Cuộc hôn nhân kéo dài hai mươi lăm năm của chúng tôi cuối cùng cũng đã đi đến hồi kết thúc với việc chồng tôi dọn ra khỏi nơi từng là tổ ấm chung, là chốn bình yên nhất kể từ khi đứa con gái duy nhất của chúng tôi được sinh ra. Giờ đây, con bé đã tròn hai mươi tuổi điều này khiến tôi cảm thấy an lòng hơn ít nhiều.
Nó đã đến tuổi trưởng thành và tôi với chồng sẽ không phải tranh cãi nhau về quyền nuôi dưỡng và giám hộ con. Tôi sẽ không phải cố gắng giải thích với nó về tình trạng của chúng tôi, cũng như không phải đau lòng khi thấy con tôi đau đớn khóc ròng lúc ra tòa như những đứa trẻ khác. Tôi nghĩ ở độ tuổi này, những tổn thương tinh thần mà nó phải gánh chịu sẽ không nhiều.
Con gái tôi đang học đại học ở xa, thường xuyên vắng nhà, vì vậy ít nhất là nó sẽ không phải ngày qua ngày đối mặt với những xáo trộn tình cảm do cuộc sống sau ly hôn của cha mẹ gây ra.
Muốn tránh việc nỗi đau của mình trở thành vật cản trong mối quan hệ giữa hai cha con, tôi đã để cho hai người tự dàn xếp với nhau. Tôi muốn rằng tình cảm giữa hai cha con tốt hay xấu là tùy ở họ, tôi sẽ không xen vào. Nhưng quả thực, với cương vị là một người vợ, người mẹ, tôi cũng đã không làm gì để giúp cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn. Tôi cố tỏ ra vui vẻ khi thấy số điện thoại của ông ấy trong hóa đơn thanh toán tiền điện thoại ở phòng trọ con gái tôi, nhưng trong lòng tôi lại luôn bị giằng xé bởi nỗi lo sợ rằng nó sẽ đứng về phía cha nó, sẽ rời xa tôi.
Những ngày đầu thật khó khăn, và tôi phải thừa nhận rằng đôi lúc tôi đã để bản thân trượt dài trong những ý nghĩ ích kỷ, nhỏ nhen, muốn tranh thủ tình thương của con gái để “quật” lại ông ấy. Sự giận dữ của tôi rồi cũng dần tan đi sau vài tháng, nhưng đôi khi nó lại bùng cháy trong tôi, nóng bỏng và nhức nhối, khiến đôi mắt mệt mỏi của tôi phải rơi lệ. Vào những lúc như vậy, cũng như nhiều người phụ nữ khác, tôi tập cho mình một thói quen giả vờ, giả vờ để không ai nhận ra rằng trái với vẻ bề ngoài hạnh phúc và thanh thản, bên trong tôi, những nút thắt xấu xí của sự đau đớn và sự giận dữ bị nén chặt đang gào thét đòi được quan tâm, được chú ý.
Những năm tiếp theo, tôi vẫn luôn đứng ở phía sau để quan sát mọi hoạt động của con gái mình, khi nó tập trung vào việc học, tham gia tích cực vào hội sinh viên, được chọn vào đội quần vợt nữ của trường, thích thú với các môn thể thao trượt tuyết, cắm trại, chèo thuyền, có bạn trai và rồi chia tay một cách êm thắm. Tất cả những điều đó khiến tôi cảm thấy an tâm vì nghĩ rằng cuộc hôn nhân tan vỡ của chúng tôi không ảnh hưởng gì nhiều đến nó. Từ những gì tôi thấy được, mọi thứ đối với con gái tôi dường như vẫn rất suôn sẻ; sự mạnh mẽ, độc lập, tự tin, hóm hỉnh và niềm say mê với cuộc sống vẫn luôn đồng hành cùng nó. Thậm chí, tôi còn tự khen bản thân mình về cách xử trí khéo léo đã giúp con mình vượt qua sự tan vỡ của gia đình một cách tương đối “lành lặn”.
Cho đến kỳ nghỉ Giáng sinh năm đó, sáu tháng trước ngày lễ tốt nghiệp của con gái tôi, sự thật đã giáng một đòn trí mạng vào tôi. Con tôi đã cho tôi thấy một bài học quan trọng: trẻ con dù ở độ tuổi nào, có mạnh mẽ đến đâu đi chăng nữa, thì sự đổ vỡ của hạnh phúc gia đình vẫn mãi mãi là một vết cắt hằn sâu trong tâm hồn chúng.
Đêm đó, hai mẹ con tôi cùng ngồi ở bàn ăn trong ngôi nhà mới của chúng tôi, nhưng cả hai đều cảm thấy sự thiếu vắng của một cái gì đó rất quan trọng. Rồi, nó ngập ngừng bày tỏ với tôi rằng nó thấy sợ khi nghĩ đến ngày tốt nghiệp của mình.
- Gia đình các bạn con đều sẽ đến dự đông đủ, và các buổi tiệc sẽ được tổ chức suốt hai ngày cuối tuần.
Chống khuỷu tay lên bàn - chiếc bàn mà trước đây đã được chồng tôi dùng cát chà bóng - con tôi tiếp tục:
- Mỗi lần mẹ nhìn thấy cha, hay mỗi lần con nói chuyện về cha, mẹ lại buồn, lại khóc. Mà con lại không thể yêu cầu ai trong hai người đừng đến cả; hai người là cha mẹ của con. Chính vì vậy, con cũng không muốn tham dự ngay chính lễ tốt nghiệp của mình nữa.
Tôi cảm thấy như thể bị một vật rất to và cứng đánh mạnh vào người. Một cảm giác ngột ngạt, khó thở chợt dâng lên trong tôi. Và rồi những giọt nước mắt (sao mà tôi ghét những giọt nước mắt của mình đến thế!) lại bắt đầu lăn dài trên má. Người tôi nóng ran. Ngọn đèn phía cuối bàn bắt đầu nhảy múa, quay cuồng trước mắt khi tôi đang cố trấn tĩnh lại. Tôi choáng váng khi phát hiện rằng những giọt nước mắt vô tình của tôi lại như lưỡi dao cắm sâu vào cuộc sống, vào tâm hồn con mình. Tôi day dứt khi biết rằng việc tôi níu kéo nỗi đau, tỏ ra bị tổn thương đã khiến cho con gái mình muốn lảng tránh một cột mốc quan trọng trong cuộc đời.
Tôi không bao giờ nghĩ tới chuyện con tôi sẽ bỏ qua buổi lễ, nhưng điều làm tôi khổ tâm nhất vẫn là việc nó xem nỗi đau dai dẳng của tôi như đám mây đen che phủ lên niềm hạnh phúc trong ngày lễ tốt nghiệp của nó.
Sau một khoảnh khắc im lặng, tôi buông ra một tiếng thở dài:
- Còn sáu tháng nữa mới đến lễ tốt nghiệp của con. Con biết là cả cha và mẹ đều rất yêu con, đều mong muốn cho lễ tốt nghiệp hay bất cứ sự kiện quan trọng nào trong cuộc đời con diễn ra tốt đẹp, dù có bất cứ chuyện gì xảy ra giữa cha và mẹ đi nữa. Mẹ hứa là vào ngày lễ tốt nghiệp của con, con sẽ không phải bận tâm về những giọt nước mắt của mẹ đâu. Chúng ta sẽ ổn thôi!
Và chúng tôi đã có mặt ở đó. Nước mắt tôi đã rơi, nhưng đó là những giọt nước mắt hạnh phúc của một người mẹ chứng kiến con mình trưởng thành. Bên cạnh người chồng cũ, tay trong tay, chúng tôi cùng chứng kiến cô con gái bé bỏng ngày nào của mình bước lên bục nhận tấm bằng tốt nghiệp. Ông ấy còn mang cả một chiếc khăn mùi soa để dự phòng lau khô những giọt nước mắt của tôi như ngày chúng tôi còn bên nhau.
Lúc đó, tôi biết rằng, sau cái đêm mẹ con tôi ngồi bên nhau ấy, sự lựa chọn cải thiện mối quan hệ giữa tôi và chồng cũ là hoàn toàn không uổng phí. Bằng cách “thực hành” sự gần gũi, thân thiết, bằng cách hàng ngày cùng nhau chuyện trò, cùng nhau dùng bữa, tôi đã có thể kiểm soát được những giọt nước mắt của mình. Khoảng thời gian này thật thú vị và không lâu sau đó, tôi nhận ra rằng sự tha thứ đã len lỏi vào trái tim tôi, làm mềm những nút thắt khô cứng của sự giận dữ và tổn thương.
Đây là một bước ngoặt không chỉ cho ba chúng tôi mà còn cho cả những người thân xung quanh.
Sự thân thiết và gần gũi được duy trì từ mùa xuân năm đó khiến cho những chuyến viếng thăm của bà con hai bên nội ngoại trở lại thân tình và ấm áp. Và lúc này đây, tất cả chúng tôi đều đang say sưa chuẩn bị cho một cột mốc mới: đám cưới của con gái chúng tôi. Đến mùa thu, hai người chúng tôi sẽ lại ngồi bên nhau ở hàng ghế đầu của nhà thờ, và có lẽ, một lần nữa lại trao cho nhau chiếc khăn mùi soa.
Tôi nhớ cô giáo ngày xưa đã từng nói với tôi:
“Sự tha thứ giúp được nhiều cho người tha thứ còn hơn cả cho người được tha thứ”. Ba mươi năm đã qua kể từ lúc tôi nghe cô nói, nhưng cho đến bây giờ thì tôi mới thật sự thấm thía những lời nói ấy.
- Susan Carver William