Già Thoại bất chợt gặp chàng Hai dưới chân đồi Nhôm cụ gióng hươu sóng hàng mà ngắm, ngắm thoả thê cụ buột miệng:
- Số tráng sĩ có nhiều phúc tinh ám trợ, hậu vận hẳn gặp nhiều may mắn.
Chàng Hai xin lỗi rồi nói:
- Con thích định đoạt tương lai của mình bằng cây chày đồng chứ không phải bằng sự rủi may.
Già Thoại liếc nhìn, mỉm cười. Cụ với cây đàn ngoắc trên ngà hươu dạo vài nốt, rồi bằng giọng ấm áp cụ hát bài ca nói về quê hương để thử lòng anh bạn đường.
Nghe xong một bài, chàng Hai chắp tay tạ ơn:
- Thưa cụ, lòng con xiết bao xúc động.
Già Thoại gật đầu bảo:
- Lão chỉ là kẻ nhắc lại lời núi lời sông thôi!
Chàng Hai hăm hở thưa:
- Lời cụ hát đang bốc cháy trong lòng con!- Anh vỗ cổ ngựa giục: - Bước nhanh tuấn mã!
Già Thoại ngước mắt nhìn về nẻo xa, nói như tự nhủ mình:
- Bà con Giao Chỉ biết trong này có nhiều tuấn kiệt như chàng ắt mừng lắm.
Chàng Hai nhún mình trên lưng ngựa:
- Xin cụ đừng nói thế. Nhân tài trong cõi Giao Châu ta thiếu gì, Bà Triệu mới thực là người lạ, con đáng kể chi!
Hai người đi vào vùng núi cao lớp lớp, cây lớn um tùm, thoạt nhìn đã thấy hiểm trở. Quả Tả môn sơn và quả Hữu môn sơn trong dãy Bát Noãn khép gần nhau tạo thành cái cổng thiên nhiên hùng vĩ, hai cánh gà là khu rừng rậm rạp và đồng lầy xanh rì cỏ, lúa ngăn cách rừng ngoài với căn cứ núi Nưa. Nhìn qua khoảng giữa hai quả Tả, Hữu ta thấy một dải rừng thấp nhấp nhô côn cộn, đọng đầy sương; Xa nữa dãy núi Nưa màu lam cao lừng lững, đỉnh ẩn trong mây.
Từ đâu đấy vọng xuống ba hồi công rền vàng trong vách núi. Nơi nào đó ở phía sau, vẳng đến từng tiếng lệnh.
Gió nhẹ thổi. Tiếng chim hót líu lo từ cành cây này chuyền sang cành cây khác. Một vệt nắng vàng lách qua dãy núi phía sau quét lên khoảng trống của hai quả Tả, Hữu xuyên thủng làn sương mỏng rồi đập vào tận vách núi phía xa.
Bầu trời xanh loang mở. Con chim ăn đêm bay về muộn kêu hốt hoảng trên không trung. Ánh nắng ban mai chan hoà khắp nơi.
Màn sương sớm tan dần.
Chàng Hai thúc ngựa đi vào khe Tả Hữu. Già Thoại giục hươu bước tiếp. Họ đi trên con đường hẹp luồn dưới tán cây um tùm; Bên này đồi trọc, bên kia qua dòng suối chảy róc rách là đồi cây rậm rạp.
Đi chừng đôi đường, con hươu bỗng dừng chân, ngúc ngoắc đầu, không chịu bước. Già Thoại gọi với lên bảo chàng Hai:
- Có ác thú rình đường ta đi!
Chàng Hai ngoái đầu lại đáp:
- Con sẽ không tha vật nào dám ngăn trở bước chân ông con ta- Anh vỗ cổ ngựa khích lệ: - Ta với mi vào sinh ra tử chưa nhiều, nhưng ta quyết xứng đáng là chủ mi. Đi đi!
Con ngựa mới bước được dăm bước đã dừng lại, gõ vó hí khẽ.
Chàng Hai vỗ cổ ngựa giục:
- Cứ đi, tuấn mã!
Con ngựa miễn cưỡng bước. Thỉnh thoảng nó lại nghển cổ hí một tiếng.
Chàng Hai tháo cung rút tên chuẩn bị sẵn sàng.
Cách đó không xa, một con trăn bụng kềnh kệnh nằm vắt ngang đường như khúc gỗ mục chắn lối đi.
Chàng Hai thúc ngựa tiến lại gần. Anh giương cung nhằm con trăn toan bắn lại thôi. Anh không muốn hạ sát con vật hiền lành. Anh khoác cung, hườm tay lên Tây Vu bảo khí, gầm lên một tiếng rồi đẩy bàn tay kia lên phía trưóc.
Con trăn bị sức ép cả sợ liền chuyển mình, lao vụt qua suối rào rào chui vào rừng.
Họ thả dây cương thong thả bước trên con đường hẹp. Tới đoạn rẽ ngược lên đồi thì bất chợt, hai người vận quần áo chẽn, xanh, đầu buộc khăn mỏ rìu, từ trên đầu dốc bước ra giơ chéo giáo chặn lại.
Dưới khu rừng bên, một người lực lưỡng vai khoác cung, tay cầm đoản đao, lội ào ào qua suối, ông ta cúi mình chào, hỏi:
- Cụ và tráng sĩ là ai, từ nơi nào tới?
Già Thoại trả lời:
- Lão từ ngoài Giao Chỉ vào bệ kiến lệnh bà!
Chàng Hai xuống ngựa, chắp tay đáp lễ:
- Tôi là Hai từ thượng nguồn sông Mã xuống đây. Xin được bái kiến Triệu Nương!
Người nghĩa quân làm nhiệm vụ đón khách mời hai người sang bên kia suối vào lán Nginh Tần nghỉ, một mặt sai quân phi báo lên đại bản doanh.
Khoảng vài giờ sau các cừ súy Minh Châu, Tưởng Liêm, Trình Quang cưỡi ngựa xuống đón. Cố nhân gặp cố nhân, vui mừng không sao kể xiết.
Chàng dũng sĩ chắp tay hướng về Minh Châu nói:
- Kẻ vong nhân này không bao giờ quên hạnh ngộ trên bến đò Đợi!
Minh Châu nhìn chằm chằm vào mắt chàng Hai, toan nói gì lại thôi.
Họ sóng ngựa lên đồi rồi đi xuống con đường mòn rộng nằm trong tán lá cây râm mát.
Tới chân núi Nưa, Lãnh Long, Bao Thúc... gần mười người đợi sẵn ở đó.
Bà Triệu ra tận cổng đại bản doanh đón khách. Trông thấy chàng Hai, Bà cười lớn:
- A anh chàng bắt nạt ta bữa nọ đây rồi.
Thoáng trông thấy hình dáng cao to kỳ vĩ của Bà Triệu, Già Thoại lật đật phủ phục xuống đất.
Bà Triệu vội vàng đỡ ông già phúc hậu dậy. - Chớ làm thế! Cụ chớ làm thế!
*
Mấy tháng sau, trong một vạt rừng ngoài Giao Chỉ ngồi trước đống lửa hồng, xung quanh là nam nữ nghĩa quân, ông già bà cả và trai mạnh gái đảm trong vùng, Già Thoại chầm chậm kể tiếp.
-... Hôm trước tôi tạt vào quán nước ven đường nghỉ chân, một cụ già tả: Bà cao chín thước, lưng rộng mười ôm, tay dài quá gối, tiếng nói như chuông, bước đi như hổ... tôi nghĩ đã là ghê. Đến lúc được bái yết thì... các bạn ạ, Bà đứng im mà mình cứ run lên cầm cập. Đời tôi bôn tẩu nhiều nơi, khi lên miền Bình Văn mây phủ, lúc xuống vùng Nhật Nam rừng cây biển nước liền nhau, tôi đã gặp nhiều anh hùng hào kiệt, nhưng chưa từng gặp một ai kỳ vĩ như Bà.
Bà đứng lồng lộng trên đỉnh núi, một bên là mỏm đá to, một bên là khoảng trống, sau lưng nền trời xanh dệt mây trắng, trên đầu từng cao vời vợi, thăm thẳm mênh mông.
Một cụ già gật gù nhận xét:
- Thực là người Trời!
Già Thoại kể tiếp nhiều chuyện về Bà Triệu. Giai thoại nào cũng hấp dẫn đối với người dân Giao Chỉ đang nghẹt thở dưới ách đô hộ của giặc Ngô.
Hồi Bà Triệu còn ở nhà, có người ép bà lấy chồng. Bà bảo:
- Giang sơn tủi nhục, chúng dân rên xiết, ta vui thú gì mà tính chuyện chồng con.
Vậy tại sao ông lão ở quán nước lại nói đến việc: "Bà vắt vú ra sau lưng cho bú?". Thì ra một chị trong bản Tả Hữu giúp việc bà có con nhỏ, chị ta xuống núi về muộn thằng bé đói sữa, dỗi quấy đa đả. Bà dỗ thế nào nó vẫn cứ khóc ngằn ngặt, chị nó liền bồng em chạy ra mép đỉnh núi ngóng mẹ. Mẹ chẳng thấy về mà thằng em cứ khóc toáng lên. Lúc ấy Bà đang cùng các nữ cừ suý Minh Châu, Vạn Hoa Vân, Tưởng Liên, Hoàng Hoa. Bàn công việc gì đó. Thấy đứa bé khóc quá, bà vẫy tay gọi lại. Đứa chị bế đứa em đến đứng sau lưng Bà. Bà liền vạch áo, lôi vú vắt qua vai bảo đứa chị: "Cho em bú". Còn Bà thì vẫn tiếp tục cùng các nữ Cừ suý bàn việc. Cầu chuyện ông lão trong quán nước nói nguyên do là thế.
Một cụ già chắp tay, lầm cầm khấn khứa:
- Lạy đức Bà! Đức Bà sẽ nuôi nên con trăm con nghìn!
Già Thoại vẫn kể tiếp:
- Một bận tên Thái thú Cửu Chân biếu huyện lệnh Triệu Quốc Đạt một bộ ấm chén, một bộ đỉnh bằng đồng rất quý, mới mang từ kinh đô Kiến Nghiệp sang. Chả là Thái Thú Cửu Chân biết anh em họ Triệu là người trí dũng, muốn mua chuộc hai vị để thu phục lòng dân.
Nàng Bông quý lắm. Quý hơn vàng. Lúc nào mụ ta cũng nắc nởm khen vật dụng của Ngô đẹp.
Đức Bà nổi giận. Bà không chịu nổi bất cứ kẻ nào (1) mở mồm là tán tụng giặc. Bà đập bẹp bộ đỉnh, bóp nát bộ khay chén quẳng ra sân bảo:
1. Chi tiết này tác giả thu thập được vào dịp vào núi Nưa, do bà vợ đồng chí Phạm Tiến, Phó bí thư Đảng uỷ xã Triệu Sơn cung cấp.
- Khi nào dân ta làm chủ nước ta, những người thợ Lạc Việt sẽ làm nên những vật dụng đẹp, bền bằng vạn thế này.
Chuyện đến tai bọn Ngô. Thái thú Cửu Chân sai người về hạch.
Đức Bà bảo:
- Sống trong vòm trời đất này, người Lạc Việt chẳng thua kém ai.
Tên quan Ngô cười khẩy hỏi:
- Gương nghịch nữ họ Trưng hãy chưa mờ. Cột đồng trụ của Mã Văn Uyên còn trờ trờ trước mắt. Mắt Ấu Triệu sáng hay mù?
Đức Bà cau mày bảo:
- Tô Định phải cắt râu, cởi áo bỏ lại để chạy thoát lấy thân. Xác Ngô chết chất đầy bốn cửa thành Luy Lâu(1), máu Ngô chảy còn ấm đất Cổ Loa(2) Và gần đây thây Chu Ngung, Chu Phủ(3) vẫn chưa tiêu hết trong bùn lầy Lạc Việt... Hỏi rằng người nhớ hay quên?
*
Hôm sau Bà Triệu mời Già Thoại lên đại sảnh. Đại sảnh là mỏm núi lộ thiên. Bên phải chín suối nước trong vắt, ngày đêm róc rách chảy. Bên trái đài viễn vọng đứng ở đây có thể nhìn khắp bốn Phương. Trên bãi phẳng là đại sảnh lô nhô nhiều tảng đá nhỏ, bệ đất và lùm rơm - đó là ghế ngồi.
1. Trận thắng quyết định của Hai Bà Trưng diễn ra tại thành Luy Lâu – Thủ phủ đô hộ của Đông Hán.
2. Trận đánh diễn ra ở Cổ Loa, quân Mã Viện bị quân Hai Bà Trưng đánh cho đại bại.
3. Chu Ngung, Chu Phủ là hai tên Thứ sử, bị Binh sĩ và nhân dân Giao Chỉ nổi dậy giết chết.
Phía trong cùng sát mép núi, xế bên trái là phiến đá to phẳng lì. Người già nhất Cư Phong bảo rằng, xưa kia đỉnh núi Nưa không có phiến đá ấy. Một đêm giông tố, chớp giật sấm rền, trời xui thiên binh mang phiến đá đó xuống đặt ngay ngắn trên đỉnh núi. Những tốp thợ săn thường dùng nó làm giường ngả lưng nghỉ chốc lát. Phiến đá rất nặng, có bận hàng chục thợ săn hùn sức tới vần thử mà không chuyển. Bà Triệu lên núi tụ nghĩa lấy phiến đá làm ghế ngồi. Từ đó nghĩa quân và dân chúng quanh vùng gọi phiến đá ấy là "Ngai Bà". Không một ai dám động chạm tới phiến đá thiêng liêng này nữa.
Bà Triệu ngồi trên "Ngai Bà" bên cạnh là mỏm đá, sau lưng là bầu trời xanh điểm mây trắng bồng bềnh trôi. Bà hỏi cặn kẽ tình hình dân ta và giặc Ngô ngoài Giao Chỉ.
Già Thoại ngồi trên chiếc ghế rơm đối diện. Cụ chậm rãi kể không thiếu một điều thiết yếu nào.
Nghe xong Bà Triệu đứng dậy, tì khuỷu tay lên mỏm đá nói:
- Dân ta khổ cực nhiều rồi. Núi sông Lạc Việt lại thuộc về tay dân Lạc Việt. Cụ nghỉ ngơi vài ngày rồi mau mau trở ra Giao Chỉ nói cho cha mẹ, anh chị em ta ngoài đó hãy liếc gươm cho sắc, mài giáo cho nhọn... Ngày một ngày hai ta sẽ cùng trai gái trong này kéo ra tiếp sức cho họ đòi lại đất nước của ông bà.
Già Thoại vái lạy xin vâng lời.
*
Bà Triệu ngồi nói chuyện với người con trai hùng mạnh của già Hống với tâm trạng phấn chấn đặc biệt. Bà đã được già Hống kể đôi điều về chàng trai hoàn hảo này.
Bà nói:
- Ta vui mừng được gặp chàng. Và ta mong được nghe tin tức cha chàng.
Chàng Hai vái lạy tạ ơn đoạn ngồi xuống chiếc ghế rơm. Anh cung kính truyền đạt lời già Hống gửi tới và ngỏ ý muốn trình bày sứ mệnh của mình mà người cha chu đáo đã giao cho.
Nét mặt Bà Triệu rạng rỡ hẳn lên. Bà giục:
- Ta đã quét sạch lòng mình để nghe chàng đây. Có lời nói hay, có ý nghĩ tốt, chớ tiếc ta.
Chàng Hai chắp hai tay tì lên đùi, chậm rãi đề cập kế hoạch xây dựng nghĩa quân, anh chứ trọng việc tổ chức, huấn luyện và tác dụng to lớn của các binh chủng đặc biệt.
Bà Triệu hơi nghiêng mình, tựa vai lên mỏm đá, tay tỳ cằm, mắt mở to lắng nghe. Càng nghe càng tỏ ra chăm chú. Nghe xong, Bà ngồi ngay người chằm, chằm ngắm chàng Hai. Vầng trán rộng phẳng phiu, đôi mắt to đen sáng lóng lánh và cặp môi hồng mím chặt, kết hợp với thân hình kỳ vĩ khiến bà toát lên vẻ đẹp tôn nghiêm khác thường. Bất chợt, Bà đứng dậy khoanh tay nhìn trời xa.
Chàng Hai đứng lên theo.
Giọng nói oang oang sung sức, chan chứa sức mạnh tiềm tàng của Bà Triệu vang lên.
- Trời đã sai cha con chàng xuống giúp ta dựng lại cơ đồ Lạc Việt. Mừng cho dân ta nước ta!
Chàng Hai nghiêng mình tạ ơn.
*
Sau vài ngày bàn bạc công việc, Bà Triệu thân dẫn chàng Hai đi thăm căn cứ núi Nưa.
Trên đường nghĩa quân qua lại nườm nượp. Tốp vào rừng săn bắn, tốp xuống nương chăm sóc sắn ngô. Nam giới lưng đeo đoản đao, vai khoác cung tên. Nữ giới mang kiếm lủng lẳng bên hông, tay cầm cuốc. Gặp Bà Triệu các chàng trai chào hỏi thành kính nhưng các cô gái cứ đon đả quấn quít như chị em.
Một nữ nghĩa quân tách khỏi đội ngũ, khoanh tay cúi chào Bà Triệu và khách rồi nói:
- Trình chị! Xin chị xem em múa kiếm đã được chưa?
Bà Triệu bằng lòng. Người nữ nghĩa quân xuống tấn đi luôn bài kiếm xung trận.
Hai người đi sâu vào khu rừng rậm rạp âm u, lội ba con suối, leo lên quả đồi thông, đi xuyên qua rừng nga thì gặp dãy nhà nằm bên bờ suối.
Bà Triệu chỉ những mái nhà lợp cờ tranh phía trong vòng hàng rào có hoa râm bụt đỏ thắm xen kẽ hoa dong dại vàng tươi, nói:
- Nơi rèn gươm giáo, đúc tên đầu đồng của nghĩa quân ta.
Hai người đi dọc theo bò suối, tiến vào khe núi. Họ bước qua chiếc cầu gỗ vững chắc theo con đường mòn, leo ngược lên quả đồi trọc, đoạn đi xuống mảng rừng thưa hẹp. Lưng trời, cắt lướt, én chao. Khắp nơi vang lừng chim ca vượn hót. Cách đấy không xa con gấu ngựa đen kịt thản nhiên đi trên nền lá mục, dưới những gốc cây mốc xanh, thấy người nó đứng hai chân ục ịch đi sang khu rừng dẻ.
Chàng Hai nhận xét.
- Thực là miền đất lạ!
Bà Triệu gật đầu.
Họ đi tiếp một đỗi dài thì nghe ồn ào náo động tiếng người.
Từ phía xa, một kỵ mã phi ngay lại, người đó là Vương Thiện. Anh kéo quân lên núi quy phục Bà Triệu cách đây một tháng. Anh được bà rất tin yêu. Chí nguyện của anh như vậy là thoả. Nhưng có một điều...
*
Ngựa chưa kịp dừng, Vương Thiện đã nhảy phắt xuống đất, anh chạy tới lạy chào Bà Triệu đoạn quay sang nói với chàng Hai:
- Không bao giờ tôi dám quên ơn tráng sĩ.
Chàng Hai đáp:
- Hãy cảm ơn Chúa tướng là người chiêu tụ chúng ta!
Bà Triệu mỉm cười. Bà không thích nghe những lời nói như thế nên chuyển sang chuyện khác.
- Vương cừ suý! Ta giao hết thảy nữ binh cho Minh Châu thao luyện phép bắn cung được không?
Vương Thiện đáp:
- Cừ suý Minh Châu sẽ không phụ lòng tin cậy của Chúa tướng.
Bà Triệu gật đầu bằng lòng. Bà im lặng bước ra thung lũng.
Ngoài bìa rừng, từ trong khe đồi bên kia thung lũng một đoàn kỵ mã lững thững đi ra, phi nước kiệu trên con đường mòn rìa sườn đồi, phi ngược lên đỉnh rồi phóng xuống bên kia đồi.
Bà Triệu ngoảnh nhìn Vương Thiện bảo:
- Kỵ binh giặc đồng lại tinh nhuệ, kỵ binh ta ít lại chưa thành thục. Đưa kỵ binh ta đối mặt với kỵ binh giặc là điều tối kỵ. Ta muốn Vương cừ suý luyện kỵ binh trở thành đội du binh lợi hại!
Vương Thiện đáp.
- Xin tuân lệnh Chúa tướng!
Nói rồi anh cáo biệt trở lui.
Bà Triệu, chàng Hai theo con đường nhỏ nằm giữa thung lũng đi sang con đường sườn đồi. Họ không vượt qua đồi theo đường đoạn kỵ mã vừa phi lên mà đi từng vòng.
Ở phía trước hiện ra một thung lũng rộng lúa xanh rờn, dăm bảy người đang lúi húi xới đất nhặt cỏ. Những ngôi nhà dài lợp lá cọ dựng san sát hai bên sườn đồi. Trên các nẻo đường ngoằn ngoèo, các bà gánh cỏ, các chị quẩy nước đi về thành từng hàng dài. Có chị vừa bước rảo vừa cất tiếng hát véo von.
Bà Triệu bặm môi giây lát rồi nói:
- Buổi đầu lên núi, nghĩa quân ta gặp bao nỗi khó khăn, khí giới thiếu, lương thực cũng không đủ. Nhiều bận phải ăn cháo khoai mài, canh rau sắn cho qua bữa. May nhờ lòng dân không nỡ bỏ... ơn này bao giờ ta dám quên.
Chàng Hai thưa:
- Trong nhà mà cha mẹ, anh em cùng một lòng thì từ xuống sông đánh cá đến vào rừng săn bắn đều dễ dàng, nhanh chóng.
Bà Triệu gật đầu tỏ công nhận.
Hai người nhẩn nha bước tiếp sang bên kia thung lũng, leo lên đồi.
Con đường lao xuống dốc, lách qua hẻm đồi mất hút rồi hiện ra bên dòng suối nhỏ, xuyên vào thung lũng hẹp chạy dài. Bên kia, chân núi dựng đứng, lởm chởm những mỏm lô nhô, bên này đồi trọc, đồi cây xen kẽ nhau. Trong thung lũng một bầy voi xếp hàng ngang. Lãnh Long cưỡi trên đầu con voi to lơn, tay cầm lá cờ lệnh phất ngang phất dọc. Nhũng con voi hoang hung dữ đang được thuần phục tiến tiến lùi lùi, rẽ phải ngoặt trái...
Con voi trắng một ngà bị xích vào gốc cây lớn, ở ngay đầu lối vào thung lũng. Nó không tham gia luyện tập bởi vì từ ngày hàng phục Bà Triệu nó không phá phách điên cuồng như thói hoang đã xưa nhưng ngoài bà nó không cho một ai cưỡi. Cả ngày, nó thản nhiên nhìn đồng loại làm các động tác quật vòi, giày chân... khi buồn hoặc cao hứng nó nâng vòi vung vẩy trên không, giơ chân đạp thình thịch đu đưa toàn thân và khe khẽ rống lên.
Chợt trồng thấy Bà Triệu, nó quỳ gối vươn cao vòi chờ đợi- Nó muốn chủ đến gần.
Bà Triệu bước tới. Bà vỗ vỗ lên trán con voi và móc túi lấy ra một phên đường. Con voi giơ vòi gắp miếng đường, lùa vào miệng vừa nhai sồn sột vừa ọ ọ với vẻ sung sướng.
Lãnh Long chạy lại chào. Bà Triệu chỉ bầy voi nói với chàng Hai:
- Hoa Nương khuyên ta lập đội tượng binh. Ta chưa thấy sách nào viết, cũng chưa từng nghe ai nói đến việc dùng tượng Binh nên vẫn phân vân. May được gặp Lãnh cừ suý nên mới có hai chục thớt voi này. Theo Binh pháp, người tướng giỏi phải biết tạo nên cơ hội bất ngờ để đánh thắng kẻ địch. Voi ra trận là một điều lạ. Ta muốn có một trăm thớt voi và muốn dùng cung tên làm khi giới cho tượng Binh. Hai người nghĩ sao?
Chàng Hai đáp:
- Cha tôi đã có hai mươi thớt voi chịu điều khiển. Tôi đi chuyến này sẽ cố mang về khoảng ấy nữa. Binh cần giỏi không cần nhiều. Chúa tướng nên cho đúc đồng, rèn lao sắc cho tượng Binh.
Bà Triệu dặn dò Lãnh Long và nghĩa quân mấy lời rồi cùng chàng Hai trở về, gõ cửa nhà già Nghệ.
*
Già Nghệ, người điều khiển xương công cụ của nghĩa quân bước ra, nhìn ngước lên nói:
- Nghe chim hót đầu nhà, biết có khách quý tới chơi. Chào Nàng Triệu anh hùng! Chào chàng Hai lực lưỡng.
Bà Triệu phẩy tay mỉm cười đáp:
- Cụ tôn xưng khiến ta ngượng ngùng!
Mặt chàng Hai ngỡ ngàng ngắm những chiếc trống đồng đẹp đẽ đặt ở hè nhà, Bà Triệu theo già Nghệ vào nhà. Khách chủ ngồi trên đoạn gỗ cưa bằng, ở giữa là chiếc bàn cũng bằng đoạn gỗ to hai người ôm không xuể.
Bà Triệu cất tiếng hỏi:
- Thưa cụ, em ta đâu?
Một cô gái từ gian buông bên bước ra chắp tay cúi đầu chào khách rồi lùi lại đứng đằng sau bố.
Đó là một cô gái mảnh mai, cổ thuôn cao kiêu kỳ, nét mặt sáng sủa thông minh, cặp mắt to óng ánh thêm sắc sảo vì hàng mi dài cong cong, đôi môi hồng chúm chím chứng tỏ chỉ chứa đựng những âm thanh dịu dàng, ngọt ngào, lại thêm mớ tóc dài thướt tha buông xoã sau lưng và chiếc áo dài làm nổi lên thân hình thon thả khiến cô càng mềm dịu, óng ả. Mọi chi tiết đều gom sức làm tăng vẻ đẹp kiều diễm của cô.
Bà Triệu nghiêm mặt bảo:
Sao em ta lại mặc thứ áo này?
Bọn Ngô đang ráo riết tiến hành nhiều biện pháp đồng hoá dân ta, biến người Việt thành người Ngô lâu dần làm cho người Việt quên tổ tiên ông bà, coi thường gốc đa giếng nước, vô ơn các bậc tiên liệt đã dựng nên nơi quần tụ sầm uất này. Cả dân tộc Lạc Việt ngấm ngầm chống lại, họ nhuộm răng đen ăn trầu, búi tóc, xăm mình... Nhưng cũng không ít người hoặc vô tình hoặc cố ý đua đòi kiểu lạ làm những việc tự sỉ nhục mình gây nên vết nhơ bẩn trên cơ thể cường tráng của dân tộc.
Bà Triệu là người kiên quyết chống chủ trương "Bắc hoá" của giặc Ngô và coi người cố tình tiêm nhiễm thói xấu đó là kẻ phản bội đê tiện.
Chiếc áo dài mà cô gái mặc có một quá trình diễn biến tự nhiên. Hồi già Nghệ còn mở hàng rèn trong Tư Phố, Tam Bang - một người bạn Ngô đã tặng cô chiếc áo mỏng manh bằng lụa Hứa Đô. Chiếc áo này theo kiểu của các cô gái Ngô đài các, mặc vào có tác dụng tôn thêm vẻ đẹp dịu dàng, óng ả của người con gái. Chiếc áo ấy rách cô dựa theo kiểu may tiếp vai chiếc khác. Hôm nay có khách quý đến nhà cô mặc áo đẹp để tỏ lòng tôn kính khách. Nhưng cô đã bị người khách tôn kính khiển trách.
Cô gái nhướng đôi mi dài cong cong nhìn cha, nhìn Bà Triệu khẽ khàng thưa:
- Trình chị! Giặc Ngô tàn bạo, em ghét nó. Nhưng em dám xin chị hãy thương những cái hay của người Ngô.
Bà Triệu lắc đầu bảo:
- Giặc kia có gì đáng thương? Tiếng nói nó chửi rủa ta, nụ cười nó nhạo báng ta, bàn tay nó đốt nhà, vơ của và chém giết người Lạc Việt ta. Em chớ có làm điều gì trái ý ông bà tổ tiên!
Cô gái cúi đầu nhận lỗi đoạn khép nép lui vào buồng thay áo khác.
Bà Triệu đẹp lòng. Chàng Hai bước vào. Bà Triệu vẫy tay bảo anh ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh mình. Chàng Hai vừa ngồi xuống đã đứng phắt dậy, anh bổ nhào về phía cô gái từ trong buồng bước ra.
- Sen! Nàng Sen! Ôi! Nàng Sen.
Cô gái kia chính là nàng Sen. Cô mở to mắt, hai tay giơ cao rồi ấp vào ngực rồi lại giơ lên vồ lấy vai chàng Hai, cô gục đầu vào ngực chàng dũng sĩ khóc nức nở: Mừng, tủi, giận, thương... ồ ạt ùa vào lòng cô.
- Đau đớn quá!
Chưa bao giờ nàng Sen khóc thảm thiết như bây giờ. Nỗi niềm cay đắng trong cô thoả sức than thở, nó không bị sự sợ hãi lấn át như hồi ấy.
*
Hồi ấy, giặc Ngô và tên Đại tàn sát người già trẻ nhỏ bộ lạc Cầu Lậu. Không chút ghê tay . Tù tướng Lương và vợ bị giết chết ngay từ lúc đầu. Đô Hàm, nàng Sen và anh em ở trong rừng chạy về thì tất cả chỉ còn là biển lửa cháy giần giật, xác người chết nằm rải rác... Họ đuổi theo giặc Ngô đánh trả thù. Họ bám theo đội hình quân Ngô hai đêm hai ngày, đánh vỗ mặt, đánh sau lưng chúng, đinh ninh rằng trả dần như thế thì về đến Hải Cẩu thì chúng không còn một mống. Nào ngờ, quân Ngô cho một bộ phận vòng trở lại đánh tập hậu họ. Họ bị đánh tan tác, một số bị chết, một số chạy vào rừng. Đô Hàm, nàng Sen cũng phải lẩn trốn trong rừng đến đêm mới mò ra chôn cất người chết. Nhà cửa, của cải bị thiêu trụi, người bỏ đi hết, hai anh em lang thang trong rừng hàng tuần tìm người bộ lạc thất tán nhưng chẳng gặp một ai. Họ bơ vơ trong khi đó Thứ sử ra lệnh truy tìm rất gắt Hổ Bì tráng sĩ và Giao Châu mỹ nhân. Nhớ lời chàng Hai dặn, nàng Sen ngỏ ý muốn từ biệt Đô Hàm để vào Cửu Chân tìm Hổ Bì tráng sĩ. Đô Hàm bảo: "Em muốn vào đó, anh đưa em đi cho chắc chắn". Tới Cửu Chân họ vẫn bơ vơ. Vào Tư Phố họ cũng bơ vơ. Người lạ hỏi tìm nghĩa quân dân nào dám mách.
Anh em đến cầu Lai Vu. Trồng thấy tiệm hàng treo biển Tâm Hữu lấy làm lạ liền bước vào đứng trước quày hàng nhìn quanh, dáng dảp diện mạo của hai người khách lạ khiến chủ nhân quán Tâm Hữu chú ý. Vương Thiện ngồi trong nhà nhưng không bỏ sót một cử động nhỏ của khách. Anh thân ra đón mời:
- Hai bạn dùng gì?
Đô hàm lúng túng không đáp. Nàng Sen mỉm cười bảo:
- Chúng em thấy lạ vào xem chứ không có tiền ăn hàng. Ông thấy phiền chúng em ra ngay.
- Sao lại ra? - Vương Thiện dang tay nói cười vui vẻ- Hai bạn không có tiền thì không hề gì. Anh ngoảnh mặt nói vào phía trong - Anh em, món nào ngon nhất bưng ra đây cho ba người ăn. Tôi thết hai bạn. Người Lạc Việt mời người Lạc Việt là điều khoái ý.
Ăn xong thì số phận Đô Hàm cũng được giải quyết xong. Đô Hàm ở lại quán Tâm Hữu làm quản lý giúp Vương Thiện.
- À thì tính sao cho hợp nhỉ? - Vương Thiện nhìn nàng Sen nói - Ở đây cũng được nhưng không tiện, đàn ông chúng tôi lếu láo chẳng có ý tứ gì đâu. Cô sang kia!- Anh chỉ gian nhà dưới gốc cây đa cổ thụ cách cầu Lai Vu mươi bước: - Già Nghệ làm thợ rèn không con nhưng không có người cha nào tốt hơn cụ đâu. Hồi tôi mới tới đây mọi sự đều nhờ cụ giúp đỡ, bao bọc.
Già Nghệ được nhận nàng Sen làm con nuôi mừng hơn bắt được vàng. Mấy ngày liền cụ đóng cửa hàng chỉ để ngắm con nuôi và nghe con nuôi nói chuyện. Cụ hể hả bảo:
- Trời cho ta! Trời mang con đến cho cha!
Dù vậy, nàng Sen cũng không dám lộ tưng tích mình. Giao Châu mỹ nhân có thể giấu quá khứ nhưng không thể giấu được dung nhan tiên sa cá lặn của mình.
Đô uý Bành Cồ say mê sắc đẹp nàng Sen, ép nàng làm tì thiếp. Già Nghệ sợ hãi cầu cứu lên Thái thú. Tên Thái thú thấy dung nhan yêu kiều của nàng cũng muốn bắt nàng về làm tì thiếp. Già Nghệ vô kế khả thi. Nàng Sen buộc lòng phải nói thật với cha nuôi về Hổ Bì tráng sĩ và mình. Nàng thề thà chết chứ không chịu làm cái việc khiến đau lòng chàng dũng sĩ. Già Nghệ liền cùng con nuôi trốn vào rừng. Nàng Sen không quên lời Hổ Bì tráng sĩ "hãy tìm đến nơi giông bão", cô xin cha nuôi vào Ngàn Nưa theo Bà Triệu. Già Nghệ nghe lời. Cụ được Bà Triệu giao trọng trách rèn đúc vũ khí cho nghĩa quân, nàng Sen được giao nhiệm vụ coi kho quân nhu.
*
Chợt Bà Triệu cất tiếng nói vang:
- Em ơi! Khóc thế thoả rồi, hãy để sức giết giặc Ngô trả mối thù ấy. Ta mừng em đã tìm thấy chàng dũng sĩ. Được rồi ta có cách. Nào vào cả đây, ta cần nói chuyện này.
Bà hơi nghiêng mình về phía già Nghệ kể vắn tắt kế hoạch xây dựng nghĩa quân. Bà yêu cầu cụ sửa soạn mười chiếc trống đồng loại tốt để chàng Hai mang sang nước Vạn Tượng đổi lấy voi.
Già Nghệ chớp mắt nhìn mấy cái, cụ trở nên hoạt bát khác thường. Mới nghe đại kế mà cụ đã cảm thấy vận nước chuyển vần. Cụ bảo con gái mang thứ "nước thần của Âu lạc ta ra tiếp khách". Nàng Sen đỏ mặt ngượng ngùng xin lỗi vì thứ nước đó chưa đủ tháng nổi mùi vị. Cô hứa hẹn khi chàng Hai từ nước Vạn Tượng trở về sẽ mang thứ nước kỳ diệu đó ra mừng.
Già Nghệ mời khách ăn tạm bữa cơm rừng núi: Có thịt hổ, thịt nai, có măng mai, mộc nhĩ. Sau bữa ăn cụ đích thân cùng thợ bạn khiêng trống ra sân rồi tự tay cụ và nàng Sen sửa soạn mọi thứ để người con trai tháo vát của già Hống lên đường.
Mọi người tiễn chàng Hai và đoàn tuỳ tùng xuống núi. Bà Triệu, nàng Sen cưỡi ngựa đưa chân họ tới tận bò con sông rộng lơn. Bà cầm cương ngựa của người trai hùng mạnh ân cần dặn dò:
- Việc quân gấp lắm. Ta mong cừ suý từng ngày!
Chàng Hai chắp tay đáp.
- Tôi muốn được như cánh chim bay vút tới nơi, vút quay về ở bên Chúa tướng.
Nói đoạn anh cùng chúng bạn ra roi cho ngựa lên đường. Bà Triệu, nàng Sen trồng theo bóng dáng họ đi ngược dòng sông, khuất dần sau sườn đồi quanh co rồi mới chịu quay về.
Bà Triệu sóng ngựa đi ngang cô gái xinh đẹp, miệng thầm thì:
- Em ta!
Nàng Sen nghiêng mình sang, hỏi:
- Chúa tướng dạy em điều gì?
Bà Triệu không đáp. Bà buông lỏng dây cương cho con tuấn mã đi bước một và thả tầm mắt ngắm nhìn sông nước núi non. Ánh mắt bà trở nên xa xôi mơ màng. Bà mỉm cười khi thoáng nghĩ tới một điều tốt đẹp. Bà ngoảnh đầu hỏi:
- Sao em không nhuộm răng đen cho khác nòi khác giống, trồng thấy hàng răng trắng ởn như răng giặc Ngô của em ta ghét lắm- Ngừng giây lâu Bà nói tiếp - Ngày mai ta sai người mang vào cho em lá thuốc nhuộm răng, hẹn nửa tháng phải nhuộm xong hãy vào Tư Phố ở với giặc Ngô cho đỡ lẫn lộn trắng đen.
Nàng Sen không dám không vâng lời.
Bất chợt, bà vẫy tay ra hiệu thúc giục ngựa phi vợt lên nhiều việc cấp bắch đang đợi bà.
Bà đi được nửa đường thì gặp Trình Quang phi ngựa ra tìm.
Trình Quang báo tin, có một đoàn người ngựa lạ đang tiến thâu đêm vào Ngàn Nưa. Hiện nay, các nghĩa Binh dưới quyền anh vẫn bám sát đoàn người này.
Bà Triệu bảo Trình Quang giao công việc tuần tiễu doanh trại cho cừ suý khác rồi quay về bản doanh nhận lệnh ra Giao Chỉ liên lạc với Thái Nam và ông Thụ.
Trình Quang vâng lời. Anh co cương ngựa sang lối đường hẻm ra roi phóng như bay dưới tán lá xanh rì.
Bà Triệu vỗ cổ ngựa thúc con tuấn mã chồm lên, phi như lướt bay trên ngọn cờ.
Nàng Sen nằm rạp trên yên, giúp cho ngựa của mình có đà chạy kịp ngựa chủ tướng.
Bà Triệu phi một mạch tới chân núi Nưa, bà quẳng dây cương cho người nghĩa quân coi việc chăn ngựa rồi thoăn thoắt leo ngược lên núi. Bà giơ tay ra hiệu từ chối những nghĩa quân muốn giữ bà lại để nói chuyện. Nghĩa quân biết chủ tướng đang vợi nên Đạt sang hai bên đường mở rộng lối cho bà đi.
Bà bước nhanh vào bản doanh phái người xuống các trại bảo các cừ suý tăng cường tuần tiễu đề phòng kẻ lạ xâm nhập.
Nửa đêm Trình Quang lên sơn trại nhận nhiệm vụ ra Giao Chỉ. Anh báo tin đoàn người ngựa lạ do già Hống dẫn đầu đang đi gần tới đây.
Nghe nói già Hống tới, Bà Triệu rất mừng, bà phái người đi báo tin cho các cừ suý biết để họ khởi phấp phỏng, đoạn thân dẫn mười thủ hạ thân tín xuống núi đón người già thạo việc.
Trời sáng, họ lục tục leo lên đến đỉnh núi. Tử Liên dẫn đoàn tuỳ tùng của già Hống lên nhà nghỉ. Bà Triệu cùng già Hống bước ra đứng trên đài viễn vọng. Mỗi khi già Hống về Ngàn Nưa cụ vẫn có thói quen muốn được cùng Bà Triệu đứng đón ban mai.
Bà Triệu ân cần nói với già Hống biết công việc mà chàng Hai đang tiến hành, già Hống gật gù. Giây lát cụ đáp:
- Tôi mong chàng Hai mau mau trở về để ra Bồ Điền...
Nói chưa hết ý già Hống đã ngừng lời.
Bà Triệu vận áo dài rộng tay màu xanh hồng đeo trễ thanh kiếm nặng, chân đi guốc ngà hai quai. Bà ngoảnh nhìn già Hống như có ý giục giã. Sau phút giây im lặng, Bà đưa mắt ngắm ánh ban mai rực rỡ ở chân trời xa.
Già Hống là người dỏng cao nhưng vẫn thấp hơn Bà Triệu một đầu, cụ vận áo dài đen quần chùng nâu hai hàng lông màu và chòm râu trắng bạc như cước khiến nét mặt cụ càng hồng hào. Cặp mắt to đen trở nên tinh anh.
Đôi dép cờ gần đứt quai bám đầy bụi đất đỏ quạch.
Từ những ngồi nhà san sát như bát úp dưới sườn núi vàng lên tiếng trâu nghé ọ hớn hở, tiếng chó sủa mừng rỡ, tiếng gà gáy hả hê.
Trong vạt rừng rậm rạp phía Bắc, phía Đồng ồn ào tiếng cười nói la hét.
Bà Triệu lắng tai nghe nhưng vẫn đứng im và mắt vẫn nhìn ánh binh minh rực rỡ ở phía chân trời xa giây lâu, rồi nói:
- Nghĩa quân đã ra giáo trường luyện tập mà ta lại muốn được cùng cụ ngắm cảnh non nước ban mai.
Già Hống chắp tay về phía trước đáp:
- Đội ơn Chúa tướng!
Bà Triệu không nhúc nhích mắt không rời phong cảnh nước non.
Phía trên bầu trời trong xanh lông lộng và vầng mây trắng xốp như bông lặng lẽ trôi.
Phía dưới đồi núi lô nhô, núi cao đồi thấp to nhỏ nối liền trùng trùng điệp điệp xanh thắm bao la. Những dòng sông con suối nối lượn ngoằn ngoèo. Xa xa sông Yên, sông Nục thấp thoáng trong khung cảnh đồi nương xanh ngắt đang cố dốc nước vào sông Ghép để dồn ra biển cả. Bên phải núi Hoàng Nghiêu cao sừng sững. Bên trái dãy núi ngút ngàn miền Tây đắm mình trong biển mây bông bềnh.
Bà Triệu hít một hơi dài tay buông đốc kiếm chỉ về các hướng nói:
- Cụ hãy nhìn kỹ cảnh núi non sông nước xem sao. Thực là lạ, mắt nhìn đất nước mà lòng ta bâng khuâng, xao xuyến! Lạc Việt ta đất rộng người nhiều, sông dài núi cao... quả là đất hiếm lạ! Nhưng sao ta vẫn cảm thấy lẻ loi chật chội thế nào ấy.
Già Hống chậm rãi đáp:
- Ngàn Nưa dùng làm nơi dựng nghĩa thì tôi chưa thấy đất nào lợi bằng. Tiến ra có thế đánh mạnh, lui vào có thế giữ chắc. Nhưng Cửu Chân đất rộng người thưa, xa anh em đồng đúc không thể dùng làm nơi dựng nghiệp lớn được.
Bà Triệu ấn đốc kiếm đưa tầm mắt bao quát khắp nơi, bất chợt bà quay mình lại chắp tay vái già Hống.
- Việc quân việc nước bộn bề trăm mối. Đang đêm cụ về gấp đây hẳn có điều gì quan trọng muốn dạy bảo ta?
Già Hống không đáp cầu hỏi ấy mà nói:
- Mấy bữa trước có người khách buôn Phương Bắc dắt đàn ngựa qua vùng tôi. Hỏi ra thì biết hắn đi xuống đây.
Bà Triệu cau mày bảo:
- Ta đổi hai mươi bấy con ngựa của hắn mất bốn thạp mật ong, bẩy đôi ngà voi, năm bộ xương hổ. Cái tên khốn Phương Bắc ấy thấy ta muốn đổi thêm, hắn oè học đủ thứ và nhất là hắn bảo lần sau chỉ đổi ngựa lấy ngà voi, nhung hươu, xạ hương, ngọc trai với hàng chục Thứ khác nữa. Rừng ta, biển ta thiếu gì những thứ đó. Hiềm một nỗi phải sai người đi lấy, đi săn mất nhiều ngày tháng.. . mà việc của ta lại cần gấp.
Già Hống hỏi:
- Chúa tướng có biết thêm về tình hình bên đó không?
Bà Triệu gật đầu, đáp:
- Bên đó đang loạn to. Theo ta nghĩ, Ngô sẽ buộc phải rút quân ở các nơi về để giữ nước. Vận Lạc Việt hưng khởi sắp tới. Giận nỗi sức ta chưa đủ. Già Thoại trở ra Giao Chỉ đã lâu ngày mà vẫn chưa thấy tin tức đưa vào. Tối qua, ta phái Trình Quang ra gấp ngoài đó, gặp gỡ các thủ lĩnh nghĩa quân. Mặc dù việc hội quân, gom sức chưa xong, cơ Trời đã đẩy tới, ta không muốn bỏ lỡ.
Già Hống chắp tay vái lạy:
- Chính vì điều ấy mà già này vội vã xuống đây!
Bà Triệu xoay hẳn mình hướng về phía già Hống, khẩn khoản:
- Cụ đã biết đứng bụng ta hẳn cụ có sẵn lời dạy bảo. Hãy cho ta được nghe những lời hợp ý trời và lòng người.
Già Hống cung kính đáp:
- Lòng dân là ý Trời. Mong muốn của Chúa tướng là ý Trời đó.
Bà Triệu lắc đầu. Bà tỏ ý không bằng lòng về cầu xưng tụng đó. Bà muốn nghe lời chỉ bảo thiết thực. Bà nói:
- Bây giờ, xin mời cụ vào khách xá nghỉ ngơi. Sáng mai, ta gọi các cừ suý lên đại bản doanh để cùng cụ bàn định lại kế và xem xét thực lực đôi bên.
*
Già Nghệ ngồi trên chiếc ghế rơm kê gần cửa, trầm ngâm suy nghĩ. Toàn thân cụ nâu bóng như láng mồ, hai phiến ngực nở nang rắn chắc, chiếc quần đùi lừng tướng đến nút ra vì bắp đùi đồ sợ. Bàn tay to lớn, gân nổi chằng chịt và đầy chai sạn của cụ đặt trên mình con chó săn đen nằm khoanh cạnh chân.
Con chó săn không chịu nổi cảnh im lặng kéo dài; thỉnh thoảng nó ngấc đầu rền rĩ như nhắc chủ chớ quên có nó ở bên.
Già Nghệ ngẩn người ngước mắt nhìn lên.
Con chó rạp cổ xuống đất, ngoe nguẩy đuôi cặp mắt đen tròn của nó hết nhìn chủ lại bồn chồn ngó ngoài ngõ. Nó muốn, nếu chủ không ưa vuốt ve nó thì hãy dẫn lên xương để nó đùa nghịch với con mèo trắng ngoài đó. Có được thế, thỉnh thoảng nó mới có dịp phóng nhanh ra sân, đớp miếng sắn nướng của các anh chị thợ rèn từ trong nhà ném ra. Lúc này, nếu có cô chủ ở nhà, nó cũng không đến nỗi bị hắt hủi theo lối im lặng thế này. Cô chủ và các bạn của cô sẽ dắt nó vào rừng săn đuổi những chứ kỳ đà hoặc lùng tìm trứng gà lôi.
Già Nghệ vẫn không động đậy, cụ lặng ngắm chiếc vại nước đặt dưới gốc cau, triền ngên nghĩ tới công việc của mình đang làm đó. Cụ Nghệ ở xưởng về không được vui. Cụ định đúc một chiếc trống đồng thật to, để nghĩa quân ở cách xa ba sông bày núi vẫn nghe rõ hiệu lệnh trống truyền. Cụ luyện mẻ đồng này rất công phu, thể mà chiếc trống ra khuôn vẫn bị rỗ mấy chỗ. Câu chuyện trống đồng cụ sẽ lo sau. Trước mắt cụ muốn xin Bà Triệu cho thêm người đi lấy đồng về đúc đầu mũi tên,mũi lao. Binh tình nghe đã rục rịch mà khí giới của nghĩa quân vẫn chưa được dồi dào nên cụ càng áy náy không yên.
Suy nghĩ tới đây, già Nghệ vỗ vỗ vai con chó với vẻ bồn chồn.
Con chó hộc lên một tiếng. Thấy chủ vẫn ngồi im, nó gừ trong cổ, hộc tiếng nữa rồi rít từng hồi.
Biết con chó nhắc mình, già Nghệ vỗ vỗ nó đoạn chống tay đứng dậy. Cụ vừa bước ra phía cửa vừa nói gióng:
- Chó khôn săn được hơi người lạ mà không dám sủa to. Hẳn phải có quý nhân tới chơi.
Già Nghệ mở cửa, bước qua dãy hàng rào, đi về phía bờ suối. Bỗng cụ sững sờ dừng chân rồi lại bất chợt bước rảo lên, hai tay chơi vơi trên đầu.
- Chúa tướng thực là người trời. Vừa nghĩ tới, Chúa tướng đã đến ngay. Bao Thúc mới đưa đến cho lão hai chục trai khoẻ. Minh Châu phái lên hai chục gái khéo tay. Nhưng, lão vốn tham lam. Nào, Chúa tướng mang đến cho lão những gì?
Bà Triệu tay cầm chiếc đãy nhỏ ngoảnh về phía sau mỉm cười với những người cùng đi rồi tươi tỉnh đáp:
- Bây giờ ta đang nghèo, đến đâu cũng chỉ chìa tay ra xin thôi. Có gì cứ cho ta, chớ tiếc! Sau này non sông bền vững, người người ấm no, đất nước sẽ nhớ ơn cụ, muôn dặm sẽ nhớ ơn cụ và con con cháu cháu trăm ngàn năm sau cũng không dám quên ơn cụ.
Già Nghệ xoa tay với vẻ tiếc rẻ:
- Chà chà! Người anh hùng bao giờ cũng dùng lời nói khôn ngoan! Kìa - Trông thấy những người cùng đến với Bà Triệu, liền reo to - Chào cụ Hống! Thế là ta lại có dịp gặp nhau. Chào chàng Hai tốt bụng! Xin cảm ơn anh về những thứ anh mang từ bên Vạn Tượng về. Nào, rước các vị vào trong nhà.
Già Nghệ mời khách ngồi xuống dãy ghế đặt xung quanh chiếc bàn tròn rồi gióng giả gọi to:
- Sen đâu? Con mang vỏ nước thần ra đây để bố thết khách quý. Chàng Hai đã tới đòi nợ con rồi đó!
Nàng Sen bê vò rượu ra đặt trên bàn, găm cần vào vò đoạn lùi ba bước, duyên dáng mời khách.
Bà Triệu ngắm nụ cười phô hàm răng hạt na đen óng của nàng Sen gật đầu liền mấy cái. Bà đặt dãy lên bàn, hỏi mượn chiếc khay bằng đất nung để sẵn bên cạnh đoạn cùng mọi người cầm cần. Bốn đầu chụm lại. Bụng vò rượu sôi ùng ục, chứng tỏ khách chủ cùng ham thích và đều có sức khoẻ dồi dào.
Một lúc lâu, Bà Triệu buông cần khà một tiếng, khen:
- Thứ nước mạnh này hợp với người Lạc Việt ta. Uống vào thấy sảng khoái và không say đến nỗi mê muội như thứ rượu của giặc Ngô. Bàn tay khéo léo nào luyện thành đấy, cụ Nghệ?
Già Nghệ ngước mắt chỉ bàn tay kếch xù về phía nàng Sen cổ mút thêm một hơi dài rồi mới nhả cần, chép chép miệng đoạn trả lời:
- Nàng Sen đó!
Bà Triệu ngắm nàng Sen cười nói:
- Em ta đẹp lắm. Hôm nay càng đẹp! - Bà vỗ vai chàng Hai nhắc - Thôi chứ, trai mạnh! - Hướng về phía già Hống và già Nghệ, bà đột ngột chuyển sang vấn đề khác - Ta muốn chàng Hai làm chồng em gái ta đó, bằng lòng chăng?
Hơi men khiến mặt chàng Hai đỏ bừng, lời nói của Bà Triệu càng làm nó đỏ tía lên. Chàng Hai bẽn lẽn thưa:
- Việc nước chưa xong tôi đâu dám nghĩ đến việc riêng.
Bà Triệu mở đẫy, lấy ra một gói muối, một gói đất hun(1), bày lên khay, đặt giữa bàn, cười nói:
- Chớ làm Trời đất mất vui. Ta Muốn việc nước việc nhà đều trọn vẹn.
Già Hống không bao ngờ Bà Triệu có ý định này. Nhưng thấy việc làm của chù tướng là điều hay, liền nói thêm:
- Chúa tướng đã dạy như thế, bạn già và nàng Sen nghĩ sao?
Nàng Sen cúi đầu nhìn xuống. Già Nghệ giục:
- Cha cho con được tự do trả lời Chúa tướng và người già.
Cô gái xinh đẹp đỏ bừng mặt ước mơ có từ lâu và ôm ấp mấy năm nay giờ cô đã trông
(1)Vật dạm hỏi thời cổ.
thấy nhận thấy thực như cô nhìn bàn tay mình vậy. Cô cúi đầu, giọng run run:
- Sen bằng lòng nhận chàng Hai làm chồng!
Bà Triệu cầm khay đựng đồ dạm hỏi đưa cho nàng Sen bảo:
- Em hãy đệ lên ban thờ để cúng cáo tổ tiên! Từ nay hồn thiêng của hai em xẻ làm đôi, nửa của vợ của chồng, nửa phải dành riêng cho đất nước.
Nàng Sen đỡ vật dạm hỏi, ửng hồng đôi má. Con chim lẽ thường hót tiếng cô đơn và bay không được xa. Từ nay, leo lên đỉnh núi cao, cô có bạn, luồn vào nẻo rừng sâu, cô có đôi; lửa thương nhớ lúc nào cũng giần giật cháy trong lòng, nhắc nhở cô gửi trong niềm yêu thương.
Già Nghệ nhíu mày. Giây lát cụ đứng dậy bước đến bàn thờ thắp hương khấn vái. Hành lễ xong, cụ bê chiếc hộp lớn đặt trong ngai thờ, đặt xuống bàn. Mở nắp lấy ra chiếc mũ trụ hình chim Lạc. Cụ quỳ xuống đất, hai tay nâng mũ hướng về phía Hổ Bì nói:
- Đây là Bào quốc thiên khôi. Lĩnh Nam có tú linh vật hộ quốc. Con đã có ba, cha tặng nốt vật thứ tư. Tráng sĩ hãy vì non sông đất nước, vì sự nghiệp của Triệu Bà Vương mà gắng sức.
Chàng dũng sĩ sụp lạy nhận mũ. Mọi người cùng quỳ vái mũ thân. Tất cả đều mừng, Bà Triệu mừng hơn cả. Nét mặt Bà Triệu trở nên rạng rỡ. Bà đã làm được một việc tốt lành cho viên dũng tướng và cô gái tài hoa. Bà hớn hở trách già Nghệ:
- Thế ra cụ ăn ở không công bằng. Lẽ nào dưới một vòm trời ti tẹo này mà mưa không khắp, chàng Hai được Thiên khôi bảo quốc còn ta chẳng được gì sao? Nàng Sen đâu? Em phải chuộc lỗi cho bố em. Ta nghe em có tài bắt những hòn đất nung phải bật lên những tiếng êm tai. Sen chớ tiếc ta!
Nàng Sen nhanh chóng bê đủ cỗ vại bé, vại nhỏ, vại to, bát đĩa, bày thứ tự trên hai tầng giàn kê tường nhà đoạn lấy hai thanh vót nhẵn gõ lên thành các thứ đó.
Âm thanh trầm bổng vang lên.
Nàng Sen đánh đàn mà như múa - tám thân thon thả uốn cong, mớ tóc dài đen nhánh buông lòng đu đưa, cánh tay tròn trịa lên xuống dẻo dang, mềm mại.
Chợt, Bà Triệu xua tay ra hiệu thôi. Bà gọi nàng Sen lại gần bảo:
- Hoa Nương dùng lời ca, già Thoại dùng sự tích đốt ngọn lửa nhỏ nước thương nòi dồn muôn lòng người về một mối. Nàng Sen sao không dùng những tiếng rộn rằng ấy thúc giục lòng hăng hái của nghĩa quân. Ta muốn em khó nhọc vì việc đó.
Nàng Sen vòng tay đáp:
- Chúa tướng đã sai em xin vàng lời.
Sau lễ cưới, Bà Triệu, già Hống ra về.
Chàng Hai ở lại. Anh phải ở nhà vợ đủ một năm để chứng tỏ là người thành thạo việc đồng ruộng, săn bắn và là người chồng tốt.
Nhưng lúa sau xưởng cấy hôm nào chưa kịp bén rễ thì Bà Triệu đã sai người gọi chàng Hai lên đại bản doanh nhận lệnh.