R
on Pulaski đã nhận công việc khám nghiệm Nhà tang lễ Berkowitz để tìm bằng chứng và nhân chứng, bất kì một manh mối nào có thể dẫn tới Thợ đồng hồ.
Dường như cậu ta rất để tâm đến thất bại trong nhiệm vụ ngầm của mình, mặc dù lỗi không phải ở cậu ta; Thợ đồng hồ đã nhận ra cậu ta ngay lập tức. Hắn đã coi anh cảnh sát trẻ là một phần trong dự án của hắn ở New York vài năm trước.
Hơn thế nữa, Rhyme biết, kể cả nếu vụ việc được dàn xếp đúng đắn hơn thì cậu nhóc vẫn là một diễn viên khá tệ. Những kịch sĩ đại tài không diễn vai của họ; họ biến thành nhân vật.
Gielgud…
Vì vậy cảnh sát trẻ đã thu thập dấu vết trong tài liệu của nhà tang lễ mà Richard Logan – hay tên thật của hắn là gì đi nữa – đã kí vào và ở nơi hắn nhận chiếc hộp chứa tro của một người đàn ông vô gia cư không tên tuổi nào đó từ nhà xác thành phố. Cậu ta đã thẩm vấn tất cả những người đã ở nhà tang lễ khi Thợ đồng hồ đến, bao gồm cả thân quyến của ai đó tên Benjamin Ardell, còn được biết đến với tên Jonny Rodd, dù đó là ai đi nữa. Nhưng cậu ta không tìm được manh mối nào.
Kể cả tìm hiểu từ các đặc vụ của Cục điều tra New York cũng không có manh mối nào. Bọn họ cũng bị Thợ đồng hồ lừa. Các đặc vụ đã không tiếp xúc với “Dave Weller ” nhiều lắm, trừ các cuộc điện thoại. Và tất nhiên chiếc di động hắn dùng để liên lạc với họ, tố cáo Pulaski đã bị bỏ đi từ lâu. Pin thì nằm trong thùng rác này, thân máy bị bẻ đôi thì ở thùng khác.
Sachs đang xử lí một phần khác trong vụ án, lần theo những tay trong đã giúp Logan vượt ngục, các nhân viên y tế, nhân viên nhà xác thành phố New York và những cai ngục. Với Rhyme thì có vẻ như họ đã chấp nhận một cuộc mạo hiểm cực lớn. Nếu người ta phát hiện ra Thợ đồng hồ còn sống thì số người trong vòng khả nghi sẽ khá ít; chắc chắn họ sẽ bị phát hiện. Nhưng Rhyme đoán Thợ đồng hồ không chịu trách nhiệm gì nếu bọn họ không che giấu những khoản hối lộ mà hắn đã trả cho họ hay không kiếm nổi chứng cứ ngoại phạm đáng tin cậy sau khi họ đã làm giả các báo cáo y tế và giấy chứng tử.
Bạn phải thật thông minh mới kiếm nổi vài triệu dollar tiền bất hợp pháp.
Một hai kẻ đã bỏ chạy khỏi thành phố nhưng sớm hay muộn bọn họ cũng bị lần ra. Không phải là ý hay khi dùng thẻ tín dụng thật của bạn trên đường trốn chạy. Chọn lọc tự nhiên cũng áp dụng trong các hoạt động phạm tội, chẳng khác nào với sa giông và khỉ.
Rhyme cũng đang đảm nhận một phần của cuộc điều tra, mặc dù kì lạ là không phải phần liên quan đến vật chứng. Nhà tội phạm học đã lên vài kế hoạch tỉ mỉ của riêng mình.
Có thể chúng chẳng mang lại điều gì nhưng anh không dám bỏ qua bất kì cơ hội nào.
Lúc này anh nhìn ra ngoài cửa sổ, quan sát thời tiết - lại nhiều mây, trắng và xám – và anh tự hỏi, anh ta đang ở đâu? Và anh ta định làm gì? Tại sao lại đột nhập vào Met? Và anh ta cần mình còn sống cho phần nào trong âm mưu đó?
Thom xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Tôi đã nói chuyện với Rachel. Sẽ đi trong một tiếng nữa.”
“Được thôi,” Rhyme trả lời.
Hành trình cậu ta nhắc tới là sẽ đưa họ đến trung tâm y tế. Lon Sellitto đã tỉnh. Thậm chí trong tình trạng yếu ớt của mình, viên thanh tra vẫn sống y như bản chất. Rachel kể lại rằng phản ứng của anh khi mới hồi tỉnh là nhìn xuống bụng và vừa lẩm bẩm vừa cười, “Chết tiệt, chắc mình phải gầy đi đến mười lăm cân.”
Chỉ sau đó anh mới hỏi về vụ Nghi can 11-5.
Nhưng vẫn còn rất nhiều nghi ngại về sự hồi phục của anh. Anh đã, và sẽ còn tiếp tục, phải điều trị bằng liệu pháp phức chất1, những chất sẽ khoá và loại bỏ độc chất. Việc hồi phục sẽ dễ dàng hơn ở các bệnh nhân bị nhiễm trong thời gian dài, chẳng hạn như những công nhân (hoặc những nạn nhân của những người bạn đời kiên nhẫn), nhưng khó khăn hơn với các vụ tấn công cấp tính, như trong trường hợp của Sellitto. Ban hội chẩn vẫn còn chưa quyết định được sự hồi phục về lâu dài của Sellitto. Tổn thương thần kinh, gan và các vấn đề về thận vẫn còn khả năng xảy ra.
1 Biện pháp loại bỏ độc dược và các kim loại nặng ra khỏi cơ thể bằng cách tiêm vào tĩnh mạch một chất chống ô xy hoá mạnh. Khi đi vào máu chất này sẽ liên kết với kim loại nặng và vận chuyển chúng ra khỏi cơ thể theo đường nước tiểu.
Thậm chí có thể là tê liệt vĩnh viễn. Thời gian sẽ trả lời.
Amelia Sachs bước vào phòng khách. “Lon?” cô hỏi.
“Sẽ đi trong vòng một giờ nữa.”
“Chúng ta có nên mua hoa không?” cô hỏi.
Rhyme lẩm bẩm, “Trong tuần này tôi đã đặt hoa một lần rồi. Tôi không làm lần nữa đâu.”
Đúng lúc ấy điện thoại trong phòng thí nghiệm đổ chuông. Sachs đứng ở chỗ thấy được số gọi đến đã nói nhanh, “Rhyme. Em nghĩ nó xuống rồi.”
Anh đẩy xe lại gần.
“À.”
Rồi bấm nút nhận cuộc gọi.
“Vâng?”
“Anh Rhyme, Jason đây? Jason Heatherly?” Những lời giới thiệu không cần thiết tuôn ra rất nhanh, giọng nói bối rối. “Tôi là…”
“Tôi nhớ anh, anh Heatherly.”
Làm sao Rhyme có thể không nhớ? Họ đã nói chuyện biết bao lâu chỉ mới một tuần trước đó.
“À, là thế này… tôi không biết phải giải thích sao – nhưng việc anh nói là có thể xảy ra đã xảy ra.”
Rhyme và Sachs cùng cười.
“Nó biến mất rồi. Không thể nào nhưng nó vẫn mất. Các chuông báo động đã được cài đặt khi tôi rời đi đêm qua. Chúng vẫn còn mở khi tôi tới đây sáng hôm nay. Không có gì bị đụng vào. Không một thứ gì bị xô lệch hết. Không. Một. Thứ. Gì. Nhưng nó mất rồi.”
“Thật sao.”
“Nó” mà nhà buôn trang sức đang bối rối vừa nhắc tới là một chiếc đồng hồ. Chiếc Mikhail Semyonovitch Bronnikov được làm hoàn toàn bằng xương ấy.
Trái với điều anh đã kể với Thợ đồng hồ, Rhyme không tin hắn có bất kì mối liên hệ nào với Kẻ tầm xương cả. Anh chỉ kể cho Thợ đồng hồ điều ấy để nhử mồi.
Và còn cách nào tốt để dụ một người đàn ông, mà thế mạnh – và cũng là yếu điểm của hắn – là thời gian và các dụng cụ chỉ thời gian, hơn một chiếc đồng hồ hiếm?
Rhyme đã phát hiện ra một chiếc Bronnikov, một trong vài chiếc còn tồn tại, đang ở London mặc dù không phải để bán. Nhưng anh đã thuyết phục người chủ đổi ý (thực ra là thuyết phục cộng với hai mươi ngàn dollar ) và tiêu thêm mười ngàn nữa để đưa chiếc đồng hồ về New York. Ron Pulaski chính là người vận chuyển.
Rhyme đã gọi cho Fred Dellray và biết rằng có một nhà buôn nghệ thuật đang chịu điều tra vì trốn thuế, Jasson Heatherly. Dellray nhờ công tố viên Hoa Kì giảm bớt vài cáo buộc nếu Heatherly chịu hợp tác; phía cục điều tra cũng muốn Thợ đồng hồ quay lại phòng giam chẳng khác nào Rhyme và NYPD.
Heatherly đồng ý và chiếc đồng hồ đã được giao tới cho anh ta và đưa vào trưng bày trong một chiếc hộp ở cửa hàng đồ cổ/phòng trưng bày nghệ thuật trên Phía Thượng Đông.
Trong cuộc nói chuyện với Thợ đồng hồ một tuần trước, Rhyme đã khơi ra Kẻ tầm xương rồi vô tình lái sang chiếc đồng hồ Bronnikov, nhắc tới câu chuyện nó đang ở một phòng trưng bày ở Manhattan. Anh đã cố tỏ ra thản nhiên và hi vọng màn trình diễn của mình mượt mà hơn của Ron Pulaski.
Rõ ràng là thế.
Vài ngày sau cuộc nói chuyện ấy, Heatherly đã báo cáo có một người đàn ông gọi tới, hỏi thăm phòng trưng bày có chiếc đồng hồ nào rao bán không – mặc dù không hề hỏi cụ thể về chiếc Bronnikov. Heatherly đã kể cho anh ta những món trong kho, không quên nhắc tới chiếc đồng hồ xương, và người đàn ông đã cảm ơn rồi cúp máy. Số gọi đến là Không tên.
Rhyme và một đội chuyên trách đã tranh cãi về cách xử lí việc này. Cục điều tra muốn cử một đội giám sát và hạ gục tới gần phòng trưng bày, sẵn sàng tiến vào ngay khi kẻ nào đó đến mua hoặc ăn cắp chiếc đồng hồ. Rhyme đã nói không. Thợ đồng hồ sẽ phát hiện ra họ ngay lập tức. Họ phải tiếp cận một cách khác, tinh tế hơn.
Vì vậy các chuyên gia theo dõi của FBI và NYPD đã cho lắp một thiết bị định vị siêu nhỏ vào lớp dây kim loại của đồng hồ. Thiết bị này sẽ vẫn ẩn mình, không bị bất kì một cảm biến sóng radio nào phát hiện trong phần lớn thời gian. Cứ cách hai ngày, nó sẽ nhá vị trí của mình tới ICGSN – chỉ trong vòng một phần ngàn giây. Mạng lưới Vệ tinh Định vị Hợp nhất Quốc tế bao phủ gần như mọi ngóc ngách có người sinh sống trên Trái Đất này. Sau đó nó quay lại chế độ ngủ.
Thông tin vị trí ấy sẽ được gửi trực tiếp tới máy chủ của đội chuyên trách. Nếu Thợ đồng hồ di chuyển, họ có thể khoanh vùng hẹp tới từng quốc gia và lãnh thổ mà hắn đang đi qua rồi thông báo cho các nhà chức trách ở biên giới. Hoặc, nếu họ gặp may, họ có thể tìm ra hắn trong lúc dừng chân nghỉ, đang thưởng thức một li rượu mát lạnh trên bãi biển và ngưỡng mộ chiếc đồng hồ xương ăn cắp được.
Hay có lẽ hắn sẽ lập tức tháo rời chiếc đồng hồ khỏi phần vỏ đáng nghi của nó, rồi gửi vỏ ấy tới Sri Lanka và tiếp tục với những kế hoạch trộm cắp hay giết người nào đó mà hắn đang làm.
Để cho hiểu biết của tôi về vụ đó trở thành động cơ hay lò xo hay bánh đà cho chiếc đồng hồ của kế hoạch mà anh đã lập ra…
Chủ phòng trưng bày vẫn còn sôi nổi về vụ đột nhập. Anh ta nói hụt cả hơi, “Không thể nào. Cả chuông báo động. Cả khóa cửa. Rồi máy quay an ninh.”
Rhyme đã khăng khăng là họ không được nới lỏng an ninh để khiến Thợ đồng hồ dễ dàng đánh cắp con mồi hơn; hắn sẽ nghi ngờ ngay lập tức và lặn mất.
Heatherly nói tiếp, “Không đời nào ai đó có thể vào bên trong được.”
Nhưng đâu phải họ đang đối đầu với bất kì ai, Rhyme nghĩ, và không bình luận thêm lời nào khi chào tạm biệt với ông chủ phòng trưng bày và kết thúc cuộc gọi.
Bây giờ, chúng ta chờ.
Một ngày, một tháng, một năm…
Anh đẩy xe ra xa khỏi các bàn giám định, liếc nhìn một chiếc đồng hồ khác – chiếc Breguet mà Thợ đồng hồ đã cho anh vài năm trước.
Rhyme quay sang nói với Sachs, “Gọi Pulaski đi. Tôi muốn cậu ta kẻ ô vuông phòng trưng bày.”
Cô nói chuyện với chàng cảnh sát và cử cậu ta tới làm hiện trường ở chỗ Heatherly. Rhyme không kì vọng nhiều về việc thu được bất kì bằng chứng nào của tên trộm. Tuy nhiên, vẫn cần phải làm đủ thủ tục.
“Thom,” Rhyme nói, “trước khi chúng ta đi thăm Lon, tôi sẽ uống một li để đi đường – nhiều gấp đôi, nếu cậu vui lòng.”
Anh chờ đợi sự phản đối. Nhưng, vì lí do gì đó mà trợ tá không hề phản bác việc tiêu thụ một li whisky đơn cất ngon lành, lâu năm – và hoàn toàn không có độc ấy. Có lẽ cậu ta thấy cảm thông với việc mặc dù nhà tội phạm học đã ngăn chặn được vụ tấn công khủng bố, Thợ đồng hồ vẫn trốn thoát. Và có lẽ Rhyme đã để tuột mất ba mươi ngàn dollar trong quá trình đó.
Một li rượu xuất hiện trong khay đựng cốc.
Rhyme nhấm nháp món rượu đượm mùi khói ấy. Ngon, ngon lắm.
Anh gửi và trả lời vài email từ nghệ sĩ xăm mình TT Gordon, người mà Rhyme đã bắt đầu thấy thích. Cậu ta sẽ tới chơi với anh bạn ngồi xe lăn vào tuần tới. Họ sẽ nói chuyện về ngữ pháp và văn hóa dân tộc Samoan và cuộc sống trong nhóm dân chơi New York. Và ai mà biết được còn đề tài hay chủ thể nào khác xuất hiện nữa?
Có khi là đỉnh Everest và chim ưng chăng.
Anh nghiêng đầu. Có tiếng lạo xạo của bàn chân nghiến lên băng bên ngoài. Rồi một tiếng cạch, khóa cửa trước, thêm nhiều tiếng bước chân nữa.
Rhyme uống thêm một ngụm. Âm thanh ấy kể một câu chuyện. Tuy nhiên, Sachs không diễn giải bằng chứng âm thanh và vẫn còn thận trọng… cho đến khi Pam Willoughby rẽ ở góc quanh và dừng trên ngưỡng cửa có mái vòm.
“Chào.” Cô gái gật đầu với tất cả mọi người trong lúc tháo chiếc khăn quàng cổ ấn tượng trên cổ. Ngày hôm nay không có gió lẫn mưa tuyết nhưng chắc rất lạnh. Chiếc mũi xinh xắn của cô ửng hồng còn hai vai thì khom lại.
Vai của Amelia Sachs chùng xuống, nhưng cô vẫn ráng nở nụ cười. Cô đã nhớ lại việc Pam sẽ mượn xe ô tô của bố nuôi để tới thu dọn những món đồ cuối cùng của cô trong phòng ngủ trên gác.
Im lặng một lát. Sachs có vẻ đã hít một hơi thở sâu. “Mọi chuyện thế nào?”
“Ổn ạ. Tốt. Vở kịch chính thức khai mạc tuần tới. Bận lắm ạ. Quần áo thời Victoria ấy. Chúng nặng cả tấn. Mấy cái váy.”
Những câu chuyện vụn vặt. Vô thưởng vô phạt.
Im lặng. Sachs nói, “Để chị giúp em lấy đồ.” Hất cằm về phía cầu thang.
Pam liếc quanh phòng khách, tránh những ánh mắt. “À, thực ra, ý em là, anh chị có phiền nếu em dọn về không ạ? Chỉ một thời gian thôi, đến khi em tìm được chỗ nào mới? Em không thực sự muốn quay lại căn hộ ở Heights lắm. Chỉ là, chị biết đấy, mọi chuyện đã xảy ra ở đó. Và, bố mẹ Olivettis – họ rất tuyệt vời. Chỉ là.” Cô nhìn xuống sàn nhà. Rồi nhìn lên. “Như thế có được không ạ?”
Sachs bước đến và ôm cô thật chặt. “Đó là câu em không bao giờ phải hỏi.”
Thom nói, “Em có gì bên ngoài cần mang vào không?”
“ Ở trong xe ạ. Có, em chắc chắn là cần chút giúp đỡ rồi.”
Thom mặc đồ, choàng khăn và đội chiếc mũ Cossack bằng lông thú giả của mình lên. Anh ta đi theo Pam ra ngoài xe.
Sachs choàng áo khoác và đi găng tay rồi theo sau họ. Cô ra được đến ngưỡng cửa ngăn cách phòng khách với tiền sảnh. Cô quay sang Rhyme. “Chờ đã.”
“Sao?” anh hỏi.
Cô bước đến gần hơn, nghiêng đầu như thể đang nhìn xuống kẻ hiếp dâm tập thể mà cô vừa mới bắt được. Bằng giọng mềm mại: “Thom vừa thay khóa tuần trước. Sau khi Billy đột nhập.”
Rhyme nhún vai. Một ngụm rượu nữa. “Ừm.”
“ Sao?”
“Sao gì cơ?” anh lẩm bẩm.
“Lúc nãy Pam đã không gõ cửa. Con bé tự mở cửa vào. Điều đó có nghĩa là nó có chìa khóa mới.”
“Chìa khóa mới?”
“Tại sao anh cứ lặp lại những câu em nói thế? Làm thế nào Pam có chìa khóa mới? Con bé đã không ở đây hơn một tuần rồi.”
“Hừm. Anh không biết. Đó là một điều bí ẩn.”
Cô bắn cho anh cái nhìn bẽn lẽn. “Rhyme, nếu em xem qua danh bạ của anh liệu em có tìm thấy bất kì cuộc gọi đi nào cho Pam gần đây không đấy?”
“Từ khi nào mà anh có thể có thời gian rảnh để chuyện trò tán gẫu với ai đó nhỉ? Dù sao, anh cũng chẳng phải kiểu người hay chuyện trò. Em thấy anh có giống kiểu đó không?”
“Anh đang lảng tránh câu hỏi.”
“Nếu em xem lịch sử cuộc gọi thì không có đâu, em sẽ không tìm thấy bất kì cuộc gọi nào tới Pam đâu. Dù là gần đây hay không gần đây.”
Đó là sự thật; anh đã xóa chúng đi.
Tất nhiên, anh quên mất rằng Sachs có thể phát hiện ra âm mưu thông đồng sau khi anh gửi chìa khóa mới cho Pam vài ngày trước, sau cuộc… “chuyện trò” của họ.
Sachs cười lớn, cúi xuống và hôn anh thật sâu, rồi cô ra ngoài cửa để giúp chuyển đồ.
Để lại Rhyme làm việc mà anh đã mong ngóng được làm trong vài giờ qua. Anh đẩy xe quay lại bàn giám định.
Trên một cái khay đã tiệt trùng là một mẩu nhỏ của thứ hạt hay nhựa hay đất sét màu ngà, nó là thứ đã bị kẹt lại trong dây đồng hồ đeo tay của một nhân viên ngân hàng bị giết đêm qua trên Phía Thượng Đông. Bản thân vụ án mạng không đáng kể - ở đây Rhyme hoàn toàn tuân thủ Tầm nhìn số một về cái chết – nhưng thứ khiến anh thấy bất thường là cái xác được tìm thấy gần một công trường xây dựng nằm giữa Madision và Đại lộ Park: Bức tường phía tây của nơi ấy chỉ cách một đường hầm dưới lòng đất có ba mét, và đường hầm này sau một vài chỗ rẽ ngoặt như mê cung, lại dẫn đến kho dưới lòng đất của Viện bảo tàng nghệ thuật Metropolitan.
Hiện trường cho thấy đã có một cuộc vật lộn dữ dội. Có vẻ như nguồn gốc của bằng chứng màu be trong dây đồng hồ này là từ kẻ sát nhân và nó có thể kể nhiều điều về người đàn ông hoặc đàn bà đã lấy mạng nạn nhân.
Nhưng cho đến khi xác định được vật liệu và nguồn gốc của nó, kết luận giả định ấy vẫn chỉ là giả định mà thôi. Nó cần phải được chứng minh là đúng và ghi chép trên bảng trắng, hoặc chứng minh là sai và bị gạt bỏ như những chiếc lá mùa thu lúc này gần như đã bị lột hết khỏi những thân cây bên ngoài cửa sổ nhà anh. Rhyme đang chuẩn bị một mẫu cho máy quang phổ khí và lăn bánh tới chỗ chiếc máy đang khẽ rung để xem kết quả là gì.