Cao nguyên Boloven bước vào đầu mùa mưa.
Mới 5 giờ chiều mà trời đã tối sầm sầm. Không có mây đen vần vũ kéo từ một phương nào tới. Hầu như không thấy gió. Cả bầu trời đồng một màu trắng nhờ nhờ và đùng đục. Mưa rơi mỗi lúc một nặng hạt, tiếng mưa nghe ràn ràn trên nóc những tấm tăng căng chéo trên miệng hầm lính. Khu vực trú quân của Đại đội 6 nằm sát ngay bờ huội Chămpi, nhưng những căn hầm đều đào trên sườn dốc cao nên lũ có về cũng không ngại. Chỉ lo nhất là khu vực bếp anh nuôi làm gần suối, lợi dụng mấy cây trứng cá có tán rộng để ngụy trang. Các hầm bộ binh chỉ nhờ những bụi cây lúp xúp che chắn máy bay trinh sát L-19 ngó nghé ban ngày. Bây giờ trời mưa mới dám căng lên mấy tấm tăng che cửa hầm.
Đại đội trưởng Trần Khâu một mình chạy rảo qua kiểm tra các hầm, nhắc nhở bộ đội cảnh giác, trông chừng cả lũ suối lẫn bọn thám báo hay rình rập vào những lúc nhập nhoạng thế này. Thủ trưởng yên tâm khi thấy anh em vẫn giữ nguyên các vị trí gác. Tạt xuống bếp kiểm tra, anh nuôi báo cáo cơm sắp nấu xong. Nửa tiếng nữa bộ đội sẽ có cơm. Chỉ có cơm nóng và muối vừng rang sẵn chuẩn bị cho bữa tối. Không có canh, lính tráng cứ tự động đem bi đông xuống suối lấy nước về dùng thay canh như mọi bữa.
Mọi thứ có vẻ ổn. Đại đội trưởng quay lên chỗ Trung đội 5. Mưa đã rơi ướt gần hết lưng áo, nhưng anh vẫn thản nhiên như không. Bây giờ không phải là lúc quàng ni lông che mưa, vướng víu bỏ mẹ. Cốt nhất là khi vượt qua mấy chỗ dốc trơn mà không vồ ếch là được rồi.
“Quân à, anh em trên chốt đã về chưa?”. Đại đội trưởng hỏi trung đội trưởng, khi thấy anh vừa ló đầu ra từ một miệng hầm.
“Chưa, đại trưởng ạ. Mưa thế này, lẽ ra có thể rút sớm, nhưng chắc cậu Lục rốn lại muốn làm thêm gì đó. Chờ thêm chút nữa, nếu có gì tôi sẽ cho người đi đón”. Quân đáp lời đại đội trưởng mà không có chút lo lắng gì. Anh biết tính cậu Lục vốn rất cẩn thận và chu đáo. Lục là tiểu đội trưởng tiểu đội chủ công của trung đội. Ba năm chiến trường luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, đơn vị rất tin tưởng. Nhiều lần Quân cũng không che giấu sự quý mến của mình với Lục một cách thật sự. Nhiệm vụ khó mấy giao cho Lục cũng thấy yên tâm.
Đại đội trưởng Trần Khâu gật đầu rồi bươn nhanh về hầm chỉ huy. Quân nói đúng vì chỉ sau đó ít phút đã thấy đám lá lúp xúp trên đỉnh dốc lạt rạt, rồi thấy hiện lên cái mũ tai bèo của Lục và những chiếc mũ khác. Bốn chiến sĩ vai áo ướt đẫm nối đuôi nhau đi xuống, hướng về những căn hầm của trung đội.
“Sao về muộn thế. Cậu chờ mưa ngớt hay có chuyện gì?”. Trung đội trưởng Quân hỏi Lục.
“Mưa thế này có lẽ còn rả rích tới đêm, chắc gì đã tạnh ngay mà đợi. Tôi cho anh em tranh thủ sửa sang lại thêm mấy cái hầm và đào thêm nhánh giao thông hào. Lấy ít ván gỗ trong bản che thêm trên nóc hầm cho vị trí súng M79 để tác chiến thuận lợi anh ạ”.
Lục trả lời Trung đội trưởng Quân rồi nói thêm:
“Hôm nay địch chưa lên, nhưng tôi nghe ngóng khá kỹ. Nhiều khả năng ngày mai chúng sẽ vào bản. Giao ban tối nay, anh báo cáo với đại đội nhé”.
Quân ừ khẽ rồi giục Lục:
“Thôi, các cậu về nghỉ rồi xuống anh nuôi lấy cơm đi. Tối giao ban đại đội xong, ta sẽ hội ý”.
Lục quay lại ba chiến sĩ vừa cùng ở chỗ chốt về, từ nãy vẫn còn đang đứng sau anh, súng ống vẫn trên vai, dáng chừng như chờ đợi:
“Thôi, về hầm nghỉ đi. Một cậu xuống bếp lấy cơm nước luôn nhé”.
Bốn người tỏa ra, về hai chiếc hầm chữ A của tiểu đội, làm cách nhau chỉ non chục mét. Những căn hầm này mới chỉ đào cách đây một tuần. Mỗi căn hầm đủ rộng cho hai người có thể nằm thoải mái. Toàn bộ gỗ làm hầm phải lấy từ bên kia suối cách đó vài trăm mét. Chỗ trú quân này chỉ toàn cây lúp xúp và những cây thân mềm như thầu dầu, không có gỗ. Hai trung đội được chiếm lĩnh bờ suối phía tây này làm bàn đạp cho một đợt chiến đấu mới của tiểu đoàn. Một trung đội ở lại bên bờ đông suối làm nhiệm vụ gùi cõng tiếp tế gạo đạn, nhưng ở tít mãi giông đồi có rừng già cách xa tới hơn cây số.
Cất gọn súng đạn xong, Tháo tình nguyện xuống bếp lấy nước. Chỉ có bốn cái bi đông đựng nước là lỉnh kỉnh, còn mấy suất cơm tối của tiểu đội chỉ là một đùm cơm nếp cùng gói muối vừng, quá gọn. Vừa mệt vừa ngại, chẳng có thêm lính nào chịu xuống suối rửa chân tay. Ngồi đợi Tháo đem nước lên rồi lấy nước từ bi đông ra rửa qua mặt mũi chân tay là xong. Đằng nào đầu giờ sáng mai chả phải đi lấy nước mới. Bữa cơm qua nhanh vì tất cả cũng chỉ là nắm cơm nếp to bằng quả cam, chấm qua muối vừng. Tu thêm ngụm nước suối trong bi đông, vậy là xong.
Buổi tối trời tạnh. Chỉ còn những vạt cỏ ướt đẫm nước mưa từ chiều. Vậy mà lũ côn trùng đã bắt đầu kêu lên rả rích từng đợt. Chúng lại sắp vào mùa sinh sản. Mưa đã đem lại sự sống và sinh sôi cho muôn loài cùng cỏ cây hoa lá. Mưa cũng làm cho không khí sạch hơn dù là ở bất cứ đâu. Với rừng núi cũng vậy, dù không khí vốn đã trong lành, nhưng qua cơn mưa, mọi thứ như được gột rửa sạch. Hít hơi thở sâu, cảm giác khoan khoái hơn nhiều. Nổi lên trong muôn vàn hình ảnh của thiên nhiên lúc này chính là tiếng kêu của lũ côn trùng. Chúng là thứ âm thanh báo hiệu hiện diện của sự sống tự nhiên. Nó làm cho cuộc sống núi rừng thêm sinh động chứ không chỉ có sự tĩnh lặng. Sau này Tháo hiểu thêm và nghiệm ra rằng, tiếng kêu của đám côn trùng trong rừng sâu hay trên các thảm cỏ bình nguyên chính là người bạn đồng hành của lính. Tiếng kêu rả rích của chúng cũng giúp cho cánh lính trinh sát nhà ta hiểu rằng xung quanh hay phía trước có kẻ thù rình rập hay không.
Bầu trời vẫn đen và sâu thăm thẳm chưa thể nhìn thấy bóng dáng một ngôi sao, dù nơi đây rất quang quẻ, chẳng có một cây cao nào. Còn sớm và cũng phải chờ đại đội giao ban xong mới được phổ biến nhiệm vụ cụ thể ngày mai, cánh lính mò lên cửa hầm ngồi. Những điếu thuốc rê sâu kèn được quấn vội. Ai muốn châm lửa hút lại phải chui xuống hầm, che chắn ánh sáng cẩn thận. Tháo cũng vừa lập bập một điếu thuốc trên môi, phả hơi khói thuốc cuối cùng trong hầm rồi chui lên, đưa mắt nhìn vào bóng tối. Tất cả cứ nhờ nhờ một màu đen cảnh vật viền theo nền trời trông như hình cắt giấy. Ai nấy ngồi lặng im mà hít khí trời trong lành. Khi ra tuyến trước, lính tráng rất hạn chế tán chuyện gẫu. Ban đêm, tiếng nói vọng đi rất xa. Có chuyện gì thì chỉ là những câu trao đổi ngắn gọn. Bởi vì đêm yên tĩnh đấy, nhưng ai biết xung quanh phía xa xa hơn có gì đang diễn ra. Bọn thám báo của địch cũng như cánh trinh sát của ta, mò mẫm lặn lội khắp xó xỉnh núi rừng bất kể ngày đêm. Trinh sát của ta bám địch để báo cáo cấp trên lên kế hoạch tác chiến, còn lâu mới để xảy ra đụng độ tại chỗ. Nhưng thám báo địch thì được phép hành xử nhanh hơn. Phát hiện đúng nơi đóng quân của ta, chúng chấm tọa độ rất chính xác và lên sóng báo ngay về căn cứ.
Chả phải chờ đến hôm sau gọi máy bay ném bom, chúng gọi luôn cho pháo tập kích trong đêm. Đấy chính là thế mạnh của địch, có trận địa công khai và lúc nào cũng dư thừa đạn. Đêm nào ở các trận địa pháo địch chả bắn cầm canh về hướng quân ta vài đợt. Đủ các kiểu từ bắn có chấm tọa độ đến bắn vu vơ hú họa. Kiểu bắn thứ hai này là quân ta sợ nhất, kể cả các thủ trưởng tới cấp trung đoàn mà vị trí đóng quân nằm trong tầm pháo địch. Chả biết ai đặt ra nhưng lính tráng nghe quen tên gọi kiểu bắn pháo này của địch dù nó hơi thô: Pháo đĩ. Tai bay vạ gió chả biết đâu mà lần. Chỗ tưởng như an toàn nhất khiến người ta dễ chủ quan thì có khi bị một quả pháo đĩ vu vơ ngẫu nhiên bắn tới xơi tái mấy người. Đau nhất là lại trúng phải nơi có các cán bộ chỉ huy. Trong trung đoàn này cũng đã bị vài cú thế rồi. Tham mưu phó trung đoàn Lê Công Chất đã bị thương mất một cánh tay phải chấm dứt nghiệp lính cũng vì một quả pháo vu vơ hồi mấy tháng trước khi trên đường từ sở chỉ huy trung đoàn đến đại đội công binh gần đó. Cậu lính cần vụ đi cùng may mắn không bị dính mảnh pháo nào.
Nhưng chủ quan mà bị thám báo địch phát hiện nơi đơn vị đóng quân, nhất là khi đang ở tuyến trước thì thiệt hại rất lớn. Vài chục trái pháo trúng vào đơn vị thì có khi bị thương vong tới nửa quân số nếu hầm hào không tốt. Đương nhiên là kế hoạch tác chiến bị vỡ vì chỉ nội chuyện giải quyết thương binh tử sĩ cũng đã quá sức đơn vị rồi. Vài đốm lửa đầu điếu thuốc lập lòe trong đêm rất dễ bị phát hiện, nên phải chú ý. Mặc dù ai cũng được phổ biến, nhưng trung đội trưởng Quân vẫn luôn phải nhắc nhở anh em, lặp đi lặp lại mà không sợ thừa. Nói nhiều, nghe nhiều tự nhiên nó sẽ hằn trong óc để nhớ.
“Ban ngày giấu khói, ban đêm giấu lửa. Tất cả phải luôn ghi nhớ nguyên tắc ấy để sống trong rừng già. Chết cả đơn vị chứ không phải mỗi mình mình đâu”.
Cũng chẳng phải cứ vào tới chiến trường mới biết. Ngay ngày đầu tiên đặt chân lên tuyến đường 559 Trường Sơn, mỗi người lính đã phải học ngay và ghi nhớ trong đầu câu “khói ngày, đêm lửa”. Hồi hành quân trên Trường Sơn chỉ mới hai tháng trước thôi, cánh tân binh cùng đoàn với Tháo đã có không ít thằng bị cán bộ hất đổ cả xoong nước đang đun để dập lửa chỉ vì khói và bị bạt tai thẳng thừng vì châm lửa hút thuốc trong đêm, dù giữa rừng già mịt mù ấy chỉ có mỗi một đốm đỏ chập chờn qua cánh võng của nó.
Đã hai ngày rồi, tiểu đội của Tháo ra đào hầm chốt ở bản Sạt. Cái bản này nằm ở khoảng giữa con huội (suối) Champi và con đường 231. Đường 231 là đường ô tô, dù chỉ là đường đất, nằm ngăn vùng giữa ta và địch. Từ đường 231 có một con đường xe bò chạy vào bản, còn từ bản xuống suối chỉ có mấy lối mòn của dân đi xuống lấy nước. Dân Lào toàn làm bản dựa vào các con suối để lấy nước ăn. Họ không có thói quen đào giếng hay xây bể hứng nước mưa như ở Việt Nam. Bản Sạt là một bản rộng, có tới mười mấy ngôi nhà sàn, toàn nhà to, cột nhà bằng gỗ xẻ vuông vức. To hơn nhiều so với những ngôi nhà của người Mường mà Tháo nhìn thấy ở Hòa Bình trong thời gian còn huấn luyện ngoài Bắc. Một điều khác biệt nữa là ở đây toàn lợp mái nhà bằng tôn chứ không phải dùng tranh, dùng nứa. Vì thế mà nhà sàn trông có vẻ rất hiện đại.
Dân ở bản này đã bỏ chạy hết vào Pakse theo quân phái hữu Phumi. Họ chạy vì sợ chiến sự hai bên diễn ra, bom rơi đạn lạc chết oan. Những người dân bản ở vùng tranh chấp đều phải chịu cảnh này. Dân ra đi mang theo mọi thứ cần thiết. Người Lào vốn không có nhiều đồ đạc trong nhà nên sự tản cư bao giờ cũng nhanh và gọn. Chỉ thấy nhiều nhất còn lại trên nhà sàn là những cái vò sành to chứa rượu nếp chưa chưng cất. Trên các cột nhà là những cây cà-boong (kiểu như đuốc) dùng để thắp sáng bằng nhựa cây khộp rất phổ biến ở Lào. Cả một vùng cao nguyên rộng lớn và trù phú thế, mà dân sinh vẫn chưa có điện. Họ cũng không quen thắp đèn dầu hỏa như dân miền Bắc Việt Nam. Tối đến nếu có sinh hoạt tập thể phải chờ đêm trăng. Ở một vài bản, nếu dân vừa rút thì trong bản, ngoài nương thường còn nhiều gia cầm gia súc. Người dân không thể nào mang theo được. Chả bên nào chịu cảnh “của thiên trả địa” để chịu đói. Rừng Lào rất san sát liền xung quanh bản và trù phú nên nếu để lâu thì lũ gia cầm gia súc cũng trở thành sống hoang.
Khi tiểu đội của Tháo vào chiếm lĩnh bản Sạt để đào hầm chốt thì dân chạy khỏi đây cũng đã lâu. Sau khi rà soát địa thế cả khu vực bản, Trung đội trưởng Quân quyết định cho anh em đào hầm chốt ở bên mé rìa bản, phía quay xuống suối. Địch vào đây sẽ phải vượt qua bản, không thấy bộ đội ta sẽ chủ quan và đó sẽ là lúc ta nổ súng. Tất cả mặt công sự hướng vào trong bản. Sáu chiếc hầm chữ A chắc chắn được đào ngay trong đêm. Cây gỗ làm nóc hầm cũng phải lấy từ bên kia huội Champi. Riêng gỗ lát thành hầm dùng ngay các tấm gỗ của căn nhà sàn cuối bản dỡ ra. Trong bản cây cối khá nhiều, có cả những cây ăn quả như dâu da, mít, bưởi đều được giữ nguyên, không bị chặt một nhát dao nào.
Hai ngày ngồi chốt, không thấy địch vào bản. Chiều ngày thứ hai, chỉ nghe có tiếng nói của bọn địch thoảng trong gió ở phía bên kia, nhưng chúng không vào. Có lẽ chỉ là một tốp lính địch đi lùng sục thăm dò. Chính vì thế mà cuối chiều, tiểu đội trưởng Lục cho anh em củng cố lại thêm hầm chữ A, tạo cho hai ngách hầm đều tác chiến được. Anh lại cho đào thêm vài cái hố cá nhân và một đường hào nhỏ phía sau để tăng thêm khả năng vận động và di chuyển vị trí cho hỏa lực, đặc biệt là người giữ súng M79. Lục đoán ngày mai thể nào địch cũng cho quân vào bản.
Khá muộn, giao ban đại đội mới xong. Trung trưởng Quân cùng Tiểu đội trưởng Lục trực tiếp phổ biến nhiệm vụ cho lực lượng đi chốt bản Sạt ngày mai. Quân số đi chốt sẽ là năm người, gồm 1 B-40, 1 M79 và 3 AK. Súng M79 sẽ do Tiểu đội trưởng Lục trực tiếp sử dụng, đem theo cơ số đạn 40 quả. M79 là súng phóng lựu của Mỹ rất ưu việt. Sử dụng nó giống như ta có thể ném được một quả lựu đạn đi xa một cách chính xác, tầm với tới hơn 300 mét. Nó có đủ tính năng gộp lại của cả hai loại hỏa lực đàn anh là pháo và cối về góc bắn, nghĩa là nó có thể được bắn từ góc “0” độ đến dưới 90 độ. Chỉ có trong chiến trường khi chiếm được loại vũ khí chiến lợi phẩm này của địch, quân ta mới có để sử dụng. Các trường lớp huấn luyện ngoài Bắc cho tân binh không hề biết đến loại vũ khí này. Súng M79 thao tác rất dễ và đơn giản, uy lực mạnh nên nó được biên chế như một loại hỏa lực cho các tiểu đội bộ binh, bên cạnh súng chống tăng B-40, B-41 hay trung liên RPĐ. Có điều sử dụng M79 để bắn thì dễ, nhưng bắn giỏi và chính xác lại không đơn giản, nhất là trong điều kiện chiến sĩ ta không có nhiều đạn để bắn tập rèn luyện khi ở hậu cứ phía sau. Kinh nghiệm bắn M79 đều rút ra từ thực tế chiến đấu trực tiếp. Vì vậy, súng phóng lựu M79 chỉ giao cho chiến sĩ cũ.
Trân là chiến sĩ giữ súng hỏa lực thứ hai, khẩu B-40 với cơ số năm quả đạn. B-40 vốn là súng chống tăng, nhưng được dùng để bắn bộ binh, có uy lực và gây yếu tố tâm lý rất lớn, hiệu quả cao nếu địch cụm một chỗ. Súng B-40 có tiếng nổ đầu nòng to nên thường gây tức ngực và ù tai cho người bắn. Về lý thuyết, một xạ thủ mỗi trận chỉ được bắn năm quả, nhất là khi bắn cấp tập. Tuy nhiên nếu ở chốt bắn nhịp thưa thì một người khỏe vẫn có thể bắn được cả chục lần. Lúc đó người giữ xung lực AK phải mang phụ giúp thêm vài quả đạn B-40. Còn xạ thủ vừa bắn B-40 vừa phải vận động thì mang năm quả đạn đã đủ nặng rồi.
Ba chiến sĩ còn lại gồm Nghi, Hoài và Tháo mang tiểu liên AK. Cơ số đạn của mỗi người là 250 viên, nhưng chỉ có 60 viên lắp sẵn trong hai băng. Trong quá trình chiến đấu sẽ phải tranh thủ lắp đạn rời vào băng đạn đã bắn hết. Điều này rồi anh em nào cũng phải quen và thành thục.
Ngoài tất cả những chuẩn bị trên, mỗi chiến sĩ có thêm hai quả lựu đạn mỏ vịt US của Mỹ. Tất cả những quả lựu đạn chày cán gỗ của Trung Quốc đều được thu giữ lại cất kho, loại này vừa cồng kềnh vừa không an toàn khi sử dụng. Lựu đạn mỏ vịt của Mỹ, chiến lợi phẩm thu được qua các trận đánh đã đủ để mỗi đơn vị tự trang bị cho bộ binh. Trung đội trưởng Quân cũng phổ biến thêm, nếu ngày mai có nổ súng thì ở nhà sẽ cho một tổ ba người ra chi viện. Đây là một kiểu hiệp đồng tác chiến thông thường của các phân đội nhỏ.
Trong số năm anh em ra chốt, chỉ có Tháo là tân binh chưa đánh trận nào. Đợt tân binh Hà Nội của Tháo mới bổ sung vào đơn vị được đúng một tuần. Một tuần thôi nhưng đã đủ để Tháo nghe và học hỏi những điều sơ đẳng về súng đạn và bố trí quân khi chốt. Trung đội trưởng Quân và anh Lục ngoài chuyện phổ biến nhiệm vụ, đã trực tiếp kiểm tra tất cả sự chuẩn bị của anh em, thấy đủ rồi mới yên tâm về hầm mình. Phổ biến nhiệm vụ xong, Lục kéo năm chiến sĩ ngày mai đi chốt chui chung vào một cái hầm. Hơi chật một tí. Anh móc ra hai điếu thuốc A Lào cuối cùng, chiến lợi phẩm từ trận đánh Bãi Đá nửa tháng trước rồi chia cho tất cả cùng hút. Mọi người chuyền tay nhau rít trơ cả lõi thuốc đỏ lừ. Xong xuôi, năm người chia nhau về hầm ngủ. Trung đội có một vọng gác đêm, nhưng các chiến sĩ ngày mai đi chốt được miễn.
Tháo nằm cùng hầm với Tiểu đội trưởng Lục khá rộng rãi. Anh Lục kiếm đâu được ít cỏ khô trải xuống dưới rồi phủ tấm ni lông lên trên để nằm cho đỡ rặm. Tháo chưa ngủ ngay được. Nó cứ nghĩ đến ngày mai có thể là trận chiến đấu đầu tiên trong đời. Bọn địch sẽ tiến công như thế nào nhỉ. Liệu có giống cảnh trong những phim về chiến tranh của Liên Xô và Trung Quốc hồi ở nhà được xem không. Nghe các anh chiến sĩ cũ nói trong chiến trường này, địch không có xe tăng. Chúng chỉ có hai thứ hỏa lực đáng sợ là bom và pháo thôi. Hai thứ là thế mạnh của địch thì lại là thế yếu của mình. Ta không có máy bay đã đành, còn pháo thì có cũng như không vì thiếu đạn. Trung đoàn chỉ có mỗi khẩu cối 120 ly là lớn nhất, nhưng chỉ được bắn khi tác chiến tới cấp tiểu đoàn, mà số lượng cũng hạn chế. Nghe nói chưa bao giờ được bắn tới 20 quả. Còn chủ yếu các đại đội phải dùng hỏa lực tại chỗ của bản thân khi chiến đấu. Tiểu đoàn có cối 82 và ĐKZ-75, còn đại đội có cối 60. Nhưng điều hạn chế và cũng không may nhất là có ít đạn và không phải cứ có đánh nhau là được chi viện. Ngay như trận đánh ngày mai, cũng chỉ có hỏa lực tại chỗ của trung đội là một khẩu B-40 và một khẩu M79. Nếu được chi viện thì sẽ có thêm một khẩu B-40 nữa trong tổ ba người ra phụ trợ.
Chiến sĩ cũ kèm chiến sĩ mới. Đó là một quy định, một nguyên tắc trong chiến trường. Kèm cặp bằng thực tế và kinh nghiệm chiến đấu chứ không có một thứ sách vở nào cả. Còn kèm như thế nào thì “đến lúc ấy hẵng hay”, câu giải thích thông thường của chiến sĩ cũ. Tháo tự nhủ sẽ phải bám sát anh Lục. Tháo chưa ngủ ngay được đã đành, nhưng hình như anh Lục cũng còn đang trằn trọc vì một điều gì đó. Tháo không dám hỏi. Nó không biết và không thể ngờ được hành động anh Lục chia sẻ mấy điếu thuốc lá đầu lọc cuối cùng trước ngày ra trận là một điều kiêng kỵ. Phải mãi sau này Tháo mới biết, cũng bằng sự trải nghiệm là trong lính không được có cái gì gọi là lần cuối cùng cả và cũng không có cái gì gọi là chia tay. Rồi Tháo cũng thiếp đi lúc nào không hay. Nó chìm vào giấc ngủ và ngủ rất sâu.
Sáng sớm hôm sau, lúc còn tờ mờ đất, anh Lục đã đánh thức cả bọn dậy. Phân công nhau lấy nước, lấy cơm. Lại một nắm cơm nếp chấm muối vừng cho bữa sáng, ăn ngay tại chỗ. Sau đó lấy đầy mỗi người một bi đông nước. Suất cơm trưa cũng là một nắm cơm nếp, của ai nấy giữ. Đã mấy hôm, từ ngày ra tuyến trước đơn vị toàn ăn cơm nếp. Đây là một đặc điểm của chiến trường Lào, tận dụng nguồn cung cấp tại chỗ. Người Lào không ăn gạo tẻ nên đương nhiên họ cũng chỉ có gạo nếp bán cho bộ đội ta. Ban đầu chiến sĩ chưa quen, kêu nóng bụng nhưng rồi qua thời gian cũng phải quen. Có cái ăn là may rồi, còn hơn cảnh chịu đói vì không có hàng từ ngoài Bắc vận chuyển vào. Đầu mùa mưa còn được ăn bảy lạng gạo một ngày, sang đến giữa hay cuối mùa mưa thì gạo nếp hay gạo tẻ cũng bị rút khẩu phần xuống còn một nửa.
Nai nịt gọn gàng, kiểm tra mọi thứ lần cuối, Lục dẫn anh em ra chốt. Anh phân công vị trí hầm cho từng người. Hỏa lực nằm xen với xung lực, vậy là hai chiến sĩ AK ở hai bên rìa. Tháo ở bên cánh trái. Lúc này mới chỉ tầm sáu giờ sáng nhưng mọi thứ đã quang, hứa hẹn một ngày không có mưa. Lục biết quy luật địch lên chốt thường phải tám chín giờ sáng. Chúng phải chuẩn bị sẵn sàng pháo hiệp đồng chi viện rồi mới vào trận. Tranh thủ lúc sớm, tất cả thận trọng đi sâu vào bản xem lại địa thế, xem những vị trí ta có thể bắn chính xác B-40 hay M79 tới đó.
Mưa đêm làm cỏ cây ướt đẫm, gấu quần ai cũng dính nước ướt sườn sượt. Thấy mấy cây dâu da quả chín đỏ, Tháo vươn tay hái một chùm. Anh Lục nhắc Tháo hái gọn cành, đừng để lá rụng vương trên đất rồi cũng hái một chùm to cho mình. Xong xuôi, tất cả rút về hầm của mình. Bây giờ là lúc ngồi im chờ địch đến. Ai có thuốc rê cứ tự nhiên cuốn điếu sâu kèn mà hút. Thuốc rê xin của đồng bào mùi hôi rình nhưng bay không xa. Tháo chưa nghiện thuốc, hút cũng chỉ là học đòi làm vui, nên nhẩn nha bóc dâu da ăn. Dâu da ở đây quả to và rất ngọt. Những quả dâu da ngoài Bắc, Tháo cũng từng ăn nhưng dâu da ngoài đó quả bé tẹo và thường xen vị chua chua. Dâu da ở đây do dân trồng chứ không phải là rừng. Mặc dù nghe chiến sĩ cũ kể chuyện ở Lào có rừng dâu da, nhưng cụ thể ở đâu thì Tháo không nghe nói. Từ khi vào đơn vị, đây là lần đầu Tháo được ăn hoa quả. Sau này khi đã thành chiến sĩ cũ, đi nhiều nơi, được ăn nhiều thứ, Tháo mới biết là các loại quả ở đất cao nguyên Boloven này đều rất to. Phải chăng do hợp chất đất.
Đúng là một ngày đẹp trời và nắng đã lên. Mọi thứ trong bản nhìn được rất xa, trừ những chỗ vướng cây. Cây lá khô dần trong gió nhẹ. Đã có những chú chim bay đến tìm sâu trên cây kêu lách chách. Không gian tĩnh lặng, cảnh vật thanh bình. Tháo đang vơ vẩn ngắm đôi chim sâu gần đó thì bỗng có một viên đất ném trúng vai. Nó quay sang phía bên phải chỗ hầm anh Lục, thấy anh đang vẩy ngón tay trỏ chỉ về phía trước rồi đặt bàn tay lên che tai, ra hiệu cho Tháo chú ý nghe ngóng. Tháo nghiêng tai, quả nhiên thấy có tiếng lao xao phía xa, tít bên kia đầu bản. Chưa nhìn thấy gì, nhưng tiếng động mỗi lúc một rõ hơn. Tháo kéo cành lá nhỏ che phía trước mặt và áp đầu sát đất để quan sát những khoảng trống trước mặt được rõ hơn. Kia rồi, xa xa đã thấy bóng vài tên địch. Chúng mặc quần áo rằn ri, mũ vải, đi thưa và tiến lên rất chậm rãi. Chỉ nhìn thấy từ khoảng đầu gối trở lên, nhưng nhìn rõ những khẩu tiểu liên AR-15 chúng cắp trong tay. Địch tiến chậm và chưa bắn một phát đạn nào vì chúng chưa thấy có gì đáng khả nghi.
Càng vào sâu trong bản, bọn địch càng đi chậm lại và có vẻ chủ quan hơn. Vài tên đã tiến gần tổ chốt, làm nốt cái việc sục sạo và coi như đã làm chủ cả bản. Chỉ còn chừng mươi mét thôi và mấy tên địch đã dừng lại. Đúng lúc ấy Trân bóp cò khẩu B-40. Một chớp lửa da cam bùng lên cùng tiếng ùng oàng nổ vang trùm lên tốp địch đi chính giữa. Các chiến sĩ trong tổ chốt đồng loạt nổ súng. Tháo đã ngắm sẵn một tên và kịp bóp cò. Tên địch đổ ngay xuống trước mặt. Cả mấy tên địch ngay trước tổ chốt đã không còn tên nào sống sót. Bọn địch đi sau chạy rào rào trở lại, nấp vào những gốc cây và bắn trả lại. Tiếng súng của hai bên hòa lẫn nhau. Trân tiếp tục bắn thêm hai trái B-40. Phía địch cũng đáp trả vài quả rốc két, nhưng có vẻ như chỉ bắn hú họa. Tiếng “cốc… oành” M79 của hai bên nghe rõ hơn. Tiếng đạn nổ nghe toàn trên cao, vẻ như trúng vào cành cây nhiều hơn.
Mục tiêu không còn nhìn rõ, nhưng Tháo vẫn ngắm bắn ngang tầm cao chừng nửa mét về phía những gốc cây ăn quả mà nó tin là có địch nấp ở đó. Những chùm đạn AR-15 của địch cũng ràn rạt về phía Tháo. Rồi tiếng tiểu liên thưa dần. Địch lùi lại, nhưng vẫn có đến vài nòng M79 “cốc” đạn về phía ta, trong khi tổ chốt đã dừng bắn. Hầm chữ A có nắp thì đạn M79 cũng chỉ như gãi ghẻ, nếu quả đạn không lọt trúng cửa hầm. Bắn chán, địch cũng lui. Nhìn ra một khoảng không gian xa xa không thấy còn có gì.
Đợi yên lặng ít lâu, anh Lục cắp M79 và vẫy tay cho Tháo cùng Hoài ra khỏi hầm, tiến lên phía trước kiểm tra. Tất cả thận trọng bám theo các gốc cây tiến lên. Có năm tên địch bị diệt. Lục ra hiệu cho anh em thu súng. Toàn tiểu liên AR-15, không có tên nào giữ hỏa lực. Anh cũng ra hiệu cho anh em thu hết những quả lựu đạn ở xanh-tuya-rông của địch. Xong xuôi, tất cả lại trở về hầm. Anh Lục nói nhỏ với Tháo:
“Chú ý quan sát nhé, bọn địch sẽ lại vào đấy. Chúng còn muốn lấy xác đồng bọn”.
Tháo “vâng” khẽ. Nó tụt xuống hầm rồi mân mê xem lại mấy quả lựu đạn US và khẩu AR-15. Toàn là lựu đạn mỏ vịt M67 hình bầu dục. Cầm rất nặng tay và chắc chắn. Tháo chưa dùng lựu đạn mỏ vịt lần nào. Nhưng chắc rồi cũng sẽ dùng tới. Tháo nhớ tới lần dùng quả lựu đạn chày ném cá hồi mới về tiểu đoàn bộ làm nhiệm vụ gùi cõng trong thời gian chờ chia quân về các đại đội. Lúc ấy đơn vị chưa thu hồi lựu đạn chày của cánh tân binh mang vào và Tháo đã cùng mấy người đem ra cái suối gần hậu cứ ném cá. Mắm môi mắm lợi giật nụ xòe cho đúng thao tác rồi quẳng xuống suối. Nằm rạp sát bờ suối chờ nghe tiếng nổ “ục” một cái. Vớt được chưa đầy nửa hăng gô cá, chắc chỉ độ ba lạng đem về nấu cháo. Nhưng cũng cảm thấy khoan khoái vì có tí cá ăn và nhất là không xảy ra sự cố. Ngoài Bắc khi huấn luyện các thủ trưởng cũng hay kể chuyện dùng lựu đạn chày có nhiều thao tác yếu lĩnh quá nên chiến sĩ mới khi thực hành ném lựu đạn thật ở thao trường, đã có người lúng túng rồi quăng lựu đạn ngay sát chân mình.
Tháo lần sờ khẩu tiểu liên AR-15 vừa lấy được. Đây là khẩu súng thông dụng của lính Mỹ mà sách báo hay gọi là tiểu liên cực nhanh. Súng nhẹ, tốc độ bắn nhanh và có độ chính xác cao. Băng đạn ngắn hơn của AK, chỉ có 20 viên. Đạn trong băng còn nguyên vì tên địch này chưa kịp nổ súng. Tháo nhìn cái đầu ruồi. Nó là vòng ngắm chứ không phải khe ngắm đầu ruồi nên khi ngắm mục tiêu chắc sẽ dễ hơn súng AK. Nhưng xem thế thôi, về hậu cứ hẵng hay. Tháo cất khẩu AR-15 vào sâu trong hầm rồi xem lại khẩu AK của mình. Chỉ nổ súng có một lát, bóp cò mấy lần, thế mà cũng hết gần băng đạn. Tháo thay băng đạn mới rồi lấy đạn rời trong gùi ra lắp lại cho đầy băng cũ. Địch đã vào chốt, vị trí đã lộ nên bây giờ phải chú ý quan sát hơn.
Chỉ độ vài chục phút sau, địch lại tổ chức tiến công vào bản. Bây giờ đã biết vị trí của quân ta, nên chúng tràn vào đến nửa bản rồi mới thận trọng từng bước. Chưa nhìn rõ mục tiêu quân ta, nhưng địch đã nổ súng thị uy. Chúng bắn đủ cả rốc két, M79 và tiểu liên AR-15. Phải có đến mấy khẩu M79 của địch từ các vị trí khác nhau bắn tới. Anh Lục vẫn ra hiệu cho Tháo thấp đầu xuống chờ đợi. Địch vẫn bắn như đổ đạn và tiến rất chậm. Chắc chúng hy vọng quân ta đã rút để vào lấy xác đồng bọn.
Rồi cũng đến lúc ta phải nổ súng, vì địch không vào sâu hơn. Lại vẫn B-40 nổ trước để anh em bắn theo. Bắn để ngăn địch chứ không nhìn rõ từng mục tiêu để ngắm bắn vì địch đã rất thận trọng. Cuộc đấu súng diễn ra cũng chỉ độ hai phút. Tháo điểm xạ bài bản hai viên một có vẻ như chỉ mấy loạt mà cũng đã nghe “cạch” một tiếng của viên đạn cuối cùng. Tháo vội thay băng mới và lên đạn nhưng lúc này không còn nghe thấy ai bắn AK nữa. Địch lại lùi xa rồi và cũng không còn cả tiếng AR-15 của chúng bắn tới.
Nhưng vẫn nghe có tiếng M79 của anh Lục. Anh đã di chuyển dọc theo cái hào đào phía sau hầm, thay đổi vị trí để địch không bắn phản lại được chính xác. Hỏa lực luôn tìm diệt hỏa lực đối phương, đó là nguyên tắc của chiến trận. Nhưng dù là lính mới, Tháo cũng nhận ra anh Lục đang bắn cầm canh nhằm tiêu hao sinh lực địch vì mục tiêu không rõ ràng. Còn địch, chúng đang xác định vị trí khẩu M79 của ta và tập trung tiêu diệt. Không hiểu tại sao anh Lục lại cố bắn thêm dăm trái M79 làm gì, khi địch đã lùi và tiếng súng hai bên đã dừng.
Có một điểm bất lợi trong cuộc đấu M79 của anh Lục với địch. Hầm của anh Lục nằm ở rìa bản là một vị trí quang, còn trong bản có nhiều cây ăn quả làm vật che chắn. M79 về bản chất chỉ nhắm bắn thẳng trong khoảng 30 mét, còn xa hơn là đã phải nâng nòng súng bắn cầu vồng. Đạn M79 bắn vào bản nhiều trái nổ trên cành cây, mất tác dụng. Còn địch từ trong bản bắn ra, đạn đều nổ được trên mặt đất.
Không gian chợt im tiếng súng. Cũng chẳng nghe thấy tiếng động gì. Ít phút sau đó, có tiếng đề pa pháo của địch bùng bục từ xa, rồi tiếng đạn vút tới và nổ ầm ầm vào bản. Tiếng rít của đạn pháo lao xuống tạo nên thứ âm thanh ghê rợn như tiếng hú của thần chết, muốn đè người ta xuống. Tất cả lính ta vội rúc sâu vào hầm. Địch bắn pháo thì không có bộ binh, nên không cần phải quan sát nữa. Toàn đạn pháo 105 ly. Đây là pháo địch từ trận địa Phù Chiêng phía Pakse bắn tới. Trận địa này có ba khẩu, nghe tiếng đề pa dồn dập là biết. Khi chúng chuyển làn nâng tầm, đạn pháo đã rơi vào trận địa ta. Tiếng đất rung lên kèm tiếng nổ chói tai. Bây giờ chỉ còn mong không có quả đạn nào rơi trúng hầm, vì mấy căn hầm chốt chữ A chỉ đủ sức chịu đạn M79.
Trận pháo kích của địch với vài chục trái pháo trôi qua rất nhanh. Dừng tiếng pháo một lúc, Tháo đưa khẩu AK lên miệng hầm rồi nhô đầu lên nhìn. Khung cảnh bản Sạt đã tan tành xơ xác. Cành cây gãy đổ ngổn ngang, ngai ngái trong mùi thuốc súng. Vài hố pháo to như cái thúng trên mặt đất rải rác ngay gần hầm của Tháo. Một căn nhà sàn phía giữa bản bị đổ sập, nhưng không cháy. Mấy thằng địch bị chết trong đợt đầu đánh vào bản, chắc có thằng phải chết lần hai.
Không gian im ắng. Tháo ghé sang phía anh Lục, chờ nghe tiếng anh gọi mà không thấy. Phía đó cành cây đổ xuống đã che kín tầm nhìn. Tháo cất tiếng gọi khẽ mấy lượt mà không thấy tiếng trả lời. Phía xa hơn chỗ Hoài, chỗ anh Trân cũng chả có động tĩnh gì. Tháo nửa muốn bò sang hầm anh Lục, nửa ngần ngừ nhìn sâu vào bản. Pháo bắn xong rồi, không biết bộ binh địch có vào tiếp không. Ngần ngừ mấy lần như thế rồi Tháo quyết định cứ ngồi im tại hầm và quan sát.
Vài phút sau, có tiếng rậm rịch phía sau lưng rồi có mấy chiến sĩ ta xuất hiện. Tháo chỉ nhận ra có anh Cáp là tiểu đội trưởng trong cùng trung đội. Các anh là những người lên chi viện cho chốt. Anh Cáp ghé sát Tháo nói nhỏ động viên “bình tĩnh nhé” rồi tiến vài bước lên phía trước. Tổ chi viện kiểm tra nhanh tình hình trước mặt, rồi anh Cáp quay về hầm của Tháo nói nhỏ:
“Anh Lục bị thương rồi. Anh sẽ thay anh ấy chỉ huy. Mày cứ ngồi nguyên hầm này nhé. Địch nó vào nữa thì cứ theo anh em bắn mạnh vào. Đừng dùng lựu đạn. Ở đây cây gẫy nhiều, không dùng quen lựu đạn nó bật ngược lại đấy”.
Có hai người khiêng anh Lục về tuyến sau. Anh Cáp ở lại chốt. Vậy là chốt vẫn còn năm người và anh Cáp giữ súng M79.
Từ đó đến chiều, tụi địch tổ chức vào bản thêm một lần nữa. Cả hai bên ta và địch đều bắn nhưng đạn đều không tìm trúng mục tiêu. Địch bắn bằng đủ thứ đạn, nhưng bên ta chỉ có tiếng AK và M79. Lại cũng chừng chục phút là tất cả im bặt. Tháo vẫn ngồi yên tại hầm của mình để bắn. Bây giờ nó đã quen với kiểu hiệp đồng bằng tiếng súng, không cần phải chờ lệnh ai.
Trời sập tối, anh Cáp mới ra lệnh rút. Về tới khu tập kết, tất cả kiểm tra lại súng đạn. Ba khẩu AK, khẩu nào cũng bắn hết ba bốn băng. Đạn M79 trơ lại hai quả, khẩu B-40 cũng chỉ còn mỗi trái lắp trong nòng súng. Tháo giật mình hỏi anh Cáp:
“Mình hết cả đạn rồi hả anh? Nếu lúc chiều địch vào nữa thì làm thế nào?”.
Anh Cáp cười vỗ nhẹ vai Tháo:
“Yên tâm đi. Lần vào cuối cùng chúng định thăm dò xem ta còn hay không để lấy xác đồng bọn thôi”.
Rồi anh nói với cả nhóm:
“Các cậu xuống suối rửa chân tay rồi lấy cơm lên ăn ngay đi. Tớ qua báo cáo trung đội và đại đội rồi quay lại ngay”.
Cả bọn ào ào xuống suối khua khoắng loạn xạ một lúc rồi quay qua nhà bếp lấy cơm đem lên hầm ăn. Chỉ là gột rửa chân tay và quần áo qua loa gọi là thôi chứ không thể tắm. Tháo nhìn các lính cũ để làm theo và thầm nghĩ, rồi mình cũng sẽ phải quen với cảnh mặc bộ quần áo nhiều ngày mà không được tắm. Các anh ấy làm được gì thì chắc rồi mình cũng làm được theo như thế.
Sau khoản cơm nước, trung đội họp phổ biến nhiệm vụ tiếp. Gọi là họp nhưng không thể tụ tập cả hơn chục con người ngồi túm tụm với nhau trên mặt đất. Trung đội trưởng Quân qua từng hầm cùng các tiểu đội trưởng thống nhất nhiệm vụ. Anh Quân xoa nhẹ đầu Tháo:
“Chú mày hôm nay thế là được. Cứ theo các lính cũ mà chiến đấu nhé”.
Tháo ngượng nghịu gãi tai và hơi đỏ mặt nghe lời khen, nhưng may là anh Quân không nhìn rõ mặt nó. “Chậc”. Tháo tặc lưỡi vì thật ra nó chả có cảm xúc đặc biệt gì khi đi qua trận chiến đấu đầu tiên trong đời. Có vẻ như mọi thứ đến với Tháo đều bình thường và nó vô tư đón nhận.
Một đêm lại trôi qua. Tháo phải ngủ một mình trong hầm vì anh Lục bị thương đã được đưa về tuyến sau từ lúc chiều. Nghe nói anh Lục bị thương vào đầu bởi mảnh đạn M79. Chả biết mức độ nặng nhẹ thế nào, nhưng Tháo hiểu là bị trúng mảnh M79 mới còn sống chứ bị mảnh pháo 105 ly phang vào đầu thì chẳng ai sống nổi.
Sớm hôm sau. Để lại một tiểu đội canh khu vực trú quân, còn lại hơn một trung đội theo Đại đội trưởng Khâu đi phục kích địch. Vị trí là ở đầu con đường xe bò phía bên kia bản Sạt. Đại đội trưởng suy đoán ngày mai địch sẽ quay lại bản Sạt để lấy xác những tên hôm qua. Để đỡ phải giằng co căng thẳng thêm một trận chốt nữa trong bản, Đại đội trưởng Khâu quyết định cho bộ đội ra đón lõng phục kích chặn đầu. Choảng một trận nhanh gọn rồi rút là xong.
Rải người ra dọc một bên đường xe bò cách mép chừng chục mét, tuy có những hàng lau lách che khuất, nhưng mỗi người vẫn phải đào một cái hố cá nhân sâu gần mét. Đây là lần đầu tiên Tháo phải đào hầm chiến đấu trong chiến trường. Căn hầm che chắn khi chiến đấu bao giờ cũng là nơi làm cho mình thêm an toàn và cảm thấy yên tâm khi nổ súng, không phải chịu cảm giác lạnh lưng hở sườn.
Ở đơn vị bộ binh, mỗi người phải có một chiếc xẻng cá nhân. Khi hành quân trong mọi hoàn cảnh đều phải đem xẻng theo. Chỉ có cái lưỡi xẻng thôi, còn cán thì tới nơi nào cần sẽ chặt đoạn cây làm cán ở đó, dài độ 40 phân là đủ. Ở hậu cứ hay vùng trú quân phải tập trung đào hầm trú ẩn kiểu chữ A cho hai người một hầm. Còn khi ra trận thì chỉ cần đào hố hay hầm chiến đấu cá nhân nhỏ có nắp bằng trên mặt đất là đủ.
Tháo mới vào đơn vị, chưa kịp được phát xẻng, nên Trung đội trưởng Quân lấy cái xẻng của anh Lục giao cho. Lúc này trời đã tang tảng sáng, cảnh vật nhìn khá rõ ràng nên đào hầm cũng dễ. Đất cao nguyên qua mấy đợt mưa nên khá mềm. Sau chừng hơn nửa giờ đồng hồ thì tất cả đã đào xong hố cá nhân, ngụy trang và ngồi chờ địch. Lúc này mới được tranh thủ lôi nắm cơm sáng ra ăn. Tu thêm ngụm nước suối đựng trong bi đông là xong bữa sáng.
Hiệp đồng bằng tiếng súng của những người làm nhiệm vụ khóa đầu và khóa đuôi, nên tất cả phải im lặng. Lúc này thuốc lá rê cũng không được hút. Tất cả chăm chú nhìn ra con đường xe bò. Ngồi trên miệng hố đất và thò chân xuống, Tháo cũng im lặng chờ đợi. Vươn cổ nhìn ra nhưng không thấy rõ mặt đường. Chỉ khi nào có người đi, chắc chắn sẽ thấy rõ. Tháo ngồi nghĩ vơ vẩn nhưng chả ra thứ gì. Những ý nghĩ chỉ vụn vặt và ngắt quãng bởi còn phải chú ý quan sát.
Ngồi chờ lâu lắm, có lẽ cũng phải bằng với thời gian giữa sáng như hôm qua mới nghe thấy tiếng bước chân của địch. Tháo nhìn qua khe lá, thấy chỉ có ba tên cắp tiểu liên AR-15 đi hàng một thưa nhau. Chúng cứ đi chậm rãi mà không nhìn hai bên đường. Tháo đã mở chốt an toàn khẩu AK và chờ đợi tiếng súng lệnh. Một viên đạn đã lên nòng sẵn, Tháo làm theo lời chỉ dặn của các anh cũ. Sau đó thói quen này theo Tháo đi qua suốt các trận đánh. Nhưng chờ mãi, bọn địch đã đi khuất mà chưa có tiếng súng lệnh. Tháo ngơ ngác nhìn quanh, thấy tất cả vẫn im ắng. Phải sau trận đánh, Tháo mới biết là Đại đội trưởng Khâu chưa cho nổ súng để còn chờ đội hình chính của địch. Đây chỉ là tốp đi thăm dò phía trước.
Tốp đầu của địch đi xa chừng hơn trăm mét thì bắt đầu xuất hiện thêm địch. Chúng đông hơn và đi sát gần nhau, đang yên tâm vì phía trước không có gì. Bọn địch đi qua trước mặt Tháo nhiều hơn. Một tiếng B-40 nổ “ùng, oàng” làm hiệu lệnh của người lính chặn đầu vang lên, rồi sau đó là tiếng súng các loại của ta cũng rộ lên đồng loạt. Tháo không nhớ mình bắt đầu bóp cò lúc nào, một lúc mới nhận ra mình đang quỳ trên mặt đất và điểm xạ liên tục. Nhoáng một cái, có lẽ chỉ chừng hơn một phút, đã nghe tiếng Đại đội trưởng Khâu quát: “Thu súng, rút”. Tháo ngừng bắn rồi cũng theo anh em ào ra mặt đường. Mấy anh chiến sĩ cũ cúi xuống mấy cái xác địch giật nhanh mấy khẩu súng rồi tất cả cùng theo đường xe bò chạy về bản Sạt. Lúc này mới nghe tiếng súng phản ứng phía sau của địch bắn tới. Chỉ nghe tiếng đạn chíu chíu, chả biết trúng chỗ nào.
Vào tới bản, Đại đội trưởng Khâu khoát tay cho chiến sĩ nấp tạm vào dưới mấy cái nhà sàn của dân để nghe ngóng tình hình rồi rút tiếp. Chả phải chờ lâu, đạn pháo chi viện của địch đã bắn tới. Chúng chi viện cho đồng bọn rất nhanh. Loạt đầu những quả pháo bắn vượt qua bản ra phía sau lưng quân ta. Rồi chúng thu tầm lại, đạn nổ lùi vào trong bản. Ra là bọn pháo binh địch bắn chặn đầu ngăn quân ta trước rồi mới chỉnh pháo lùi lại. Nếu không có mấy cái nhà sàn để tạm dừng lại nghe ngóng mà cứ lao thẳng về nơi trú quân, chắc cả đơn vị đã bị dính đạn pháo.
Bây giờ là lúc quân ta chịu trận. Dưới gầm sàn nhà của dân không có hầm nên anh em chia nhau nằm ép sau mấy cái cột nhà, ngược hướng pháo bắn. Hy vọng nếu pháo địch bắn trúng nhà sàn thì còn có hai lần che chắn là mái tôn và sàn nhà. Vướng hai vật chắn này, đạn pháo có nổ thì cũng ngăn được nhiều mảnh. Đúng là không có cái hầm đất thì dù có mái và sàn nhà che chắn, nằm trên mặt đất cũng thấy cảm giác ghê rợn đè nặng lên mình sau mỗi tiếng rít vụt xuống của trái đạn và tiếng nổ rầm chói tai. Đã nghe tiếng cây gãy răng rắc rồi cả tiếng nhà sàn đổ sập. Đại đội trưởng Khâu và cả Trung đội trưởng Quân luôn miệng quát tản thưa ra, nhưng quân ta cứ rúm lại dưới mấy cái nhà sàn to. Nằm rúm cạnh nhau dù có chết cả với nhau thì lúc này cũng đỡ sợ hơn.
Sau vài chục trái pháo bắn ầm ầm vào bản Sạt, tiếng pháo bỗng dừng. Xung quanh chỉ còn cảnh đổ nát và mùi thuốc súng khét lẹt xen với mùi cây tươi ngai ngái. Cảm giác và mùi vị này sẽ còn theo Tháo mãi trong các trận đánh sau này diễn ra dưới những cánh rừng. Chả cần biết địch có còn tổ chức đi tiếp vào bản nữa nay không, dàn quân ở đây trong cảnh không có hầm hố cũng bất lợi, Đại đội trưởng Khâu cho kiểm tra lại quân số và ra lệnh rút. Thật may là không có ai bị làm sao. Tất cả bước thấp bước cao khẩn trương lui quân. Cây gãy đổ chắn tứ tung cũng không ngăn được anh em luồn lách nhanh như thi chạy rút khỏi bản. Về đến khu trú quân bên huội Champi, lại phải chia ra các hầm canh gác. Đề phòng vậy thôi chứ địch có biết quân ta thế nào đâu mà đuổi.
Bây giờ mới thấy mệt nhưng cảm giác rất sung sướng. Tháo ngó nhìn anh em trong trung đội, thấy mặt mũi cùng lấm lem nhưng ai cũng cười. Trung đội trưởng Quân bảo trận phục kích diệt được phải chục tên, nhưng thu được có sáu khẩu súng, trong đó có một khẩu M79. Vậy là chiến thắng rồi, nhưng anh Quân bảo tiếc là chả lục được cái ba lô nào mà kiếm thuốc. Cũng phải thôi, vì trận phục kích có phải diệt được tất cả địch đâu. Chỉ diệt được tốp đầu, còn phải rút để tránh bọn đi sau.
Lúc này nhớ ra, Tháo hỏi anh Quân:
“Thế còn ba thằng đi tốp đầu vào bản, mình rút chạy theo đúng lối đó mà sao không húc phải chúng nhỉ”.
Anh Quân nhớ ra, cũng “à” một tiếng rồi giải thích:
“Có lẽ thấy phía sau bị đánh, lại thấy quân ra rầm rầm chạy lại, chúng tưởng bị đuổi đánh nên lủi hết vào bụi rồi. Mà cũng may chứ nếu chúng bình tĩnh nổ súng chặn lại mình thì khối thằng toi”.
Rồi anh lại bớp đầu Tháo:
“May hơn khôn. Cứ nhớ đời lính là thế nhé”.
Tháo xoa đầu mình nhìn anh Quân, “cái bố này cứ hơi tí là sờ với bớp đầu. Lần sau phải đứng xa xa ra mới được”.
Hai ngày hai trận đánh, không biết ngày mai sẽ đánh địch ở đâu nhỉ, Tháo thầm nghĩ. Có phải trong chiến trường là cứ đánh nhau liên miên như đèn cù thế này không. Tháo nhìn quanh, thấy tất cả mọi người rất bình thản. Lại xuống bếp lấy cơm lên ăn rồi ngồi quanh hầm hút thuốc rê. Vài anh tếu táo nói mấy câu tiếu lâm vẩn vơ rồi cả bọn cùng cười. Vô tư cứ như mấy bác nông dân đi cày ruộng, xong buổi cày lên bờ rít điếu thuốc lào chờ người nhà mang cơm ra đồng cho ăn.
Buổi chiều Tháo theo Nghi và Hoài trong trung đội xuống suối tắm. Trần ra như nhộng tắm vội rồi cũng vò giặt quần áo thật nhanh. Lên bờ lại mặc luôn quần áo ướt vào người. Khi ra tuyến trước, quân ta chỉ mang theo súng đạn và đồ quân trang cần thiết là chính. Tất cả bỏ trong một cái gùi đeo trên vai, thứ đồ mà người miền Nam thường gọi là cái bòng. Quần áo chỉ có một bộ mặc trên người cho gọn. Mặc luôn quần áo vào người, nhờ hơi ấm cơ thể còn khô nhanh hơn là đem phơi trong cảnh cứ một chốc lại mưa như mùa này. Và cái quan trọng hơn là không có thời gian để ngồi chờ quần áo khô.
Dạo còn huấn luyện ở ngoài Bắc, mọi thứ nghiêm chỉnh, y tá đại đội thường căn dặn cánh lính phải tắm giặt đều đặn, mặc quần áo khô để tránh bị ghẻ ngứa và hắc lào. Đó là kiểu sinh hoạt chính quy, y tá họ phải tuyên truyền như thế. Mà khi đó anh em sợ và chấp hành nghiêm vì quả thật là trong sáu tháng huấn luyện, không hiểu sao trong đơn vị có lắm thằng bị hắc lào thế. Thuốc đỏ y tá phát không đủ và không hiệu nghiệm nên anh em ta hay áp dụng bài thuốc dân gian là bôi nhựa quả chuối xanh.
Tháo đem chuyện này hỏi các anh chiến sĩ cười phe phé bảo: “Chuyện vặt mày yên tâm đi. Trong chiến trường chưa thấy ai bị ghẻ hay hắc lào cả. Khi bẩn quá thì mấy con bọ ghẻ cũng chả buồn bấu vào cho đỡ bẩn thêm”.
Buổi chiều, Tháo thấy phía suối nhộn nhạo và ồn ào. Hỏi anh Quân thì được biết cả trung đội ở bên kia suối cũng sang nhập quân với đại đội. Đã có lệnh mới, tối nay cả đại đội sẽ chuyển quân đi nơi khác, khu vực này sẽ có đơn vị bạn tiếp quản.
Tranh thủ lúc trời vẫn còn sáng, cả đại đội men theo bờ huội Champi hành quân xuôi xuống phía tây. Nơi mới đến cũng là một cái bản bỏ của dân có tên là bản Phuột, cách đây chừng năm cây số. Hầu như, các bản Lào đều được làm dựa theo các dòng suối, dù to hay nhỏ. Bản Phuột cũng thế, chỉ cách bờ suối chừng nửa cây số. Đại đội cho tổ anh nuôi cắm luôn một vị trí cạnh một gốc cây si um tùm gần suối tranh thủ đào bếp nấu cơm. Một tiểu đội giúp anh nuôi chặt lá che tạm bếp và đào nhanh bếp kiểu nửa Hoàng Cầm, nghĩa là không có hầm chứa khói. Trời đang tối và mưa lây phây nên không sợ máy bay địch. Chỉ còn lo chút ánh sáng, nhưng cái khoản này anh nuôi có thừa kinh nghiệm che chắn. Củi khô lấy ngay của dân trong bản vì lúc này không còn ai. Đại đội cho bộ đội chia ra ở quây thành ba cụm trong gầm các nhà sàn, ngày mai mới phải đào hầm. Hai tốp lính được cử đi lùng sục rộng ra xung quanh bản, nhất là phía con đường xe bò để nắm thêm tình hình, đêm còn bố trí vọng gác.
Đường xe bò là loại đường giao thông nối liền các bản và thông ra đường lớn. Xe bò là loại phương tiện vận chuyển phổ biến của dân Lào, giống như ở nông thôn miền Bắc. Ngoài xe bò, chả có phương tiện nào khác. Ngoài ra, người Lào chỉ quen mang vác, gùi cõng chứ không có gồng gánh như dân mình. Đó cũng là đặc trưng của những người dân sống vùng rừng núi. Đường dốc và hẹp nên không thể gánh gồng. Còn chuyện lùng sục quanh nơi đóng quân gần như là một nguyên tắc của chiến trường. Vừa nắm chắc tình hình và để thêm thông thạo địa hình còn chủ động tác chiến.
Đêm trong bản Phuột thật yên tĩnh. Quân ta ngủ ngay trên mặt đất dưới gầm sàn. Tháo thấy nằm trên mặt đất thế này thoải mái hơn nhiều so với mấy đêm trước nằm trong hầm chữ A. Chưa quan sát được hết, nhưng Tháo thấy cái bản này cũng to rộng như bản Sạt. Dân ở đây mới bỏ bản chạy vào Pakse chưa lâu nên nhà cửa và cây cối còn nguyên. Nghe phổ biến là đại đội về đây đón lõng để chặn địch nếu chúng tiếp tục vượt qua bản Sạt. Có thể đây là một điểm chốt chính chặn địch, nên cả đại đội mới tập trung về đây. Bản Phuột sẽ là nơi trú quân, còn điểm chốt đặt ở đâu thì phải mai mới biết. Chả lạ lẫm nơi mới gì, Tháo ngủ ngon lành, chừng một tiếng đồng hồ bị dựng dậy canh gác. Có lẽ ở trong lính không có khái niệm lạ nhà. Nhà là rừng, là trời, là đất ở bất cứ chỗ nào. Còn giường là cánh võng, trong căn hầm hay chỉ là vạt đất đủ chỗ ngả lưng. Từ hôm nay, những ca gác đêm đã trở thành một nếp quen trong cuộc đời lính. Đủ người thì mỗi đêm gác một tiếng, còn ít người quá thì có khi mỗi đêm phải gác tới hai hay ba tiếng. Dù ở tuyến trước hay hậu cứ phía sau, không bao giờ có chuyện được bỏ gác. Giờ giấc cũng chỉ là tự ước lượng với nhau chứ làm gì có đồng hồ.
Hôm sau cả đại đội tổ chức đào hầm. Tiếng là đóng quân ở bản Phuột, nhưng không có ai được đào hầm trong lòng bản. Chia làm ba cụm quây lấy bản. Hai người phải đào một cái hầm chữ A chắc chắn và rộng đủ nằm duỗi chân. Rủ nhau đi xa một chút chặt gỗ to làm cây nóc còn thành hầm lại lấy gỗ ở nhà dân. Những bản dân bỏ chạy vào Pakse theo quân Phumi có lẽ hầu như họ không quay trở lại. Sau này Tháo biết rõ hơn về nhận xét đó khi cùng đồng đội ra các bản bỏ ngoài đường 23 lấy rau quả về cải thiện. Cùng nhau đi chặt gỗ, Tháo làm quen, hỏi han và biết thêm được tên nhiều đồng đội trong đơn vị, kể cả tên của các thủ trưởng. Trò chuyện rồi biết thêm cả tính cách của nhiều người trong đơn vị. Lính tráng chiến trường rất rõ ràng, mọi chuyện cứ thẳng băng mà nói giữa thanh thiên bạch nhật. Nơi bom đạn luôn cận kề với cái chết người ta sống với nhau đầy tình nhân ái, tình đồng đội. Đơn giản vì thêm một người lính là thêm một tay súng, thêm sức mạnh cho đơn vị khi chiến đấu. Các thủ trưởng sống thân tình với lính tráng như anh em, không có gì cách biệt, nhưng cũng rất nghiêm khắc với sai lầm của anh em. Cái gì không vừa ý có khi quát tháo ầm ầm. Quát đấy nhưng khi xong việc lại cười thoải mái, có khi chìa tay xin lính điếu thuốc nếu nó vẫn còn. Các anh lính cựu cũng nhiễm tính này. Mắng tân binh cứ xơi xơi, chả kiêng dè câu chữ gì cả. Đặc biệt là lúc cáu thì văng thoải mái, đặc sản thả ra ầm ầm. Lần đầu bị chửi, bị văng tục vào mặt thấy ngỡ ngàng và tủi thân, nhưng sau thành quen hết, chẳng ai để bụng.
Hai chiến sĩ đào một hầm chữ A. Buổi sáng đào đất, chiều đi chặt cây và hoàn chỉnh hầm, trong một ngày là phải xong. Lại còn chi viện đào giúp hầm cả cho anh nuôi và tổ gác đầu bản nữa. Cuối cùng thì mọi việc cũng xong trước bữa cơm chiều. Các thủ trưởng đại đội dù bận cũng phải tham gia đào hầm cho mình. Tất nhiên các trung đội có hỗ trợ một phần.
Bây giờ quân số trong đại đội có chừng năm chục tay súng, không kể ban chỉ huy đại đội, y tá, anh nuôi và tiểu đội hỏa lực cối 60. Chỉ bằng một phần ba quân số đại đội huấn luyện ngoài Bắc, Tháo nhẩm tính. Vậy mà các anh lính cũ bảo: “Thế này là khá đấy. Rồi chú mày sẽ thấy đơn vị vơi dần qua từng trận đánh cho mà xem”. Các cán bộ từ tiểu đội trở lên có đầy đủ, nhưng thường thiếu cấp phó. Hy sinh người này thì người khác được chỉ định thay thế. Tiểu đội của Tháo được bổ sung một tiểu đội trưởng mới, anh Nhạn từ trung đội khác sang. Anh Nhạn người Hà Tây, phải hơn Tháo đến năm sáu tuổi. Nghe nói trước khi nhập ngũ, anh đã là công nhân lâm trường nên rất thạo rừng núi và cây cỏ, chả khác người dân tộc. Mấy anh lính người dân tộc được anh em trong đơn vị rất quý nhờ những kinh nghiệm rừng núi trong chuyện săn bắn và kiếm ăn các loại rau quả rừng, cũng phải vì nể anh Nhạn. Nể vì ngoài những chuyện thông thạo núi rừng, anh Nhạn còn có thêm độ “quái” của một người Kinh có độ từng trải. Chả phải chờ lâu, Tháo đã được thấy ngay điều ấy.
Tháo đào và ở chung hầm chữ A với anh Nhạn. Anh ấy phân công gì, bảo làm gì thì làm theo cái ấy. Mọi thứ rất gọn gàng và hợp lý. Hầm chữ A thông thường có hai ngách chéo nhau, một là cửa chính để lên xuống, một là ngách phụ thông hơi. Tháo thấy anh Nhạn cho đào cái ngách phụ khá to, như một cái hầm hàm ếch. Mò sang xem các hầm khác trong đơn vị, thấy ngách phụ bé tẹo, muốn chui lên phải nghiêng người, bẩn hết áo. Về hỏi anh Nhạn, thấy anh nheo mắt cười, ra vẻ bí mật. Anh dặn cứ biết thế thôi, đừng nói gì cả với ai nhé. Lúc chiều sau khi đào xong hầm chờ cơm anh nuôi, anh Nhạn còn xách súng mò đi đâu đó khá lâu. Lúc về chả thấy đem được thêm cái gì, vậy mà anh vẫn cười rất vui, búng tay tanh tách. Mỗi người lính thường có một cử chỉ riêng đặc trưng, cái búng tay của anh ấy giòn tanh tách, nghe cứ như cô ruột Tháo là diễn viên múa Tân Cương ngoài Bắc, hay búng tay lúc vui vẻ, giòn tan. Đặc biệt hơn nữa là không phải ai cũng búng tay kêu thành tiếng được. Ngày bé Tháo đã học cô mình tập búng tay nhiều lần, xong chỉ ra tiếng kêu tèn tẹt như bị ngấm nước, mãi không thành tiếng.
Cơm nước xong, hai anh em ngồi chơi quấn thuốc rê hút chán chê rồi anh Nhạn bảo Tháo xách súng AK theo anh lúc trời đã tối nhọ mặt người. Sinh hoạt hàng tối là cái nếp của bất cứ đơn vị bộ đội nào, nhưng ở chiến trường thì cái khoản này được miễn khi ra tuyến trước. Cái cần nhất mỗi tối ở đây là canh gác và sẵn sàng chiến đấu, chỉ vậy thôi. Chính vì vậy mà anh Nhạn kéo Tháo lẳng lặng đi chả cần báo cho ai. Hai anh em chui qua bản rồi lần ra dãy hàng rào ngoài. Cả hai ngồi xuống quan sát một lúc thì mới thấy rõ viền trên nền trời đêm có bóng những chú gà đang đậu trên hàng rào. Bảo Tháo ngồi im, anh Nhạn tiến lên, chỉ một lúc sau đã thấy anh ấy hai tay hai con gà to tướng. Lạ cái là bắt gà mà sao không có con nào giãy giụa hay kêu lên lấy một tiếng. Mãi về sau mới biết cái “võ” của anh ấy. Không có ngón “võ” này, túm cổ con gà đang đậu lôi xuống thì dù có nhanh tay bẻ nó gãy cổ đến “rắc” một cái thì nó cũng kịp kêu lên một tiếng “quác” vang đi rất xa trong đêm.
Đem gà về, hai anh em chui ra cái bụi cây gần hầm làm thịt. Xoong mượn anh nuôi, anh Nhạn đun nước làm thịt gà rất nhanh. Bây giờ Tháo mới biết tại sao cái hầm chữ A của mình lại có cái ngách phụ mở to như vậy. Hóa ra nó thêm chức năng của một cái bếp. Củi lấy của dân bản khô giòn, che chắn cẩn thận trong đêm nên chả nhìn thấy ánh sáng hay khói lửa gì. Hai con gà được cắt nhỏ cho vào nồi nấu cháo. Chả hiểu anh Nhạn lấy gạo từ đâu. Vậy là cứ một người lúi húi đun, một người ngồi trên ngách chính của hầm canh gác, đun tới giờ phân công canh gác đêm thì nồi cháo chín. Tháo chưa kịp thắc mắc làm sao hai người ăn hết cả nồi cháo gà to đùng thì đã thấy lính tráng cùng trung đội lò dò vác bát sang. Hóa ra cái chuyện nấu cháo gà không phải chỉ có hai anh em Tháo biết, mà đã được hiệp đồng từ trước trong trung đội rồi. Ai bắt gà nấu cháo cứ nấu còn tất cả lặng lẽ coi như không biết. Đến giờ cháo chín mới từng người một vác bát tới lấy. Lính tráng có suất có phần, cứ yên tâm mà nhận, mà chén. Tháo cũng được một ca cháo gà to, thêm một cái chân gà anh Nhạn ưu tiên cho. Cháo gà nấu gạo nếp nên rất quánh. Sau mấy ngày ăn toàn cơm nếp chấm muối vừng, ca cháo gà ngon không thể tưởng. Xúc từng thìa ăn để thưởng thức chậm rãi cho nó ngấm. Giá có thêm ca nữa cũng chén hết, nhưng anh Nhạn bảo nên ăn thế thôi, cái gì cũng cần có chừng có mực.
Rồi dần dà Tháo biết, trong toàn đại đội đêm ấy trung đội nào cũng có nồi cháo gà bồi dưỡng sức quân. Cứ lẳng lặng mà làm, không cần nói to. Mà ai cũng có phần, kể từ cánh bộ binh đến cánh hỏa lực, y tá, anh nuôi. Cái võ làm hầm chữ A có ngách phụ to chiến sĩ cũ ai cũng biết. Tất nhiên chỉ đào ở một vài cái hầm và chỉ khi tới nơi trú quân biết chắc có nguồn thực phẩm “trời cho” thì mới đào kiểu đó. Hai chiến sĩ liên lạc của đại đội cũng không chịu thiệt. Chúng nó được đại đội trưởng giao cho đi truyền đạt xuống các trung đội đã mang sẵn theo cái ca “đít trâu” vốn nằm dưới bi đông nhôm, nên chẳng phải nhờ ai. Lấy phần xong cứ lủi ra bụi cây nào đó lặng lẽ ăn xong chùi mép đứng dậy, rửa ca rồi về là xong. Ăn vụng kiểu này không được ngồi cạnh nhau dù chỉ hai người. Còn những phần phụ như lông, xương gà được đem chôn cẩn thận.
Đời lính chiến trường, ngoài chuyện đi săn bắn hay lấy rau quả đem về cho toàn đơn vị, gọi là đi “cải thiện” thì cái chuyện đánh lẻ từng tốp thế này lính ta gọi là ca cóng. Ca cóng là bản lĩnh không thể thiếu với lính tráng. Nhờ nó mà lính ta cải thiện thêm rất nhiều cho cuộc sống, chống lại được với cái đói cái thiếu vốn là đặc trưng ở chiến trường. Hình thức ca cóng rất phong phú không thể kể xiết. Trình độ ca cóng của anh em cũng ở nhiều cung bậc khác nhau. Tân binh nào được ở cùng anh lính cũ có trình độ ca cóng đẳng cấp thì được hưởng lợi rất nhiều. Chuyện nấu cháo gà như thế này là một loại ca cóng cao cấp. Sau này Tháo biết thêm, anh Nhạn cũng là người lính có trình độ ca cóng vào hàng đáng nể trong đại đội.
Đêm nằm cùng anh Nhạn, Tháo thắc mắc:
“Lính tráng chén thế này còn các thủ trưởng đại đội phải nhịn à?”.
Anh Nhạn nghe hỏi cười khấc khấc rồi nói nhỏ đủ nghe:
“Nhịn là nhịn thế quái nào. Đại đội trưởng Khâu ngày trước vốn là trung đội trưởng trung đội này, hiểu rất rõ anh em. Ông ấy cũng đi kiểm tra tình hình rồi xuống ăn cháo rồi. Anh em cũng không thể quên ông ấy được, phải để phần chứ”.
“Vậy còn Chính trị viên Cẩm?”.
“Ừ, ông này thì phải nhịn rồi. Thủ trưởng chính trị mà”.
Tháo nghe mà không hiểu. Sao thủ trưởng chính trị lại không biết và không được ăn? Ngần ngừ một lát, Tháo hỏi:
“Ông ấy không biết anh em ca cóng hả anh?”
“Biết chứ. Ông ấy cũng từ lính mà lên, chuyện ma quái gì mà chả biết. Nhưng trót khoác cái áo chính trị viên rồi, cán bộ chính trị mà. Ông ấy thừa biết lính tráng chả khi nào chịu đói ngồi nhìn những thứ ăn được chạy qua. Ông ấy thương anh em nên lờ đi, nhưng bản thân mình lại không dám ăn. Một là sợ bị kỷ luật khi lộ ra, hai là để lúc khác còn tiếp tục căn dặn đơn vị phải nghiêm chỉnh chấp hành chính sách dân vận và những điều kỷ luật khác nữa chứ. Lính tráng và ngay cả ông Khâu cũng thương ông ấy lắm, nhưng không thể xòe ngửa bài ra được, đành cứ phải làm kiểu ăn vụng thôi...
Ra vậy. Hóa ra các thủ trưởng chính trị khổ thật. Cứ phải tự đem bản thân mình ra làm gương để còn có thể răn dạy và chỉ huy đơn vị. Sau này Tháo biết thêm, thủ trưởng Cẩm là dân chính trị nhưng chiến đấu khiếp lắm. Ông ấy xông xáo và chỉ huy chiến đấu còn giỏi hơn cả Đại đội trưởng Khâu, khiến chính đại trưởng cũng phải nể phục. Sau này lại biết thêm thủ trưởng Cẩm là người dân tộc, khiến Tháo càng kính trọng và nể ông hơn. Người dân tộc vốn dĩ trung thực và hết mình. Tự nhiên Tháo có ý nghĩ, không biết các thủ trưởng chính trị người Kinh trong các đại đội khác có ép mình để làm gương như thủ trưởng Cẩm không nhỉ?
Thời gian ở bản Phuột kéo dài tới cả tuần lễ. Không ngờ thời gian này lại là quãng sống như thiên đường của đại đội Tháo. Hàng ngày đều có một tiểu đội vượt ra đầu bản ngồi chốt canh gác, còn tất cả ở yên tại chỗ cứ như là nghỉ ngơi dưỡng sức. Địch không tới thì thật ra cũng chả có việc gì đáng kể để làm. Trong cái bản dân này trồng khá nhiều cây ăn quả, đặc biệt là mít và chuối. Thêm vài cây bưởi nhưng mùa này mới chỉ có hoa. Đại đội cử người trẩy mít xanh đem cho anh nuôi làm món xào. Mít chín chỉ ăn được múi chứ mít xanh thì cắt nấu ăn được cả cùi lẫn xơ và hột. Mít xào thay món rau xanh khá ngon, rất dễ ăn. Còn chuối thì ta tự nhiên hạ xuống ăn, món bắp bi chuối làm nộm hay thân chuối thái ra ăn sống cũng là một thứ rau rất tốt, đỡ háo rau khi mà chủ lực của bữa ăn vẫn là cơm nếp và muối vừng. Vài ngày sau khi đến bản Phuột, lính ta đã nhìn thấy những con lợn đen ụt ịt sục mõm bới ăn ở cạnh khu vườn chuối. Lợn của dân nuôi nhưng giờ thành lợn hoang. Thời gian dân bỏ đi chưa lâu nên chúng vẫn quen nhà và chỉ quanh quẩn gần bản. Phải thật lâu khi không còn gì kiếm ăn được nữa, chúng mới bỏ xa vào rừng. Lính ta đã nhìn mấy con lợn nghĩ thầm muốn đổi món, nhưng thịt cả con lợn thì không thể giấu được thủ trưởng Cẩm. Thủ trưởng đã làm ngơ cho món cháo gà đã là quá lắm rồi, nay công khai thịt lợn thì chả khác gì dồn thủ trưởng vào chân tường. Thế là lính ta đành nhìn mấy con lợn sục sạo quanh bụi chuối giải sầu như nhìn cảnh nông thôn quê nhà yêu dấu lúc thanh bình.
Chuyện nấu cháo gà vẫn diễn ra đều đều hàng đêm. Lính tráng có nhẽ là những người kiên trì và rất có lập trường nên ăn mãi không chán, cũng không đòi hỏi thêm gì khác ngoài khẩu phần mỗi tối một bát cháo gà. Sau một tuần, đàn gà vơi dần còn cánh lính thì phởn phơ có vẻ ai cũng khỏe mạnh và lên cân.
Địch vẫn không thấy đến, còn chiến sự bên phía gần ngã ba Lào Ngam có vẻ căng hơn. Địch đưa thêm quân ra đóng thành mấy cái chốt quanh đường 231. Chúng cứ ở lì tại khu vực đó, thỉnh thoảng ngó nghé ra tí xa xa bắn vu vơ ít cối M79 rồi cho máy bay trinh sát L-19 vè vè dọc phía tây huội Champi săm soi tìm chỗ có bộ đội ta. Gần đây hỏa lực ĐKB của trung đoàn lập trận địa pháo ở khu vực phía đông huội Champi, mỗi ngày bắn vài ba quả vào sâu trong phía Phù Chiêng quấy nhiễu địch. Quấy nhiễu thôi, vì nửa ngày mới phụt một quả, xong vội ngụy trang ngay để tránh L-19 phát hiện vị trí đặt pháo. Pháo ĐKB thực chất là loại hỏa tiễn Ca-chiu-sa tháo rời ra lấy một hai nòng bắn đơn lẻ. Độ chính xác kém, đạn nổ tản mạn trong khu vực rơi tính theo diện tích mẫu, sào, thước mà lại bắn có mỗi quả thì cũng chả ăn thua gì. Địch phản pháo bằng cách cho pháo 105 ly bắn đại về khu vực có tiếng phụt đầu nòng của ĐKB, mỗi lần cỡ chục quả, kết hợp cho máy bay L-19 dò tìm vị trí chính xác. Nhưng cánh lính ĐKB có thừa kinh nghiệm. Họ làm hầm pháo dựa vào sườn núi để tiếng nổ đề pa dội vang vào cả vách núi cao, khó xác định chính xác vị trí. Mặt khác, phía đuôi nòng ĐKB được đào hẳn một cái hầm theo kiểu bếp Hoàng Cầm để khói phụt vào đó rồi khuếch tán dần nên không bị lộ vị trí. Cánh lính bộ binh rất ngại ở gần khu vực bố trí ĐKB vì sợ bị phản pháo nhầm mà chết oan.
Trong khi các đại đội khác căng mình ra đánh cò cưa với địch quanh khu ngã ba Lào Ngam mà đại đội 6 của Đại đội trưởng Khâu lại được trú quân ở bản Phuột suốt một tuần như nghỉ dưỡng sức thì thật không hợp lý. Vì thế tiểu đoàn lại có lệnh cho Đại đội trưởng Khâu đưa Đại đội 6 về khu vực đường 231. Rất may là chính trị viên Cẩm cùng một liên lạc phải về tiểu đoàn sớm nửa ngày từ chiều hôm trước, nên Đại đội trưởng Khâu phẩy tay cho cánh anh nuôi khẩn trương làm thịt một con lợn. Anh nuôi Đức rải ra đất một ít cơm dụ mấy con lợn. Một anh lính thủ sẵn một cây gậy ngồi cạnh chờ đợi. Chọn một con lợn to cỡ sáu chục cân lao vào mải ăn, người lính nện luôn một gậy trúng ngay sống mũi nó. Chú lợn lăn ngay ra ngất lịm. Thế là rất nhanh, chú lợn được lôi về bếp hóa kiếp. Đơn vị được ăn sơ sơ món lòng gan, thủ và chân lợn trong bữa cơm tối hôm đó. Còn thịt lợn được thái ra rang mặn chia cho các trung đội đem đi làm thức ăn. Sớm hôm sau, tất cả đại đội nhổ trại hành quân, để lại phía sau một bản Phuột vẫn còn gần như nguyên vẹn cùng rất nhiều thứ ăn được. Chả biết sau này có ai đến thay hay bọn lợn gà đã thành động vật hoang dã.
Đơn vị của Tháo về lại khu vực cũ bên huội Champi khi trước. Sau một ngày củng cố và đào thêm hầm tại nhiều chỗ hai bên bờ suối, cả đại đội chuẩn bị cho công tác gùi cõng vận chuyển đạn và gạo lót cho toàn tiểu đoàn đánh bọn địch đóng dã ngoại ở khu vực đường 231.
Mùa mưa đang dần tới, nhưng huội Champi vẫn yên ả, không mấy khi có lũ. Ngày nắng và ngày mưa vẫn xen kẽ nhau. Có khi nửa ngày mưa, nhưng chỉ là mưa lây rây, chưa đủ nước để tạo những cơn lũ rừng. Thậm chí vẫn có tới mấy hôm liền nắng chói chang. Lội qua suối chỉ sâu đến đầu gối nên tuyến đường luôn thông suốt. Đại đội trưởng Khâu chia đôi đơn vị làm hai tuyến gùi cõng. Một nửa vận chuyển từ trong hậu cứ ra bờ suối, còn một nửa gùi tiếp từ đây ra khu vực trận địa. Mọi thứ đạn gạo trung chuyển tập kết trên đỉnh dốc của bờ suối phía đông.
Nửa đại đội vận chuyển từ hậu cứ ra suối thì đường xa hơn nhưng cứ đi ào ào vì lối đi là đường đạp trong rừng, cây che kín mít. Đường mòn lính đạp mà thành này không có trên bản đồ nên không sợ địch bắn pháo. Dừng chân nghỉ giải lao tha hồ nằm ngồi ngả nghiêng trò chuyện và quấn thuốc hút. Nửa bên phía tây suối tuy ngắn hơn nhưng đi qua nhiều bãi trống và cây lúp xúp nên phải đi nhanh và ngụy trang cẩn thận. Trung đội của Tháo và một nửa trung đội nữa chịu trách nhiệm đoạn này. Được cái cả một dải rộng hai bên suối lại là rừng xanh cây to, nên khi ở gần suối, chỗ ngồi nghỉ cũng kín đáo. Khó chịu nhất là cách suối độ hơn trăm mét có một cái cây đổ nằm chắn ngang đường. Thân cây phải cỡ hai người ôm. Không có lối đi vòng nên khi qua đó phải hai người đủn đít và kéo tay nhau mới trèo qua thân cây được. Lúc về đi người không chỉ có súng còn đỡ chứ lúc đi có đạn hay gạo nặng gùi trên vai, phải hì hục dăm phút mới qua được một người. Ngày lại ngày, chuyện trèo qua cái cây cứ vất vả như thế mà chẳng làm thế nào khác được.
Nhưng có một lần nhờ cái cây ấy mà Tháo biết rằng sức mạnh con người trong một hoàn cảnh nào đó sẽ được nhân lên gấp bội. Chỉ những ai đã từng trải qua mới hiểu rõ điều đó. Hôm ấy anh Nhạn dẫn tiểu đội gồm năm người gùi đạn cối 60 ra trận địa cho đơn vị bạn. Khi bắt đầu từ vùng cây lúp xúp đi ra men theo bãi trống, anh Nhạn đã nhắc mọi người bẻ một cành cây che lên đầu để ngụy trang. Bãi trống khá rộng nên không thể vượt ào qua được. Tới giữa bãi bỗng nghe thấy tiếng vè vè của máy bay trinh sát L-19. Tất cả lập tức ngồi xuống và che cành lá lên đầu. Chiếc L-19 bay rất chậm rồi vòng lại rất nhanh trên đầu. Nhưng cứ khuất nó một chút là mọi người nhổm lên chạy nhanh một đoạn rồi lập tức ngồi im xuống, kịp trước khi nó vòng lại trên đầu. Giống như một trò chơi “ù, ập” của con trẻ. Mấy lượt như thế mới qua được bãi trống. Chiếc L-19 có vẻ còn nghi ngại nên nó lượn thêm vài vòng rà theo rừng cây lúp xúp rồi mới chịu bay đi. Lúc quay về, anh Nhạn vẫn nhắc anh em chú ý, bẻ cành lá che đầu đầy đủ. Tưởng đi nhẹ sẽ nhanh, không ngờ vừa ra bãi trống đã lại thấy bóng chiếc L-19 trên đầu. Lần này nó săm soi có vẻ kỹ hơn. Vì sốt ruột nên chỉ dừng lại giữa bãi trống có hai nhịp, mọi người đã nhấp nhổm định chạy. Bất ngờ chiếc L-19 chúi xuống và bắn ngay một quả pháo khói xuống giữa bãi trống. Thấy thế anh Nhạn bật dậy, vất cả cành lá che đầu và hô rất to: “Chạy”.
Tất cả vội bật dậy ù té bám theo anh Nhạn chạy như ma đuổi. Rất nhanh, đã nghe sau lưng tiếng máy bay ném bom T-28 và tiếng rít của bom rơi xuống. Nhanh thế, cứ như máy bay T-28 của địch đã rình sẵn ở đâu đó. Chả có chỗ nào trú ẩn, cũng chả nghĩ thêm gì nhiều, tất cả vẫn theo nhau cắm đầu chạy. Ào ào một lúc, Tháo đã thấy mình đang nằm rạp ở một gốc cây cạnh suối. Nhìn ngang xung quanh thấy đủ cả năm anh em. Tiếng bom vẫn nổ ầm ầm phía đằng sau ngoài rừng cây lúp xúp. Có đến một lúc sau, cả bọn mới hoàn hồn và chợt nhận ra một điều kỳ lạ. Lúc vượt qua cái cây đổ to như thế nào nhỉ. Có lẽ là bay chứ có ai đợi ai mà đủn đít nhau đâu. Nếu quả là cả bọn đã nhảy qua cái cây ấy trong lúc nguy cấp thì có lẽ tất cả các vận động viên nhảy cao hay chạy vượt rào đều phải ngả mũ chào thua. Về sau Tháo và mọi người khi quay lại cái cây ấy ngắm nghía và thử lại thì thấy thật không thể dễ gì mà nhảy qua được, nhất là lại còn kèm thêm cả súng đạn. Trong chiến tranh đúng là có những chuyện lạ phi thường không thể giải thích.
Sau một tuần gùi cõng lót đạn gạo, tiểu đoàn tổ chức đánh địch đóng dã ngoại ở khu vực đường 231 gần ngã ba Lào Ngam. Một đại đội dự bị tuyến sau còn hai đại đội sẽ tập trung đánh một đại đội lính Phumi nằm về phía bắc khu vực. Trinh sát dẫn bộ đội đến cách khu vực có địch dăm chục mét thì bàn giao để bộ binh triển khai áp sát rồi đánh kiểu vận động chiến. Đúng là trong chiến trường thì cứ bám theo lính cũ mà nổ súng, chứ ngoài Bắc thời huấn luyện tân binh, mấy cái bài tập chiến thuật cho tiểu đội, trung đội chả có tác dụng mấy. Thực tế chiến trường khác rất xa so với huấn luyện theo giả định lý thuyết.
Khu vực tác chiến là những vườn cà phê của dân. Không hiểu sao chỗ này cũng thuộc cao nguyên nhưng không có đất đỏ bazan màu mỡ. Thân cây cà phê chỉ to cỡ cổ chân, xơ xác qua mùa khô trên nền đất có rất nhiều sỏi đá. Chỗ này mà đào được một cái hố cá nhân chắc cũng chối tỉ. Nhưng là đánh vận động nên lính tráng tản ra nằm sau những gốc cà phê, không phải đào hầm. Có lệnh nổ súng, mấy khẩu B-40 dập đạn vào trận địa địch. Cối 60 cũng lốc cốc dăm quả rồi bộ binh bắt đầu vận động xung phong. Cứ chạy dích dắc từng quãng dựa theo các gốc cà phê và nổ súng về phía địch. Tháo cũng chạy theo anh Nhạn và chĩa súng về phía trước điểm xạ từng nhịp. Không nhìn rõ địch, không ngắm nghía và vẫn phải liên tục nổ súng mỗi lần bật lên chạy từ gốc cà phê nọ tới gốc cà phê kia. Đánh vận động tốn đạn và khẩn trương nên trước lúc vào trận, anh Nhạn hướng dẫn Tháo dùng dây chun buộc ngược hai băng đạn AK vào với nhau rồi mới lắp vào súng.
Quân ta chỉ mới tiến được một đoạn vào tới mấy cái hố cá nhân phía ngoài trận địa địch, thì chỉ sau ít phút lùi lại củng cố, địch đã nổ súng về phía ta. Xen trong tiếng nổ rèn rẹt ríu nhau của đạn AR-15 là tiếng “cốc, oành” của đạn cối cá nhân M79 nổ vang khắp nơi. Cả địch và ta đều bắn M79 nhưng có vẻ M79 của địch nhiều hơn ta và chúng bắn rất nhanh khiến tiếng đạn M79 nổ khắp nơi. Trơ khấc trên mặt đất thì đạn M79 là vua, tha hồ sát thương đối phương. Lại thêm hai khẩu trung liên M60 của địch bắn tới. Đạn M60 cũng cỡ 7,62 ly như súng AK của ta nên tiếng nổ toang toác của nó rất to, đầy uy lực. Bộ đội ta chững lại không thể xung phong mà phải nằm tại chỗ nổ súng bắn lại. Đại đội trưởng Khâu vẩy khẩu K-54 hạ lệnh các trung đội cho bộ đội yểm hộ nhau nhích dần lên.
Tháo đã bắn hết băng đạn AK đầu tiên. Bây giờ nằm tại chỗ sau gốc cà phê phải bắn dè dặt hơn. Tháo vẫn bắn mà chưa thấy trúng tên địch nào. Kiểu bắn này chả mấy chốc sẽ hết nốt băng đạn thứ hai. Nghĩ vậy, Tháo vội lôi bọc đạn rời trong gùi đeo sau lưng ra rồi lập cập lắp đạn vào cái băng rỗng. Bây giờ quân ta không thể nhích lên được nữa. Bọn địch dù chỉ có hố cá nhân dã ngoại, nhưng dù sao cũng là hầm có tác dụng che chắn. Bộ đội ta chủ yếu nằm trên mặt đất, tơ hơ người ra nên rất yếu thế. Chỉ có vài người lính đầu tiên chiếm được mấy cái hố cá nhân phía ngoài của địch, chui người xuống đó, xong như thế là quá ít. Hỏa lực của địch như vậy nên không thể xung phong chạy ào ào trên mặt đất. Rồi càng ngày càng thấy chúng bắn mạnh hơn, tiếng súng nổ khắp nơi. Phía ta đạn B-40 cơ số có năm quả bắn đã gần hết. Cối 60 chi viện xong độ hơn hai chục trái cũng đã hết đạn. Quân ta không thể đánh nhanh thắng nhanh như dự định ban đầu.
Vườn cây cà phê thưa nên đạn cối cá nhân của địch đều rơi nổ trên mặt đất, có tác dụng sát thương rất lớn. Bộ đội ta bắt đầu có thương vong. Tháo đã nhìn thấy y tá đại đội chạy qua chạy lại băng bó cho người bị thương. Anh Nghi trong cùng tiểu đội với Tháo cũng bị trúng đạn M79 vào chân và được y tá băng bó đang nằm im ngay phía sau gần Tháo. Địch vẫn bắn có vẻ ngày càng mạnh, còn tiếng súng của ta thưa dần. Tiểu đoàn đã cho lệnh rút. Quân ta vừa bắn cầm canh vừa yểm hộ nhau lui dần. Bây giờ mà nếu địch tổ chức xung phong là quân ta chết chắc. Đại đội 5 làm nhiệm vụ dự bị được điều lên, nhưng là để giúp hai đại đội bạn vận chuyển thương binh tử sĩ.
Rút về đến khu vực rừng cây lúp xúp là vị trí mà tiểu đoàn tập kết trong mấy ngày trước thì pháo địch dội đến. Biết quân ta rút lui, địch không bám theo vì địa hình trống trải và không hầm hố, chúng chỉ gọi pháo bắn. Pháo binh là ưu thế của địch trong chiến trường và chúng tận dụng luôn. Lính ta vội tản ra chui vào mấy cái hầm chữ A có sẵn. Hầm ít mà khi nghe pháo nổ thì ai cũng muốn chúi xuống. Thậm chí rúc đầu vào được một cái hố mà chổng đít lên trời cho mảnh pháo nó có cơ để phạt ngang cũng còn thấy yên tâm hơn trơ cái gáo dừa trên mặt đất. Bọn địch không bắn pháo cấp tập mà cứ thong thả từng trái một. Mỗi một trái pháo lao xuống rít lên như đè nặng người ta xuống rồi “ầm” một tiếng, kèm đất đá bay tứ tung vù vù. Cái chết đang kề sẵn bên mỗi người lính. Đã có người trúng mảnh pháo ngã lăn ra. Tháo theo hút cái lưng của Trung đội trưởng Quân lao vào một cái hầm. Hầm chật vì đã có người trong đó. Trung đội trưởng Quân lấy tay đẩy Tháo ra quát: “Chạy sang hầm khác đi”.
Tháo lùi ra, chạy bổ sang một cái hầm khác cách đó dăm mét. Một khuôn mặt lạ mà sau này Tháo mới biết là Chính trị viên tiểu đoàn Vấn lấy tay đẩy Tháo ra kèm tiếng quát: “Chật rồi, sang hầm khác”. Đang lúc hoảng loạn, chẳng cần biết ông này là ai, Tháo gào to: “Chạy chỗ đ... nào được”, rồi cứ thế ghé lưng đẩy ép ông Vấn vào hầm. Quả là hầm chật thật, Tháo chỉ quay lưng ép lọt được người vào hầm, còn hai chân phải thò ra ngoài. “Rầm” một tiếng pháo nổ ngay gần đó, rào rào đất đá. Nếu còn đứng ngoài hầm, chắc Tháo đã có giấy báo tử gửi về cho mẹ. Cũng may là hai cái chân thò ra ngoài không bị trúng mảnh pháo. Sau này Tháo nghĩ, may mà cũng là không may. Trúng mảnh pháo vào chân có khi thành thương binh ra Bắc lại chẳng hay hơn à. Cứ thế thêm vài loạt pháo nữa thì địch ngừng bắn. Mọi người chui vội ra khỏi hầm. Lại băng bó cho thương binh và khiêng tiếp tử sĩ rút lui. Tháo không quay lại nhìn mặt ông lính lạ, nó vội theo trung đội rút chạy ào ào về phía cánh rừng ven huội Champi.
Trận đánh không thành công như ý định của tiểu đoàn. Hóa ra địch không chỉ có một đại đội đóng dã ngoại mà còn thêm một đại đội nữa ngay gần đó. Chúng nổ súng chi viện cho nhau luôn. Vậy là hai đại đội của ta đánh hai đại đội của địch. Mà tiếng là đại đội, nhưng quân số mỗi đại đội chỉ dăm chục người, lại phải đánh trong điều kiện địch có công sự. Hỏa lực của chúng cũng mạnh hơn. Nghe nói trong trận vừa rồi, hỏa lực tiểu đoàn cũng chi viện cho dăm trái cối 82 mà Tháo có nhận ra chi viện lúc nào đâu. Dăm quả cối chi viện, thật quá muối bỏ bể. Cả hai đại đội xung kích đều bị thiệt hại nặng. Riêng đại đội Tháo bị tổn thất 12 người, trong đó có tới một nửa hy sinh. Cậu Trung trong cùng trung đội với Tháo cũng bị một viên AR-15 của địch xuyên qua vai phải, sã hết cả cánh tay không cầm được AK. Tất cả hì hục khiêng tử sĩ và đưa thương binh qua suối, rút về cánh rừng ở sườn đồi phía đông huội Champi, cách chừng hai cây số. Đại đội 7 trụ lại bên suối làm tiếp nhiệm vụ chốt giữ chặn địch.
Quân số đại đội tụt giảm trông thấy. Mới đó mà giờ chỉ còn chưa tới bốn chục tay súng. Đại đội sắp xếp lại, cử người thay hai tiểu đội trưởng hy sinh trong trận vừa rồi. Vậy là từ hôm Tháo được bổ sung vào đơn vị tới nay, đã có ba tiểu đội trưởng bị thương và hy sinh. Cảm xúc bây giờ không còn bình thản như sau trận đánh chốt ở bản Sạt nữa. Có một cái gì đó buồn buồn khi nghĩ rằng, những chuỗi ngày như thế này sẽ là một đặc trưng của chiến trường và nó sẽ kéo dài mãi mãi. Người ta sẽ chỉ biết là đi và cứ thế mà đi chứ không thể biết đâu là đích.
Một đại đội bộ binh cò cưa thêm chừng hai tuần nữa, nổ súng lắt nhắt vài lần. Các đại đội còn lại gùi cõng tiếp tế mọi thứ suốt từ trong kho hậu cứ trung đoàn ra tới tận chốt. Mưa đã ngày một nhiều hơn, có rất ít ngày nắng. Khẩu phần lương thực giảm xuống còn năm lạng một ngày. Ngoài gạo nếp mua của dân Lào, đã được ăn xen gạo tẻ từ miền Bắc chuyển vào. Đó là một thứ gạo đồ của Trung Quốc đóng trong bao ni lông dày màu xanh, mỗi bao 50 cân. Tưởng ăn gạo tẻ cho bớt xót ruột, té ra không phải. Gạo đồ của Trung Quốc không giống gạo tẻ của ta. Có lẽ vì nó được “đồ” chín một phần để tránh mọt, mốc như tên gọi. Gạo này cứ cho kha khá nước vào nấu kiểu gì cũng chín. Khi chín, chỉ lấy cái đũa cả gẩy qua gẩy lại là từng hạt cơm cứ rời nhau ra, không có độ dính, độ dẻo và chẳng hề thơm mùi gạo. Đặc biệt gạo đồ không thể đem nấu cháo. Có cho cả một thùng nước vào đun với một ca gạo thì sau nhiều giờ cũng chỉ có được một thứ cơm rời rạc như ta nấu bình thường.
Mùa mưa tới nhưng rau rừng chưa kịp có gì. Vẫn chỉ tìm loanh quanh được mấy thứ như bắp bi chuối rừng, rau môn thục và nhiều nhất vẫn là lá chua rừng. Có rất nhiều thứ lá lạ ở rừng nấu được canh chua chứ không chỉ có lá bứa như ngoài Bắc. Thỉnh thoảng mới tìm được vạt rau tàu bay mọc ở bờ đất ẩm ven những khe suối. Rau tàu bay nổi tiếng từ trong kháng chiến 9 năm đánh Pháp với bộ đội ta, bây giờ cũng dần trở nên như vậy. Nhiều khi rau tàu bay trở thành thứ rau mơ ước. Ăn quen, thấy rau tàu bay không còn hắc nữa mà có vị khá đặc biệt. Ngon nhất là muối dưa, còn thì luộc, xào hay nấu canh đều được. Mấy anh lính cũ bảo mùa khô trong chiến trường mà mong có rau xanh dù là rau rừng thì cũng thật là “chào vao”, nghĩa là đừng có mơ. Còn sang mùa mưa thì tự khắc sẽ có mọi thứ. Các loại rau dại mọc hoang khắp nơi, những thứ như nấm hay măng thì nhiều khi vô thiên lủng, còn trên các nương của dân cũng có nhiều thứ rau ăn bạt ngàn. Nghe mà thèm trong những ngày này khi mà chỉ có rau môn thục là chủ lực. Rau môn thục mọc hoang bờ suối trông na ná như cây khoai nước, nhưng không có củ. Lấy bẹ của nó đem về rửa sạch, cắt nhỏ rồi ninh càng lâu càng tốt cho bớt ngứa. Lúc ấy nồi canh rau môn thục nhìn thoáng qua trông như nấu bằng cái bao tải rách. Háu ăn mà lười luộc kỹ, ăn vào nó ngứa móc họng ra không hết. Cái ngứa của canh rau môn thục rất đặc biệt, không thể nào tả chính xác được. Nó vừa giống như một kiểu ho khan ngứa họng, vừa như muốn buồn nôn mà nôn mãi không ra.
Ăn uống như thế nhưng ngày ngày vẫn phải gùi đạn và gạo ra tuyến trước. Nếu xét cho kỹ thì đường gùi đạn gạo từ kho trung đoàn ra tới tuyến trước phải hơn chục tiếng đồng hồ. Đấy là trong cảnh trời nắng đường dễ đi. Đi trong trời mưa tầm tã đường trơn, qua suối nhiều thì còn lâu hơn. Vì thế các đại đội làm nhiệm vụ vận tải phía sau phải chia nhau ra thành nhiều chặng để vận chuyển hàng.
Những cơn mưa rừng đổ xuống đã kéo dài nhiều ngày báo hiệu mùa mưa chính thức tới rồi. Mưa rừng trên cao nguyên không phải là mưa bão bởi chả có gió thổi ào ào làm cây cối nghiêng ngả mà nước cứ thế từ trên trời rơi xuống, lúc mau lúc thưa. Ở trong rừng thì tối sầm sầm, mọi thứ đều sũng nước. Không khí ẩm khiến quần áo mặc trên người mà cảm giác không lúc nào khô. Thò mặt ra bìa rừng thì bầu trời sầm sì và mưa tuôn xuống cảm giác như không bao giờ ngớt. Ở những triền dốc chỉ mưa một trận là trôi tuột hết lớp lá dày khiến đường trơn tuồi tuội. Gùi cõng trong cảnh ấy kiểu gì cũng bị ướt. Tấm ni lông của lính chỉ dám gập đôi để che gùi hàng trên lưng. Mở toang cả tấm ni lông thì chỉ qua một ngày đi rừng là rách tan vì cành cây cào xé, lấy gì mà dùng khi mùa mưa phía trước còn những dăm tháng. Vậy nên đành ướt từ mông trở xuống. Ngay cả hàng gùi cõng, nếu là gùi đạn có ướt chút ít không sao, chứ gùi gạo thì lo lắng vô cùng. Gạo ướt làm sao để lâu được.
Trải qua mấy tuần gùi hàng ra tuyến trước vào mùa mưa ấy, Tháo đã thấy ngấm cái gian khổ nơi chiến trường mà lúc ở ngoài Bắc không thấy ai nhắc tới. Ngày ấy, người ta mới chỉ nói tới chuyện súng đạn và chiến đấu thôi. Còn những khó khăn gian khổ trong cuộc sống hàng ngày thì có lẽ ngay cả các cán bộ khung huấn luyện ngoài Bắc cũng không có mấy người đã được trải qua. Hai ba tuần liền chỉ mặc một bộ quần áo ẩm ướt, ban đầu thấy rất khó chịu, nhưng rồi mãi thành quen. Cũng rất may là khi làm nhiệm vụ gùi cõng, mỗi tiểu đội được dựng tạm hai cái lán để trú chân. Các anh lính cũ truyền nhau kinh nghiệm dựng lán rất tài tình. Tạo một vạt đất trên bờ dốc làm nền, sau đó chặt cây dựng lán như một cái lều chợ. Đào rãnh sâu xung quanh để làm khe nước chảy. Còn mái lán thì phải làm thật cẩn thận. Trong rừng không thể tìm ra cỏ tranh mà chỉ có một thứ lá dùng lợp nhà gọi là lá trung quân. Chắc chắn tên này là do bộ đội ta đặt từ thời kháng chiến chín năm. Đó là một loại cây nhỏ thân gỗ mềm mọc thấp, có lá rộng chỉ độ ba ngón tay nhưng dài cả gang tay hoặc hơn. Loại lá này có đặc điểm là không bị mủn nhanh và rất đặc biệt là ngay cả lá khô cũng không bị lửa làm cháy. Nôm na là không thể dùng lá trung quân khô đun bếp, vì nó không cháy thành ngọn lửa. Hái lá đem về dùng que tre que nứa kẹp lại thành phên rồi xếp lên ken dày để lợp thành mái. Lợp nhà kiểu này rất kỳ công và lâu vì lá nhỏ phải lợp thật dày, nhưng mái nhà rất kín. Trong lán lính đóng cọc căng võng nằm qua đêm. Nhờ có ngủ lán như thế nên dù có mưa rơi cả ngày cả đêm, thì qua một đêm, bộ quần áo ẩm mặc trên người lúc ban ngày cũng được hơi ấm cơ thể hong khô. Cứ như thế, bộ quần áo duy nhất ấy cứ qua một ngày đi gùi hàng đến tối ẩm ướt thì sáng hôm sau lại đã khô.
Thỉnh thoảng có một hôm được nghỉ gùi cõng thì chỉ có mỗi cách nằm chơi trên võng hay bó gối nhìn mưa và hút thuốc rê cho thời gian trôi qua. Có bộ bài tú lơ khơ chiến lợi phẩm cũng không thể đem ra chơi được vì nền lán ướt. Cũng không có củi mà sưởi. Nhưng qua chuyện củi lửa mùa mưa lại thấy rất phục anh nuôi trong đơn vị. Mưa to đến mấy họ cũng kiếm được củi khô từ những cái thân cây chết đứng trong rừng. Mùa mưa không phải đào bếp Hoàng Cầm, không sợ khói nên anh nuôi dễ dàng nấu được cơm nóng cho bộ đội. Ngày ba bữa đều đặn, chỉ tiếc là cơm hơi ít. Mưa dầm chả kiếm thêm được cái gì nữa nhét vào bụng nên lúc nào cũng thấy đói. Độn ăn thêm bằng thân cây chuối rừng hay canh rau môn thục nhiều nên rất xót ruột. Lắm lúc không muốn ăn, đành chịu đói vậy.
Thời tiết trong chiến trường phía Nam chia hai mùa mưa nắng rõ rệt. Trên cao nguyên Boloven ở Nam Lào cũng vậy. Người ta thường nói mùa khô là lợi thế về ta còn mùa mưa là lợi thế về địch. Điều đó chỉ đúng một phần. Quân ta chủ yếu đi trong rừng, đường tự đạp trên nền đất mà thành lối mòn nên mùa mưa đi lại khó khăn. Vận chuyển mọi thứ đều cực kỳ vất vả. Không chỉ bản thân những người lính với súng đạn trên tay chiến đấu là đủ mà còn cần phải cung cấp đầy đủ hậu cần nữa. Để một người lính trực tiếp cầm súng nơi tuyến đầu phải có thêm nhiều người khác làm công tác phục vụ. Không kể những chuyện cao xa như chỉ huy tác chiến, trinh sát và thông tin liên lạc, chỉ riêng hai thứ gần nhất là đạn và gạo cũng đã đủ mệt rồi. Tất cả những thứ đó chủ yếu phải vận chuyển vào từ miền Bắc, đối với nhiều chiến trường, lượng hàng mua tại chỗ trong dân chẳng được là bao, còn vũ khí thu được của địch thì cũng chỉ có vài thứ quân ta dùng được, còn lại phải xếp kho. Xe ô tô chỉ thông suốt được trên tuyến đường Trường Sơn vào mùa khô, còn mùa mưa là nghỉ. Bởi vậy nên lính tráng trong chiến trường vào mùa mưa phải chịu cảnh đói chỉ được ăn có năm lạng gạo một ngày. Thậm chí có những thời gian hàng tháng trời chỉ được ăn có ba lạng hay ít hơn. Cái đói luôn thường trực với người lính và chính vì thế mà nói chuyện về ăn luôn là chủ đề chính mà lính tráng thường xuyên nhắc tới.
Với tất cả những khó khăn trong công tác hậu cần nên khi mùa mưa đến, bộ đội ta không còn tổ chức tiến đánh các căn cứ hay chủ động tiến công địch nữa. Chốt giữ là chủ yếu để ngăn chặn địch và giữ vững phòng tuyến. Mô hình thường thấy là tiểu đoàn cử một đại đội chốt giữ phía trước, còn các đại đội phía sau làm nhiệm vụ vận tải, cung cấp hậu cần cho tuyến trước và cho chính bản thân mình.
Về phía địch, tuy có lợi thế về hậu cần nhưng chúng cũng không thể tổ chức tác chiến chủ động đơn vị lớn. Mùa mưa gây khó khăn cho cả hai bên. Nhưng cũng không thể chủ quan vì những tốp thám báo của địch vẫn được tung thường xuyên vào khu vực hậu cứ của ta tìm vị trí đóng quân rồi chấm tọa độ gọi bom pháo.
Cuối tháng sáu, Tiểu đoàn 2 được lệnh rút về tuyến sau để củng cố. Một tiểu đoàn khác ra thế chân để chốt giữ khu vực đường 231 gần với ngã ba Lào Ngam. Sau gần một ngày trời hành quân trong mưa rừng và đường trơn, Đại đội trưởng Trần Khâu dẫn đại đội về tới hậu cứ. Đây là khu hậu cứ đơn vị vừa làm xong hồi hơn hai tháng trước, chỉ ở được hơn một tuần thì phải ra tuyến trước. Bây giờ trở lại, mới có hai tháng cùng những cơn mưa đầu mùa đổ xuống mà những lán trại và hầm hố đã lên mùi meo mốc vì vắng hơi người. Chỉ có cái lán của ban chỉ huy đại đội do có mấy người ở lại trông hậu cứ là còn tử tế. Đường đi lối lại giữa các trung đội lá rừng rụng phủ kín. Toàn đại đội phải tập trung sửa sang lán và dọn vệ sinh hậu cứ mất một ngày trước khi sẵn sàng cho nhiệm vụ mới.