Thời tiết bên ngoài lạnh kinh khủng. Gió thổi lồng lộng từng cơn xuyên qua phía nam Manhattan, nơi trước đây từng là tòa tháp đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Tòa kiến trúc tráng lệ nay không còn để che chắn cho mọi người khỏi cái lạnh cắt da của gió. Và với tôi một cư dân Florida - thì mọi sự dường như là quá sức chịu đựng. Trong đầu tôi cứ mãi lặp đi lặp lại câu nói: “Mình thật khốn khổ. Mình thật khốn khổ. Mình thật khốn khổ”.
Chúng tôi khoác trên người những chiếc áo khoác nặng nề, bên trong là bộ đồ bảo vệ màu da cam. Trên đầu chúng tôi là những chiếc mũ bảo hộ rắn như đá, và trong chiếc túi có dây kéo trên ngực áo là đủ các loại giấy tờ tùy thân, giấy ủy nhiệm, sơ đồ, thông báo... Sau cuộc tấn công kinh hoàng ngày 11 tháng 9 năm 2001, tòa nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới đã bị san thành bình địa. Giờ đây, nó đã có một tên gọi mới: Khu vực số 0. Tôi tham gia vào một nhóm tình nguyện đến đây để phục vụ và trợ giúp cho những người đang làm nhiệm vụ thu dọn đống đổ nát. Bên phải tôi, bên trái tôi, và cả sau lưng, trước mặt là các nhân viên cứu hộ đang nỗ lực đào xới. Những cử động của họ phải vô cùng từ tốn và thận trọng, vì ngay dưới chân chúng tôi có thể đâu đó còn có sự sống, dù chỉ là mong manh vô cùng. Và rồi, tôi chợt nhận ra rằng, dù cũng đang có mặt nơi đây, nhưng trên thực tế, tôi nào có hiểu được ý nghĩa của hai từ “cực khổ”. Chính những nhân viên cứu hộ dãi nắng dầm mưa này mới là những người thực sự hiểu rõ điều đó.
Cùng với người bạn mới quen, Mac, một thiếu úy ở phòng cảnh sát New York, tôi tiếp tục đi lòng vòng trong khuôn viên rộng 16 héc ta của Khu vực số 0. Nhiệm vụ của chúng tôi là phục vụ nước và sô-cô-la nóng cho các nhân viên cứu hộ đang làm việc ở trong và xung quanh cái chốn “địa ngục” này. Trước đây, có bao giờ tôi nhận thức được giá trị của những cốc nước và sô-cô-la nóng. Hầu hết mọi người Mỹ đều có thể uống một cốc nước hay nhâm nhi sô-cô-la nóng vào bất cứ lúc nào trong ngày. Nhưng đối với các nhân viên ở đây, phải làm việc trong điều kiện như thế này, họ không thể bỏ vị trí ngay trong ca trực để đi xuống khu nhà ăn kiếm thứ gì cho cái cổ họng khát khô của mình.
Tôi đi về phía một căn nhà có đề bảng “nhà xác”. Chỉ hai chữ đó thôi cũng đủ khiến cho tôi muốn quay người bỏ chạy, nhưng dường như, có một điều gì đó níu chân tôi lại. Tôi tiến đến gõ cửa. Cơn gió mạnh quật vào người làm tôi thấy đau rát nơi bả vai. Bầu không khí mịt mù những bụi và gạch vụn thật khó thở.
Cánh cửa bật mở. Tôi sợ phải nhìn thấy những gì bên trong căn nhà đến nỗi cứ dán chặt mắt vào người phụ nữ đang đứng ở ngưỡng cửa.
Tôi hỏi:
- Chị có muốn uống một chút sô-cô-la nóng không?
- Sô-cô-la nóng à? Tất nhiên rồi.
Gương mặt chị sáng bừng lên. Một nụ cười làm giãn các nếp nhăn và vẻ căng thẳng trên vầng trán của chị. Tên chị ấy là Maryanne.
Sau đó, tôi gặp lại chị Maryanne đang nằm nghỉ ở tầng hầm của nhà thờ Thánh Peter, nơi ở dành cho các nhân viên cứu hộ. Hai chúng tôi đã cùng chuyện trò một lúc. Đêm kế tiếp, tôi lại gặp chị một lần nữa vào giờ cơm tối.
Lần nào, vừa thấy tôi, chị cũng nở nụ cười thật tươi tắn. Tôi thấy thật lạ lùng khi một người phụ nữ đáng yêu và dịu dàng như chị Maryanne lại có thể làm việc trong một nhà xác. Không phải bất cứ cái nhà xác nào khác, mà lại chính là cái nằm ngay khu vực đổ nát nguy hiểm bậc nhất trên đất nước chúng tôi.
Nghĩ đến những gì mà chị đã phải chứng kiến trong vài tháng qua, tôi bất giác rùng mình.
Vào cuối tuần, tôi phải nộp bản báo cáo về công việc đã làm trong tuần của mình nên về hơi trễ. Vừa thấy tôi bước vào, chị Maryanne đang ngồi một mình bên chiếc bàn nhỏ nơi góc phòng đã vội vàng đứng dậy vẫy tay. Mặt chị sáng lên, và nụ cười tươi lại nở bừng trên môi.
- Chị đang tìm em đây.
- Em ấy à? Có việc gì hả chị?
- À không, - chị khẽ nhún vai, - chị chỉ muốn uống cùng em một cốc sô-cô-la nóng thôi mà!
Tôi thoáng ngạc nhiên, và rồi chợt nhận ra rằng chị ấy thật sự không có chuyện gì để nói với tôi cả. Không phải chị ấy muốn hỏi điều gì, cũng không yêu cầu hay cần người để tâm sự. Đơn giản là chị chỉ muốn tìm tôi, muốn được nhìn thấy một gương mặt, một nụ cười thân thiện.
Một tuần lễ làm việc tại Khu vực số 0, tôi đã học được từ chị Maryanne một bài học sống quan trọng: Món quà tuyệt vời nhất mà ta có thể trao tặng người khác đôi khi chính là thời gian của chúng ta. Sự hiện diện của chúng ta cũng là một món quà - món quà vô giá.
Từ sau tuần lễ đó cho tới nay, tôi chưa gặp lại chị Maryanne. Nhưng từ sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn dành cho chị một tình cảm yêu mến và mong muốn lại có được cơ hội làm việc cùng chị. Khoảng thời gian làm việc tại
Khu vực số 0 đối với tôi là một kinh nghiệm khó khăn nhất mà tôi từng trải qua trong đời, thế nhưng, những gì học được từ đó, tôi sẽ mãi mãi mang theo bên mình.
- Karen Fortner Granger