Mùa mưa đã vào sâu tới mấy tháng, ngày mưa nhiều hơn ngày tạnh. Mưa rừng bao giờ cũng làm lính tráng ngại ngần trong mọi tình huống. Vất vả hơn, mệt mỏi hơn. Ở tuyến trước thì lúc nào cũng ướt và bẩn. Đánh trận nào cũng phải đào hầm trú ẩn trước giờ xuất kích. Mùa mưa đất ẩm tưởng đào dễ, nhưng ở cao nguyên đất đỏ bazan cứ bết chặt lấy lưỡi xẻng. Xắn đất rồi nhấc lên mà gỡ bình thường nó không rời ra, phải dùng tay cào vuốt từng nắm đất. Cứ như thế, đào một cái hầm cá nhân phải mấy tiếng đồng hồ. Quần áo bê bết bùn đất đỏ vì cứ phải chùi tay vào quần áo liên tục khi đào hầm, chả cần ngụy trang vì người và đất đã hòa quyện vào nhau một màu đỏ đất. Lúc chờ xuất kích mà pháo địch bắn thì dù bẩn mấy cũng phải nhào luôn xuống hầm. Trên cao nguyên tưởng rằng bình độ cao hầm sẽ không đọng nước, thế mà cứ mưa xuống là nước ngập lấp xấp, có khi tới gần đầu gối. Hầm đào chỉ đủ ngồi nên mỗi lần lao vào hầm là phải chịu mặc cho nước ngập đến đâu thì ngập, cốt giữ được cái gáo trước đã. Đánh trận đã vậy, ngồi chốt cũng chẳng hơn gì. Ở chốt bao nhiêu ngày là từng đấy ngày không tắm giặt. Ban đêm hoặc khi mưa, quần áo không chỉ bẩn mà còn dẻo vì ngấm bùn đất. Bộ quần áo mặc trên người lúc này nặng gấp mấy lần bộ áo quần nguyên thủy. Đến lúc ban trưa nếu trời không mưa mà hửng nắng thì quần áo khô dần, nửa do ánh nắng mặt trời, nửa do hơi ấm trong người tỏa ra. Bây giờ cái gấu áo, gấu quần bắt đầu cứng như miếng mo nang, cầm tay bẻ được như bẻ miếng bánh đa. Nếu lấy tay vò vò một chút thì đất đỏ vụn tơi ra như bột, chỗ vải quần áo nơi ấy chuyển dần từ màu đỏ sang màu xanh áo lính. Bộ quân phục trên người cứ lúc dẻo lúc cứng như vậy làm cho da người cảm thấy lúc nóng lúc lạnh, bi bí và nhiều lúc thấy bứt rứt như có con gì cắn. Ghét và đất bám trên da như quyện vào nhau, đôi lúc thò tay luồn vào người vê vê một sợi đất và ghét to như sợi len lôi ra thì cái chỗ ấy thấy da thịt như thoáng hẳn ra. Nhiều khi lính tráng bảo nhau, ở chốt chỉ có tắm kiểu người Mông. Nghe nói họ ở tít trên núi cao, ít nước nên ít tắm, chỉ cần đi nương mồ hôi túa ra làm ghét bở, cởi bỏ quần áo đứng nơi có gió vừa xoa vừa đập khắp cơ thể một lúc cho ghét rụng hết ra là coi như đã tắm xong. Nhưng có lẽ bộ quần áo dày dệt kiểu thổ cẩm ấy sẽ hôi tới mức những con bọ chét cũng không dám trú ngụ.
Người đã vậy nhưng súng đạn lúc nào cũng phải sẵn sàng. Chiến sĩ hỏa lực thì lo giữ cho liều phóng B-40, B-41 luôn khô, xung lực AK đỡ lo hơn nhưng nhiều khi dầm mưa nhiều quá, băng đạn ngấm nước nên lúc bắn cũng có khi bị tắc súng vì có viên không nổ. Chiến sĩ ta nghĩ ra cách lấy mảnh vải dù pháo sáng chập đôi lại cho đủ dày rồi bịt vào nòng súng buộc lại để tránh cho bùn đất khỏi mắc vào những khi đào hầm dính bùn đất hay qua những đoạn đường lầy chống súng xuống đất lấy đà. Khi lâm trận, súng AK cứ thế mà bóp cò, miếng vải dù che đầu nòng tự động rách ra.
Được về tuyến sau đối với anh em chiến sĩ cũng là một điều hạnh phúc. Trước hết là cái chết không rình rập, không phải căng mình ra nghe tiếng đề pa của pháo địch để kịp xuống hầm. Ca gác đêm lỡ có mất cảnh giác dựa vào gốc cây chợp mắt vài ba phút thì độ nguy hiểm cũng không cao. Và trên hết là kiểu gì cũng tranh thủ để một tuần tắm được một lần. Mưa suốt ngày không có nắng thì ban đêm đốt lửa trong lán, gác gậy quanh đống lửa để phơi quần áo, qua một hai đêm cũng có bộ quần áo khô. Những ngày về tuyến sau đối với họ không phải để nghỉ ngơi, mà hầu như ngày nào cũng phải đi gùi cõng gạo đạn cho đơn vị mình và cho đơn vị bạn. Lúc nào cũng lầm lũi đi trong mưa, từ mông trở xuống thường xuyên ướt nhoèn. Trừ gạo phải đảm bảo khô, có hai thứ cá nhân của lính cũng phải giữ khô, luôn được ưu tiên cất trong túi áo ngực, đó là nắm cơm đem theo ăn trưa và gói thuốc rê. Nói chung là mùa mưa khổ hơn mùa khô đủ thứ về điều kiện sinh hoạt, chỉ được bù lại là có lắm thứ rau ăn, từ rau xin của dân trên nương đến các loại rau rừng.
Cuộc sống trong chiến trường tuy vẫn phải giữ nền nếp sinh hoạt đều đặn, nhưng nội dung không có gì nên buổi tối thường chỉ là nghe phổ biến công tác hôm sau, rồi ngồi quanh đống lửa giữa lán đun nước chè uống hay tổ chức đánh bài tiến lên. Vào đơn vị mới một tháng mà Sáng học hỏi được rất nhiều qua các anh lính cũ, qua sinh hoạt và công tác hàng ngày. Ngay như cái chuyện đánh tú lơ khơ này chẳng hạn. Ở nhà, bộ bài tú lơ khơ thường chỉ có mỗi kiểu chơi đánh tấn, nay vào trong đơn vị có thêm kiểu đánh tiến lên. Kiểu chơi này một ván đánh nhanh và luôn sôi nổi, náo nức kể cả người chơi lẫn kẻ ngồi xem. Hình phạt thường là bắt đeo đủ thứ lên cổ như xanh-tuya-rông, bi đông hay bất cứ thứ gì nghĩ ra được. Ai thua nhiều quá nặng cổ thì bị loại ra cho người khác vào chơi. Thi thoảng cũng có đợt học chính trị, đều do chính trị viên đại đội lên học trên trung đoàn, ghi chép về rồi phổ biến lại. Tình hình thời sự thật thì ít khi được nghe, chủ yếu là động viên. Ví dụ như tin các đơn vị bạn trong trung đoàn vừa đánh thắng trận ở đâu địch bị diệt bao nhiêu tên, thu bao nhiêu súng mà không nói đến chuyện quân ta hy sinh bao nhiêu người. Chỉ khi các đơn vị hành quân gặp nhau trên đường, đồng hương í ới hỏi thăm nhau thì biết được đứa này đứa khác đã hy sinh hay bị thương được ra Bắc. Tiêu đề các bài học chính trị qua thời gian mà rồi ai cũng thuộc, đó là “Ta thắng, địch thua, miền Bắc được mùa, miền Nam thắng lớn”. Sáng thấy thiết thực nhất trong những ngày ở hậu cứ có lẽ là chiến sĩ mới được học về các loại súng hỏa lực cả của ta lẫn của địch như súng chống tăng B-40, B-41, súng cối cá nhân M79 của Mỹ. Có đợt còn được học thêm súng chống tăng M72 của địch (còn gọi là rốc két 66) vì loại này khi đánh trận nhất là đánh vào căn cứ địch, ta thu được cũng nhiều. Khác với súng chống tăng B-40 hay B-41 của ta súng và đạn riêng rẽ, súng M72 của địch là loại súng hỏa lực cá nhân có đạn lắp sẵn, hai nòng lồng vào nhau, lúc sử dụng rút nòng cho dài ra, bắn xong thì vứt bỏ vỏ. Rồi là kinh nghiệm sử dụng lựu đạn US lấy được của địch nữa. Chỉ được lấy loại mà ở đầu cọc chốt của nó có sơn 2 vạch đỏ là loại có dây cháy chậm 4 giây. Loại chỉ có một vạch đỏ là loại nổ tức thì địch dùng để cài bẫy. Quân ta chả cài bẫy bao giờ nên không được lấy loại này, nhỡ sơ ý có ngày chết oan.
Mùa mưa không phải mùa chiến địch, ta không mấy khi tổ chức đánh lớn, nhưng tình thế chiến trường luôn là lấn dũi và giằng co, cấp trên không chỉ mong bộ đội giữ chốt, giữ đất mà còn muốn quấy nhiễu, đánh nhỏ để tiêu hao sinh lực địch. Về hậu cứ củng cố và gùi cõng được hơn một tháng, Đại đội 6 lại được lệnh ra tuyến trước. Lần này là vượt huội Champi ở phía đường 23 để sang khu vực nam đường. Trung đội 5 của anh Quân được đi trước đóng vai trò tiền trạm. Trong đơn vị, Trung đội trưởng Quân nổi tiếng tinh ranh. Anh được mệnh danh là có giác quan thứ sáu vì có tài ngửi hơi địch. Các cán bộ đại đội đi trinh sát các căn cứ mới hoặc vùng đất lạ mà có anh Quân đi cùng thì yên tâm vô cùng. Nhiều khi trong tiết trời mưa to, mọi thứ đều nhạt nhòa mà anh Quân vẫn ngửi thấy mùi thuốc lá của địch từ khoảng cách rất xa. Đại đội phó Hùng bảo anh Quân: “Mày tinh như chó săn ấy nhỉ”, và nhiều lúc gọi tếu anh ấy là Quân chó. Cái tên này anh Quân chả thích tẹo nào, nhưng các cán bộ đại đội hay tiểu đoàn đôi lúc vẫn buột mồm. Vì bên Đại đội 7 cũng có một anh tên Quân là đại đội phó, nên nhiều lúc trao đổi công việc, sợ lẫn nên hỏi “Quân nào?”, thế là nói luôn “thằng Quân chó Đại đội 6” cho nó tiện. Trong đơn vị nhiều khi bộc tuệch nên có người không thích tên lóng biệt danh mà rồi cuối cùng vẫn phải chấp nhận.
Nước suối mùa mưa luôn dâng cao và lũ về bất thình lình nên công binh trung đoàn phải mở một vài đường nhỏ từ cánh rừng phía bắc sang đường 23 tại những chỗ có thể làm cầu. Cầu là những cây gỗ to bên bờ suối được dùng mìn dây đốn hạ cho đổ ngang qua suối rồi chặt bỏ cành, vạch khấc tạo ma sát để có thể đi qua. Mỗi lần qua cây cầu như thế là phải tổ chức hỗ trợ nhau rất cẩn thận. Bên Tiểu đoàn 3 đã có lính trượt chân rơi xuống suối sâu, ba lô súng đạn trên người kéo chìm nghỉm và trôi luôn theo dòng nước lũ. Chả ai có thể nhảy xuống cứu được cứ trơ mắt ra nhìn trong nỗi sợ hãi. Tai nạn như thế dù ít những vẫn xảy ra, xác người liệt sĩ chả biết trôi đến đâu. Hôm hành quân ra đến huội Champi thì đã nhập nhoạng tối, trời lại lây rây mưa nên anh Quân quyết định cho trung đội dừng lại nghỉ đêm bên này cầu. Sáng hôm sau lại cơm nước đầy đủ rồi mới vượt suối đi tiếp. Sáng nhìn cái dây song to tướng công binh chăng cạnh cầu làm dây vịn mà run. Nó chỉ là dây vịn hờ thôi chứ nếu trượt chân thì bám vào cái dây song ấy cũng vô nghĩa. Nhìn tất cả trung đội qua cầu an toàn, anh Quân thở phào nhẹ nhõm. Yên tâm lúc này nhưng không xóa hẳn được lo lắng. Rồi đây các trung đội khác tiếp tục hành quân qua, rồi cánh lính công tác lẻ về hậu cứ lấy gạo tiếp tế sẽ còn phải nhiều lần qua chiếc cầu này. Thêm một khó khăn của mùa mưa mà những người lính phải âm thầm vượt qua.
Nam đường 23 không có các hậu cứ của bộ đội ta. Bên ấy địch cũng không triển khai quân lấn dũi như vùng đường 231 chạy từ ngã ba Lào Ngam ra. Địa hình nam đường có nhiều nhánh suối sâu, nhiều dốc cao và rừng rậm nên chỉ có thưa thớt một hai bản Lào dựa vào đường 23 phía đó. Tuy vậy, địch cũng có nhiều điểm chốt đóng quân để tạo thành cánh cung bảo vệ cho Phù Chiêng ở cửa ngõ thủ phủ Pakse.
Anh Quân tìm vị trí đóng quân cho đại đội trong một khu rừng già, cạnh một con suối to. Bên kia suối và các khu vực xung quanh cũng đều là rừng già. Không có đường mòn qua đây và trên bản đồ tất cả cũng chỉ có một màu xanh đậm chỉ rừng. Khu vực này chưa xảy ra tác chiến nên mọi thứ còn nguyên sơ. Căn cứ đóng quân gần nhất của địch cũng còn cách tới hơn cây số. Thông thường bọn địch trong các căn cứ chỉ lùng sục ra ngoài tới nửa cây số, nhất là theo các lối mòn nên khu rừng này có thể coi là an toàn. Để đảm bảo an toàn cho đơn vị nên không được săn bắn cải thiện ở đây và cũng không được đánh cá, dù gần đó có một khúc suối đất lượn vòng tạo một cái hủm rộng và sâu. Suối đất trong rừng thường hay có các loại cá như cá trê và cá quả là loại sống khỏe và dai trong tự nhiên. Anh Quân nghe mấy thằng lính gốc vùng đồng chiêm trũng tán bùi tai nên đồng ý cho đi câu. Đồ nghề câu đơn giản do lính tự làm, còn mồi là giun đất đào ngay bên bờ suối. Ngay hôm đầu tiên hành quân đến đây, anh Quân đã bố trí cho anh em đào hầm chữ A đầy đủ và cẩn thận. Dù chỉ là khu vực dã chiến, song trung đội vẫn đào cả hầm thùng để ngày mưa mắc võng trong đó mà có pháo bắn bất chợt thì cũng yên tâm hơn. Đến tối, mấy anh em đi cắm cần câu vài tiếng đồng hồ mà cũng kiếm về khá nhiều cá. Cá suối đói ăn nên thấy mồi giun là thi nhau đớp, nhiều chiến sĩ bảo câu cá ở đây còn dễ hơn câu cá ngoài đồng ở quê. Cá câu được đem về chỉ có mỗi tiết mục nấu cháo kiểu nhà quê. Cho cả con cá làm sạch cắt khúc bỏ vào nồi cháo ninh nhừ chứ không làm cầu kỳ kiểu luộc cá gỡ thịt rồi giã xương lọc nước riêng rẽ được. Nhưng do cá nhiều hơn cháo, lại toàn thứ cá nạc nên nồi cháo cá béo mẫm.
Hai ngày sau cả Đại đội 6 hành quân đến, chia khu vực đóng quân cho các trung đội. Cán bộ đại đội cùng Trung đội trưởng Quân đi trinh sát nắm địch ngay. Đại đội trưởng Khâu phổ biến cho các trung đội trưởng nhiệm vụ lần luồn sâu này, đơn vị sẽ tổ chức vài ngày một lần cử nhóm nhỏ luồn vào sau khu căn cứ địch để tập kích các đơn vị dã ngoại của chúng. Trung đội 5 sẽ tổ chức trận tập kích đầu tiên. Đơn vị cử sáu người lấy lẫn trong trung đội, do Trung đội trưởng Quân chỉ huy, vì anh Quân đã được đi trinh sát trước. Cả nhóm mang theo ba khẩu hỏa lực: một B-40, một B-41 và một M79, còn lại mang AK. Sáng cũng được đi tập kích trận này. Do đã được học về súng hỏa lực, Sáng rất háo hức xin anh Quân cho bắn B-41, nhưng anh bảo trận đầu phải giao cho chiến sĩ cũ đã. Cả nhóm ăn cơm chiều xong, đợi sẩm tối lên đường. Lối xuất kích bám theo con suối tới hơn cây số rồi mới vòng lên con đường xe bò phía đường 23. Khu vực này có một trung đội địch bung ra đóng dã ngoại, chỉ đào hầm, không có hàng rào. Anh Quân dẫn cả nhóm bò vào sát gần mấy cái hầm vòng ngoài của địch, cách chừng ba chục mét. Tất cả súng đạn sẵn sàng và nằm im chờ lệnh. Sau khi kiểm tra, biết chắc bọn địch đã nghỉ ngơi, vài đốm thuốc lá đỏ của mấy tên gác thỉnh thoảng lóe lên trong bóng đêm chứng tỏ chúng cũng chủ quan. Anh Quân đã chỉ sẵn mục tiêu cho các tay súng hỏa lực và chuẩn bị phát lệnh nổ súng. Bỗng nhiên có tiếng mưa rơi lộp bộp rồi càng ngày mưa càng nặng hạt hơn. Tốt quá, đúng là trời giúp vì mưa thế này địch sẽ càng chủ quan hơn và chúng sẽ phải giở những tấm pông-sô ra che mưa, lại thêm phần vướng víu, anh Quân nghĩ bụng, nên cố nén chờ thêm thời gian. Quả như Trung đội trưởng Quân phán đoán, phía địch thấy ồn ào hẳn lên khi chúng tổ chức che mưa.
“Bắn!”, Trung đội trưởng Quân hô nhẹ nhưng dứt khoát. Theo như đã hiệp đồng từ nhà, hai khẩu B-40 và B-41 của Trân và Hiếu cấp tập mỗi khẩu ba trái liền. Mấy chớp lửa bùng lên kèm những tiếng nổ trầm đục trong mưa. Khẩu M79 của anh Nhạn cũng cấp tập nhanh đủ năm trái. Lúc này ba khẩu AK mới đồng loạt kéo từng nhịp dài xả về phía địch. Thời gian trôi qua có lẽ chỉ hai ba phút, anh Quân hô tiếp “rút” rồi nhanh chóng quay lui chạy trước dẫn đường. Sáng và Nghi bồi tiếp mấy loạt AK nữa kiềm chế địch rồi mới rút theo. Cả tốp chạy đến gần bờ suối cách gần trăm mét mới nghe lẹt đẹt vài loạt AR-15 của địch, chả biết chúng bắn vào đâu. Xem chừng địch không thể phản ứng tiếp, bờ suối cũng không có hầm ẩn nấp nên anh Quân kéo tất cả cùng rút chạy về hậu cứ. Suốt đêm hôm đó, địch cũng không có động tĩnh hay phản ứng gì thêm. Nhiệm vụ của trận tập kích đầu tiên thế là xong, kết quả thế nào sẽ chờ đài kỹ thuật của trung đoàn nghe địch truyền tin và thông báo lại. Anh Quân không quan tâm lắm đến số liệu cụ thể vì những nhiệm vụ đánh địch kiểu này thường chỉ tính thành tích chung cho cả đại đội chứ không có thành tích cá nhân.
Luồn sâu dã ngoại, mặc dù hậu cứ làm bí mật, nhưng đại đội vẫn phải tổ chức đào thêm hầm lập tổ chốt cách xa đơn vị vài trăm mét để làm nhiệm vụ cảnh giới, canh gác cả ngày lẫn đêm. Từ đây, hàng ngày đại đội vẫn tổ chức cho các trung đội đi trinh sát địch để lên phương án tập kích quấy rối. Tập kích ở đâu, khu vực nào thường do các trung đội chủ động lựa chọn và báo cáo đại đội thống nhất phương án tác chiến.
Trận thứ hai là phục kích một trung đội địch hành quân thay phiên dã ngoại ở sát đường 23. Căn cứ địch đóng ngay sát đường 23 nhưng địch không đi theo đường cái mà đi theo một đường xe bò phía trong cách đó hai trăm mét. Trung đội 6 đi trinh sát nhiều lần, phát hiện quy luật địch nửa tháng thay quân một lần nên quyết định tổ chức phục kích. Trung đội 6 đào hầm độn thổ ngay sát đường xe bò và được đại đội cử Trung đội 5 đi hỗ trợ đào thêm mấy hầm chữ A sát bờ suối làm nơi trú tạm cho Trung đội 6 sau trận phục kích, đề phòng nếu địch phản ứng kịp mà gọi pháo bắn. Địch hành quân luôn cảnh giác cao và có lính thông tin mở máy thường trực để sẵn sàng gọi pháo chi viện, nên không thể cứ đánh trận xong là ào ào rút chạy được.
Trận phục kích của Trung đội 6 diễn ra vào một buổi chiều mưa. Địch đổi quân trong ngày mưa vì nghĩ sẽ an toàn hơn, quân ta tổ chức đánh trong một ngày mưa vì cũng nghĩ địch chủ quan. Tiếng súng vừa nổ là bọn địch chạy tóe ra. Chỉ có vài tên chết tại chỗ, còn lại chạy thoát. Rất may là tên lính thông tin bị diệt ngay từ phút đầu. Ta thu được vài khẩu súng, một máy thông tin PRC-25 và bắt được tên tù binh. Trung đội 6 rút về an toàn. Thông tin khai thác từ một tên tù binh lính quèn chả có gì nên hôm sau Đại đội trưởng Khâu cử Sáng và Phiên, một tiểu đội trưởng của Trung đội 6 dẫn nó về hậu cứ tiểu đoàn báo cáo, lúc ra sẽ kết hợp gùi gạo cho đơn vị.
Tên lính địch bị trói hai tay vòng ra sau, bắt đi đất, còn đôi giày thì buộc treo ở cổ nó. Thêm một sợi dây rừng buộc vào tay để lính ta cầm dắt đi đường. Anh Ngự, Trung đội trưởng B6 còn cẩn thận chặt thêm một đoạn gậy to bằng cổ tay, dài gần mét buộc thêm lên cổ tên này và buộc kéo hai cánh tay của nó vòng lên. Cách buộc này làm tên tù binh rất vướng víu và mỏi hai cánh tay vì bị treo lên, đi đường cũng rất chậm vì cái “đòn gánh” trên vai nó vướng cây rừng hai bên. Phiên bảo anh Ngự:
“Trói chặt tay nó rồi buộc thêm dây để bọn em nắm giữ là được rồi, anh buộc thế này đi đến tối chúng em cũng chưa chắc về đến nhà”.
Anh Ngự lừ mắt gắt:
“Không được, buộc thế này mà tao còn chưa yên tâm đâu. Thằng này thổ dân nó đi rừng vù vù chắc gì chúng mày đã nhanh bằng nó. Nương tay một tí là nó sổng mất đấy”.
Phiên và Sáng im lặng không nói thêm gì, dong tên tù binh đi mà trong bụng vẫn lấn cấn nghĩ, bố Ngự này quá quan trọng hóa. Phiên đi trước dẫn đường, tên lính địch đi giữa còn Sáng đi sau cầm dây trói nó. Hai khẩu AK đạn lên sẵn trong nòng. Lúc đầu tốc độ đi rất chậm vì đường mòn là đường đạp trong rừng, trên cao là tán rừng già nhưng dưới mặt đất cây con bằng cổ tay mọc dày, xen rất nhiều những cây dại như sa nhân hay lá dong cùng nhiều loại dây leo chằng chịt, rất vướng víu. Về sau Phiên ra hiệu cho tên tù binh nghiêng người đi ngang như kiểu cua bò thì có vẻ nhanh hơn. Dọc đường tất cả im lặng, chả ai nói với ai câu nào. Phiên và Sáng chỉ được phổ biến mấy khẩu lệnh cần thiết nói với tên địch lúc đi đường, đó là pay (đi), dưn (đứng lại), nằng lông (ngồi xuống), lúc khựn (đứng lên).
Cả tốp mới đi được chừng hơn tiếng đồng hồ thì trời tối sầm sầm rồi mưa rơi. Đi trong rừng già giữa trời mưa khiến tốc độ càng chậm, có lúc ba người như ríu vào nhau. Phiên và Sáng chấp nhận cùng chịu ướt như tên tù binh chứ không thể lấy ni lông ra quàng được. Quần áo cứ dính vào người lép nhép, có lúc phải đưa tay vuốt nước mưa trên mặt để nhìn đường cho rõ. Ra đến gần đường 23, Phiên cho dừng lại tạm nghỉ. Sáng ngồi trông tên tù binh còn Phiên lò dò cắp súng ra mặt đường 23 nghe ngóng. Căn cứ địch đóng trong Lào Ngam còn cách chỗ này tới hai cây số, nhưng vì quân ta không lập chốt cạnh đường 23 nên về lý, một đơn vị nhỏ của địch có thể lùng sục ra hướng này cả dăm cây số mà quân ta cũng chưa chắc biết. Cẩn thận vẫn hơn chứ vớ vẩn bất ngờ gặp địch ở nơi này thì hai thằng trở tay không kịp.
Thấy mọi sự an toàn, Phiên quay lại rồi cả ba nhanh chóng vượt đường 23 theo một lối mòn đi xuống huội Champi. Nhìn dòng nước chảy không xiết và đi dọc theo suối một đoạn, Phiên quyết định tìm đoạn suối rộng nước đỡ sâu để lội qua chứ không đi theo lối cầu bằng cây chênh vênh. Trời tạnh đi qua đã khó, mưa to thế này càng khó đi hơn. Phiên lo nhỡ ra giữa cầu, tên tù binh trượt chân rơi xuống thì không biết làm thế nào. Đi ngược suối chừng hơn trăm mét, thấy suối mở rộng ra nước chảy mạnh hơn nhưng có vẻ nông vì lòng suối lổn nhổn những tảng đá to, Phiên quyết định lội qua chỗ này. Không có lối mòn, nhưng cứ lội qua rồi leo lên bờ suối đi sâu vào rừng chắc sẽ gặp lối mòn dọc bờ suối bên kia là đường quân ta vẫn đi. Nghĩ vậy, Phiên lội xuống trước rồi bảo Sáng dong tên tù binh theo. Nước chảy xiết ngập quá đầu gối nhưng Phiên vẫn dò bước được theo các tảng đá, tuy có hơi chấp chới. Tên tù binh cũng lò dò bước, thấy nó cứ ngả nghiêng người chới với như muốn ngã nên Sáng nới lỏng dây cầm tay. Bất ngờ đến giữa suối, nó lội nhanh hơn dù cho chân có trượt lên trượt xuống trên các phiến đá và có lúc tưởng như nó ngã xuống nước. Sợi dây trên tay Sáng tuột ra và trong khi Sáng kêu to cho Phiên biết thì tên lính địch đã vượt được qua Phiên và ào ào bước lên bờ rồi cắm đầu cắm cổ chạy tiếp, mặc cho cây rừng vướng víu. Phiên hô to “dưn” rồi hạ súng trên vai xuống bắn một phát chỉ thiên, nhưng tên tù binh vẫn chạy. Một phát chỉ thiên nữa vang lên nhưng bóng tên tù binh đã khuất sau mấy bụi cây, còn Phiên và Sáng thì vẫn còn chưa leo được lên bờ. Cả hai cùng cuống lên, càng cố chạy càng ngã dúi dụi xuống nước, người đã ướt vì mưa lại càng thêm ướt vì ngã suối. Cuối cùng cũng leo lên được bờ nhưng bóng tên tù binh đã mất tăm. Mưa to chả để lại dấu vết gì, đoán tên tù binh chạy thẳng nên Phiên và Sáng cố lao thẳng lên dốc, hai tay vạch cây mà bươn lên. Tới khi gặp được con đường mòn lính ta vẫn đi thì cả hai đều mỏi nhừ hai đùi, bắp chân cứng ngắc, mồm há ra thở như cá ngáp. Không biết tên tù binh chạy phía nào. Phiên thở hổn hển như đứt hơi bảo:
“Tao với mày mỗi đứa một ngả, chạy mau. Nếu ai tóm được nó thì bắn ba phát súng nhé”.
Mỗi người một phương, chạy mãi mà chẳng thấy dấu vết gì, có lẽ tên tù binh không chạy theo đường mà lủi ngang vào bụi rậm nào đó cũng nên. Đuổi mãi mà chẳng thấy gì, đoạn đường đuổi tìm có lẽ đã xa lắm Sáng càng ngày càng nản, mệt quá nên ngồi bệt xuống vệ đường nghỉ, chẳng kể đến ướt át và bẩn thỉu. Sáng chỉ mong túm được tên tù binh và cho nó một phát AK cho xong chuyện. Đương khi vừa mệt vừa bực như thế, Sáng nghe tiếng ba phát AK nổ ở hướng Phiên. Thế là tóm được tên tù binh chó chết rồi, Sáng mừng quá đứng dậy và tất tưởi vừa đi vừa chạy ngược trở lại. Mãi rồi cũng tới nơi, Sáng thấy Phiên đang đứng một mình giữa đường mòn, khẩu AK cầm trên tay thõng xuống. Sáng hỏi:
“Thằng tù binh đâu?”.
“Không thấy, có lẽ nó rúc vào một chỗ nào rồi. Rừng rậm lắm bụi cây thế này chả biết chỗ nào mà tìm nữa”.
“Vậy sao mày lại bắn AK?”.
“Tao nghĩ chúng mình để sổng nó rồi. Tìm đến tối chắc cũng chẳng thấy đâu. Thôi đành về đơn vị báo cáo và nhận kỷ luật vậy. Tao bắn AK để gọi mày cùng về vì hướng này là về hậu cứ, chứ lại đuổi theo tìm mày thì biết đến bao giờ”.
“Mẹ kiếp”, Sáng chửi tục một câu rồi bật chốt an toàn chĩa súng vào rừng định bắn bừa mấy loạt. Phiên vội giơ tay ngăn lại:
“Đừng bắn nữa, vô ích. Vớ vẩn có khi đạn lạc vào mấy thằng trinh sát hay bọn đi lẻ như tụi mình ở khu vực này thì tai hại hơn”.
Hai người một trước một sau bước thấp bước cao nhằm về hậu cứ. Được một thôi dài bỗng thấy Sáng dừng lại, tháo gùi lấy tấm ni lông. Nghĩ nó lấy ra che mưa, Phiên gàn:
“Thôi đằng nào cũng ướt như chuột rồi, quàng ni lông thêm vướng mà chẳng đỡ được tẹo nào đâu”.
“Không, tao định lấy ra che mưa để rủ mày dừng lại ăn trưa. Có lẽ cũng quá trưa rồi còn gì, tao thấy đói rồi”.
Phiên dừng lại giúp Sáng lấy tấm ni lông ra che đầu cho cả hai rồi lục tìm gói cơm. Sờ đi sờ lại quanh người, Phiên đần người ra:
“Rơi túi cơm lúc nào rồi mày ạ”.
Sáng trân mặt ra nhìn, nghi ngại rồi loay hoay sờ người, sờ gùi của Phiên. Nắm cơm trưa của cả ba người giao cho Phiên cầm, buộc vào xanh-tuya-rông đã rơi mất thật rồi. Bây giờ quay lại tìm nắm cơm có lẽ cũng khó ngang bằng đi tìm thằng tù binh bị sổng, Phiên và Sáng đành chậc lưỡi bấm bụng chịu đói lên đường đi tiếp. Sáng lẩm bẩm: “Mẹ kiếp, đúng là họa vô đơn chí, các cụ xưa nói cấm có bao giờ sai”. Không còn tên tù binh vướng víu, nhưng Phiên và Sáng cũng chẳng đi nhanh hơn được bao nhiêu, phần vì đói và mệt, phần vì chán nản. Phải cuối chiều hai người mới về đến gần hậu cứ đại đội. Phiên kéo Sáng tạt vào một nương của dân gần đó tìm mỗi đứa hai quả dưa chuột ăn chống đói. Chưa khi nào Sáng thấy quả dưa chuột ngon như thế, dù dưới trời mưa lâu ngày, quả dưa chuột như sũng ra, nhạt hoét.
Về tới hậu cứ, hai người báo cáo Đại đội phó Hùng mọi chuyện. Không có điện thoại liên lạc, bây giờ anh Hùng mới biết chuyện đơn vị bắt được tù binh giao cho hai cậu này đưa về và đã để sổng nó. Báo cáo xong, cả hai đứng yên lặng cúi đầu chờ nghe anh Hùng trách mắng. Nhưng khác hẳn với dự đoán của Phiên, Đại đội phó Hùng nghe xong chỉ nhíu mày một cái rồi cười vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra:
“Thôi, bỏ chuyện ấy lại xét sau. Bây giờ chúng mày đi rửa chân tay rồi vào bếp hong quần áo cho đỡ lạnh. Để anh bảo mấy đứa dưới bếp nấu thêm cơm cho hai đứa ăn bù bữa trưa phải nhịn”.
Tối hôm ấy anh Hùng hỏi chuyện Phiên và Sáng kỹ hơn về chuyện sổng tên tù binh ra sao. Hôm sau anh lên tiểu đoàn báo cáo rồi quay về phổ biến công việc ngày mai. Mấy cậu sốt rét đã khỏe sẽ cùng Phiên và Sáng chuẩn bị gạo đem ra tuyến trước cho đại đội. Anh Hùng cũng ra ngoài đó luôn, thay cho hai cán bộ chính trị về hậu cứ. Chính trị viên Cẩm về họp trên trung đoàn, còn Chính trị viên phó Tuyến sẽ về hậu cứ trông coi thay anh Hùng. Tháo sau mấy ngày ở hậu cứ làm việc lặt vặt sau đợt đi mua lợn cũng sẽ ra tuyến trước cùng đơn vị luôn.
Anh Hùng cho cả tốp gùi gạo ra đại đội theo đúng vệt đường mà Phiên và Tháo vừa dẫn tên tù binh về bữa trước. Anh nhìn cái vệt đường trên đỉnh dốc cây cối rậm rạp và nhìn đoạn suối Champi lúc vượt qua mà chỉ tủm tỉm cười. Đường đất thế này, hai cậu lính để sổng tên tù binh là phải. Suối nước đá to lộc cộc thế đi nhanh mà không bị trượt ngã mới là chuyện lạ. Ra tới đơn vị, anh Hùng trao đổi lại chuyện để sổng tên tù binh cho các cán bộ đại đội cùng nghe. Đại đội trưởng Khâu và Chính trị viên Cẩm chỉ đưa mắt nhìn nhau, còn Chính trị viên phó Tuyến lại nhăn mặt gắt:
“Sao anh không sạc cho hai cậu ấy một trận? Gọi chúng nó lên đây, tuyên bố kỷ luật cho chúng nó chừa”.
Vẫn vẻ mặt thản nhiên, Đại đội phó Hùng cười bảo:
“Tôi đã xem đường đất rồi, suối đá lộc cộc như thế thì chuyện thằng tù binh sổng mất cũng dễ xảy ra. Sự cố bất ngờ xảy ra chứ có phải các cậu ấy cố tình đâu mà bảo chừa hay không chừa. Làm gì có lần sau nữa. Mà chuyện bắn chết hay bắt thêm bớt một tên lính địch thì cũng có gì quan trọng lắm đâu. Mình rút kinh nghiệm chung là được rồi”.
Anh Tuyến lặng im nhưng Chính trị viên Cẩm băn khoăn:
“Liệu chúng ta có phải chuyển cái hậu cứ dã ngoại đã bị lộ này không? Tôi sợ thằng lính địch này về đơn vị nó rồi báo tọa độ nơi này để chúng pháo kích thì nguy cho đại đội mình”.
“Các anh cứ yên tâm đi. Tôi đảm bảo chả có chuyện gì xảy ra đâu. Tôi ở Lào lâu tôi biết. Thằng lính này sẽ nhân cơ hội chuồn thẳng về bản nhà nó, bỏ áo lính luôn chứ chả thiết tha gì chuyện quay lại cầm súng đánh nhau đâu. Hơn nữa cấp trên của nó có biết được tọa độ nơi này, nhưng không phải do tụi thám báo truyền về tức thời thì cũng nghĩ quân ta đã rời đi từ tám hoánh nào rồi, pháo kích thêm làm gì cho phí đạn”.
Hai ông cán bộ chính trị nghe anh Hùng nói, đành thở dài chuẩn bị đồ đoàn để quay về hậu cứ. Đại đội trưởng Khâu nheo mắt ra ý tán đồng rồi kéo Đại đội phó Hùng về hầm. Ông biết anh Hùng nói thẳng và nói đúng, nghĩ sao nói vậy chả nể sợ ai cái gì, kể cả với cán bộ tiểu đoàn. Anh Hùng dân tỉnh lẻ nhưng lại là người thị xã, đang học dở lớp 10 thì xung phong đi bộ đội, vào làm chiến sĩ của một tiểu đoàn tình nguyện Việt Nam chiến đấu ở Nam Lào từ những ngày Trung đoàn 9 còn đang an dưỡng huấn luyện quân ở ngoài Quảng Bình. Khi Trung đoàn 9 vào cao nguyên Boloven, anh được điều động về làm Đại đội phó C6. Trước đó anh bị thương trong trận đánh ở Phù Khăm La gần ngã ba Tha Teng trên đường 23, lối rẽ từ Saravan đi sang tỉnh Tà Vên Oọc, sau khi ra viện anh không về đơn vị cũ nữa mà được trên điều về Tiểu đoàn 2 . Có lẽ cũng vì cái tính thẳng thắn bộc trực và có vẻ lãng tử, chả quan trọng hóa chuyện gì của anh, nên đến giờ anh vẫn là đại đội phó. Bằng tuổi với Đại đội trưởng Khâu nên hai cán bộ quân sự rất tôn trọng nhau trong mọi việc ở đại đội. Lần này cũng vậy, Đại đội trưởng Khâu bàn tiếp với Đại đội phó Hùng tổ chức tiếp các trận đánh nhỏ của đợt luồn sâu mà không đả động gì đến chuyện di chuyển chỗ đóng quân nữa. Suốt cả đợt làm nhiệm vụ luồn sâu cho đến tận khi đơn vị có lệnh tập trung về tiểu đoàn để tổ chức đánh tập trung vào cuối mùa mưa, cái hậu cứ dã chiến ấy của Đại đội 6 vẫn bình yên. Các cán bộ trung đội biết chuyện tranh luận giữa Đại đội phó Hùng và ban chỉ huy đại đội về chuyện hai chiến sĩ để sổng tên tù binh hôm ấy càng thêm cảm phục và tin tưởng người chỉ huy quân sự của đại đội mình.
Ra tuyến trước được một hôm, anh Hùng tổ chức nhóm đi trinh sát nắm địch luôn. Mấy vị trí gần với khu ngã ba Lào Ngam bị ta tập kích mấy lần rồi, địch cũng không dám đóng nguyên một chỗ. Dù là dã ngoại chỉ có một trung đội, chúng cũng thay đổi vị trí trú quân ban đêm thường xuyên. Nhiều khi địch cũng tổ chức lùng sục bất chợt và đã có lần phải đánh tao ngộ chiến với quân ta. Lần này anh Hùng quyết định trinh sát vào sâu hơn ngã ba Lào Ngam để đánh một trận lớn hơn do chính anh chỉ huy. Khu vực này có một đại đội địch đóng quân, có một hàng rào đơn bao quanh. Theo định kỳ, chúng thường cho một trung đội về tuyến sau lấy lương thực và đạn tiếp tế. Cũng vì là khu vực phía sau, có đến mấy lượt quân dã ngoại trấn giữ phía trước nên chúng có phần chủ quan. Nhưng là căn cứ xây dựng có hàng rào nên chắc chắn chúng có hiệp đồng chi viện chặt chẽ của pháo binh. Anh Hùng lên phương án đem hai trung đội đi, tổ chức phục kích đánh bọn tiếp tế hậu cần khi chúng từ hậu cứ ra, đồng thời tổ chức tiếp đội hình phục kích bọn từ căn cứ ra ứng cứu, dùng đúng theo chiến thuật “công đồn diệt viện” nhưng theo cách đảo ngược lại.
Vị trí phục kích bọn lính địch tiếp tế chỉ cách căn cứ của chúng ba trăm mét, đủ khoảng cách để địch trong căn cứ thấy rõ chiến sự và điều quân ra ứng cứu. Trung đội đánh bọn ra ứng cứu được bố trí ngay ngoài căn cứ chỉ chừng hơn trăm mét. Vẫn theo cách thức bố trí cũ, anh Hùng cho đào sẵn một loạt hầm đệm cách xa địch nửa cây số từ chiều hôm trước, nhưng chỉ là loại hầm bằng có nắp. Tại hai vị trí phục kích, mỗi chiến sĩ phải đào một hố cá nhân trong đêm và ngụy trang cẩn thận. Vị trí phục kích tương đối quang nên cả hai trung đội đều phải đào hầm xa con đường mòn tới hơn hai chục mét. Cơm ăn đem theo là ba bữa do anh nuôi nấu từ chiều hôm trước, còn nước mỗi người chỉ có một bi đông dùng từ lúc xuất quân đến cả ngày hôm sau. Trời vẫn cứ lúc mưa rả rích, lúc tạnh nên quân ta phải chấp nhận ướt hai ngày và chịu lạnh. Nhưng đánh phục kích vào lúc trời mưa thì vẫn có điểm lợi là bọn địch khi hành quân bình thường vẫn phải khoác áo mưa nên chúng sẽ phải lúng túng và vướng víu khi bất ngờ bị ta nổ súng.
Anh Hùng trực tiếp chỉ huy Trung đội 5 đánh bọn lính đi tiếp tế để chọn thời điểm phát lệnh nổ súng. Anh Lâm, Trung đội trưởng B4 chỉ huy trung đội đánh bọn ứng cứu. Mấy tiếng đồng hồ buổi sáng, tất cả ngồi im tại vị trí, không ai được hút thuốc. Gần trưa mới phát hiện trung đội địch đem đồ tiếp tế từ phía hậu cứ đi tới. Bọn địch vẫn đi lại trên con đường mòn nhỏ do chúng tạo ra khi lập căn cứ này. Suốt dọc hai bên lối mòn chỉ có những vạt cỏ tranh mọc ngang lưng nên bọn địch đi trên đường quan sát được rất xa và chúng hoàn toàn yên tâm. Hơn chục tên địch quàng pông-sô lặng lẽ đi hàng một giãn cách nhau hơn mét. Tiểu đội trưởng Bấn và Sáng ngồi ở vị trí chặn đầu. Lần này Sáng đã xin được Trung đội trưởng Quân và anh Bấn cho giữ súng B-41. Anh Quân vui vì cậu lính mới ham đánh trận nhưng vẫn dặn Bấn phải theo sát cậu ta. Có bắn tốt tạo được niềm tin cho bản thân thì mới trở nên dày dạn trong chiến đấu. Vừa lúc tên địch đi đầu tới ngang chỗ Sáng, Bấn nhìn Sáng rồi phẩy nhẹ tay. Sáng bóp cò, một chớp lửa da cam bùng lên cùng tiếng nổ chói tai, quả đạn B-41 từ khoảng cách chỉ hơn chục mét lao thẳng vào khoảng giữa đội hình địch, cùng lúc Bấn điểm xạ AK hạ luôn tên địch đi đầu. Sau tiếng B-41 hiệu lệnh ấy, cả Trung đội 5 đồng loạt nổ súng về phía địch. Vài tên địch ngã gục, nhưng vẫn có một số tên kịp nằm xuống lăn nhào sang phía đường bên kia và nổ súng bắn lại. Có tên còn nhanh chân chạy lao thẳng về phía căn cứ của chúng. Anh Hùng ra lệnh xung phong nhằm giải quyết cho xong bọn địch vừa bị phục kích. Cũng đúng như Đại đội phó Hùng dự liệu, thời gian trôi qua chắc mới chỉ vài phút mà phía Trung đội 4 tiếng súng đã vang giòn. Nghe rõ lẫn lộn cả tiếng súng ta và địch. Bọn địch trong căn cứ đã kịp tổ chức nhào ra và Trung đội 4 của anh Lâm đã nổ súng chặn lại. Phía Trung đội 5 sau khi lao ra đường, anh Quân cho anh em thu nhanh súng của gần chục cái xác địch nằm trên đường. Chắc có vài tên chạy thoát sang phía bãi cỏ gianh bên kia. Một vài chiến sĩ ta cũng nhanh tay vơ vội được mấy chiếc ba lô chiến lợi phẩm rồi mới rút về vị trí hầm phục kích. Đại đội phó Hùng cũng ra lệnh cho Trung đội 4 rút luôn với sự chi viện của Trung đội 5. Cứ thế, từng bộ phận theo hình cuốn chiếu rút dần về khu hầm tạm. Bọn địch trong căn cứ không dám truy kích mà chỉ bắn đuổi theo, nhiều nhất là M79, nhưng quân ta vô sự cho đến khi rút về được tới khu hầm tạm.
Vừa chia nhau chui xuống các căn hầm tạm đào từ hôm trước, đã nghe tiếng đề pa rồi đạn pháo địch bắn tới. Có đến mấy nòng pháo 105 ly cùng bắn vì tiếng đề pa dồn dập và tiếng đạn pháo nổ vung vãi trên một vùng khá rộng. Địch không biết chắc vị trí quân ta nhưng vẫn tập trung bắn về phía rừng già, vì quân ta chỉ có thể rút về theo hướng đó. Cũng vì mục tiêu không rõ ràng nên địch cũng chỉ bắn chừng hơn hai chục trái đạn pháo rồi thôi. Chắc chúng đang tổ chức thu dọn ngoài khu vực căn cứ, nơi vừa bị phục kích. Anh Hùng cho kiểm tra lại quân số trước khi ra lệnh rút tiếp. Có ba chiến sĩ bị dính mảnh đạn pháo. Nặng nhất là Hưng của Trung đội 4 bị mảnh pháo khá to phang vào đùi, có thể gãy xương, phải ga rô, băng bó và anh em phải chặt đòn làm cáng khiêng. Nghi ở Trung đội 5 bị một mảnh đạn nhỏ cắm vào vai phải sệ cả cánh tay xuống, y tá bảo không nguy hiểm vì chỉ là phần mềm, băng treo tay lên vẫn còn đi được, chỉ không mang được súng, phải giao cho người khác mang hộ. Nhẹ nhất là Sáng bị một mảnh chả biết to đến đâu nhưng sượt ngang cánh tay trái rách một vết tới bốn phân nhưng nông, dù máu chảy ướt cả cánh tay áo. Cái vết này anh y tá bảo chỉ nghỉ vài ngày là lành vì nó cũng chỉ ngang như một vệt dao rạch nhẹ. Nhưng đến lúc về tới hậu cứ tạm, đơn vị tổ chức cho người cáng và dìu đưa Hưng và Nghi về hậu cứ tuyến sau, y tá Lộc rửa và băng lại vết thương cho Sáng thì mới biết Sáng đã cận kề cái chết chỉ bằng sợi tóc. Chỉ có sự màu nhiệm vô tình mới cứu Sáng khỏi tay thần chết.
Số là khi bảo Sáng cởi áo ra xem vết thương ở vai, y tá Lộc mới phát hiện túi áo trái của nó có vết rách và ngay tại ngực trái cũng có một vệt sước rất nhỏ trên da chỉ hơi rớm máu. Anh Bấn mở cái túi áo trái của Sáng và lôi cái ví trong đó ra xem. Đó là chiếc ví bằng ni lông bốn lớp dày cộp màu xanh nhạt trong đựng đủ thứ linh tinh của Sáng, từ mấy cái ảnh, giấy cuốn thuốc lá tới một mảnh lược nhựa nhỏ bằng bốn ngón tay. Tất cả đã kết dính chặt vào nhau, phải gỡ mãi mới lôi ra được một mảnh đạn pháo lam nham chỉ nhỏ bằng đầu ngón tay út. Bốn lớp ni lông chảy sùi cùng các thứ linh tinh đã giữ kẹt mảnh đạn pháo đó lại khiến nó hết lực, chỉ còn đủ sức chui mớm ra nốt qua làn vải áo trong của Sáng. Nếu không có cái ví này, hiển nhiên mảnh đạn đã cắm sâu vào tim Sáng để ghi tên Sáng vào danh sách liệt sĩ của đại đội. Nghe y tá Lộc kêu lên, mấy chiến sĩ quanh đó xúm lại xem, ai cũng lắc đầu lè lưỡi. Còn Sáng thì ngây người ta nhìn trân trân vào cái mảnh đạn, phải thật lâu sau mới thấy sợ và mới ngấm về nỗi nguy hiểm và sự may mắn không thể tưởng tượng nổi đó. Anh Lộc băng lại vết thương ở vai cho Sáng, còn cái vệt rớm sước ở ngực thì chỉ lau qua chút thuốc tím chống nhiễm trùng. Đại đội phó Hùng đến gặp Sáng, cười rất tươi và vỗ vai:
“Em là người rất cao số. Đã thoát khỏi thần chết một lần như thế này thì sau này chẳng bom đạn nào đụng vào được nữa đâu”.
Sáng nhìn anh Hùng cười ngượng nghịu vẻ cảm ơn về lời phán của anh và khẽ “vâng ạ”. Cái ví rách ấy, Sáng vuốt lại mấy chỗ thủng rồi vẫn giữ lại để dùng. Nó còn cẩn thận gói cái mảnh pháo 105 ly ấy nhét luôn vào ví, thầm coi đó như là một cái bùa hộ mệnh. Vết thương nhỏ trên vai trái của Sáng chỉ vài hôm sau đã liền miệng rồi khỏi, chỉ để lại một vết sẹo nhỏ trông như gai tre cào nên Sáng vẫn tiếp tục ở lại cùng đại đội. Sáng còn thấm thía hơn về vận may của mình khi sau đó vài hôm, tiểu đội trưởng Nhạn ngồi chơi trong lúc rỗi đã kể cho nó nghe về Sơn, một người chiến sĩ cũ trong tiểu đội của anh đã hy sinh hồi đầu mùa khô năm trước trong một trường hợp thật đáng tiếc.
Lúc ấy là vừa qua một mùa mưa. Quân ta đã giải phóng thị trấn Paksoong và lấn thêm được cả chục cây số nữa trên đường 23. Ngoài vị trí đóng chốt ở thị trấn, cả một đoạn dài trên đường 23 bị bỏ trống. Nếu có việc gì phải lên đường 23 hay sang phía nam đường, quân ta toàn phải vượt qua huội Champi, con suối chính nằm trên cao nguyên Boloven chảy song song dọc đường 23 từ suốt thị trấn Paksoong cho đến tận gần ngã ba Lào Ngam mới đổi hướng. Lý do là toàn bộ các khu hậu cứ của Trung đoàn 9 được xây dựng toàn bộ bên phía bắc đường 23, nơi có nhiều bản Lào trù phú vẫn còn có dân ở lại sinh sống. Suốt cả mùa mưa năm trước, không có chiến sự trên đường 23, địch chấp nhận mất thị trấn Paksoong và lùi quân xuống bảo vệ khu vực trung tâm thứ hai là ngã ba Lào Ngam, nơi có tới một tiểu đoàn quân Thái Lan và hai tiểu đoàn quân Phumi trấn giữ. Suốt hai chục cây số trên đường 23 từ Paksoong về hướng ngã ba Lào Ngam cả mùa mưa hầu như chẳng có ai qua lại, kể cả những người dân trong vùng bắc đường 23 mò ra các nhà sàn của các bản dân bỏ cạnh đường 23 gỡ tôn về lợp nhà hay cánh chiến sĩ của các đơn vị ra các vườn dân ở đây để tìm các thứ cải thiện. Hầu như tất cả đều nhằm một hướng vượt qua huội Champi đi lên, tạo ra vô số con đường nhỏ như xương cá vắt ngang con huội này. Vì thế mà qua mấy tháng mùa mưa, hai loài cây dại trên cao nguyên là cây xấu hổ và cây mâm xôi thả sức phát triển tràn lan. Chúng mọc lấn mọc đè lên tất cả mọi loại cây khác, từ cỏ dại đến những rặng dã quỳ vốn là hình ảnh đặc trưng ven các con đường đất đỏ trên các cao nguyên rồi mọc tràn lan ra mặt đường. Con đường 23 là đường nhựa có mặt đường vốn rộng đến năm, sáu mét mà nay chỉ còn là một vệt đường rộng chừng hai mét vòng vèo, đôi chỗ cây xấu hổ còn vươn ra từ hai bên đường giao ngọn vào nhau. Đơn vị nào phải đi một đoạn đường dài qua đó thật chẳng dễ dàng gì.
Qua thông tin quân báo, biết được quân Thái Lan có kế hoạch lấn dúi thăm dò theo đường 23 lên Paksoong, Tiểu đoàn 2 được lệnh triển khai quân chốt giữ và Đại đội 6 nhận nhiệm vụ ra tuyến đầu. Một cái chốt nhưng mang dáng dấp một trận địa phục kích được lập gần bản Vườn Lê 42, và như thông lệ Trung đội 5 của anh Quân lại đi trước. Trung đội trưởng Quân chọn vị trí đào các hầm chốt bên mé bắc đường, lẫn vào những vạt cây mâm xôi và xấu hổ để ngụy trang đồng thời tạo luôn đường rút thẳng xuống huội Champi sau trận đánh. Những vạt cây xấu hổ bùng nhùng và rất vướng víu, nhưng dùng những đoạn gậy chống cao lên thì lại là những mảng cây xanh ngụy trang rất tốt, không dễ gì nhìn thấy từ xa, máy bay trinh sát L-19 có dòm ngó cũng khó phát hiện. Hai ngày đầu yên ắng, anh nuôi vẫn đưa cơm cho cả ngày từ lúc sáng sớm và quân ta vẫn cử nhau xuống suối lấy đủ nước uống trong ngày. Đã sang mùa khô, trời có nắng nên mọi thứ khô ráo, ban đêm vơ tí cỏ khô lá rụng và trải ni lông ngủ ngay trên miệng hầm. Mục đích đánh địch xong là rút luôn không chốt lại dài ngày nên chỉ đào hầm bằng có nắp. Anh Quân có lúc nghĩ chưa chắc địch đã lên tới đây vì khoảng cách quá xa, nhưng ban đêm vẫn phải tổ chức một điểm gác cho yên tâm.
Ngày thứ ba, chừng 10 giờ sáng đã nghe tiếng địch lao xao trong gió, thò hẳn đầu ra mặt đường, Trung đội trưởng Quân đã nhìn thấy thấp thoáng những cái mũ địch nhấp nhô từ phía xa. Anh ra hiệu cho anh em chuẩn bị đánh địch. Nhưng rồi chờ khá lâu vẫn chưa thấy gì, anh Quân lại bò ra mé đường nghe ngóng. Hóa ra chúng đang ngồi nghỉ giải lao cách đó một đoạn khá xa, chừng như đã mệt sau chặng đường hành quân dài cả chục cây số thì phải. Mà có thể chúng chỉ đi đến đây rồi quay trở lại cũng nên vì lùng sục đến đây cũng là quá xa nơi đóng quân của chúng rồi. Nếu vậy thì quá dở cho quân ta. Địch đang chủ quan và mệt mỏi như thế mà bỏ không đánh thì phí mất một cơ hội tốt. Nổ súng đánh luôn thì hơi vuốt đuôi vì không thể vận động vòng lại tiếp cận sau lưng chúng mà bắn từ xa thì không hiệu quả. Đang lo lắng như vậy thì bỗng nghe địch thổi còi toe toe rồi cả đội hình của chúng đứng dậy rùng rùng hành quân tiếp. Bây giờ mới thấy rõ, địch chỉ đi được hàng một vì khoảng trống giữa đường quá nhỏ. Đợi cho những tên địch đi đầu tới ngang đội hình bố trí của trung đội, anh Quân phẩy tay ra hiệu nổ súng. Hai khẩu B-40 cùng đồng loạt chớp lửa “ùng, oàng” vào giữa đội hình địch. Khẩu M79 của anh Lục cũng bắn thẳng còn AK thì quân ta cứ đứng thẳng người lên kẹp nách ngang tầm mà quạt. Những tên địch phía trước mặt đổ gục không có cơ chạy thoát còn bọn đi sau ríu vào nhau lúng túng như gà mắc tóc. Chúng không còn chỗ nào để nằm hay quỳ bắn vì thằng sau vướng thằng trước. Không thể tạt sang hai bên đường triển khai nổ súng chống lại vì những cành gai xấu hổ và mâm xôi bám chặt vào quần không chạy được. Ngay cả bọn phía sau rút lui mà cũng đạp cả vào nhau mà không có đường chạy. Những vạt cây xấu hổ và mâm xôi hai bên đường như một cái bẫy bùng nhùng tự nhiên gây ra một cảnh tắc đường hy hữu cho địch. Trong khi đó thấy thuận lợi, anh Quân cho anh em đứng sát ra đường cứ thế nổ súng. Chẳng mấy chốc trên cả đoạn đường trước mặt chỉ còn xác địch. Bọn địch ở tít sau đã chạy xa và cũng không biết đằng nào mà bắn lại. Chỉ nghe vài loạt AR-15 bắn lẹt đẹt vu vơ. Hai khẩu B-40 đã bắn hết cơ số đạn năm quả mà dù có còn cũng không thể bắn tiếp vì đuối tầm. Thời gian này cấp trên chưa có trang bị B-41 cho các đơn vị bộ binh. Chỉ có khẩu M79 của anh Lục là cứ nâng tầm bắn dần và cũng câu được hơn hai chục trái. Trung đội trưởng Quân hô anh em thu vũ khí và rút. Chiến sĩ ta bổ ra đường nhặt nhanh mỗi người một khẩu súng và giật vội ba lô địch rồi theo anh Quân rút nhanh về huội Champi. Súng đạn chiến lợi phẩm còn rất nhiều nhưng anh Quân vẫn cho lệnh rút, không thể chần chừ để tránh bị địch câu pháo tới, hoặc những tên địch nằm ở xa bắn bừa M79 tới gây thương vong cho quân ta. Tất cả bước thấp bước cao ào ào lội qua huội Champi rồi lao lên đường, cứ theo lối mòn mà chạy.
Có lẽ phải chạy rất xa tới vài trăm mét mới nghe tiếng đề pa rồi ba trái 105 ly của địch bắn tới. Chúng bắn vu vơ mỗi nơi một quả, mà cũng chỉ có ba trái rồi thôi. Một trái pháo rơi ngay cạnh đội hình trung đội, đất đá bay rào rào làm tất cả ào ào nằm rạp xuống rồi lại ào ào bật dậy chạy tiếp. Thêm một đoạn chạy xa nữa, thấy im ắng anh Quân cho anh em dừng lại kiểm tra quân số. Không ai làm sao cả, nhưng thiếu mất Sơn, người Hà Tây. Anh Quân cho anh em tạm nghỉ và cử một nhóm ba người quay lại tìm Sơn. Anh Nhạn và hai lính trong trung đội tìm thấy Sơn đang nằm cạnh một gốc cây nhỏ, người nằm đè lên khẩu AK đeo trước bụng, còn khẩu súng và cái ba lô chiến lợi phẩm của địch văng ra cạnh đó. Mọi người xốc Sơn lên thấy nó đã tắt thở, người mềm nhũn ra nhưng vẫn còn ấm. Anh Nhạn sờ quanh người nó tìm vết thương mà không thấy ở đâu cả. Không lẽ nó bị ngã va mạnh vào đâu đó mà bị chết. Anh Nhạn đành cho anh em thay nhau cõng Sơn đưa về chỗ trung đội đang nghỉ. Anh Quân nghe báo cũng ngạc nhiên, cho kiểm tra lại khắp người Sơn. Cởi cái áo ra thì mới phát hiện một vết máu rỉ bé tẹo trên ngực ngay giữa chỗ tim, gạt gạt tay vào mới thấy máu ứa ra. Hóa ra Sơn bị một mảnh pháo chỉ bé như hạt đỗ nhưng xuyên đúng vào tim. Máu cũng chảy ngấm bên trong chỉ ứa ra ngoài một ít nên lúc đầu không phát hiện ra. Cả trung đội cứ ngơ ngẩn cả người đau xót. Anh Quân cho anh em chặt cáng khiêng Sơn về hậu cứ. Trận đánh ấy ta thắng to, cả một đại đội quân Thái Lan hành quân ra đây chủ quan bị ta diệt mấy chục tên, bọn còn sống rút chạy suốt thẳng qua ngã ba Lào Ngam về tận Pakse. Thật tiếc về trường hợp hy sinh không đáng có của Sơn, thấy nó vô lý thế nào ấy. Sơn đánh trận này là trận đầu tiên và đã ra đi thật tức tưởi.
Kể lại trận đánh bọn Thái Lan khi ấy cùng sự hy sinh của Sơn xong, anh Nhạn nhìn Sáng bảo:
“Mảnh đạn của mày còn to hơn mảnh pháo của thằng Sơn rất nhiều, cũng trúng ngay vào chỗ tim. Nhưng cái ví nhựa đã cứu mày, thật là hồng phúc”.
Nghe chuyện kể của anh Nhạn, Sáng càng ngẫm càng thấy mình may mắn. Nhất định phải giữ lại cái ví thủng và mảnh đạn pháo này đem về nhà nếu như còn sống để kể lại cho bạn bè và người thân nghe câu chuyện lạ mà hay trong chiến tranh. Còn chuyện Đại đội phó Hùng bảo cái số nó cao, thoát chết một lần đặc biệt như thế thì bom đạn nó tránh, Sáng chưa tin. Sáng chỉ coi đó là lời động viên của một cán bộ đại đội với cấp dưới để củng cố tinh thần chiến đấu. Nhưng quả thật đó là lời động viên tốt.
Gần cuối đợt luồn sâu, tiểu đội của Nhạn được đi công tác lẻ đặc biệt. Trung đội bổ sung thêm Sáng của tiểu đội cậu Bấn sang thành nhóm bốn người, mang AK tất cả. Còn Trân trong tiểu đội là người giữ B-40 sẽ ở lại cùng trung đội để tăng cường hỏa lực cho những trận tập kích nhỏ mà Đại đội 6 vẫn đang tiến hành. Vậy là có bốn người gồm Nhạn, Tháo, Hoài và Sáng. Đại đội trưởng Khâu trực tiếp giao nhiệm vụ cho cả nhóm:
“Từ chỗ chúng ta đang đóng quân đây nhìn về phía đông là Phù Khống Phạ. Dãy núi này ngăn cách cao nguyên Boloven với tỉnh A-tô-pơ giáp với Việt Nam. Bên ấy là vùng giải phóng của ta, có tuyến vận tải của đường dây 559 qua đó. Cấp trên phán đoán trên đỉnh Phù Khống Phạ có một đài thông tin của địch để liên lạc với các đơn vị thám báo hoạt động ở Tây Trường Sơn. Nhiệm vụ của các cậu là lên đó trinh sát tìm xem có trạm thông tin đó không. Có nhiều khả năng không có đường dẫn tới đó, mà địch xây dựng trạm thông tin biệt lập và tiếp tế bằng máy bay trực thăng. Các cậu sẽ nằm trên đó một tuần theo dõi tình hình trực thăng tiếp tế để xác định có trạm đó hay không và đánh dấu lại trên bản đồ. Từ đây lên đỉnh Phù Khống Phạ chừng năm chục cây số đường chim bay, các cậu sẽ đi công tác trong khoảng hai tuần lễ, có tìm thấy hay không cũng trở về. Tất cả đã rõ chưa và có gì cần hỏi thêm không”.
Nhạn không hỏi gì thêm vì nhiệm vụ thế là rõ. Tiểu đội không phải chiến đấu mà chỉ là trinh sát tìm một mục tiêu có thể có mà cũng có thể không. Anh đã có địa bàn nên chỉ xin cấp đủ bản đồ khu vực Phù Khống Phạ. Anh đề nghị cho anh em chỉ mang theo đủ cơ số đạn cá nhân, còn lại tập trung mang lương thực đủ cho nửa tháng và xin y tá đại đội cấp cho một túi thuốc cá nhân tối thiểu. Tiểu đội cũng sẽ mang theo hai con dao tông để phát cây rừng. Đây là loại dao do công binh trung đoàn rèn từ nhíp xe ô tô nhẹ và rất sắc. Đại đội trưởng Khâu và Trung đội trưởng Quân đồng ý. Cả hai rất tin tưởng khi giao nhiệm vụ này cho tiểu đội của Nhạn. Công tác trinh sát và đi rừng đòi hỏi kỹ năng đặc biệt là sử dụng bản đồ, địa bàn thành thạo, đồng thời có kinh nghiệm nhìn thực địa. Trong Đại đội 6, Nhạn rất giỏi trong việc đạp đường và đi rừng, mấy lần cấp trên đã định lấy lên trinh sát tiểu đoàn mà Nhạn đều xin rút. Tất nhiên ở đâu cũng là nhiệm vụ và vì ở lại đơn vị bộ binh chiến đấu cũng không phải là thoái thác khó khăn nguy hiểm nên cấp trên đành chấp nhận.
Thực ra trước khi giao nhiệm vụ cho tiểu đội của Nhạn, Trung đội trưởng Quân đã có chút lăn tăn hỏi Đại đội trưởng Khâu:
“Nhiệm vụ trinh sát kiểu này đáng lẽ phải giao cho cánh trinh sát trung đoàn hay tiểu đoàn chứ sao lại giao cho bộ binh ta anh Khâu nhỉ. Mà tôi xem ra nó cũng lờ mờ thế nào ấy. Định xóa sổ nó thì cho quân lên đi cùng trinh sát rồi nện luôn là xong chứ chấm bản đồ để đi lần nữa à?”.
“Tớ lúc đầu cũng nghĩ như cậu, không khoái với cái nhiệm vụ kiểu này lắm. Sau nghĩ lại, có lẽ nó chả bõ cho việc điều trinh sát của trung đoàn. Nhân có đại đội mình ở đây thì giao làm luôn. Tách ra mấy cậu bộ binh đi làm nhiệm vụ thì cũng chả mất gì. Nếu không có cái đài thông tin ấy thì thôi, còn có thì chấm tọa độ rồi dội cho nó ít quả ĐKB là xong”.
Ngừng một lát, Đại đội trưởng Khâu nói tiếp:
“Chính ông Phát, Tiểu đoàn trưởng nói giao nhiệm vụ trực tiếp cho tiểu đội cậu Nhạn đấy. Hình như các bố ấy nhân việc này làm luôn cái chuyện kiểm tra trình độ đi rừng của cậu Nhạn để sau này lôi luôn lên trinh sát tiểu đoàn cũng nên”.
Trung đội trưởng Quân nghe thế tặc lưỡi: “Thôi tùy cấp trên vậy”.
Sáng sớm hôm sau, Nhạn lặng lẽ dẫn tiểu đội lên đường sau khi lấy cho mỗi người một đùm cơm nắm ở chỗ anh nuôi, chả chào hỏi ai câu nào cả. Việc này hoàn toàn bình thường vì trong đơn vị có một điều kiêng kỵ, không bao giờ bắt tay hay chia tay ai khi đi nhận công tác đặc biệt hay thậm chí là chuyển đi đơn vị khác. Cứ lặng lẽ việc ai nấy làm, không tò mò hỏi han. Chỉ đến mãi sau khi không thấy ai đó trong đơn vị mà hỏi thì mới biết người đó đã không còn ở đơn vị nữa, thế thôi.
Qua suối vẫn là một cánh rừng rậm và bằng phẳng. Càng đi càng thấy là phía này chả có ai mò đến, cây rừng gần như nguyên sinh, không có một dấu vết bom đạn nào. Những nơi không có vị trí chiến lược nào thì dù thừa mứa bom đạn đến đâu, tụi Mỹ nó cũng chẳng buồn thả xuống một trái. Suốt buổi sáng cả tiểu đội cứ bám theo anh Nhạn đi mải miết trong khu rừng rậm không có mấy bóng sáng và trời cứ dấm dắt mưa. Thỉnh thoảng anh Nhạn cho dừng lại khi cần xác định phương hướng. Thông thường đi địa hình, chiến sĩ trinh sát phải lựa chọn những cái dấu mốc chính rồi nương theo đó mà đi, kết hợp so sánh địa hình với dấu hiệu trên bản đồ để kiểm tra, nhưng đoạn đi đầu này là trong rừng, mọi thứ cứ kín như bưng nên hoàn toàn trông chờ vào cái cảm giác bản năng mà người ta hay gọi là “giác quan thứ sáu” của Nhạn. Tuy đường không dốc lắm nhưng khó đi vì cây kết bụi và cây dây leo mọc chằng chịt. Có lúc đã phải từng người lần lượt nối nhau khom người chui qua một vòm cây rậm rạp, tối om như lỗ cống. Những cái vòm cây ấy có được cũng phải do Nhạn luôn tay lia dao phát và có thêm sự trợ lực của Sáng. Có lúc mọi người phải giúp nhau gỡ hộ những nhánh cây nhùng nhằng vướng sau ba lô. Anh Nhạn quay sang động viên tiểu đội:
“Cố lên! Đoạn này là cánh rừng ven con suối có đất thấp ẩm nên cây cối mọc rậm vậy thôi. Đoạn tới lên dốc cao hơn rừng sẽ thoáng và thưa hơn các cậu ạ”.
Sáng nghe thì hiểu ngay bởi những cánh rừng Việt Bắc mà nó từng đi cũng có chung đặc điểm đó. Chỉ có điều nó không rút ra thành nhận xét như vậy thôi. Quả nhiên đến gần trưa thì đường đã dễ đi hơn mặc dù vẫn là những khu rừng có nhiều tầng cây mọc chen chúc nhau, nhưng thưa hơn và đã có những tia sáng xuyên qua tán lá soi xuống làm rừng như sáng lên. Buổi trưa, tiểu đội dừng lại trên một triền dốc và lấy bọc cơm nếp ra ăn. Nhạn cho tiểu đội nghỉ lại khoảng một tiếng rồi sẽ đi tiếp. Trong lúc tất cả nghỉ ngơi, Nhạn lấy bản đồ ra xem lại cố tìm những dấu vết đặc biệt để kiểm tra với thực địa. Sáng ngồi sán lại cạnh Nhạn hỏi chuyện mong chia sẻ giúp Nhạn nhưng chả được bao nhiêu vì cái khoản địa bàn và bản đồ là nó mù tịt. Ngày trước đi rừng khai thác lâm sản toàn là đi theo vệt đường của các anh lớn tuổi hoặc người dân tộc nên chả biết đến bản đồ địa bàn là gì.
Buổi chiều đường đi vẫn lúc lên lúc xuống, những cánh rừng kéo dài theo nhau tưởng chừng không dứt. Lúc ở chỗ trống trải ngẩng đầu nhìn lên thấy mờ mờ rặng Phù Khống Phạ phía xa, thế mà mãi vẫn chưa đến chân núi. Mưa đã tạnh từ lâu nhưng đi trong rừng vẫn rất ướt át bởi nước đọng trên những tán cây vẫn chảy xuống. Rừng rậm nên từ lúc đi đến giờ vẫn không thể quàng được tấm ni lông. Nhạn cho tiểu đội dừng chân tại một vạt rừng khá bằng phẳng sát cạnh một con suối nhỏ lúc trời còn đang sáng để nấu cơm và nghỉ đêm. Ở tít mù sâu trong rừng thế này phía trên cao mây lẫn vào sương nên không sợ khói. Nhạn tin là có chút lửa ban đêm ở đây cũng chẳng nơi nào nhìn thấy nhưng cẩn thận vẫn hơn. Nhạn giao cho Hoài phạt bớt cây dọn mấy chỗ mắc võng và che tăng luôn lấy chỗ che mưa. Sáng cầm dao tông đi tìm cây khô chết đứng trong rừng để rọc ra lấy củi còn Tháo chuẩn bị bếp nấu cơm. Tháo chặt cây làm hai cái chạc rồi gác một cây que ngang lên đó, luồn hai cái hăng gô gạo vừa vo dưới suối vào để nấu cơm. Nhạn cắp AK mò vào rừng, định kiểm tra xung quanh nơi nghỉ đêm theo thông lệ cho yên tâm, đồng thời xem có kiếm thêm được cái gì ca cóng không. Biết tiểu đội Nhạn đi công tác lẻ, đêm qua anh nuôi Châu đã mò sang hầm Nhạn dúi cho hai hộp thịt của đơn vị như một sự ưu tiên, nhưng Nhạn không muốn cho anh em ăn vội hôm nay. Bây giờ vẫn đang còn ở dưới thấp, còn có những con suối đất thì có thể kiếm cá ăn. Một lúc sau Nhạn quay về cầm theo một cành lá to. Tháo hỏi:
“Lá gì đấy anh Nhạn?”.
“Lá bứa đấy. Trong rừng có vô số lá chua nấu canh được, nhưng lá bứa nấu canh chua là ngon nhất. Thứ cây này ngoài Bắc mình đầy mà cậu không biết sao”.
Tháo không biết thật vì ở quê mình người ta không trồng cây bứa này. Nếu nấu canh chua thì đã có đủ thứ quả đồng bằng như dọc, me, sấu hay khế. Nhạn bảo Tháo và Hoài ở lại nấu cơm cho xong đi rồi kéo Sáng đi cùng, bảo ra suối câu cá.
“Chỗ suối này có cá à anh Nhạn?”.
Nhạn cười rất vui:
“Có suối là có cá chứ. Có điều phải tìm ở đoạn nào nhiều cá để câu thôi. Tớ ngắm thử một chỗ rồi”.
Nhạn chìa ra cuộn dây cước có buộc lưỡi câu vừa lấy trong ba lô ra rồi kéo Sáng đi xuống vũng suối. Trời còn sáng và không mưa soi rõ vũng suối phẳng lặng. Nhạn chặt một cành cây nhỏ buộc sợi cước vào rồi tuốt qua tuốt lại hai đầu dây qua đầu gối cho thẳng. Cả hai ngồi xuống tảng đá bên mép nước. Nhạn bảo Sáng dùng dao găm cậy đất ngay cạnh tảng đá kiếm giun. Sáng chỉ khều mấy cái đã có ngay mấy con giun đỏ đang ngọ nguậy, nghĩ bụng, “hay thật, hình như khắp nơi chỗ đất nào cứ có đất ẩm là có giun thì phải”. Nhạn móc một con giun vào lưỡi câu rồi quăng xuống nước, cầm chừng trong tay mà chẳng cần phao gì cả. Sáng nhìn mãi đoạn dây cước rung rung gần mặt nước mà chả thấy Nhạn giật cần gì cả. Một lúc khá lâu, chắc phải chục phút trôi qua mà vẫn chưa thấy Nhạn giật được con nào, Sáng đã thấy hơi nản. Nghiêng nghé đầu nhìn sang những hàng cây bên kia suối đã thấy cành lá xao xác và tiếng chim hót chót choét, vẻ như đang gọi nhau về tổ.
Bỗng thấy Nhạn vung tay giật, một con cá nhỏ chỉ bằng ngón tay cái thân tròn lẳn vùng vẫy đầu lưỡi câu. Nhạn gỡ cá ra khỏi lưỡi câu dúi vào tay Sáng, bảo: “Kiếm cái dây rừng xâu vào” rồi mắc mồi câu tiếp. Sáng cắt một đoạn dây leo xỏ vào mang cá và ngắm nghía:
“Có phải cá bống không anh?”.
“Ừ, cá bống núi đấy. Nó cũng như cá bống đồng thôi, nhưng chắc thịt hơn”.
Có vẻ như lũ cá đã đánh hơi thấy mồi giun mà bắt đầu kéo đến nên cắn câu liên tiếp. Chẳng mấy chốc đã được hơn chục con kéo lên bờ. Nhạn bảo Sáng:
“Đủ nồi canh chua rồi đấy, ta về thôi”.
Nói vậy nhưng trong lúc Nhạn cuộn lại mớ dây câu cất túi thì Sáng đã nhanh nhẹn chặt mấy tàu lá chuối rừng gần đó rồi rút dao găm mổ luôn mấy con cá và rửa sạch bọc vào tàu lá khác. Cả hai quay lại chỗ mắc võng thì Tháo và Hoài đã nấu xong cơm, đang ngồi chờ. Nhạn bảo Tháo bắc tiếp hai cái hăng gô nấu canh cá chua. Mỗi người một tay, chỉ một loáng sau cả bốn anh em đã ngồi ăn bữa cơm rừng đi lẻ đầu tiên ngon lành. Ai cũng công nhận cá bống suối nấu canh chua ngon thật. Thịt chắc, ngọt mà dai, không bở như cá đồng, miếng cá ngọt lừ trong miệng. Cơm xong thì trời cũng chạng vạng tối. Giá như ở hậu cứ lúc này có ấm chè mạn ngồi uống với nhau thì tuyệt, nhưng lúc này đành chỉ có mỗi tiết mục múc nước suối lên uống, chả đun nấu gì. Mọi người lấy thuốc rê ra quấn hút. Sáng nhớ lại chuyện câu cá nên hỏi Tiểu đội trưởng Nhạn:
“Anh kiếm đâu ra cước và lưỡi câu mà thủ sẵn trong ba lô vậy. Có phải lúc nào cũng đi câu cá được đâu”.
“Tất nhiên là ít có dịp câu cá nhưng tớ cứ thủ sẵn vài thứ lặt vặt kiểu như thế để lúc cần thì có cái dùng. Nhét trong đáy ba lô cũng chẳng vướng víu gì. Dây cước và lưỡi câu không phải tìm mua đâu mà là lấy được trong ba lô của địch. Tụi địch nó cũng có thằng loay hoay lắm trò như mình nên cũng thủ sẵn lắm thứ rất hay. Thấy có ích thì tớ lấy rồi cất đi để có lúc dùng. Không có cước và lưỡi câu thì tối nay bọn mình làm gì có nồi canh cá, phải không nào”.
Nhạn trả lời rồi chờ anh em hút thuốc xong là giục tất cả đi ngủ. Nhạn bảo: “Đêm nay các cậu cứ việc ngủ ngon, không phải gác”. Còn sớm nhưng tất cả đều leo lên võng nằm sau khi đã dập tắt đống lửa vì không thể trò chuyện rì rầm trong đêm. Màn đêm buông xuống và mọi thứ yên ắng chỉ còn nghe tiếng con suối chảy rì rào xen lẫn tiếng côn trùng chốc chốc lại cất lên rả rích. Đêm đen đặc quánh lại vì trời đã bắt đầu mưa.
Sớm hôm sau tất cả dậy sớm nấu cơm ăn rồi lên đường. Chỉ có cơm với muối thôi. Tháo nhớ chuyện đi mua lợn có món muối ống của anh Chớt rất tuyệt nên kể với mọi người. Nhạn bảo:
“Mấy ông trên tiểu đoàn ở hậu cứ mới có điều kiện làm món đó chứ chúng mình nhận nhiệm vụ là đi luôn, vội thế làm sao chuẩn bị được gì. Thôi thì tùy cơ ứng biến tìm cách cải thiện vậy”.
Vì không biết đến trưa sẽ dừng ở đâu nên cả nhóm vẫn phải nấu sẵn cơm nắm. Thực ra cả đại đội đang ở tuyến trước làm nhiệm vụ luồn sâu cũng chỉ có cơm với muối. Nhiều khi món muối rang cứ gọi đại lên là muối vừng chứ làm gì có vừng với lạc mà làm. Đại đội có mấy hộp thịt chiến lợi phẩm bữa nào anh nuôi hứng lên đem nấu canh, cả đại đội mấy chục người có mỗi một hộp thịt cho vào xoong nước to tướng thì có khi ăn mà cũng chẳng ngửi ra mùi canh gì. Giống như ở nhà ngoài Bắc thi thoảng có hai cái chân gà chặt nhỏ nấu canh, các cụ thường hay nói đùa là con gà chạy qua nồi canh là vậy. Mà anh nuôi Châu đã ưu tiên cho tiểu đội đi lẻ của Nhạn tới hai hộp thịt thì còn phàn nàn gì nữa. Đơn giản và thường niên nhất vẫn là bứt mấy cái lá chua rừng làm nồi canh suông là xong bữa ăn. Không có đủ cơm mà ăn ấy chứ, vì sức trai, việc tiêu chuẩn đang được ăn năm lạng một ngày như bây giờ là lúc nào cũng thấy đói.
Gần trưa, tiểu đội Nhạn đã đi gần như hết những cánh rừng bằng và tiến tới chân núi. Bỗng trước mặt hiện ra một bãi cỏ rộng, toàn cây nhỏ lúp xúp mọc thưa xen lẫn những bụi cây sa nhân trông như dong rừng. Có một nhánh suối đá chảy ven chân núi. Lúc này trời hửng nắng, có những ánh nắng vàng nhè nhẹ trải trên bãi cỏ. Đâu đó trong bãi cỏ có lẫn một vạt hoa, những bông hoa nhỏ chỉ bằng đầu ngón tay cánh mỏng tang mang sắc vàng sắc tím thường gọi là hoa đồng nội. Thường ở cạnh những cánh rừng già, ven suối hay có những bãi cỏ rộng có hoa đồng nội như thế này. Thứ hoa đồng nội thật đặc biệt ngắt ra đơn lẻ một mình thì mỏng manh yếu ớt và không tạo nên vẻ đẹp, nhưng khi đứng cùng nhau thành một thảm hoa thì không gì đẹp bằng. Những luống hoa trồng trong vườn ở làng hoa đến kỳ hoa nở rộ có vẻ đẹp rực rỡ thật, nhưng không thể tạo nên được vẻ đẹp tự nhiên xao xuyến lòng người như hoa đồng nội. Nó đẹp một cách tự nhiên, bình dị, nhẹ nhàng và gần gũi như vẻ đẹp của những cô thôn nữ gặt lúa ngày mùa.
Nhạn ngửa cổ nhìn trời rồi bảo anh em: “Ta dừng lại nghỉ trưa ở đây thôi”. Mọi người cùng hối hả bước đến phía con suối để hạ ba lô nghỉ trưa. Đang phăm phăm bước trước, bỗng Nhạn nhảy bật lùi một bước. Hoài tuột khẩu AK khỏi vai định nhào tới nhưng Nhạn gạt tay ra sau:
“Dừng lại, rắn đấy”.
Hoài nghiêng người nhìn ra phía trước, thấy sởn sai ốc. Một con rắn hổ mang to tướng nằm chắn ngang trước mặt chỉ cách độ ba mét. Nó đang ngóc cái đầu đưa qua đưa lại phồng mang phun phì phì, cái lưỡi thụt ra thụt vào loang loáng. Cả người và rắn cùng đang thủ thế. Chưa ai biết nên làm gì thì nhanh như sóc, Tháo tụt ba lô và tay không lao về phía con rắn như một tia chớp. Khi mọi người vừa kịp hiểu ra thì đã thấy Tháo đang nắm chặt đuôi con rắn và quay tít trên đầu. Tháo quay nhanh và mạnh đến nỗi con rắn cứ thẳng đờ thân ra, không vòng đầu lại được. Khá lâu sau, có lẽ phải quay được đến vài chục vòng cho con rắn mệt, Tháo dùng tay kia tuốt mạnh thân con rắn từ đuôi lên đầu. Con rắn dài quá sải tay của Tháo nên cậu ta phải cuộn cái tay cầm đuôi quấn tiếp mấy vòng nữa thì tay kia mới vuốt được đến cái cổ rắn. Mọi người nghe rõ tiếng rạn xương của con rắn như kiểu người ta vặn lưng. Khi Tháo thả tay ra vất con rắn xuống đất, nó nằm im không còn ngọ nguậy được vì xương cốt giãn ra hết rồi. Động tác bắt rắn của Tháo vô cùng nhanh nhẹn, thuần thục và chuyên nghiệp. Cả bọn ngây ra như nhìn Tháo làm xiếc. Bây giờ xong rồi nhìn lại con rắn mới thấy ghê vì nó to quá: dài hơn hai mét, to gần bằng cổ chân, cái thân đen mốc thô ráp bởi lớp vảy mốc. Con rắn không cử động được nhưng chưa chết, vô ý mà đưa tay chân tới gần miệng, nó đợp cho một phát là mình toi, nên Tháo rút luôn con dao găm chặt phăng cái đầu của nó cho an toàn. Sáng xung phong kiếm sợi dây rừng buộc con rắn rồi kéo đi. Không ngờ con rắn khá nặng, Hoài phải trợ giúp để cùng kéo con rắn xuống bờ suối. Đằng nào cũng nghỉ trưa, Nhạn đồng ý với Tháo làm thịt luôn con rắn. Nhạn bảo Tháo:
“Cậu bắt rắn như làm xiếc thế chắc biết cách làm chứ. Làm thế nào, cậu phân công mọi người đi, xúm vào mỗi người một chân một tay cho nhanh”.
“Vâng. Bây giờ mình sẽ làm thế này là đơn giản nhất kiểu dân dã: Hoài đi kiếm lá chuối cả khô và tươi rồi lau sạch nhé. Phải một ôm mới đủ đấy. Thêm cả một ít bẹ chuối nữa. Anh Sáng đi kiếm cho tôi củi khô để nướng thịt rắn. Anh Nhạn cũng đi cùng Hoài đào một củ chuối rừng to và đẽo thành một cái chày như chày giã cua ấy. Còn tôi sẽ đi tìm cối đá để giã”.
Hai chục phút sau, mọi người đã kiếm đủ thứ Tháo cần. Tháo rải lá chuối khô ra, nhờ mọi người trợ lực treo con rắn lên một cành cây rồi lột da, đoạn bỏ ruột. Có cái mật, nhường nhau mãi rồi cuối cùng Tiểu đội trưởng Nhạn phải nuốt vì là người chỉ huy đang nhận trách nhiệm cao nhất. Đoạn, Tháo rải lá chuối kê gỗ dùng dao chặt thành từng khúc rồi vằm nhỏ. Vừa làm Tháo vừa giải thích, khi làm thịt rắn không được rửa bằng nước lã mà phải chế biến trực tiếp mới khỏi bị đi té re. Sau đó Tháo bỏ các khúc thịt rắn vào một cái “cối đá” mà nó tìm được bên suối. Thực ra trong cảnh núi rừng mà có cái mũ sắt của lính pháo làm cối giã thì tốt, nhưng không có nên phải chọn một cái vệt hõm trên đá lau sạch làm cối như thế này. Tháo giã được một lúc lâu thì Nhạn tiếp tay giã thay cho nó đỡ mỏi. Mãi tới khi thấy xương rắn cắm hết vào củ chuối, Tháo bảo, được rồi đấy. Đoạn cho vào đó một ít muối rồi trộn đều lên. Trong lúc đó thì Sáng và Hoài đào một cái hố nhỏ rồi châm lửa đốt một đám củi to lấy than. Lúc này Tháo mới bốc thịt rắn vo thành từng viên bằng mấy ngón tay quấn lá chuối bọc vào đến mấy lớp, ngoài cùng lại lấy bẹ chuối ốp bên ngoài kiểu mo cơm. Lửa cũng đã cháy to rừng rực, Tháo nhấc mấy thanh củi đang cháy, gạt tro nóng và than hồng cho bằng rồi xếp mấy bẹ chuối gói thịt rắn xuống, cuối cùng lại phủ lên một lớp tro dày và xếp thêm củi đốt cháy bên trên. Tháo bảo: “Kiểu này gọi là nướng hạ thổ”. Sáng hùa theo bảo: “Cái trò này tao cũng biết khi còn ở nhà. Hồi ấy bọn học sinh chúng tao nghịch lắm, đôi lúc mấy đứa rủ nhau ra cánh đồng đào hố giữa ruộng để lừa bẫy trộm vịt khi người ta lùa cả đàn đi qua. Bẫy được một, hai con thì chỉ có mỗi tiết mục bọc đất nướng ngay ngoài đồng mà chén với nhau chứ mang về nhà thế nào được. Chỉ khác là lấy rơm trộn bùn để bọc”.
Hơn hai chục phút sau, Tháo khều các bẹ chuối đã cháy đen lên gỡ thịt rắn. Món thịt rắn nướng ăn với cơm nắm ngon tuyệt. Vừa ăn Tháo vừa kể chuyện về rắn: “Ở Hà Nội có một làng nổi tiếng về nuôi, bắt cũng như làm các món thịt rắn. Đó là làng Lệ Mật ở huyện Gia Lâm. Một con rắn họ làm ra nhiều món lạ lắm, ví dụ như có mỗi bộ da rắn mà cũng thành món rang muối ăn giòn giòn. Nhưng nói chung dân tình ít ai cầu kỳ như thế mà thường làm một món truyền thống nhưng rất ngon. Đó là lấy thịt rắn như mình giã vừa rồi, nhưng cho vào các loại gia vị gồm hạt tiêu, mì chính, hành khô xắt nhỏ, thêm tí muối, tí đường, tí ớt bột, vắt thêm chút nước củ riềng. Trộn đều tất cả cho ngấm rồi nắm lại thành viên, thả vào chảo mỡ sôi mà rán tới khi vàng cạnh là xong. Đủ mọi thứ gia vị như thế thì ăn món chả rắn xong chả muốn chén thêm gì nữa. Có khi thiếu một chút gia vị trong đó cũng chả sao, cần nhất là muối thôi. Mình chả có mỡ rán, nướng hạ thổ thế này cũng ngon chứ các ông nhỉ”.
Đúng là ngon thật, nhưng trong lúc cả bọn thi nhau ăn và gật gù khen ngon. Hoài bỗng nêu thắc mắc:
“Này, sao món rắn nướng này ăn không thấy có chút tanh nào nhỉ, vì mình có gia vị hay mỡ rán mà át đi đâu. Tôi thấy thường những con sống ở nước hay bò trên mặt đất có những mùi tanh riêng”.
Nghe Hoài thắc mắc, Tháo cười to và bảo:
“Khá khen cho đồng đội có một phát hiện rất hay. Nhưng cậu có biết vì sao món rắn nướng này dù không đủ độ thơm thì cũng không bị tanh không?”. Tháo hỏi rồi lại tự trả lời luôn. “Đó là nhờ giã bằng củ chuối đấy. Chày bằng củ chuối không những thu hết xương rắn dính vào đó mà còn thêm tác dụng là nhựa chuối đã khử mùi tanh của thịt rắn. Điều này ít người để ý mà dân làm rắn họ cũng chả buồn nói ra. Chả phải bí kíp gì nhưng cũng là một cái mẹo nhà nghề”.
“Thế nếu không có củ chuối để giã thì sao”. Hoài lại hỏi.
“Chỗ nào mà chả có củ chuối. Ở quê thì ra vườn, còn ở rừng thì ra ven suối tìm chuối rừng. Rừng nhiệt đới có mà thiếu giống”.
Tháo còn kể thêm một câu chuyện mà người ta truyền tụng về một kiểu ăn rắn cầu kỳ và rất quý tộc của một ông người Hoa ở phố cổ Hà Nội. Ông ấy kiếm một con rắn hổ to đem nuôi ít ngày trước khi làm thịt. Thoạt đầu ông ta kiếm một con ếch to, cho nó ngậm một củ sâm, khâu mồm nó lại và thả trong cái vại nhỏ. Mấy ngày liền con ếch không được ăn gì thêm nhưng chất trong củ sâm cứ ngấm vào người nên nó vẫn sống và béo trắng ra. Căn đến ngày củ sâm vừa tiêu hết, ông ấy thả con ếch đó vào chỗ con rắn và đương nhiên con ếch thành miếng mồi ngon của con rắn hổ. Đợi đủ thời gian con ếch tiêu hết thì mới đem con rắn đi làm thịt. Vậy là mấy lần bổ chồng lên nhau. Không biết cái bổ kép ấy ngấm được vào người bao nhiêu, nhưng quả thật khó ai có thể làm theo được như thế.
Sáng tuy cũng là dân hay đi rừng thành thạo nhiều thứ, nhưng cái pha bắt con rắn hổ chớp nhoáng lúc nó đang ngóc cổ le lưỡi phè phè như Tháo thì cũng thấy nể thật. Sáng vừa ăn vừa hỏi Tháo:
“Hồi ở nhà mày làm gì mà sao bắt rắn thiện nghệ thế. Không sợ rắn nó cắn à? Hay mày có bài thuốc trị rắn cắn”.
“Tôi làm nghề chả liên quan gì đến rắn cả. Theo bố đi đóng cối xay lúa rồi sau đó nuôi lợn đực dong đi cho lấy giống quanh huyện thôi. Nhưng hồi học cấp ba ở Yên Viên có thằng bạn nhà ở làng Lệ Mật. Nhà nó có nghề bắt rắn. Nghe nói đồng đất bên xã tôi hay có rắn ở ngoài bãi chân đê, nó mấy lần mò sang bắt rồi cùng làm thịt ăn. Chính nó dạy tôi cách bắt rắn bò trên mặt đất. Quan trọng nhất khi chộp đuôi rắn là phải thật nhanh, đúng hướng và chính xác. Tôi chỉ học được thế thôi, còn bắt rắn hổ trong hang thì phải có gậy ba chạc, khó hơn nhiều. Dân bắt rắn Lệ Mật họ cũng có bài thuốc chữa rắn cắn gia truyền, nhưng chỉ cứu người chứ không truyền cho ai. Nhưng nếu không may bị rắn cắn thì phải garô thật nhanh và nặn bóp ngay máu ở vết cắn. Chỉ có mỗi cách đó là tốt nhất. Chậm là đành chịu”.
Thịt con rắn hổ nhiều quá ăn không hết nên Nhạn bảo gói lại đem đi để chiều tối ăn nốt. Trưa hôm ấy do làm món rắn nướng mất nhiều thời gian nên buổi chiều đi không được bao nhiêu. Đường đi toàn lên dốc vì đã vào dãy Phù Khống Phạ. Vẫn là cảnh cây lá rậm rạp và phải dùng dao phạt cây mà đi, dù Nhạn đã chọn lối đi thưa cây cối. Từ hôm lên đường đến nay, hai ngày trời đường đất đi mới được hơn một nửa. Nhạn đã cho anh em dùng dao vạc vào các thân cây to dọc đường đánh dấu để lúc quay về đỡ phải đạp đường mới. Cũng may hơn một ngày qua trời không có mưa nên cũng đỡ vất vả hơn. Biết là lên núi khó kiếm nước nên Nhạn đã cho anh em lấy đầy các bi đông, nhưng dù thế nào cũng cần phải tìm chỗ có nước. Kết hợp chuyện xác định địa hình và tìm vật chuẩn, Nhạn xem bản đồ chọn nơi có đường bình độ sít nhất trên đỉnh núi để leo tới. Nơi đó sẽ có một khe sâu và cũng sẽ là nơi có nước chảy. Đêm đó Nhạn cho tiểu đội mắc võng trên lưng chừng núi, chỗ chỉ có khoảng rừng thoai thoải dốc rộng vài chục mét có nhiều cây nhỏ. Không có suối nước dù chỉ là lạch nhỏ, Nhạn cho anh em đổ nước trong bi đông ra nấu cơm. Thế mà cũng tốn hết một bi đông nước. Đêm đó cũng không phải tổ chức gác.
Ngày thứ ba lại nấu cơm sáng cho hai bữa rồi mới lên đường. Nhạn thống nhất cùng anh em cứ sáng ra sẽ nấu cơm hai bữa cho sáng và trưa, còn bữa tối nấu riêng. Nhạn vẫn đi trước dùng dao phạt cây nhỏ dẫn đường. Ba người còn lại thay nhau phụ thêm một tay dao phát đường cùng tiểu đội trưởng. Cả ngày leo dốc không thấy nắng nhưng chẳng hiểu có mưa không vì mây mù cứ quấn quanh người, quần áo âm ẩm. Hết ngày thứ ba vẫn chưa leo tới đỉnh núi. Đêm nghỉ lại, Nhạn cho anh em đào mấy cái hố ở chỗ thưa cây rồi trải ni lông hứng nước mưa hoặc sương đêm. Có lẽ đêm đó cũng có mưa nhỏ nên sáng ra mấy cái hố đều đầy nước. Mấy anh em uống thỏa thê, lấy đầy các bi đông, nấu cơm rồi lên đường. Tới gần trưa thì leo tới đỉnh núi, chỗ có cái khe sâu mà Nhạn đã chọn. Xem trên bản đồ, thấy dãy Phù Khống Phạ có nhiều đỉnh nối nhau và trải dài theo hướng bắc nam, nhưng cái đỉnh núi mà tiểu đội Nhạn leo lên là sườn đồi chính, nhiều nơi có mặt bằng khá rộng. Nhìn ra xung quanh mới thấy không phải chỉ toàn rừng già. Nhiều chỗ là bãi cỏ hay mọc toàn cỏ tranh cùng lau lách và các cây như sa nhân. Đã có các rừng tre, rừng nứa đan xen nhau. Nhạn cho tiểu đội đi tiếp về phía nam tới một rừng le thì dừng lại chọn làm nơi dừng chân trú quân. Quanh rừng le dù sao cũng quang đãng hơn, nhìn thấy rõ nền trời lúc xanh lúc đen. Quanh khu rừng le chỉ có các cây nhỏ lúp xúp như cây tái sinh mọc xen. Cây le to vừa tầm cổ tay nên chọn chỗ mắc võng nơi đây cũng dễ mà nếu có đào hầm cũng có thể chặt le làm nắp dễ dàng. Dưới gốc các bụi le chỉ toàn lá le rụng sẽ có thể có các con thú nhỏ đi kiếm ăn đêm, có thể đặt bẫy. Mùa này tuy đã cuối vụ nhưng rừng le vẫn đang có măng rất nhiều. Kiếm nước ở rừng le cũng dễ hơn vì mưa đổ thẳng ngay xuống, không bị mắc lại trên cây le bao lâu. Thật là tiện rất nhiều bề. Để ghi nhận thành công bước đầu, hôm đó Nhạn cho anh em nấu canh thịt hộp với lá chua. Anh cũng cho anh em bẻ măng le đem ngâm để ngày mai nấu cho bớt đắng.
Chiều hôm đó, sau khi tổ chức lùng sục khu vực nhỏ ra xung quanh đến chỗ mấy sườn núi hai bên sườn đồi nơi dừng chân, cả tiểu đội quây vào nhau bàn kế hoạch tiếp theo. Nhạn nói:
“Chúng mình đã đi hết bốn ngày rồi mới leo lên tới đỉnh dãy núi này. Nếu dành ba ngày cho đoạn trở về thì chúng ta sẽ còn bảy ngày để tìm vị trí đài thông tin của địch nếu có. Tôi dự định chúng ta sẽ không nằm đây quan sát vì tầm nhìn hẹp và mịt mù quá. Tuy nằm một chỗ thì nhàn đấy nhưng khó mà có cơ hội nhìn thấy máy bay trực thăng địch tiếp tế. Có khi nó đến lúc chiều tối hay lúc có mây mù mà cái đài thông tin đó cách đây độ chục cây số thì chúng ta cũng chẳng nghe hay nhìn thấy gì. Tôi định chúng ta sẽ đi ngang ra hai phía sườn đồi này mỗi bên độ vài chục cây số để tìm dấu vết, cho dù không thấy thì vẫn yên tâm hơn. Mọi người thấy thế nào?”.
Vậy là chưa kịp nghỉ ngơi được lấy một ngày lại chọn cách làm vất vả cho mình, ba chiến sĩ còn lại hơi bị hẫng. Nhưng dù sao thì cái đích của nhiệm vụ vẫn là lớn nhất, mà người nêu công việc lại là Tiểu đội trưởng Nhạn thì không ai có thể tìm cớ bàn lùi. Sáng nghĩ một lát rồi nói:
“Bảy ngày vừa đi vừa nghỉ, luồn rừng thế này thì mỗi ngày đi được chừng 20 cây số, trừ hao đi cứ cho là chúng ta sẽ đi được khoảng 120 cây số là cao nhất. Vậy nếu tính đều thì mỗi hướng chúng ta đi 30 cây rồi quay lại. Theo tôi ta nên xem lại vị trí đang đứng đi rồi chọn hướng nào nghi ngờ nhất để đi trước”.
Nhạn gật đầu rồi giở bản đồ ra chỉ cho tất cả xem vị trí đang ngồi đây trên bản đồ. Sáng tuy không thạo bản đồ, nhưng nhìn theo tay Nhạn chỉ ranh giới của dãy Phù Khống Phạ thì nói:
“Vị trí ta đứng không nằm trên điểm giữa dãy núi mà lệch về phía bắc. Phía bắc lại quay về thị trấn Paksoong là nơi quân ta đang chiếm giữ nên nhiều khả năng hơn là đài thông tin của địch nằm về phía nam. Như vậy có thể ta ưu tiên đi về hướng nam thì hợp lý hơn. Mà Phù Khống Phạ tôi nhìn có lẽ nó cũng chỉ dài độ năm chục cây số là cùng, mà chỗ ta ngồi đây cũng ở vị trí non nửa rồi. Vì thế ta nên dành nhiều ngày hơn cho hướng này, vừa đi vừa thăm dò, không bắt buộc một ngày phải đi tới hai chục cây số đâu”.
Sáng nói chậm rãi nhưng rành mạch, càng nói mọi người càng thấy hợp lý và càng sáng rõ hơn. Nhạn đo thử trên bản đồ, đúng là từ đây xuống đuôi dãy Phù Khống Phạ về phía nam chỉ còn ba chục cây số là cùng. Non sáu chục cây số vừa đi vừa về kèm thêm cả lùng sục nữa thì cũng chỉ cần tới năm ngày thôi. Nhạn bảo mọi người:
“Vậy quyết định thế nhé. Ngày mai ta bắt đầu đi về phía nam. Còn bây giờ trời vẫn sáng, chỗ này có khe nước mọi người nên tranh thủ tắm táp đi rồi nấu cơm. Xem thử quanh đây có rau gì không, còn nếu không có thì tối nay luộc măng le chấm muối vậy”.
Sáng đi sâu xuống theo khe suối, hái được một lô rau dớn, thứ rau có họ với cây dương xỉ có rất nhiều ở vùng núi Tây Bắc nước ta. Thật may là trên dãy Phù Khống Phạ này cũng có thứ rau đó. Tuy vậy buổi tối mọi người vẫn luộc măng le ăn, vì Sáng bảo, nên để rau dớn trưa mai nấu canh cho nhanh, đỡ mất thời gian, lại nhẹ hơn là đem măng le theo.
Sau một đêm nghỉ lại trên đỉnh dãy Phù Khống Phạ, tiểu đội của Nhạn lên đường lùng sục theo hướng nam. Đỉnh Phù Khống Phạ gồm rất nhiều ngọn núi nhỏ nối tiếp nhau. Đường đi vẫn phải nối nhau leo cao và xuống dốc, cây cối đa dạng và muôn màu muôn vẻ, chỗ rừng rậm, chỗ cây lưa thưa nhưng rõ ràng nhất là hầu như chưa có dấu chân người. Rừng nguyên sinh bao giờ cũng mang vẻ huyền bí thu hút sự tò mò khám phá của con người. Có nhiều thứ cây thứ quả lạ mà mấy anh em chỉ có thể biết rất ít. Tít trên đỉnh núi cao nhưng vì không có bóng dáng con người nên chim muông và thú rừng vẫn tự nhiên sinh sống cùng nhau theo quy luật tự nhiên. Không có thời gian mà thưởng thức chứ dù trời có lúc mưa lúc nắng thì núi rừng cũng vẫn phô đầy đủ vẻ đẹp nguyên sơ của nó. Sườn đồi chỗ rộng chỗ hẹp nên bốn người vẫn phải nhiều lúc thay nhau phát đường lấy lối đi. Có điều các đỉnh núi liền nhau trên bình độ cao nên lối đi từ ngọn nọ sang ngọn kia chỉ là những cái yên ngựa chứ không phải xuống khe sâu. Nhạn đặc biệt nhắc anh em chú ý đánh dấu đường để lúc quay lại không bị lạc sang ngọn núi khác. Cứ đi đến chỗ nào mặt bằng mở rộng ra là lại thận trọng nghe ngóng vì chỗ rộng địch mới có thể làm lán đặt đài thông tin được. Chỗ nào hẹp mà khô ráo, Nhạn và tiểu đội lại dừng chân quan sát các ngọn núi bên cạnh. Chưa thấy gì, tất cả vẫn chỉ là một màu xanh trùng điệp. Lúc ngồi nghỉ giải lao, ngửa cổ thấy có loại quả gì đỏ hồng mà có tiếng chim ríu rít trên đó, Hoài hỏi Nhạn:
“Không biết quả cây này là cây gì, liệu có ăn được không A trưởng nhỉ?”.
“Tớ cũng chưa gặp quả này bao giờ, chả biết có ăn được không. Nhưng nếu chim nó ăn được thì chắc là lành” - Nhạn đáp.
“Đừng, A trưởng ạ” - Sáng cắt ngang. - “Em cũng đi rừng nhiều mà chưa gặp loại quả này. Nhưng theo người dân tộc nói, quả trong rừng càng đẹp càng độc. Tất nhiên là có quả màu đẹp mà ăn được. Nhưng chưa biết quả gì thì phải xem con chim con thú nó có ăn không đã. Vẫn có loại quả chim ăn được mà mình không ăn được đâu. Chắc chắn nhất vẫn là theo con vật bốn chân, nó ăn được là mình ăn được. Theo em mình đừng vội hái ăn quả cây này khi chưa biết chắc”.
Tất nhiên là nghe Sáng nói vậy thì chả ai hái quả nữa. Nghỉ giải lao xong tất cả lại lên đường. Các vật chuẩn trên đường đi ở dãy Phù Khống Phạ này rất khó so sánh với bản đồ vì nó chẳng có cái gì đặc biệt. Rừng rậm núi cao, đôi chỗ có khe tụ thủy thì nhìn chỗ nào cũng như chỗ nào trên bản đồ vì rặt một màu xanh lá như nhau. Cuối cùng Sáng vẫn phải dựa vào các khe sâu đặc biệt có các đường bình độ sít nhau để làm chuẩn, tuy không chắc chắn lắm. Không biết chắc đi được bao nhiêu cây số trong ngày, nhưng cứ tầm chiều chiều là phải tìm chỗ nghỉ chân. Từ lúc này không thể để lộ ánh lửa lúc tối trời được. Bây giờ không còn lo chuyện thiếu nước khi lỡ chặng đường nữa. Dãy Phù Khống Phạ núi liền núi có rất nhiều khe nước. Đơn giản vì các mạch nước nhỏ đều bắt nguồn trên đỉnh núi cao chảy xuống mà dồn tụ lại thành dòng suối dưới đồng bằng. Lại đang là mùa mưa nên mạch nước nhiều hơn. Nhiều chỗ dù mạch nước không to nhưng vẫn hứng được đủ nước uống và nước nấu cơm một cách thoải mái. Tít trên đỉnh núi cao nhưng có độ ẩm và chưa bị con người khai thác nên anh em vẫn kiếm được chút rau nấu ăn. Có lúc là lá chua, có lúc là bẹ hoa chuối rừng nhưng cũng có lần Nhạn tìm thấy một khoảnh rừng thưa có cây phác van. Người dân Lào gọi thế, không biết có phải là cây rau mì chính bộ đội thời đánh Pháp gọi không, vì không ai biết. Cây này mới nhìn trông giống cây rau ngót nhưng mọc thấp và không phát triển cao nhiều nhánh như rau ngót trồng ở vườn. Lá của nó cũng mềm như lá rau ngót, đem rửa sạch nấu canh nước rất ngọt. Có lần Sáng còn phát hiện thấy bên rìa đường lá mục có mấy cây nấm mối vào lúc gần trưa. Cây nấm ở đây cao hơn hai mươi phân thân to như ngón tay còn mũ nấm của nó màu trắng ngà to như cái đĩa sắt tráng men, giữa chóp có màu nâu sậm. Đưa tay vào gần thấy lũ dĩn bé li ti bay lên ào ào. Sáng bảo anh em dừng lại rồi nhổ nấm. Chỉ tay vào thân cây nấm có những vệt lỗ chỗ nhỏ, Sáng bảo anh em:
“Đây là nấm mối, một loại nấm rừng lành và rất ngon. Các vệt ở thân cây này là do con dĩn nó ăn đấy. Cây nấm mối bắt đầu từ lúc nhô lên khỏi mặt đất phát triển rất nhanh. Buổi sáng mới nhú lên, nó chỉ bé như ngón tay út. Đến gần trưa là nó phát triển lớn nhất như thế này đấy. Những con dĩn con sâu rất thích ăn nấm này. Nếu mình không kịp hái vào lúc này, để đến chiều là cây nấm rữa ra ủng và thối không còn ăn được nữa”.
Chỉ có bốn cây nấm thôi mà khi nấu canh cũng chật cứng hăng gô, phải san sang hai chiếc, cả tiểu đội ăn thấy no. Tháo và Hoài nhìn Sáng thán phục. Sáng cũng rất vui, cười tươi nhưng lờ đi không dám kể chuyện chính nhóm tân binh đoàn mình lúc mới vào đến tiểu đoàn bộ cũng hái nhầm phải nấm độc, suýt nữa thì toi cả lũ.
Đến ngày thứ ba, theo dự định là sẽ đi được ba chục cây số tới đuôi phía nam của dãy Phù Khống Phạ rồi mà sao nhìn phía trước vẫn thấy núi cùng non. Vẫn chưa phát hiện thấy cái đài thông tin của địch, cũng chả thấy có gì đặc biệt. Không thể cứ đi mãi để xuống tận chân núi. Nhạn cho anh em dừng lại nấu cơm trưa ăn rồi hội ý. Nhạn nói với cả tiểu đội:
“Tạm có thể coi là chúng ta không phát hiện thấy vị trí cũng như hoạt động của đài thông tin địch. Rất có thể nó không có ở trên đỉnh Phù Khống Phạ này. Thôi thì đã tới đây, chúng ta cứ nghỉ nốt một buổi chiều. Vừa là quan sát nghe ngóng thêm, vừa là để có thời gian nghỉ ngơi cho lại sức. Sáng mai ta sẽ đi quay lại theo đường cũ, chắc sẽ nhanh hơn vì không phải mất công lùng sục hai bên nữa. Anh em thấy thế được không”.
Tất cả tiểu đội nhất trí. Cũng vì chưa gặp nguy hiểm gì nên mọi người đều thấy là nghỉ luôn đêm nay ở đây cũng được, chả có gì phải vội cả. Sáng lại đi loanh quanh rồi đem về một nắm cây có lá mảnh như lá hẹ, không có thân nhưng lại có chùm rễ trắng nhỏ như sợi giá đỗ. Sáng giải thích cho Hoài và Tháo đây là cây sâm đất, còn anh Nhạn nhìn cũng biết và quá quen với cây sâm đất rồi. Đem sấy khô rồi pha trà uống rất ngon và thơm. Nhưng bây giờ không có điều kiện sao khô thì nấu nước tươi uống cũng được. Nói rồi Sáng cắt chùm rễ rửa sạch bỏ vào một cái hăng gô đun nước. Cả tiểu đội ngồi uống nước sâm đất và hút thuốc rê sau khi đã ăn cơm. Chợt có tiếng con tắc kè kêu ở một cái cây gần đấy. Nó dậm giọng chậc chậc mấy cái như người tặc lưỡi rồi kêu rất to “tắc… kè” liên tục. Hoài nhẩm đếm theo tiếng nó kêu rồi bảo mọi người:
“Bảy tiếng. Thế là ngày mai có nắng anh em ạ”.
Tháo bây giờ mới nghe tiếng con tắc kè kêu vì quê nó không có, lên tiếng hỏi Hoài:
“Sao mày biết thế?”.
“Đơn giản, theo tiếng tắc kè kêu là chẵn mưa thừa nắng. Nó vừa kêu bảy tiếng, lẻ nên ngày mai nắng”.
Nghe hai người đồng đội nói với nhau thế, Sáng chen vào góp chuyện:
“Không đúng thế đâu. Chả có căn cứ khoa học nào cả. Tôi ở vùng người dân tộc mãi, chưa thấy họ nói điều ấy bao giờ. Tắc kè thì chỗ rừng hay núi đá nào cũng có, chúng cứ hứng lên là kêu chứ chẳng thành quy luật chẵn lẻ gì cả. Cứ chờ nghe mà xem”.
Mọi người im lặng. Quả nhiên một lúc lâu sau lại nghe con tắc kè chắt lưỡi rồi kêu. Cả bọn cùng nhẩm đếm, lần này nó kêu tám tiếng. Sáng bảo hai bạn:
“Các cậu thấy chưa, chả lẽ ngày mai vừa mưa vừa nắng”.
Lại một đêm mắc võng ngủ rừng, nhưng đêm ấy mưa to. Nước mưa cứ rơi lộp bộp trên nóc mấy tấm tăng cả đêm, nhưng mệt nên ai cũng ngủ ngon.
Sáng dậy quấn gấp tăng võng xong, Nhạn cho anh em hành quân quay trở lại đường cũ luôn. Chỗ nghỉ đêm này không có thân cây khô nên không kiếm được củi, Nhạn định cho anh em cứ đi, tiện chỗ nào thì dừng chỗ đó nấu cơm. Bữa tối qua cả tiểu đội đã nấu nốt hăng gô canh chua bằng hộp thịt thứ hai rồi nên giờ cũng chưa thấy đói. Đường về thoải mái hơn lúc đi vì cảm giác an toàn, cảm tưởng như lúc này trên cả dãy Phù Khống Phạ dài rộng này chỉ có bốn người chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam. Nhờ lúc đi Nhạn đã cho anh em vạc cây đánh dấu đường, lại không mất công phát đường mới nên về nhanh hơn. Đến lúc Nhạn thấy một khoảnh rừng bằng đẹp đẽ có nhiều cây to chết khô và cho anh em dừng lại nghỉ chân nấu cơm thì cũng đã giữa buổi. Anh em bàn nhau nấu dồn luôn bữa cơm trưa với bữa sáng cho gọn. Bây giờ không phải căn khoảng đường đi nữa mà cứ xem chỗ nào tiện và đẹp là dừng lại nghỉ để tiện kiếm rau. Ngày đầu trôi qua, cả tiểu đội đều có chung cảm giác là đi được rất nhiều đường đất.
Sáng ngày thứ hai trên đoạn trở về, mấy anh em trong tiểu đội đã gạ Tiểu đoàn trưởng Nhạn là xem thế nào, có thể kiếm một con thú nào không. Bởi vì cả tiểu đội đang đi càng ngày càng xa hướng địch và nhất là từ lúc lên dãy Phù Khống Phạ đến nay mọi sự đều an toàn. Không một lần nghe thấy bất cứ tiếng súng tiếng pháo nào. Khu vực này đã cách xa cả phía ta lẫn phía địch thì bây giờ tiếng AK bắn lẻ chắc sẽ chìm nghỉm trong âm thanh rừng già. Nhất là trong không khí trời đất ẩm thấp thì mọi âm thanh đều chìm đi trong tiếng trầm đục và không thể vang xa. Nhạn cũng có vẻ xuôi xuôi nghe mọi người tán nhưng cũng bảo, phải xem cụ thể gặp được con gì đã chứ. Cũng thật là tiếc nếu đợt đi công tác lẻ xa đơn vị này không kiếm được cái gì ca cóng cho nó ra hồn. Các nhóm đi công tác lẻ bao giờ cũng như chim sổ lồng vì mình được quyền tự tung tự tác cơ mà. Vậy mà chưa kiếm được con gì để cải thiện thì cả nhóm đã gặp một phen hết hồn.
Đội hình hành quân vẫn là Nhạn đi trước rồi đến Sáng, Tháo và Hoài đi sau cùng. Vừa chui qua một bụi rậm có nhiều cây to, bỗng nghe tiếng Hoài kêu lạc giọng phía sau. Tất cả cùng quay lại lăm lăm súng trong tay. Một cảnh tượng hãi hùng khiến tất cả như chết đứng trong giây lát. Một con trăn gấm da đen có hoa mốc loang lổ vắt phần đuôi trên cành cây và thả người xuống quấn Hoài và cả ba lô lẫn súng đến mấy vòng như muốn kéo cậu ta lên. Hoài đang giơ hai tay trước ngực cố giữ khẩu AK quay phía ốp che tay vào người để không cho thân con trăn siết chặt được vào nữa. Tháo bật chốt an toàn chĩa nòng AK lên cao phía cành cây bóp cò. Một loạt đạn nổ vang, nòng súng giật nẩy bật lên cao. Nhạn cũng giương súng lên nhưng chưa biết nên bắn vào đâu vì sợ đạn trúng cả vào Hoài. Trong tình thế nguy cấp ấy, Sáng đã kịp thả tay buông cái ba lô và khẩu AK của mình xuống đất, gạt Tháo ra và lao đến con trăn. Một đường dao tông trong tay Sáng lia ngang như nhát đao nhằm đầu con trăn phạt mạnh nhưng nó rụt lại tránh được. Sáng thụp người xuống rồi nhảy dé chân sang một bên, nhảy nhanh một bước nữa ra sau con trăn và chém phập được một nhát vào khúc đuôi của nó ngay phía trên đầu Hoài làm cho gần đứt. Con trăn lập tức bung thân thả Hoài ra rồi vặn mình trườn ngoay ngoáy vào bụi cây phía sau kéo lê theo cái chót đuôi đầy máu lủng rời phía sau.
Nhạn và Tháo chạy lại đỡ Hoài đang nằm quay đơ trên mặt đất, người như nhũn ra vì vừa sợ vừa mệt vì phải gồng mình chống cú siết tử thần của con trăn gấm. Kéo Hoài ngồi dựa vào gốc cây, mọi người vừa xoa vừa sờ nắn khắp người Hoài, xem có vết cắn hay vết gãy nào không. Không có chiếc xương nào bị gãy nhưng có một vết cắn của con trăn trên bắp tay trái của Hoài, rách cả tay áo và thấm đầy máu. Một lúc sau Hoài mới như hoàn hồn, cười nhợt nhạt nói với anh em trong tiểu đội:
“Con trăn từ đâu lao tới nhanh quá, cứ như từ trên trời xuống. Tôi còn chưa kịp nhận ra đau ở bắp tay thì đã bị nó quấn. May còn cái ba lô và khẩu AK giữ lại một khoảng không để thở, chứ không thì…”.
Sáng cùng Nhạn vén cao tay áo Hoài lên, thấy vết cắn khá sâu, nham nhở mấy nốt răng. Hai người bóp và cố nặn hết những giọt máu bầm trên vết con trăn cắn ở cánh tay Hoài. Sáng bảo, con trăn không có nọc độc nhưng vết cắn của nó rất dễ gây nhiễm trùng, đã có người bị cắn như thế này không giữ được vệ sinh để bị hoại tử phải cắt bỏ cả cánh tay đấy. Mọi người lục túi thuốc y tế lấy cồn lau đi lau lại vết thương của Hoài cho thật sạch rồi bôi thuốc tím và băng chặt lại. Đoạn Sáng bảo mọi người ngồi nghỉ và xách súng đi vào rừng, nói là kiếm lá thuốc. Khá lâu sau, Sáng quay lại, trong tay có một nắm lá to bằng bàn tay trông ram ráp như lá mơ lông. Sáng bảo đây là lá thuốc kháng sinh đấy, theo kinh nghiệm thôi chứ chả nhớ nó tên gì. Đoạn Sáng lật cái ca i nốc và lấy chuôi dao găm giã nát đám lá rồi đắp lại vào vết thương cho Hoài. Còn một ít nước tráng ca, Sáng đổ thêm nước trong bi đông vào lắc lắc và bảo Hoài uống hết. Cũng gần trưa rồi và để cho Hoài có thời gian nghỉ ngơi lại sức, Nhạn định cho anh em nghỉ ăn cơm trưa, nhưng Sáng gàn lại, bảo chỉ nên nghỉ độ nửa tiếng thôi, còn nên đi ngay, rời chỗ này càng xa càng tốt. Sáng giải thích là trăn thường sống theo cặp. Con vừa nãy to thế thì con bạn đời của nó cũng ghê gớm chả kém đâu. Rừng luôn có chuyện bất ngờ, tránh trước là hơn. Nghe vậy Hoài cũng hoảng nên chỉ hơn chục phút sau đã đứng dậy đòi đi. Tới lúc dừng lại ăn cơm trưa ở một nơi cách đó rất xa, Sáng giải thích cho mọi người trong tiểu đội:
“Con trăn có đặc điểm là di chuyển trong rừng bằng cách quăng mình trên cành cây thì rất nhanh có khi mình chạy không theo nổi nó. Nhưng ra bãi cỏ nó chỉ bò trườn như rắn thì lại nặng nề và chậm chạp. Trăn có một điểm mạnh là cơ thân rất khỏe, thường dùng thân siết chặt con mồi đến tắt thở rồi mới nuốt. Còn con mồi nhỏ thì nó nuốt thẳng luôn. Trăn có một điểm yếu là cái đuôi, như một huyệt đạo hiểm. Dù nó đang làm gì mà bị đánh mạnh vào đuôi là bỏ chạy luôn. Con trăn ban nãy phải nằm dưỡng thương chán cho lành đuôi mới tiếp tục đi tìm mồi kiếm ăn được. Còn nếu cái đuôi bị đứt rời thì trước sau gì nó cũng chết. Trăn thường sống theo cặp và rất thủy chung. Đã có trường hợp một con bị giết, vài hôm sau con còn lại mò đến tìm cách báo thù”.
Dừng một lát, Sáng lại giải thích nốt điều thắc mắc thứ hai của đồng đội về lá thuốc:
“Cái lá đó do tôi đi rừng nhiều học của người dân tộc thôi. Họ gọi tên gì đó tiếng dân tộc không nhớ, nhưng thuộc dáng cây thuốc vì cũng dùng nhiều lần. Người dân tộc họ bảo biết cây thuốc này cũng nhờ học loài khỉ. Thấy chúng bị thương hái lá này nhai đắp vết thương thì học theo mà làm thôi”.
Chiều tối hôm ấy mọi người về đúng đến vị trí trú quân năm ngày trước, gần cái khe sâu mà Nhạn chọn làm điểm mốc lúc bắt đầu lên đỉnh Phù Khống Phạ. Trong bữa cơm tối có mỗi món canh chua, nghĩ thế nào, Tháo nói với mọi người:
“Giá lúc trưa mà mình giết được con trăn ấy thì ăn mệt nghỉ nhỉ”.
Nghe Nhạn và Hoài “ừ, à” hưởng ứng, Sáng cười:
“Bình thường thì thế, nhưng với chúng ta lúc này chưa chắc hay lắm. Con trăn ấy quá to, mình chỉ chặt lấy được một khúc đem theo thôi. Hơn nữa không có cái xoong to thì khó nấu. Thường làm thịt trăn là phải lột da rồi chặt khúc, cũng không được để nước lã chạm vào, giống như kiểu cậu Tháo làm thịt rắn ấy. Bỏ những khúc trăn đó vào cái xoong to luộc chín rồi vớt ra bóc lấy thịt. Thịt trăn trắng và có thớ như thịt gà, gỡ ra đem xào là ngon nhất. Đôi khi người ta còn nướng hoặc nấu canh, nhưng không ngon bằng. Thịt trăn cũng không ai giã nát rán ăn như món chả rắn của cậu Tháo bữa trước đâu. Chả rắn còn là đặc sản chứ thịt trăn chả ai dám xếp vào đặc sản bao giờ. Chúng mình chỉ có mấy cái hăng gô miệng bé tẹo không luộc thịt trăn được, còn đem nướng thì lích kích lắm, chả bõ. Hơn nữa chính chúng mình cũng muốn chạy xa con trăn thứ hai thì đem theo thịt con trăn đầu cũng bất lợi”.
Nghe Sáng giải thích vậy, mọi người quay sang tán chuyện với Nhạn để chuyển hướng sang tìm một con thú nào đó để cải thiện, vì xem ra nơi này quá an toàn rồi. Nhạn xem lại bản đồ rồi hội ý cùng tiểu đội. Anh nói:
“Chúng mình đi đến hôm nay là hết tám ngày rồi. Theo kế hoạch thì còn bảy ngày gạo ăn nữa. Tôi định ngày mai chúng ta tạm nghỉ tại đây, vừa là nghe ngóng, vừa là để cho cậu Hoài khỏe hẳn lại. Sau đó dành hai ngày đi lên hướng bắc như dự định. Ba ngày sau thì trở về đơn vị. Còn một ngày để dự trữ bất trắc, không thì về sớm một ngày cũng tốt. Bây giờ các cậu mắc võng chuẩn bị nghỉ đi. Không phải gác đêm vì không lo địch, nhưng mọi người cần cảnh giác sau vụ con trăn hôm nay. Hóa ra thú rừng mới là cái chúng ta cần chú ý lúc này”.
Đêm ấy cũng chẳng có gì bất thường xảy ra. Sáng dậy mọi người xem lại vết thương của Hoài, thấy đã khô miệng và không có tấy đỏ. Sáng bảo chỉ cần băng lá một đêm thế là đủ rồi, bây giờ cứ để hở thế này cho nó mau lành. Cả ngày hôm ấy tất cả nghỉ ngơi, tắm giặt và đi loanh quanh kiếm rau rừng. Năm ngày đi đường vừa qua không tắm nên hôm nay nghỉ tại đây là rất hợp lý. Trời cũng chiều lòng người nên đêm qua chỉ có mưa lắt nhắt sáng ra đã tạnh. Đến trưa thì hết mây mù và đã có ánh nắng rọi xuống bờ suối. Trên đỉnh núi cao suối đá có nước nguồn chảy ra trong veo, tắm xong phơi quần áo trên các bờ đá đến tối đã khô. Một ngày bình yên trôi qua đem lại sự hưng phấn, sảng khoái cho cả bốn anh em sẵn sàng bước tiếp nhiệm vụ.
Thêm một ngày, vết trăn cắn của Hoài gần như đã khô hẳn các vẩy máu. Nhạn xem kỹ lại vết thương, hỏi thấy Hoài tuyên bố khỏe hẳn rồi, lại còn vung vẩy tay, nắm đấm lại và lên cơ bắp tay chứng minh thì thật thấy nhẹ lòng. Nhạn đã sợ Hoài không thể đi tiếp ngay được thì thật gay vì không thể để Hoài ở lại đây một mình được. Chặng đường tiếp theo dù có thể coi là nhẹ nhàng thì cũng không thể đi có ba người. Để Hoài ở lại chờ mọi người quay lại, nhỡ gặp con thú dữ nào thì sao. Chuyến đi công tác lẻ này không thể để xảy ra tổn thất được.
Cả tiểu đội buộc chặt mọi thứ gọn gàng rồi lên đường nhằm hướng đông và bám theo các yên ngựa và sườn đồi mà đi. Lại những chặng đường lên lên xuống xuống bám theo các yên ngựa, chỗ hẹp chỗ rộng. Đi được chừng dăm cây số, tất cả đều có cảm giác là đang đi xuống thấp. Nhạn xem lại bản đồ, quả nhiên thấy các đường bình độ ít đi và giãn thưa nhau hơn. Nhiều chỗ đã thấy rất bằng phẳng, tưởng như sắp tới chân núi. Nhạn bảo mọi người:
“Chúng ta càng ngày càng đi xa địch rồi, nên sẽ không cần đi hết dãy Phù Khống Phạ đâu. Thêm đoạn nữa là chừng chục cây rồi nên ta sẽ dừng lại nghỉ anh em nhé. Sáng mai sẽ quay về chỗ cũ”.
Thế là tất cả cứ nhẩn nha đi, vừa bước vừa ngó quanh như muốn tìm kiếm một cái gì đó sắp xuất hiện. Tới một đoạn trũng, Nhạn ngó quanh rồi kêu lên:
“Dừng lại đây thôi các cậu. Tớ thấy có vết chân lợn còn mới lắm. Có dấu vết chúng sục đất kiếm củ gì ăn đây này. Một đàn mấy con chứ không ít đâu”.
Đoạn Nhạn chỉ cho mọi người xem. Thế là tất cả tìm một vạt rừng gần đó có thể mắc võng cụm nhau được để dừng lại nghỉ chân nấu cơm tối ăn. Một lạch suối đất nhỏ nhưng đầy nước trong chảy ngay gần đó. Đêm ấy Nhạn bảo Tháo và Hoài ở lại chỗ mắc võng ngủ còn mình và Sáng đi săn ở chỗ phát hiện dấu vết lợn lúc chiều. Nhạn bảo chắc độ gần sáng chúng sẽ lại ra khu vực đó bới củ. Mình nằm phục sẵn cho sương xuống nhạt bớt mùi hơi người thể nào cũng phục được. Quả nhiên mờ sáng hôm sau đã có tiếng khịt khịt của đàn lợn và mấy cái bóng đen của chúng mờ mờ trong sương. Nhạn chỉ vào một con khá to ở gần, ra hiệu cho Sáng cùng hiệp đồng cho chắc ăn. Một tiếng nổ vang lên. Những cái bóng đen biến mất. Nhạn và Sáng chạy lại, thấy con lợn đang giãy giụa trên mặt đất mấy cái rồi nằm im. Con lợn rừng nặng khoảng ba chục cân. Nhạn lấy sợi dây rừng đã chuẩn bị sẵn buộc từng cặp chân con lợn lại rồi bảo Sáng tìm chặt một đoạn cây để khiêng. Sáng chưa chặt được cây thì đã nghe huỳnh huỵch bước chân. Té ra Tháo và Hoài nghe tiếng súng náo nức quá cũng muốn tới xem thành quả. Thế là bốn người thay nhau khiêng con lợn về chỗ mắc võng. Cả bọn ngồi hút thuốc và rì rầm mãi trời mới sáng rõ. Nhạn bảo con lợn này khá to, có lẽ chúng mình chỉ cần lột da nó lấy ít thịt là được, nhưng Tháo vội lên tiếng:
“Con lợn này làm lông tử tế cũng nhanh thôi. Để cả bì cho miếng thịt được ngon, anh cứ để đấy cho em. Mình còn mấy ngày đi đường nữa cơ mà. Lo gì không ăn hết thịt”.
Thấy Tháo nhiệt tình thế, Nhạn cũng xuôi lòng. Lập tức lửa được nhóm lên, cả bốn cái hăng gô đều được huy động đun nước sôi. Tháo ra mé suối đất chặt về một ôm lá dong rừng trải ra bãi cỏ đặt con lợn lên đó và chọn con dao găm sắc nhất của mấy anh em. Cứ có hăng gô nước nào sôi là Tháo lại lấy dội lên con lợn để cạo lông và hô anh em đun tiếp nước. Lợn rừng lông dày, mỗi lỗ chân lông có tới ba sợi mọc lên nên dày và khó cạo hơn lợn nhà, nhưng Tháo cố trổ tài với tiểu đội nên mắm môi lựa thế cạo vèo vèo. Cả tiểu đội người đun nước sôi, người dội, người gạt bớt dám lông lợn trên thảm lá dong giúp Tháo, mỗi người một tay nên rồi cuối cùng cũng xong. Trời lúc này đã sáng hẳn, may lại không có mưa. Thế là tất cả tập trung cho bữa ăn sáng đầy chất tươi theo đúng tinh thần ca cóng. Tháo mổ lợn, mọi thứ bên trong chỉ lấy lại lá gan và quả tim. Sau đó là lọc lấy tất cả những phần thịt có thể lọc được. Toàn bộ xương và bốn cái móng cũng phải bỏ vì không có nồi to để nấu. Hai cái hăng gô để nấu cơm, hai cái còn lại luộc những miếng thịt ngon ăn trước. Hoài và Sáng lại kiếm củi đốt to lấy than làm thêm món thịt lợn nướng. May mà lúc từ đơn vị đi, Nhạn đã cố xin anh nuôi Châu cho kha khá muối nên bây giờ không phải ăn món thịt nhạt. Dù chấm nước muối pha nhưng ai ăn cũng thấy ngon với tinh thần ăn được càng nhiều càng tốt. Sau khi đã ăn thả phanh và gói thêm cả thịt luộc lẫn thịt nướng cho hai bữa ăn tiếp theo trong ngày, số thịt tươi còn lại vẫn rất nhiều. Tháo đề nghị anh Nhạn cho anh em nghỉ lại ở đây cả buổi sáng để xử lý nốt số thịt chứ để nguyên thế tới ba ngày nữa thì thối hết. Tháo pha thịt thành những miếng mỏng, nhúng qua nước muối rồi hướng dẫn mọi người hơ qua lửa như sấy thịt cho đến khi săn lại mới lấy lá dong bọc lại. Tưởng đơn giản thế mà cũng hết buổi sáng mới xong. Ăn trưa xong, Nhạn cho mọi người lấy dao găm đào hố chôn mọi thứ còn thừa rồi lên đường hành quân về điểm mốc ban đầu trên dãy Phù Khống Phạ. Chả phải dò dẫm gì, đường đi đã đánh dấu nên sẩm tối đã về tới nơi. Buổi tối bốn người chỉ nấu một hăng gô cơm, lại một bữa ăn thịt nhiều hơn cơm.
Mười một ngày đã trôi qua. Nhiệm vụ của tiểu đội đã hoàn thành với kết luận không phát hiện ra đài thông tin nào của địch trên đỉnh dãy Phù Khống Phạ. Còn bốn ngày nữa nhưng Nhạn quyết định không dừng lại nghỉ mà cho anh em về luôn. Vết thương ở tay của Hoài cũng đã đóng vẩy rồi, không còn có gì đáng ngại. Những ngày đi công tác lẻ vừa qua có thể nói là có vất vả nhưng cũng hết sức thoải mái và mãn nguyện với những gì làm được. Đường về không còn lo chuyện cải thiện nữa. Đủ thịt ăn thoải mái, chỉ mong nó không bị hỏng, còn canh chua thì lá rừng có đầy, chỗ nào chả hái được. Đường về xuống dốc nhẹ nhàng và đi được nhanh hơn nhưng Nhạn cũng quyết định chọn các mốc dừng chân lúc đi để nghỉ lại chứ không cần vội. Nhạn bàn cùng anh em, ngoài những báo cáo của Nhạn với đại đội, anh em có thể kể mọi chuyện với đơn vị trừ chuyện con lợn. Kể ra nếu gần đơn vị thì đã khiêng cả con lợn về, nhưng xa quá có để dành được ít thịt cho trung đội thì chắc nó cũng ươn thiu hết. Thôi thì đành giữ kín chuyện đánh lẻ này vậy. Chuyện cải thiện ca cóng với anh em có nhiều dịp, đâu phải chỉ một lần. Hơn nữa lo nhất là bị ban chỉ huy đại đội phê bình mất cảnh giác thì lại chẳng ra làm sao.
Tiểu đội của Nhạn về đến nơi trú quân dã ngoại luồn sâu của đại đội sau ba ngày xuống núi. Còn sớm mới đến tối nên Nhạn cho anh em đem nộp lại anh nuôi một ngày gạo còn dư rồi tìm gặp Đại đội trưởng Khâu để báo cáo. Gặp ngay được cả Đại đội trưởng Khâu, Đại đội phó Hùng và Trung đội trưởng Quân đang cùng ở hầm ban chỉ huy đại đội. Nhạn rành rọt báo cáo nhiệm vụ chính, chỉ trên bản đồ những khu vực đã đi, đã kiểm tra và lùng sục rồi kết luận không tìm thấy dấu vết một cái đài thông tin nào của địch. Cứ tưởng báo cáo xong sẽ phải nghe đại đội trưởng căn vặn thêm, nào ngờ thủ trưởng Khâu chỉ nhún vai nhìn anh Hùng và anh Quân cười rồi bảo Tháo:
“Thôi được rồi, cậu về hầm nghỉ đi”.
Buổi tối Trung đội trưởng Quân đi giao ban đại đội về, gọi Nhạn ra bảo:
“Các cậu thế là hoàn thành tốt nhiệm vụ rồi. Cho các cậu nghỉ một ngày mai tắm giặt. Đợt luồn sâu này sắp kết thúc rồi, vài hôm nữa là cả đại đội ta sẽ rút về hậu cứ thôi”.
Hai tuần qua ở đại đội có một vài thay đổi. Trong một lần đi tập kích địch, cậu Trân giữ B-40 của tiểu đội Nhạn quá ham, cố bắn đến quả đạn B-40 thứ tư nên bị một viên đạn lạc của địch xuyên bả vai trái trúng cả xương nên đã được đưa về trạm xá trung đoàn. Bây giờ Tháo được giao giữ khẩu B-40 đó. Cả đại đội có sáu khẩu hỏa lực B-40 thì đã được thay thế năm khẩu bằng B-41, chỉ còn mỗi khẩu B-40 của Trân. Tháo hơi buồn vì phải nhận khẩu B-40 này. Giá được B-41 thì tốt hơn, vì B-41 đã cải tiến được nhiều yếu kém của B-40. Đó là bắn xa hơn, tới 375 mét mới hết tầm. Nó lại có thêm loa che lửa phía đuôi súng và cả buồng giảm áp giữa nòng súng nữa nên khi bắn an toàn hơn. Ngay quả đạn B-41 cũng cải tiến, có tính năng tự hủy khi bay hết tầm nếu không trúng mục tiêu. Nhưng ước vậy thôi, giao cho súng gì phải dùng súng nấy vậy.
Hôm hành quân về hậu cứ, lúc qua huội Champi thì đội hình Đại đội 6 gặp anh em Đại đội 7 cũng đang hành quân từ phía khác về. Lính tráng gặp nhau chào hỏi tíu tít, nhất là cánh đồng hương, vì mang tiếng cùng tiểu đoàn mà cũng ít khi gặp nhau. Trong cùng trung đoàn thì còn khó gặp nhau hơn nữa. Cùng đợt tân binh vào trung đoàn mà có người bị thương hay hy sinh, có khi cả năm trời mới hay tin. Lúc đội hình Đại đội 6 đi vượt qua Đại đội 7 đang ngồi nghỉ giải lao, Tháo nghe thấy có tiếng gọi tên mình rất to, đưa mắt nhìn dọc hàng quân thì nhận ra Thắng, người bạn cùng đi mua lợn với mình cùng anh Chớt hơn tháng trước. Tháo chạy lại tay bắt mặt mừng:
“Anh Thắng đấy à. Khỏe không anh?”.
“Tớ khỏe, mà bây giờ cậu giữ súng B-40 à”. - Thắng đáp.
“Vâng, mới được giao một tuần, chưa bắn phát nào”.
“Vậy à, thế thì tớ cho cậu thứ này hay lắm. Lính hỏa lực B-40, B-41 thằng nào cũng thích dùng”.
Đoạn Thắng lấy trong ba lô ra một cái túi to bằng vải dày trông như túi dết của mấy ông cán bộ xã ở quê đưa cho Tháo và bảo:
“Đây là cái túi đựng mìn claymo của địch tớ lấy được. Túi rộng nên đựng được nhiều thứ, có nắp đậy và nút bấm cài hẳn hoi. Cậu cầm lấy mà dùng. Sau này ra trận, cậu bỏ mọi thứ đồ cá nhân vào đây mà đeo, còn ba lô dùng để đeo đạn thôi”.
Tháo cầm cái túi vải, lúng búng nói “cảm ơn anh Thắng nhé” rồi vội chạy cho kịp tiểu đội. Về đến hậu cứ, Tháo khoe với anh Nhạn cái túi vải của Thắng cho. Nhạn nhìn qua rồi cười bảo:
“Hay lắm, cậu kiếm ở đâu ra đấy?”.
“Anh Thắng bên Đại đội 7, cùng nhau đi mua lợn dạo trước cho”.
Rồi Tháo hỏi A trưởng Nhạn, sao lại gọi đây là túi mìn claymo. Nhạn cầm cái túi trên tay Tháo rồi giải thích:
“Bọn Mỹ nó có thứ mìn định hướng kích nổ bằng kíp điện gọi là mìn claymo. Điểm hỏa mìn bằng hộp công tắc bấm điện dùng manheto. Quả mìn chỉ nhỏ như quyển sách uốn cong, dày chừng bốn phân. Mặt lồi có 722 viên bi chì to như viên bi xe đạp dàn đều. Mìn này dùng loại thuốc nổ dẻo C4 cực mạnh. Khi mìn nổ, các viên bi bắn ra thành hình rẻ quạt xa năm chục mét và độ rộng cũng chừng đó, rải đều từ mặt đất tới độ cao ngang đầu người. Loại mìn này chuyên dùng để phục kích đánh bộ binh. Những ai nằm trong vùng cung rẻ quạt của những viên bi đó đều không thoát. Bọn địch khi đi dã ngoại thường mang theo mỗi đứa một túi mìn này, đựng hai quả. Mìn này lợi hại lắm, lính mình rất thích lấy để dùng khi đánh phục kích lại địch”.
Vừa nói Nhạn vừa lấy cái que vạch vẽ hình quả mìn claymo trên mặt đất cho Tháo hình dung rõ hơn, lại bật cái nắp cái túi vải xem thêm rồi nói:
“Loại túi đựng mìn claymo này thì từ quan đến lính ta ai cũng thích dùng vì nó rất tiện, nhưng không phải ai cũng lấy được. Cậu Thắng đó cho cậu cái túi này là quý cậu lắm đấy. Mà cái túi này còn nguyên đường chỉ may thành hai ngăn thế này là túi mới, chứng tỏ cậu Thắng cũng vừa lấy được của địch. Cậu phải gỡ bỏ đường chỉ này đi thì mới thành cái túi dết đựng đồ cá nhân được”.
Tháo nghe Nhạn nói mà thấy vui, thầm cảm ơn thêm cái tình đồng đội quý mến của Thắng với mình. Mấy hôm sau đến chỗ tổ y tá xin thuốc tím bôi vết xước ở chân, Tháo tình cờ nhìn thấy một quả mìn claymo. Đúng hơn chỉ là cái vỏ quả mìn vất ở đầu lán mới hỏi y tá Lộc. Anh Lộc bảo quả mìn này bọn lính Trung đội 6 cho, anh tháo ra lấy thuốc nổ C4, được bốn lạng. Anh cho Tháo xem nắm thuốc nổ, nó trắng phau, có gợn gợn một chút chứ không thật mịn. Các anh y tá thường xin mìn claymo tháo lấy thuốc nổ C4 dùng để đun khử trùng xi lanh và kim tiêm thay cồn, lửa cháy xanh không có muội khói. Tháo hỏi anh Lộc:
“Anh vo thành nắm cất cóc ba lô mà không sợ nó nổ à”.
“Nổ thế nào được, phải có kíp hoặc dùng búa kê đá đập thật mạnh lắm mới có thể nổ được, nhưng chả ai dám thử làm gì. Chưa có ai cất trong ba lô mà bị nổ cả. Chỉ có gặp lửa là nó cháy không dập được thôi. Mà thuốc nổ C4 còn ăn cứu đói một bữa được đấy nhé”.
Thấy Tháo tròn xoe mắt ngạc nhiên không tin, anh Lộc véo một tí thuốc nổ C4 to như hạt ngô cho vào mồm nhai nuốt rồi bảo:
“Nó chả có chất bổ gì đâu, chỉ đánh lừa cảm giác đói trong một thời gian ngắn thôi. Mày nếm thử tí mà xem”.
Tháo cầm cục C4 từ tay anh Lộc đưa lên miệng liếm liếm thấy hơi ngòn ngọt, nhưng không dám ăn thử, lại đưa trả. Nhớ tới điều Tiểu đội trưởng Nhạn nói thứ mìn claymo này dùng đánh phục kích rất lợi hại, Tháo hỏi anh Lộc:
“Sao quả mìn claymo đánh địch rất tốt mà anh lại đem phá ra lấy thuốc để đun, lãng phí thế?”.
Thấy Tháo thắc mắc nhiều thứ quá, y tá Lộc cười khùng khục:
“Quý thì quý thật nhưng có mấy khi đi phục kích mà cất giữ để dành. Với lại nó điểm hỏa bằng điện mà lính ta có mấy ai lấy được công tắc điện đâu. Lại còn dây điện nữa chứ. Đây là chiến lợi phẩm có nghĩa là mình phải tự bảo quản và mang vác. Không mấy khi được dùng mà lính ta lười mang vác nên thường đem cho bọn tớ phá ra lấy thuốc. Cậu để ý xem, cánh y tá bọn tớ có ai dùng cồn để đun đâu. Toàn dùng thuốc C4 thôi. Mà các bố anh nuôi cũng rất thích trữ loại này để nhóm lửa nấu cơm lúc hành quân trời mưa”.
Những điều anh Lộc y tá nói, lúc đầu Tháo chỉ nghe để hiểu vậy thôi. Sau này đến lúc chính Tháo cũng lấy được mìn claymo nhưng là gỡ trên trận địa cũ của địch. Tháo quấn cả dây điện gói lại, định bụng khi nào đi đánh phục kích sẽ đề nghị xin pin cũ của thông tin tiểu đoàn để thay công tắc điện. Nhưng cứ mang theo mãi khi phải hành quân liên tục, chả có lúc dùng nên thấy lích kích do tự mình ôm vào thân. Nhiều lúc hành quân mệt quá, “con ruồi đậu nặng đồng cân”, nhiều thứ không cần thiết phải vất bỏ thì thấy quả mìn claymo thành gánh nặng. Vậy là lấy dao găm phá ra lấy bốn lạng thuốc C4 cất ba lô, rồi cuối cùng lại đem cho y tá vì cũng chả dùng đến.