, nghe và trải nghiệm còn quan trọng hơn nhiều. Ao ước là bức tường, từ bỏ ước ao là chiếc cầu nối dẫn đến hạnh phúc vĩnh hằng. Ao ước là đau khổ. Từ bỏ ao ước là an lạc.
Bạn nói: “Tôi muốn có nhiều thứ hơn”. Nhưng thật ra, càng mong ước nhiều thì chúng ta càng đánh mất nhiều hơn. Hãy chọn lựa đi. Nếu muốn sống đau khổ, bạn cứ tiếp tục đòi hỏi, khát khao. Và bạn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự chọn lựa của mình. Không ai bắt buộc bạn sống như thế. Đừng khát khao tương lai nữa, nếu như bạn thực sự muốn vui sống một cách bình an.
Lý trí con người luôn đòi hỏi, mong cầu, luôn hy vọng và luôn thất vọng bởi nó bắt ta sống trong chờ đợi. Thế giới này vẫn cứ đau khổ bởi con người vẫn chìm đắm triền miên trong những tham vọng. Khoa học mang lại cho chúng ta nhiều hy vọng, làm đầy thêm những khát khao vốn đã cháy bỏng. Vào đầu thế kỷ XX, cả thế giới sống trong niềm lạc quan lớn lao trước những thành tựu vĩ đại của khoa học kỹ thuật. “Thời đại vàng đã đến. Ở đâu chúng ta cũng tìm thấy bóng dáng của khoa học. Thiên đường đã xuống mặt đất”. Và tự nhiên, mọi người ngày càng mong ước, mong ước nhiều hơn nữa.
Không phải thiên đường đã xuống mặt đất; mà trái đất đã hóa thành địa ngục. Khoa học biến chúng ta thành cơn khát thèm. Mục đích của cuộc sống dày đặc thành tựu khoa học là hố sâu đau khổ. Điều này chưa từng xảy ra trước đó. Con người bắt đầu tư duy theo kiểu sở hữu. Họ muốn an toàn hơn, khoa học hơn, tiện nghi hơn. Nhưng, tiếc thay, những điều kiện ấm êm đó lại khiến người ta thấy vô nghĩa hơn. Họ đã nỗ lực nhiều đến thế để có mọi thứ, và cũng khốn đốn tuyệt vọng hơn vì không thể thỏa mãn.
Thiền định đưa chúng ta dấn thân vào chính nỗi khát thèm của mình. Ở đó, chúng ta sẽ chấm dứt được nó. Những ẩn ức giấu kín sẽ được hé lộ và tựu thành. Có một cái gì đó thực sự tốt đẹp nằm bên trong cuộc sống chúng ta. Một sự giàu có không ngờ sẽ tràn trề trong tâm hồn chúng ta. Niềm vui vô tận sẽ trút xuống cuộc đời tất cả mọi người, chỉ cần chúng ta biết chuẩn bị một mảnh đất cho nó. Tên gọi cho mảnh đất kỳ diệu ấy là từ bỏ mọi khát khao.
Hãy biết chấp nhận. Trong ánh sáng của lòng nhẫn nại, mọi thói tật của chúng ta sẽ được hóa giải trọn vẹn. Cuộc sống đầy phép màu sẽ mở ra cho bạn.
Tôi cảm thấy bế tắc. Mọi thứ tôi làm chỉ là mớ hỗn độn vô nghĩa, vì thế tôi càng chán chường. Thực sự, nỗi buồn chán là gì vậy?
Buồn chán là một trong những thuộc tính của đời sống con người. Chỉ con người mới có khả năng cảm nhận được nỗi buồn chán. Cảm giác ấy chỉ tồn tại khi tâm trí bắt đầu mất dần sự sáng suốt. Buồn chán chỉ là một đối cực của sự sáng suốt. Loài vật không cần khai tâm, không cần đắc đạo, vì vậy chúng cũng chẳng buồn chán bao giờ.
Nỗi buồn chán đơn giản chính là khả năng ý thức về cuộc đời đổi thay mãi mãi. Bạn đã làm được biết bao nhiêu điều trước đó – nhưng chẳng có gì xảy ra. Bạn đã dấn thân vào bao chuyến du hành trước đó – nhưng rồi chẳng đúc kết được gì. Buồn chán là cảm giác đầu tiên của sự tỉnh thức bắt đầu nảy sinh bên trong tâm hồn chúng ta trước sự phù phiếm, vô nghĩa của dòng đời trôi chảy.
Chúng ta có hai cách để đáp lại nỗi buồn chán. Thông thường người ta hay làm theo cách thứ nhất: lảng tránh nó, không muốn đối mặt với nó, bỏ nó lại sau lưng rồi trốn chạy bằng cách làm một cái gì đó để quên nó đi.
Đó là lý do vì sao nhân loại chế tạo ra rượu và thuốc. Đây chính là những phương cách để con người trốn khỏi nỗi buồn. Nhưng bạn đâu thật sự trốn thoát khỏi nó được; ấy chẳng qua chỉ là sự lảng tránh nhất thời. Hết lần này đến lần khác, nỗi buồn chán cứ hình thành, hết ngày này qua ngày khác, nỗi buồn chán sẽ lớn dần. Bạn cứ tìm quên trong tình dục, trong ăn uống vô độ, trong âm nhạc – trong một ngàn lẻ một cách khác. Dẫu vậy, nỗi buồn chán vẫn tồn tại. Đó chẳng phải là thứ có thể trốn tránh được; đó là một phần của quá trình trưởng thành. Cần phải đối diện với nó.
Câu trả lời thứ hai là đối diện với nỗi buồn, thiền định về nó, chung sống với nó, trở thành nó. Đó chính là những gì Đức Phật đã làm dưới cội bồ đề - cũng là những gì các thiền nhân vẫn đang thực hiện qua bao thời đại.
Thiền định là gì? Đối mặt với nỗi buồn chán chính là thiền định. Người ngồi thiền phải làm những gì? Ngồi yên lặng, quan sát rốn hoặc quán sát hơi thở, người ta giúp cho mình vui vẻ hơn nhờ các tư thế đó, bạn nghĩ vậy chăng? Anh ta cũng chán nản khủng khiếp! Đó là lý do vì sao các thiền sư cứ phải lần tràng hạt – bởi họ đang ở mấp mé ranh giới của cơn buồn ngủ. Chẳng có cách nào khác thoát khỏi nỗi buồn chán, ngoài một cách duy nhất là chìm vào giấc ngủ. Họ không thể từ bỏ sự chán nản. Họ tự nguyện tham gia vào một phần quá trình tu tập và rèn luyện Thiền định – họ không thể từ bỏ sự chán nản mặc dù lối thoát luôn có sẵn - bạn có thể chìm vào giấc ngủ rồi quên hết mọi thứ. Đó là lý do vì sao khi Thiền định, người ta luôn thấy buồn ngủ.
Toàn bộ nỗ lực Thiền định bao gồm thế này: Chán nản nhưng đừng trốn tránh khỏi nó; luôn tự cảnh tỉnh, bởi nếu chìm vào giấc ngủ, bạn đã thoát ra khỏi nó. Phải cảnh giác! Phải trông chừng nó, quán sát nó. Nếu sự buồn chán còn đó, nó sẽ ở đó. Cần phải nhìn thấy nó, nhìn sâu vào tận cốt lõi của nó.
Nếu vẫn còn chiêm nghiệm về nỗi buồn chán mà không thoát khỏi nó, điều gì đó ắt sẽ bùng nổ. Bất thần, một ngày, trong nỗi chiêm nghiệm về sự buồn chán, bạn dấn sâu vào cõi trống rỗng. Nỗi buồn chán chỉ là lớp vỏ, là vật chứa, đựng trong đó sự rỗng không nội tại. Nếu rời khỏi nỗi buồn chán, bạn cũng rời khỏi sự rỗng không của chính mình. Vì không thoát khỏi nỗi buồn chán, vì bạn bắt đầu cùng sống với nó, vì bạn bắt đầu chấp nhận nó, chào đón nó… khi đó, toàn bộ quá trình ấy chính là Thiền định: chào đón nỗi buồn, dấn mình vào nỗi buồn; không chờ nó đến mà tìm kiếm nó.
Ngồi hàng giờ trong tư thế thiền định, chỉ quán sát hơi thở thôi, ắt người ta sẽ cảm thấy cực kỳ buồn chán. Toàn bộ quá trình Thiền tập chính là nuôi dưỡng nỗi buồn chán. Trong Thiền viện, mỗi ngày bạn phải dậy vào đúng giờ ấy – ngày nào cũng vậy, ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác. Dù hạ hay đông, bạn đều phải dậy vào lúc ba giờ sáng, gội sạch thân thể. Bạn phải uống cùng một thứ trà ấy, rồi ngồi Thiền… Vẫn là từng đó hoạt động lặp đi lặp lại. Và mọi việc trong ngày diễn ra theo một quy trình cực kỳ cố định: Bạn ăn sáng vào một giờ nhất định, sau đó lại Thiền định, sẽ lại ăn cùng một món ăn ấy vào cùng một giờ ấy! Mọi việc chỉ hỗ trợ thêm cho nỗi buồn chán.
Vẫn là trang phục ấy, thiền viện ấy, vị thiền sư ấy đi vòng quanh với chuỗi hạt trên tay. Mỗi ngày vào giấc chiều, bạn sẽ phải có một buổi tập tu với Thiền sư. Những câu hỏi mà Thiền sư đưa ra để bạn chiêm nghiệm nghe quả đáng chán, kiểu như: “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?”. Cứ nghĩ về câu hỏi đó đi – nó sẽ khiến bạn phát điên. Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? Làm gì có câu trả lời, bạn cũng biết mà; ai ai cũng biết làm gì có câu trả lời cho câu hỏi ấy. Vậy mà Thiền sư vẫn cứ khăng khăng: “Tiếp tục chiêm nghiệm về nó đi”.
Mọi thứ vẫn trong tầm kiểm soát. Nỗi buồn chán trở nên rộng lớn miên man, vô bờ bến. Nỗi buồn chán cần phải hoàn toàn được chấp nhận hết mức có thể, phải được tạo mọi điều kiện, được hỗ trợ từ mọi phía. Cùng một buổi chiều, cùng một công việc, cùng một âm hưởng của câu mật chú. Bạn phải đi ngủ vào đúng giờ ấy… và mọi chuyện cứ tiếp diễn, vẫn cái chu trình mòn mỏi ấy. Trong vài ngày, bạn cảm thấy chán nản kinh khủng và không thể thoát khỏi nó. Chẳng có cách nào để thoát ra. Bạn không thể đến rạp chiếu bóng, không thể xem ti-vi, không một thứ gì có thể giúp bạn trốn tránh nỗi buồn. Bạn cứ chìm vào nỗi buồn chán từng chút một.
Cần phải có một dũng khí lớn để đối diện với nỗi buồn. Nỗi buồn chán rất giống cái chết, có khi còn chật vật hơn cả chết, bởi cái chết chỉ đến khi ta đã mất ý thức. Và bạn đang khuấy động lên đủ kiểu buồn chán. Chuyện gì đang xảy ra? Đó chính là bí mật của quá trình thiền định: Nếu bạn tiếp tục quán sát, quán sát, quán sát, nỗi buồn chán sẽ ngày một trào dâng, trào dâng, mỗi lúc một mênh mông rồi lên đến đỉnh điểm. Không gì có thể tiếp diễn vĩnh viễn – đến một điểm nào đó, chu kỳ buộc phải chuyển hướng. Nếu bạn đi đến cực điểm, cực đại thì sự thay đổi, sự chuyển biến – sự đốn ngộ, satori, hay bất cứ cái tên nào tùy bạn – sẽ xảy ra. Bất thần một ngày nọ, nỗi buồn chán trở nên vô biên vô lượng. Nó bóp nghẹt bạn, nó gần như giết chết bạn. Cả một đại dương mênh mông của nỗi buồn nhấn chìm bạn. Nó làm bạn mất phương hướng, làm bạn tuyệt đường. Tại vô biên vô lượng nỗi buồn, chu kỳ đổi hướng. Nỗi buồn chán bất ngờ biến mất, ấy là satori (đốn ngộ), là samadhi (đại ngộ). Bạn chỉ còn rỗng không. Khi đó, bạn chẳng còn một mảy may buồn chán nào nữa. Bạn đã nhận ra cái trống không của cuộc đời. Bạn đã biến mất – Ai còn có thể buồn chán? Vì điều gì? Bạn chẳng hề còn tồn tại nữa. Bạn đã tuyệt diệt.
Bạn hỏi: “Nỗi buồn chính xác là gì?”.
Đó là một sự kiện tâm linh. Một con trâu chẳng bao giờ buồn chán, trông chúng lúc nào cũng hoàn toàn hạnh phúc và thỏa mãn. Duy có con người biết buồn chán. Chỉ những người có năng lực và sáng suốt mới cảm nhận nỗi buồn. Những kẻ si ngốc cũng chẳng buồn bao giờ. Họ hoàn toàn hạnh phúc với công việc, kiếm tiền, dành dụm một số dư tài khoản kếch sù, nuôi nấng con cái, sinh đẻ, ăn uống, xem phim, đi nhà hàng, tham gia hoạt động chỗ này chỗ kia. Họ thấy hài lòng và không có cảm giác buồn chán thực sự.
Đứa trẻ thông minh nhất là đứa mau chán nhất – bởi không có cái gì thu hút sự chú ý của nó lâu được. Sớm hay muộn nó cũng sẽ tình cờ gặp phải vấn đề thế này: “Giờ thì thế nào? Chuyện gì sẽ xảy ra? Kết thúc rồi. Mình đã thấy món đồ chơi này, mình đã xem xét nó, đã tháo tung nó ra, đã săm soi từng mảnh một, giờ thì xong cả rồi – tiếp theo sẽ là gì đây?”. Trước tuổi thành niên, đứa bé đã biết buồn chán.
Đức Phật đã kinh qua nỗi buồn chán rã rời. Ngài từ bỏ vương quyền khi chỉ mới hai mươi chín tuổi - đỉnh điểm của thời thanh xuân. Ngài cảm nhận được nỗi buồn chán – với phụ nữ, với mỹ tửu, với của cải, với vương quyền, với mọi thứ. Ngài đã chứng kiến tất cả, nhìn thấu tất cả. Ngài đã buồn chán. Hãy nhớ, Ngài từ bỏ thế giới không phải vì thế giới sai lầm mà bởi sự vô nghĩa cùng cực của nó.
Nếu bạn sáng suốt, bạn cảm thấy buồn chán. Nếu bạn không tỉnh táo, bạn cứ tiếp tục sống. Đó chỉ là một vòng xoay ngựa gỗ; và bạn di chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bạn hứng thú với những chuyện vặt vãnh và bạn tiếp tục sống như thế mà không đủ ý thức để nhận ra sự lặp đi lặp lại – bạn không hề nhận ra rằng ngày hôm qua bạn đã làm điều này và bạn cũng làm như thế hôm nay, rồi bạn tưởng tượng xem, ngày mai bạn cũng sẽ lặp lại từng ấy công việc. Ắt là bạn phải rất kém sáng suốt. Làm thế nào sự sáng suốt giúp bạn tránh xa nỗi buồn chán? Chẳng thể nào. Sáng suốt chỉ có nghĩa là nhận ra mọi thứ như nó vốn là như thế.
Đức Phật đã từ bỏ thế giới trong một tâm trạng chán nản tột độ. Và Ngài đã làm gì sau đó, trong suốt sáu năm lang bạt trong những cánh rừng ấy? Ngài mỗi lúc mỗi thấm thía nỗi chán nản hơn. Bạn có thể làm gì khi ngồi trong rừng nào? Lắng nghe hơi thở, tập trung vào rốn, ngày đến ngày đi, năm qua năm lại. Ngài đã nuôi dưỡng nỗi buồn đến cực điểm và vào một đêm nọ, nó biến mất. Nó tự nhiên biến mất.
Nếu đã đến đỉnh điểm… sự thay đổi tất xảy ra. Nó đến! Và với sự chuyển động của ngọn triều ấy, ánh sáng bừng lên – bạn biến mất, chỉ còn ánh sáng. Cùng với ánh sáng, niềm hoan lạc tràn ngập. Bạn tràn ngập niềm hân hoan – không có bạn, duy còn lại có niềm hân hoan không duyên cớ mà thôi. Niềm hoan lạc tuôn trào trong chính bạn.
Người bình thường tận hưởng niềm vui có nguyên nhân – người ta phải lòng một cô nàng hay một anh chàng mới và sung sướng vì điều đó. Niềm vui của họ chỉ là thoáng chốc. Chỉ ngày mai thôi, chán chê với cô gái này, anh ta sẽ chạy theo những cô khác. Người bình thường cảm thấy vui khi vừa có một chiếc xe mới; ngày mai thôi, anh ta sẽ tìm chiếc khác. Cuộc sống cứ tiếp diễn theo chu trình như thế mãi mà anh ta chẳng biết điểm kết thúc, rồi cuối cùng anh ta cảm thấy chán nản. Có làm gì đi nữa thì cuối cùng bạn cũng sẽ thấy chán, mọi hoạt động đều chỉ mang đến nỗi buồn nản. Người càng thông minh càng sớm nhận ra điều ấy.
Thế rồi còn lại gì? Chỉ còn nỗi buồn chán ở lại và người ta đành phải chiêm nghiệm về nó. Chẳng có lối thoát nào. Thế thì dấn mình vào vậy, xem rồi sẽ dẫn đến đâu. Và nếu bạn còn có thể tiếp tục dấn sâu hơn, nó sẽ đưa bạn đến đại ngộ.
Chỉ con người biết buồn chán, và chỉ con người biết đại ngộ.
Ngài nghĩ gì về việc nghiện thuốc? Lý do gì khiến người ta sử dụng các loại thuốc gây nghiện?
Nghiện thuốc chẳng phải là vấn đề gì mới, nó cũng cũ kỹ như nhân loại vậy. Không thời đại nào con người không đi tìm một lối thoát. Cuốn sách cổ nhất thế giới Rigveda (thuộc hệ Kinh Veda) cũng đề cập nhiều đến cách sử dụng thuốc soma(10).
(10) Soma: Theo Kinh Veda, đây là tên một loại thức uống có tác dụng tăng cường sức lực cho con người.
Từ thời sơ cổ ấy, mọi tôn giáo đều cấm con người dùng thuốc gây nghiện. Các chính phủ cũng phản đối chất kích thích. Tuy nhiên, thuốc phiện đã chứng minh uy lực của nó còn mạnh hơn cả chính phủ hay tôn giáo, bởi vì không ai tìm hiểu tường tận tâm lý của người nghiện thuốc. Con người là đau khổ. Người ta sống trong lo âu, phiền não và vỡ mộng. Dường như chẳng còn một lối thoát nào ngoài thuốc.
Cách duy nhất để nhân loại ngưng dùng chất kích thích là làm sao để người ta được vui vẻ, hạnh phúc, sung sướng.
Bản thân tôi cũng phản đối việc dùng thuốc phiện vì một lý do đơn giản, thuốc chỉ có thể giúp bạn quên đi nỗi thống khổ nhất thời mà thôi. Nó không giúp bạn đương đầu với khổ sở và đau đớn, ngược lại, nó hủy hoại bạn.
Tìm đến thuốc phiện như một cách quên đi nỗi buồn chán là vấn nạn thường gặp ở giới trẻ. Khoảng cách giữa các thế hệ là khái niệm vô cùng mới mẻ, trước đây chưa từng hiện hữu trong nhận thức của con người. Ngược dòng lịch sử, từ thuở xưa, trẻ con sáu, bảy tuổi đã bắt đầu sử dụng đôi tay, khối óc làm quen với công việc của cha anh. Năm mười bốn tuổi, đứa trẻ đã trở thành thợ thủ công hoặc nông dân, kết hôn, thực hiện các bổn phận của mình. Trước khi bước sang tuổi hai mươi bốn, họ đã có con cái, vì vậy, chẳng bao giờ có khoảng cách giữa các thế hệ. Thế hệ sau gối đầu lên thế hệ trước.
Giờ đây, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, người ta biết đến cái gọi là khoảng cách giữa các thế hệ. Đó là một vấn đề trọng đại. Giờ đây, lần đầu tiên, đến tận hai lăm, hai sáu tuổi, người ta rời khỏi trường đại học mà không phải gánh vác một phận sự nào – không con cái, không âu lo. Người ta có cả thế giới trong tay trước khi biết mơ về nó. Làm thế nào để cuộc sống tốt đẹp hơn, phong phú hơn, làm thế nào để tạo nên một chủng tộc thiên tài. Giữa mười bốn tuổi và hai mươi bốn tuổi, người ta có một khoảng thời gian rất dài để mơ mộng, bởi bản năng giới tính đang hoàn thiện và cùng với bản năng ấy, các ước mơ cũng chín muồi. Bản năng giới tính của một người được biểu lộ ở trường học và đặc biệt trong quãng thời gian học đại học, toàn bộ năng lượng của những người trẻ đều dành trọn cho các ước mơ. Anh ta mong muốn trở thành một nhà hoạt động xã hội, một người theo đảng phái Fabia(11), hay đại loại thế. Và đây là lúc anh ta bắt đầu vỡ mộng bởi cách vận hành của thế giới. Bộ máy quan liêu, chính quyền, các chính trị gia, xã hội, tôn giáo… dường như đều chứng minh rằng anh ta có thể biến giấc mơ thành hiện thực. Anh ta rời trường đại học với biết bao mộng tưởng, nhưng từng ý tưởng bay bổng ấy lần lượt bị xã hội làm tan vỡ.
(11) Fabia: Một trào lưu chính trị được giới trí thức Anh tạo lập vào cuối thế kỷ 19 và tiếp tục hoạt động mạnh mẽ trong Thế chiến thứ nhất.
Đây chính là lúc anh ta bắt đầu dựa dẫm vào các loại thuốc. Thuốc gây nghiện sẽ mang đến cho anh ta sự khuây khỏa tạm thời; nhưng chẳng bao lâu sau, theo thời gian, liều lượng thuốc cứ tăng lên không ngừng. Đó sẽ là lúc thuốc bắt đầu phá hủy cơ thể, não bộ và rồi anh ta sẽ nhanh chóng trở thành một kẻ vô tích sự, anh ta không thể sống mà không có thuốc. Sự lệ thuộc đó khiến anh ta đánh mất dần vị trí của mình trên cuộc đời này.
Theo tôi, việc giáo dục thế hệ trẻ cần được chú trọng ở cả hai phương diện: một là tinh thần, hai là thể chất. Ngay từ rất nhỏ, việc giáo dục các bạn trẻ không chỉ là giảng dạy chữ nghĩa mà còn giúp họ học cách làm ra sản phẩm nào đó – họ cần học một số nghề thủ công hay rèn luyện một kỹ năng nào đó trong lao động sản xuất. Để tạo sự cân bằng, một nửa thời gian của họ nên dành cho các hoạt động tinh thần và một nửa còn lại dành cho những nhu cầu cuộc sống thiết thực. Nhờ đó, trước khi rời khỏi ghế đại học, họ sẽ không còn là những kẻ mộng mơ, sẽ không phải dựa dẫm người khác để thỏa mãn nhu cầu công ăn việc làm. Họ có thể tự làm ra những thứ họ cần.
Còn với những người vẫn cảm thấy một kiểu đổ vỡ nào đó, họ cần phải được điều chỉnh từ rất sớm. Người ta cảm thấy thất vọng có thể vì đã không định hướng học tập đúng. Có thể vì họ muốn trở thành nông dân nhưng lại bị đào tạo ra làm một bác sĩ; có thể họ muốn trở thành người làm vườn song ta lại biến họ thành kỹ sư.
Sự phát triển của khoa học tâm lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ trẻ định hướng con đường học tập đúng với tiềm năng của chúng. Ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học, rất cần có ít nhất một giờ thiền định bắt buộc để những học sinh nào cảm thấy thất vọng, suy sụp có một khoảng thời gian dành cho chính mình để tự vượt qua và loại trừ những thất vọng, áp lực ấy. Như vậy, họ sẽ không phải nhờ đến các loại thuốc. Thiền định chính là đáp án của họ.
Thế nhưng, thay vì áp dụng phương pháp này, các vị có chức trách lại tiếp tục làm những việc thật dại dột khác, đó là cấm đoán và trừng phạt. Cần biết rằng cả mười ngàn năm nay chúng ta đã cấm đoán và đã thất bại. Càng cấm rượu, càng nhiều người nghiện rượu, càng nhiều loại rượu nặng hơn xuất hiện. Hàng vạn người đã chết vì ngộ độc rượu, và ai chịu trách nhiệm đây?
Giờ đây, chúng ta lại phạt tù những người nghiện mà không hiểu rằng khi đã dựa dẫm vào thuốc, khi đã nghiện thuốc, người ta cần được điều trị chứ không phải trừng phạt. Họ cần được gửi đến một nơi nào đó để chăm sóc, để được học cách thiền định, và dần dần họ sẽ định hướng được cách tháo gỡ cho mình một cách tích cực hơn.
Thay vì vậy, họ lại bị bỏ tù – bỏ tù hàng năm trời! Giá trị làm người bị đánh mất. Kêu án mười năm cho một người hai mươi tuổi chính là đã tước mất khoảng thời gian quý giá nhất trong đời người mà chẳng có nghĩa lý gì cả, vì hơn bất cứ nơi nào, nhà giam là chỗ mọi loại thuốc gây nghiện đều có thể ra vào dễ dàng. Chính bạn tù sẽ là những ông thầy dạy cho những kẻ chơi thuốc hạng hai trở thành những tay sành sỏi. Mười năm đủ cho một anh chàng mới say thuốc trở thành tay chơi lão làng. Nhà tù chỉ dạy người ta được một điều thôi: ta chẳng làm sai gì cả, miễn là đừng bị tóm, chỉ cần đừng để bị tóm. Và bạn tù cũng sẽ là những chuyên gia dạy ta thành kẻ đào tẩu. Quả là một nghịch lý trớ trêu.
Những người đang rơi vào tình trạng cực kỳ hoang mang, dao động trốn tránh vấn đề của mình bằng cách hăng hái giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, cách giải quyết vấn đề của họ sẽ chỉ gây thêm nhiều hậu quả rắc rối chứ hiếm khi mang lại kết quả tốt đẹp.
Làm thế nào mưu cầu hạnh phúc cho chính mình khi nhân loại còn đối mặt với biết bao vấn đề: Đói, nghèo, điều kiện sống cùng khổ… Mọi người không có cơ hội để phát huy phẩm chất và tài năng của mình.
Thật ra, trước khi lâm vào hoàn cảnh ngặt nghèo, bạn đã không có được một nhân sinh quan độc lập, chín chắn về những vấn đề của thế giới. Ngôi nhà của bạn chỉ là một khối hỗn độn, tâm tư bạn cũng là một mớ bòng bong như thế - làm sao bạn có thể hiểu được những vấn đề mang tầm vĩ mô như vậy? Bạn thậm chí còn không hiểu được chính mình – đây là khởi nguồn của mọi sai lầm.
Những người đang rơi vào tình trạng cực kỳ hoang mang, dao động trốn tránh vấn đề của mình bằng cách hăng hái giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, cách giải quyết vấn đề của họ sẽ chỉ gây thêm nhiều hậu quả rắc rối chứ hiếm khi mang lại kết quả tốt đẹp. Các chính trị gia, các nhà kinh tế, những người còn được gọi là “nô bộc của dân”, các nhà truyền giáo… rất có thể trở thành những chuyên gia hàng đầu trong việc mang đến tai họa cho cộng đồng. Trong khi nhóm người này còn chưa thể giải quyết được vấn đề ý thức nội tại của chính họ thì họ lại xông pha cứu giúp người khác, xử lý hộ những vấn đề của người khác. Kỳ thực, bằng cách ấy, họ đang lẩn tránh những vấn đề của chính họ - không dám đối diện với nó.
Hãy nhớ rằng mỗi chúng ta đều có thể trở thành vấn đề của thế giới. Bạn chính là vấn đề và nếu bạn không thể tự chủ. Nếu bạn không thể tự kiểm soát mình, mọi hành động của bạn chỉ là làm mọi thứ thêm rối tinh lên. Trước tiên, cần phải sắp xếp lại ngôi nhà của chính bạn, thiết lập trật tự ở đó.
Có một câu chuyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ như thế này:
Một vị đại vương có đầu óc thiển cận than phiền rằng mặt đất gồ ghề làm đau chân ông ta nên đã ra lệnh trải da bò lên khắp vương quốc để bảo vệ bàn chân của mình. Một viên cận thần – vốn là một người khôn ngoan – bật cười trước mệnh lệnh của nhà vua. Ông nói: “Lệnh của bệ hạ thật ngớ ngẩn!” .
Quốc vương nổi trận lôi đình quát viên cận thần: “Nếu ngươi không đưa ra được một giải pháp tốt hơn, ngươi sẽ bị xử chết”.
Viên cận thần tâu: “Thưa bệ hạ, chỉ cần người lấy một mảnh da bò bọc đôi chân lại”. Và nhờ đó, người ta phát minh ra giày.
Đâu cần trải da bò cả mặt đất, chỉ cần bọc chính đôi chân của bạn lại là cả trái đất đã phủ da bò. Đó chính là xuất phát điểm của sự khôn ngoan.
Quả vậy, tôi thừa nhận trong cuộc sống có rất nhiều vấn đề. Đều là những vấn đề lớn. Cuộc sống như thể địa ngục. Ở đó có đói, nghèo, bạo lực, có đủ kiểu biến thái xuất phát từ sự điên cuồng của con người. Quả đúng như vậy. Song tôi nhấn mạnh rằng nguồn gốc những vấn đề ấy đều xuất phát từ tâm tư mỗi cá nhân. Vấn đề nằm ở đấy, bởi mỗi cá nhân đều là một mớ hỗn độn. Nói chung, mớ hỗn độn ấy chẳng qua chỉ là sự cộng hưởng của nhiều sự việc: Cuộc sống trở thành đối tượng để chúng ta trút hết mọi rắc rối của mình.
Thế giới cũng không là gì ngoài những mối quan hệ; mỗi cá nhân đều có mối liên hệ với người khác, với cả thế giới theo một cách nào đó. Tôi là người dễ kích động, anh là người dễ kích động: Khả năng mâu thuẫn, xung đột trong các mối quan hệ cứ thế sẽ tăng theo cấp số nhân chứ không phải gấp đôi. Và nếu mỗi người đều kích động, cả thế giới cũng sẽ đầy kích động. Adolf Hitler đâu phải từ trên trời rơi xuống – chính chúng ta tạo ra ông ta đấy chứ. Chiến tranh cũng đâu phải từ trên trời rơi xuống – chính chúng ta tạo ra chiến tranh. Xuất phát điểm bạn cần biết là: Chúng ta chính là vấn đề của thế giới. Vì vậy, đừng cố lẩn tránh hiện thực trong nội tâm của chính mình – đó là điều căn bản.
Chúng ta thường không nhìn ra được căn nguyên của vấn đề mà chỉ thấy các triệu chứng của nó. Đầu tiên, cần phải tìm trong chính mình đâu là cội rễ và cố gắng thay đổi nó. Nghèo không phải là nguồn gốc – lòng tham mới là cội rễ, nghèo chỉ là hệ quả. Người ta cứ đấu tranh chống lại cái nghèo nhưng sẽ chẳng đi đến đâu. Lòng tham mới chính là cái rễ cần phải cắt bỏ đi. Chiến tranh không phải là vấn đề, vấn đề là thói hung bạo trong mỗi cá nhân – chiến tranh chẳng qua là sự tổng hợp thói hung tàn của nhiều cá nhân lại. Bạn cứ tiếp tục chống chiến tranh đi nhưng chiến tranh sẽ chẳng dừng lại đâu. Một số người chỉ ham vui thôi, bạn có thể tìm thấy họ trong bất kỳ cuộc phản chiến nào.
Thuở nhỏ, tôi cũng từng rất thích những cuộc vui kiểu đó. Tôi tham gia mọi cuộc biểu tình đến độ người lớn trong làng bắt đầu lo lắng. Tôi đáp: “Cháu ham vui. Cháu không quan tâm vấn đề chính trị - chỉ là được gào thét cũng vui mà được vận động tay chân cũng vui”. Bạn có tham gia hay không cũng chẳng có gì khác biệt, chiến tranh vẫn tiếp diễn. Biểu tình vì hòa bình có thể biến thành một cuộc bạo loạn bất cứ lúc nào. Những người trong cơn phẫn nộ này, nhân danh hòa bình, đã phơi bày sự hung bạo của mình. Họ rất sẵn sàng tham chiến: nếu họ có quyền lực, nếu họ có bom nguyên tử, họ sẽ thả bom để thiết lập hòa bình. Đó chính là những điều các chính trị gia tuyên bố, rằng họ đang chiến đấu để thiết lập hòa bình.
Còn chiến tranh bởi còn tồn tại những người từ trong thâm tâm không hài lòng với chính mình, họ sẽ phát điên lên nếu không có chiến tranh. Cứ mỗi thập kỷ, một cuộc đại chiến có thể tháo gỡ giúp cho nhân loại chứng loạn thần kinh.
Như vậy, vấn đề không phải là chiến tranh nên phản chiến cũng chỉ vô ích. Vấn đề nằm sâu trong sự hung bạo của mỗi cá nhân. Còn chiến tranh bởi còn tồn tại những người từ trong thâm tâm không hài lòng với chính mình, họ sẽ phát điên lên nếu không có chiến tranh. Cứ mỗi thập kỷ, một cuộc đại chiến có thể tháo gỡ giúp cho nhân loại chứng loạn thần kinh. Hẳn bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng vào Thế chiến thứ nhất, các nhà tâm lý học chợt nhận ra một sự kiện lạ. Trong suốt cuộc chiến, tỷ lệ người loạn thần kinh rơi xuống gần bằng không. Không có tự tử, không có án mạng, những người rối loạn thần kinh dường như ngừng phát bệnh. Quả là lạ lùng – chuyện gì đã xảy ra với chiến tranh? Chiến tranh lại có những mặt tích cực đến không ngờ. Có lẽ, không xảy ra giết người bởi tất cả tội phạm đều đã nhập ngũ chăng; nhưng còn những người có ý định tự tử? Có thể họ đã gia nhập quân đội cả rồi. Còn những người mắc chứng loạn thần kinh? Chẳng lẽ họ cũng ngừng phát bệnh? Những sự kiện tương tự cũng xảy ra ở Thế chiến thứ hai, trên một bình diện rộng hơn – và thế là mối liên hệ được phát hiện, quả là có sự liên đới. Nhân loại cứ tích trữ dần dần những tiềm năng gây rối loạn thần kinh, tâm thần. Mỗi thập kỷ, họ phải bùng phát cơn tâm thần ấy ra. Vì vậy, khi xảy ra chiến tranh - chiến tranh nghĩa là con người phát điên trên bình diện tập thể - thì mỗi cá nhân không phải phát cuồng lên nữa. Lý do ở đây là gì? Tâm trí tất cả mọi người đều đang trong cơn cuồng loạn - chẳng còn lý do gì để phát điên trên bình diện cá thể nữa. Khi một dân tộc này truy sát một dân tộc khác, đã có quá nhiều sự tự tử và giết chóc rồi, người ta còn lý do gì để tự tay làm việc đó nữa? Người ta chỉ cần bật ti-vi lên và thưởng thức, người ta đọc về chiến tranh trên báo và tha hồ kích động.
Vấn đề không phải là chiến tranh, vấn đề chính là tình trạng căng thẳng thần kinh của mỗi cá nhân.
Hãy thay đổi từ cội rễ - chúng ta rất cần một sự chuyển biến triệt để chứ không phải là những cải thiện thông thường. Rất có thể bạn không nhận ra, tôi vẫn đang nói về việc thiền định nhưng bạn chưa nhìn ra được mối liên hệ, bằng cách nào mà việc thiền định lại liên quan đến chiến tranh.
Chỉ cần 1% nhân loại thiền định thôi, chiến tranh sẽ biến mất.
Đây là cách nhận thức của tôi: chỉ cần 1% nhân loại thiền định thôi, chiến tranh sẽ biến mất. Đó là con đường duy nhất. Vì rằng những năng lượng thiền định đã được phóng thích ra ngoài. Nếu chỉ 1% nhân loại – tức chỉ một trong một trăm người thiền định, trật tự thế giới sẽ hoàn toàn biến đổi. Lòng tham giảm xuống, tự nhiên, nạn nghèo cũng giảm. Nghèo đói tồn tại bởi mọi thứ trở nên khan hiếm; cái nghèo tồn tại bởi con người không ngừng tích trữ, bởi con người tham lam. Nếu chúng ta sống cho hiện tại, như thế là đủ; trái đất đủ cung cấp cho chúng ta mọi thứ. Nhưng nếu chúng ta nhìn đến tương lai, chúng ta sẽ nuôi dưỡng ý đồ tích trữ - và thế là vấn đề nảy sinh.
Hãy nghĩ đến cách những con chim tích trữ chiến lợi phẩm… một số con sẽ trở nên sung túc hơn và một số con còn lại sẽ nghèo đi; như thế, những con chim Mỹ là những con giàu nhất và cả thế giới còn lại lâm vào túng bấn. Nhưng thật ra, chim có tích trữ đâu, bởi nó làm sao hiểu được sự nghèo khó. Bạn đã bao giờ thấy một con chim nghèo chưa? Loài vật sống trong rừng sâu – không có sự phân biệt giữa con thú giàu và con thú nghèo. Thật ra, bạn chưa từng thấy con chim béo mập hay con chim gầy trơ xương. Mọi con quạ trông đều như nhau, bạn thậm chí chẳng thể nhận ra con nào là con nào. Tại sao vậy? Bởi chúng chỉ sống, chúng không tích trữ.
Thế giới sẽ hoàn toàn thay đổi khi người ta biết sống cho hiện tại, thân thiện và cẩn trọng... Mỗi cá nhân cần phải thay đổi bởi vì thế giới được cấu thành từ tập hợp những năng lực, phẩm chất, tâm hồn và ý tưởng của mỗi cá nhân.
Như thế, con người sẽ quan tâm đến những vấn đề của thế giới nhưng ở một tầm vóc khác. Đã có nhiều người đến gặp tôi: “Ông đang làm gì ở đây? Nghèo đói còn đó, ngu dốt còn đó, ông ngồi đây giảng giải về thiền định. Ngừng lại đi. Làm cái gì đó cho nạn nghèo kia kìa”. Thế nhưng, chẳng thể trực tiếp làm cái gì cho vấn nạn ấy cả. Năng lượng thiền định cần được phóng thích để con người biết sống cho hiện tại. Mọi đổi thay sẽ bắt đầu từ đó.
Một người, khi bắt đầu thiền định, là lúc anh ta bắt đầu thăng hoa. Là họa sĩ, anh ta sẽ trở thành danh họa tầm cỡ. Là nhà thơ, anh ta bỗng dưng nhận ra cảm hứng thi ca dào dạt tuôn chảy trong tâm hồn. Là ca sĩ, lần đầu tiên anh ta sẽ cất lên tiếng ca chân thành nhất của trái tim mình.
Khi chúng ta lặng yên, hướng sâu vào nội tâm, tĩnh tại, lập tức năng lượng sẽ được giải thoát. Ta sẽ trở nên tự do và sống đúng như bản chất của mình một cách hài hòa, tự nhiên; chúng ta bắt đầu làm việc của mình mà không lo âu việc ấy có được trả tiền không, có mang đến danh tiếng không. Chỉ cần chúng ta được sống an vui bình thản.
Nhưng vẫn có nhiều người lại thích đi đường vòng. Họ muốn thay đổi thế giới trước, rồi mới thay đổi chính mình. Nhưng hãy để tôi nói điều này, một khi đã đi quá xa, chúng ta sẽ chẳng còn cách nào quay trở lại.
Tôi từng nghe chuyện này: Ở một vùng ven Delhi, một thanh niên lái xe ngang qua chỗ ông già đang ngồi. Anh ta dừng xe, hỏi ông cụ: “Còn bao xa nữa thì đến Delhi?”. Ông già đáp: “Nếu đi con đường anh đang đi, tiếp tục hướng anh đang hướng, thì còn xa, xa lắm. Anh sẽ phải đi hết một vòng trái đất – bởi anh vừa rời khỏi Delhi được hai dặm rồi”.
Chỉ cần quay lại, đường sẽ không xa nữa – chỉ là một câu hỏi thoáng chốc. Nếu bạn dấn thân vào một hành trình thay đổi thế giới rồi sau đó mới nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình, sẽ chẳng bao giờ bạn làm được điều đó; sẽ chẳng bao giờ bạn còn có thể quay về nhà.
Hãy bắt đầu từ chính bạn. Bạn là một phần của thế giới mê muội này. Bằng cách thay đổi chính mình, bạn đang thay đổi thế giới. Tại sao cứ phải cố gắng thay đổi nhà hàng xóm? Biết đâu anh ta không thích điều đó, biết đâu anh ta không muốn điều đó, biết đâu anh ta cũng chẳng quan tâm đến điều đó. Nếu bạn đã ý thức được rằng thế giới rất cần một sự thay đổi lớn, vậy hãy bắt đầu từ thế giới gần gũi bạn nhất. Bắt đầu từ chính nơi này – từ chính bản thân chúng ta.
Tại sao tôi cứ mơ mộng viển vông về tương lai?
Ai ai cũng đều mơ mộng. Đầu óc con người luôn tạo ra những giấc mơ. Nếu không kiểm soát tâm trí, bạn sẽ còn viển vông mãi. Tâm trí không thể tồn tại trong hiện tại được – cả trong quá khứ hay tương lai cũng không. Không có cách nào cho tâm trí đứng yên trong hiện tại. Muốn sống trong hiện tại phải thoát khỏi những bận rộn suy tư xa xôi.
Đây là phút giây tĩnh lặng, không một ý nghĩ nào diễn ra trong đầu, trong tâm tư; màn hình ý thức tuyệt nhiên không một vết gợn; thốt nhiên, bạn ở trong hiện tại. Đó là một khoảnh khắc, một khoảnh khắc có thật – khoảnh khắc hiện thực, khoảnh khắc chân lý. Nhưng như thế, sẽ không còn quá khứ và không có tương lai.
Chúng ta thường hình dung thời gian có ba thì: quá khứ, hiện tại, tương lai. Về cơ bản, phân chia như thế là sai lầm và thiếu khoa học bởi hiện tại không phải là một phần của thời gian. Chỉ có quá khứ và tương lai là những đoạn thời gian. Hiện tại nằm bên ngoài thời gian. Hiện tại là vĩnh cửu.
Quá khứ là những gì không còn và tương lai là những gì chưa có. Cả hai đều không hiện hữu. Hiện tại là cái đang hiện hữu.
Quá khứ và tương lai là những đoạn của thời gian. Quá khứ là những gì không còn và tương lai là những gì chưa có. Cả hai đều không hiện hữu. Hiện tại là cái đang hiện hữu. Cái không hiện hữu và cái đương hiện hữu không bao giờ gặp nhau, vì thế chúng cũng không thể nào cắt ngang con đường của nhau.
Và thời gian cũng chính là tâm trí; tâm trí chính là phần quá khứ được lưu giữ lại.
Tâm trí là gì? Hãy phân tích nó, hãy nhìn sâu vào nó. Bạn thấy gì? Đó chỉ là những kinh nghiệm quá khứ chất chồng, tồn trữ. Tâm trí chỉ là một cái vỏ bọc bên ngoài, một lớp áo khoác. Nó chỉ đơn giản là sự lưu trữ toàn bộ quá khứ. Nếu từng ngày một bạn vứt dần quá khứ ra khỏi chiếc túi của mình, đến một lúc nào đó, chiếc túi sẽ biến mất.
Nếu quá khứ chỉ là hiện thực của tâm trí thôi, thế thì tâm trí có thể làm gì được? Tâm trí có một khả năng là nhai đi nhai lại hiện thực hết lần này đến lần khác. Đó là những gì bạn gọi là trí nhớ, là kỷ niệm, là hoài cổ. Bạn bước lùi lại lần nữa rồi lần nữa, lần nữa rồi lần nữa để trở về với những giây phút tươi đẹp, những thời điểm hạnh phúc đã thuộc về quá khứ. Bạn bám riết lấy những khoảnh khắc đẹp đẽ ít ỏi và thưa thớt ấy. Bạn cố quên đi những lúc khó khăn, khốn đốn.
Nhưng không phải lúc nào bạn cũng làm được điều ấy bởi chúng chẳng có ích gì, bởi những nỗ lực ấy dường như vô nghĩa. Vì thế, tâm trí tạo ra một hoạt động “có nghĩa” hơn, đó là mơ mộng về tương lai.
Tâm trí nói: “Vâng, quá khứ quả là tốt đẹp nhưng đã kết thúc rồi; chẳng còn làm gì được nữa. Nếu có thể làm được điều gì thì đó là trong tương lai, vì tương lai sẽ đến”. Vì vậy, bạn chọn từ quá khứ những kinh nghiệm mà bạn hằng mong muốn sẽ lặp lại và bỏ qua những kinh nghiệm khốn khổ, đau thương mà bạn chẳng hề muốn đối diện lần nữa trong tương lai. Mơ mộng về tương lai chẳng qua chỉ là sự hiệu chỉnh lại quá khứ - sắp xếp hợp lý hơn, đẹp đẽ hơn, như ý hơn, bớt đau buồn và nhiều niềm vui hơn. Đó là những gì mà tâm trí bạn làm và cũng là cách bạn lãng quên hiện thực.
Thiền định đơn thuần chỉ là những khoảnh khắc bạn rời bỏ tâm trí, trượt ra khỏi tâm trí. Bạn có mặt trong hiện thực, hiện thực như nó vốn là.
Thiền định đơn thuần chỉ là những khoảnh khắc bạn rời bỏ tâm trí, trượt ra khỏi tâm trí. Bạn có mặt trong hiện thực, hiện thực như nó vốn là. Những khoảnh khắc hiện hữu ấy đầy mê hoặc đến nỗi nếu đã trải nghiệm, bạn không thể ngừng mơ tưởng đến.
Bạn sẽ còn viển vông về trạng thái ấy mãi nếu chưa bắt đầu trải nghiệm thiền định. Nếu chưa nhận được nguồn sinh lực thiền định, trong tương lai, bạn vẫn sẽ là người đói kém và khát thèm. Tương lai sẽ chẳng thể mang đến cho bạn nguồn sinh lực ấy vì hôm nay đã là tương lai của ngày trước đó. Hôm qua, hôm nay đều đã từng là tương lai và bạn vẫn là kẻ mơ mộng đi giữa làm ranh giới mong manh giữa chúng. Chính ngay giờ phút này đang xảy ra chuyện gì? Bạn có hạnh phúc không? Hôm qua đã từng là tương lai của hôm kia đấy thôi. Quá khứ cũng đã từng là toàn bộ tương lai đã bị vượt qua và rồi tương lai cũng sẽ bị vượt qua như thế. Bạn đang tự phỉnh mình bằng những mơ mộng viển vông.
Hãy sống trong hiện tại, đến gần nó hơn nữa. Hãy nhìn bông hoa này, đừng nghĩ về bông hoa ấy. Hãy lắng nghe từ này, từ mà tôi đang thốt thành lời đây, chứ không phải từ tôi sắp nói. Hãy nhìn ngay bây giờ. Chỉ cần trì hoãn một khoảnh khắc thôi, bạn sẽ bỏ lỡ, nó sẽ trở thành thói quen của bạn, một thói quen thâm căn cố đế. Ngày mai rồi bạn cũng sẽ bỏ lỡ, ngày kia cũng thế, bạn sẽ lại bỏ lỡ bởi vì bạn là như thế, bạn không thay đổi. Thói quen mơ mộng viển vông sẽ ngày một nặng nề hơn.
Đêm nọ, tôi đọc được một câu chuyện dân gian Nhật Bản rất hay. Bạn nghe nhé.
Xưa kia, có một người đàn ông làm nghề xẻ đá. Công việc nặng nhọc và vất vả nhưng tiền công lại ít ỏi. Ông cảm thấy không hài lòng chút nào.
Vốn dĩ có mấy ai biết hài lòng với chính mình? Ngay cả hoàng đế cũng chưa chắc vừa ý, nói gì người xẻ đá? Công việc của anh ta tất nhiên là nặng nhọc mà công cán hầu như chẳng đáng bao nhiêu.
Người thợ thở dài vì công việc quá vất vả rồi bật khóc: “Trời ơi, ước gì ta giàu có để được ngủ trên giường phủ vải lụa”. Một tiên nhân từ trời xuất hiện, nói với anh ta rằng: “Ngươi đang được như ngươi muốn”.
Và điều đó quả thật đã xảy ra – không phải xảy ra trong các ngụ ngôn hay các câu chuyện đâu; nó thật sự xảy ra trong thực tế. Bạn nghĩ về mình như thế nào, điều bạn nghĩ sẽ xảy ra. Bạn tạo ra một thế giới bằng tâm tưởng, bạn tạo ra một thế giới bằng ước mơ. Bạn theo đuổi điều gì, điều ấy sẽ xảy ra. Thực tại vẫn luôn hợp tác với bạn. Nó vẫn luôn chờ một khoảnh khắc, cái ngày mà bạn sẽ hợp tác với nó. Cho đến lúc đó, nó vẫn luôn hợp tác với bạn.
Trở lại câu chuyện: Thế là người xẻ đá nọ trở nên giàu có, được ngủ trên một chiếc giường phủ bằng vải lụa.
Quốc vương ngồi trên chiếc kiệu che lọng vàng, dẫn đầu bởi một đoàn kỵ sĩ và bọc hậu bởi một đoàn kỵ sĩ khác. Một phú ông nhìn thấy cảnh ấy, cảm thấy buồn tủi vô cùng vì mình không có lọng vàng che đầu. Ông ta thở dài não nuột và than rằng: “Ước gì ta là vua”. Tiên nhân lại xuất hiện và nói: “Ông đang được như ông muốn”.
Vẫn là vị quốc vương ngồi trên kiệu với lọng vàng che đầu, với đoàn kỵ mã tiền hô hậu ủng, lúc ấy, mặt trời chiếu những tia nắng cháy bỏng như thiêu đốt đến nỗi cỏ héo quắt lại. Quốc vương phàn nàn rằng mặt trời làm bỏng mặt ngài, rằng mặt trời có nhiều quyền lực hơn ngài và rằng ngài chẳng hài lòng chút nào. Ngài thở dài và khóc rằng: “Ước gì ta là mặt trời”. Tiên nhân đến và nói: “Ngài đang được như ngài muốn”. Là mặt trời, ngài rọi thẳng những tia nắng lên cao và xuống thấp, sang trái rồi sang phải, mọi nơi, ngài thiêu đốt cỏ trên mặt đất và gương mặt mọi ông vua trên thế gian.
Bỗng nhiên một đám mây từ đâu đến chắn giữa ngài và trái đất, những tia mặt trời bị dội lại và ngài cảm thấy phẫn nộ vì có kẻ dám chống lại quyền lực của ngài, ngài thấy không hài lòng chút nào. Ngài ước được là đám mây đầy quyền lực, tiên nhân lại đến và bảo rằng: “Ngài đang được như ngài muốn”.
Thế là nhà vua trở thành đám mây, luôn chắn giữa mặt trời và trái đất, ngăn những tia nắng lại để cỏ mọc lên xanh tốt. Mây hóa thành những hạt mưa thật to rơi xuống trái đất, làm những con sông vỡ bờ và gây lũ lụt, cuốn phăng nhà cửa, tàn phá ruộng đồng. Ngài xô vào tảng đá nhưng đá cứ đứng trơ trơ ra đó, ngài rít thành những xoáy nước dữ dội nhưng đá không mảy may bận tâm, ngài phẫn nộ vì tảng đá không khuất phục uy quyền của ngài, rõ ràng sức nước vẫn chẳng là gì và ngài thật không hài lòng.
Ngài bật khóc: “Quyền lực của tảng đá này còn hơn cả ta. Ước gì ta được làm tảng đá”. Tiên nhân lại đến, nhà vua được làm đá, ngài trở thành tảng đá, đứng trơ trơ mặc nắng đốt mưa tuôn. Thế rồi một người đàn ông đến, mang theo cuốc chim, đục, búa tạ xẻ tảng đá ra thành những hòn đá. Hòn đá kêu lên: “Sao có thể như thế được, người đàn ông này còn mạnh mẽ hơn cả ta, ông ta cứ đẽo dần từng mảng đá ra khỏi thân thể ta thế này sao?” và hòn đá không hài lòng.
Ngài kêu lên: “Ta còn yếu đuối hơn cả người đàn ông này. Ta muốn được là ông ta”. Tiên nhân lại đến và nói: “Ngài đang được như ngài muốn”. Thế là hòn đá lại trở thành thợ xẻ đá. Anh ta lại đẽo đá ra từ những tảng đá to, công việc vô cùng vất vả và tiền công vẫn ít ỏi – nhưng anh ta cảm thấy hài lòng.
Tôi không đồng ý với đoạn kết câu chuyện. Đây là phần duy nhất tôi không đồng ý, còn lại, đó vẫn là một câu chuyện thật đẹp. Không đồng ý với đoạn kết bởi tôi quá biết con người – họ chẳng dễ dàng hài lòng bao giờ. Vòng tròn đã khép lại, tất nhiên câu chuyện phải kết thúc nhưng câu chuyện trong cuộc đời thật thì không tự nhiên khép lại. Vòng tròn sẽ lại bắt đầu chuyển động.
Đó là lý do người Ấn Độ nhìn cuộc đời như một “vòng trôn ốc”. Tự nó tiếp tục vận hành, tự nó sẽ lặp lại. Theo ý tôi, trừ phi người thợ đẽo đá trở thành Phật, nếu không câu chuyện sẽ vẫn lặp lại. Anh thợ đẽo đã vẫn sẽ không hài lòng. Anh ta vẫn sẽ muốn một chiếc giường đẹp và vải phủ bằng lụa, những chuyện cũ cứ thế lặp lại. Nếu người thợ xẻ đá thật sự hài lòng, anh ta chắc chắn đã phải bước ra khỏi vòng luân hồi sống chết. Anh ta nhất định phải thành Phật.
Đó chính là những điều vẫn xảy ra trong tâm trí chúng ta – bạn ham muốn điều gì đó, chuyện xảy ra như ý bạn nhưng vào lúc nó xảy ra, bạn nhận ra rằng bạn vẫn không hài lòng. Có một điều gì khác đang gây ra nỗi đau khổ này.
Đó là điều có thể hiểu được – nếu khao khát của bạn không được thỏa mãn, bạn thấy thất vọng; nếu được thỏa mãn, bạn cũng vẫn thấy thất vọng. Đó chính là nỗi đau khổ của tham vọng. Được hài lòng rồi, bạn vẫn thấy bất mãn. Bất thần, nhiều ham muốn mới mẻ khác nảy sinh.
Bạn chưa bao giờ nghĩ đến điều này, khi bạn là vua, có đội kỵ sĩ tiền hô hậu ủng, có lọng vàng che đầu thì mặt trời lại chiếu rát mặt bạn. Điều này bạn chưa bao giờ mường tượng ra cả. Thế là bạn mơ trở thành mặt trời, rồi biến thành mặt trời thật, nhưng bạn cũng chưa bao giờ nghĩ đến những đám mây. Khi những đám mây xuất hiện, bạn trở nên bất lực. Cứ tiếp tục như thế mãi, tham vọng nối tiếp tham vọng như những con sóng trên đại dương bất tận – trừ khi bạn hiểu ra vấn đề và bước khỏi vòng tròn khép kín ấy.
Tâm trí luôn nói với bạn rằng: “Hãy làm cái này, hãy là cái kia, hãy làm thế này, hãy làm thế khác... bởi không như thế làm sao có thể hạnh phúc được? Bạn phải có một lâu đài, chỉ có thế bạn mới được hạnh phúc”. Nếu phải thỏa mãn một tiêu chuẩn nào đó để được hạnh phúc, bạn sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc. Bạn sẽ luôn nhận thấy có một cái gì đó cứ hủy hoại hạnh phúc của bạn. Bạn sẽ luôn phát hiện ra có thứ gì đó mất mát, thiếu vắng. Và bạn sẽ còn mơ mộng rất lâu về cái “mất mát” ấy.
Rồi bạn sẽ không bao giờ có được cảm giác rằng mọi thứ, tất cả mọi thứ, đều đã đầy đủ. Thậm chí ngay khi mọi thứ đầy đủ rồi, bạn cũng sẽ chẳng hạnh phúc được. Hãy nhìn vào cơ chế hoạt động của tâm trí: nếu mọi thứ bạn muốn đều được thỏa mãn, bất thần, bạn sẽ thấy buồn chán. Chúng ta phải làm gì đây?
Tôi từng nghe rằng - và tôi nghĩ đó là chuyện đáng tin – mọi người trên thiên đàng đều cảm thấy buồn chán. Câu chuyện ấy xuất phát từ nhiều nguồn đáng tín cẩn, bạn có thể tin được: Rằng, trên thiên đàng, người ta ngồi dưới những cây-mãn-nguyện và thở vắn than dài. Bởi cứ khi nào họ ước muốn điều gì đó, thần tiên sẽ hiện ra và lập tức ước muốn ấy biến thành hiện thực. Chẳng còn một khoảng cách nào giữa ước mơ và hiện thực nữa. Họ mơ ước một mỹ nữ, một Cleopatra, thế là nàng xuất hiện. Rồi, giờ thì biết làm gì với nàng Cleopatra đây? Thật vô nghĩa – và việc họ chán nản là điều tất yếu.
Trong chuyện cổ tích của Ấn Độ có nhiều câu chuyện kể về việc các nàng tiên chán cảnh bồng lai đến nỗi chỉ mơ về phàm trần. Ở tiên giới, họ có mọi thứ. Có lẽ họ đã trải qua sự khổ luyện phi thường, có lẽ họ đã chối từ trần gian, các mối quan hệ, tất cả mọi thứ để vươn đến thiên đàng. Giờ thì từ trên thiên đường, họ mơ về hạ giới.
Tôi từng nghe chuyện kể rằng:
Viên phi công nọ lái một chiếc phi cơ mới, bay ngang qua Catskills(12), anh ta chỉ cho viên phụ lái một thung lũng xinh đẹp. “Cậu thấy chỗ đó không? Khi còn là một chú bé đi chân đất, tôi thường ngồi câu cá trên chiếc thuyền đáy bằng ở đó. Khi ấy, mỗi lần máy bay bay qua, tôi cứ nhìn lên và mơ rằng mình đang lái chúng. Giờ thì tôi nhìn xuống và mơ rằng mình đang câu cá ở dưới”.
(12) Tên một dãy núi nằm ở phía tây bắc thành phố New York của Hoa Kỳ, bao gồm những bình nguyên rộng lớn.
Mọi việc mãi còn diễn ra như thế. Khi không nổi tiếng, bạn muốn mình nổi tiếng. Bạn cảm thấy đau khổ vì người khác không biết đến mình. Khi bạn băng qua đường, không ai nhìn đến bạn, không ai nhận ra bạn. Bạn thấy mình kém cỏi và không có giá trị. Bạn làm việc chăm chỉ để được nổi tiếng. Rồi một ngày bạn nổi tiếng thật. Đến lúc đó, bạn còn không thể đi lại trên phố được nữa. Đám đông nhìn bạn chăm chăm. Bạn không còn một chút tự do nào, ngay cả trong nhà bạn cũng phải kín đáo. Bạn không thể cởi mở được nữa, bạn bị cầm tù. Bạn bắt đầu hồi tưởng lại những ngày tươi đẹp khi còn được đi lại trên phố, được tự do... như thể chỉ có mỗi mình mình tha hồ tung tăng trên đường. Rồi bạn mơ tưởng về những ngày cũ.
Voltaire viết trong hồi ký rằng khi chưa nổi tiếng, ông rất thèm khát điều đó. Ông đã làm việc cật lực để nổi danh nhất nước Pháp. Voltaire lẫy lừng đến mức cứ bước ra khỏi phòng là ông thấy sợ hãi. Thời đó, người ta tin rằng một mảnh trang phục của một người vĩ đại chính là bùa hộ mệnh cho họ, rằng đó là vật có giá trị hộ thân tuyệt vời. Nó có thể bảo vệ bạn khỏi ma quỷ, phòng tránh các tai nạn không may. Vì vậy, khi xuất hiện trước đám đông, Voltaire luôn phải có cảnh sát hộ tống, nếu không, người ta sẽ lao đến xé rách quần áo của ông. Có khi ông phải trở về nhà với những vết thâm tím và xây xát khắp thân thể. Voltaire ngán ngẩm chính sự nổi danh của mình. Đám đông cứ như đám sói chực vồ lấy ông. Rồi ông bắt đầu cầu nguyện: “Xin hãy giải thoát cho con! Con đã hiểu nỗi ám ảnh của người nổi tiếng. Con không còn muốn tiếp tục sống như vậy nữa”. Thế là điều nguyện ước xảy ra. Thiên thần đã đến. Dần dần, tiếng tăm ông cũng chìm lắng.
Con người rất dễ thay đổi quan điểm, họ không biết thế nào là nhất thành bất biến. Cũng như thời trang vậy, mọi thứ cứ thay đổi. Ngày nọ, bạn ngồi trên đỉnh danh vọng, ngày hôm sau, mọi người quên mất bạn là ai. Ngày nọ, bạn là tổng thống, ngày tiếp theo, bạn chỉ là công dân Richard Nixon(13). Chẳng ai quan tâm đến sự tồn tại của bạn.
(!3) Richard Nixon (1913 – 1994): Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ, nhiệm kỳ từ năm 1969 đến năm 1974.
Khi Voltaire đi đến nhà ga, ông đã thầm mong ít ra cũng có một người nào đó chờ sẵn để nhận ra mình; nhưng chẳng ai cả, ngoại trừ con chó của ông.
Khi ông qua đời, chỉ có bốn người đến vĩnh biệt, chính xác là ba người và một con chó. Ắt hẳn ông đã chết trong đau buồn và lần nữa, lại đuổi theo danh vọng.
Tâm trí không bao giờ để cho chúng ta hạnh phúc. Bất kể điều kiện thế nào, tâm trí luôn phát hiện ra được điều gì đó khiến nó không được hài lòng. Nói cách khác: Tâm trí là một cơ chế tạo ra sự bất mãn. Toàn bộ chức năng của nó là gây ra nỗi bất mãn. Nếu thoát được những nghĩ ngợi quẩn quanh trong tâm trí, ta sẽ bất ngờ sống trong hạnh phúc – chẳng vì bất cứ lý do nào cả. Thế đó, hạnh phúc tự nhiên mà có, như hơi thở. Khi thở, bạn thậm chí không nhận ra mình đang thở. Chỉ đơn giản là bạn đang thở thôi. Khi có ý thức, khi vô thức, khi tỉnh, khi ngủ, bạn vẫn thở. Hạnh phúc chính xác là như thế.
Tâm trí là một cơ chế tạo ra sự bất mãn. Toàn bộ chức năng của nó là gây ra nỗi bất mãn. Nếu thoát được những nghĩ ngợi quẩn quanh trong tâm trí, ta sẽ bất ngờ sống trong hạnh phúc – chẳng vì bất cứ lý do nào cả.
Hạnh phúc viên mãn là bản chất tối hậu của con người. Nó tồn tại một cách tự nhiên. Niềm an lạc là một trạng thái tự nhiên; không cần phải nắm bắt lấy. Khi nào bạn thoát khỏi sự vận hành của tâm trí, bạn bắt đầu cảm thấy an lạc.
Đó là lý do bạn nhận ra rằng người điên luôn hạnh phúc hơn những người tự nhận là tỉnh táo. Vì sao vậy? Họ đã gạt bỏ tâm trí rồi, dĩ nhiên là theo một cách lệch lạc nhưng rõ ràng là họ đã thoát ra khỏi tâm trí của họ. Người điên là người không kiểm soát tâm trí. Họ đánh mất tâm trí. Đó là lý do nhiều người điên vui vẻ đến mức bạn phát ghen tỵ với họ. Thậm chí biết đâu chúng ta cũng thầm nghĩ: “Bao giờ tôi mới được sống thanh thản đến thế?”.
Chuyện gì đã xảy ra với những người loạn trí? Anh ta không còn nghĩ gì đến cả quá khứ lẫn tương lai. Anh ta rơi ra bên ngoài dòng thời gian. Anh ta sống với vĩnh hằng.
Tình hình cũng xảy ra tương tự như thế với các kỳ nhân (mystic), bởi họ sống bên ngoài tâm trí. Tôi không bảo bạn trở thành người điên, tôi chỉ nói rằng có sự tương đồng giữa người điên và kỳ nhân. Đó là lý do vì sao các đại kỳ nhân đều trông có chút điên điên và những bậc đại trí đều có chút gì đó kỳ bí.
Nhìn vào đôi mắt một người loạn trí, bạn sẽ thấy đôi mắt ấy vô cùng kỳ lạ... sáng long lanh, thứ ánh sáng của một thế giới khác, như thể anh ta đã đến được cánh cổng tâm giới mở ra bản chất cốt lõi của cuộc sống. Anh ta thanh thản. Có thể anh ta chẳng có gì nhưng hạnh phúc. Không mộng tưởng, không tham vọng. Chẳng đi đâu. Đơn giản là nơi này... vui sướng, hân hoan.
Đúng thế, người loạn trí và những bậc kỳ nhân có điểm gì đó tương đồng. Đó là vì cả hai đều vượt thoát ra ngoài tâm trí. Người điên trượt khỏi tâm trí mình, còn những người đặc biệt sống vượt lên tâm trí của mình.
Tôi không nói rằng: Hãy điên đi! Tôi nói: Hãy trở thành những con người đặc biệt. Khi đó, ta có thể sống hài hòa một cách kỳ diệu với đời.
Bạn hỏi rằng: “Vì sao tôi cứ mơ mộng về tương lai hoài?”. Bạn mơ về tương lai bởi bạn chưa biết hiện tại. Hãy bắt đầu tận hưởng hiện tại. Hãy tìm lấy những khoảnh khắc mà bạn đơn giản cảm nhận được niềm vui. Khi bạn nhìn cây xanh, hãy là đôi mắt nhìn. Khi bạn lắng nghe chim hót, hãy là đôi tai lắng nghe. Hãy để điều đó dẫn dắt bạn đến cõi sâu thẳm nhất của tâm linh. Hãy để bài hát tỏa lan trong bạn. Khi bạn ngồi bên bờ biển, hãy lắng nghe âm thanh nguyên thủy của sóng, hãy trở thành con sóng... bởi thanh âm tự nhiên thuần túy ấy vô thủy vô chung. Nếu bạn có thể hòa mình với nó, bạn cũng sẽ trở thành một bộ phận hữu cơ của tự nhiên. Hãy ôm lấy một cái cây và thư giãn cùng nó. Cảm nhận bóng xanh của nó ngấm sâu vào bạn. Hãy nằm lăn trên cát, hãy quên thế giới đi, giao hòa với cát, với sự mát mẻ của nó, cảm nhận sự mát mẻ ấy đang thấm đẫm vào mình. Hãy đến dòng sông, đầm mình trong nước, hãy để dòng sông cùng bơi với bạn. Hãy té nước ra xung quanh và trở thành những bọt nước. Hãy làm gì bạn thích và hãy cảm nhận nó thật trọn vẹn. Trong những khoảnh khắc ấy, quá khứ và tương lai đều biến mất, sẽ chỉ còn bạn ở đây, vào lúc này.
Chân lý không nằm trong Thánh Kinh. Chân lý nằm ở những con sông, trong tiếng đại dương thầm thì vô tận, trong cái lặng im của muôn vì sao. Niềm vui nằm ở đấy. Cả vũ trụ là một thông điệp. Hãy giải mã. Hãy học ngôn ngữ của vũ trụ. Đó là thứ ngôn ngữ của hiện tại duy nhất.
Ngôn ngữ của bạn là ngôn ngữ của quá khứ và tương lai. Nếu bạn tiếp tục sử dụng ngôn ngữ của tâm trí, bạn sẽ không bao giờ hòa điệu, không bao giờ hài hòa với hiện tại mình đang sống. Và nếu không cảm nhận được sự hài hòa với thực tại, ta chẳng thể nào chấm dứt sự mơ mộng hão huyền.
Nếu bạn nói với một người khốn khổ vác bao đá thô trên lưng mà nghĩ mình đang mang kim cương châu báu rằng: “Hãy vứt hết đi. Anh thật ngốc. Đó chỉ là mớ đá thô thôi mà”, thì chắc chắn anh ta không bao giờ tin. Anh ta sẽ nghĩ rằng bạn đang chơi xỏ. Anh ta vác đá theo bởi đó là tất cả những gì anh ta có.
Tôi sẽ không bảo người đàn ông đó vất túi đi đâu. Tôi sẽ cố đưa anh ta xem hồng ngọc, lục bảo ngọc, kim cương thật. Chỉ cần liếc qua một cái thôi, anh ta sẽ vứt ngay cái túi của mình. Anh ta sẽ trút sạch cái túi của mình lập tức mà không cần ai mách bảo, bởi giờ đây anh ta biết mình phải bỏ thứ khác vào túi. Anh ta vứt đá đi bởi anh ta cần có chỗ để cất món mới.
Vậy nên hãy từ bỏ việc nghĩ ngợi đến tương lai, hồi tưởng về quá khứ. Hãy gắn bó nhiều hơn với hiện tại mà chúng ta đang sống.