• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Khi thiên thần sợ hãi
  3. Trang 7

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 70
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 6
  • 7
  • 8
  • More pages
  • 70
  • Sau

Chương 3

Mặc dù lúc này đã gần trưa, ánh sáng chiếu qua những khung cửa sổ kính màu trong khu tụng niệm nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields vẫn còn yếu ớt và khuếch tán.

Ngài Henry Lovejoy, Chánh thẩm Westminster tại Queen Square, nhìn lướt qua những bức tường lấm máu trong điện thờ cùng hàng vũng máu đông tụ đặc quánh nổi bật đầy tàn nhẫn trên những bậc đá cẩm thạch trắng. Ông có một giả thuyết rằng tỷ lệ tội phạm bạo lực và tình dục cao hơn hẳn vào những ngày sương mù bóp nghẹt London.

Nhưng đã từ rất lâu rồi London mới được chứng kiến một tội ác thế này.

Bên vách điện thờ Đức mẹ Đồng Trinh, một dáng hình nhỏ bé đến thê thảm nằm yên bên dưới tấm vải đen và khô cứng bởi máu đông. Lovejoy phải buộc mình bước qua đó. Cúi người xuống, ông lật rìa mảnh vải lên, và thở dài.

Cô gái này từng xinh đẹp. Và trẻ trung. Tất nhiên, mọi cái chết yểu đều là bi kịch. Nhưng không người đàn ông nào từng yêu một người phụ nữ, hoặc từng tự hào và lo sợ dõi theo những bước chân đầu tiên của một đứa trẻ, lại có thể nhìn vào vẻ đẹp thanh xuân này mà không cảm thấy nặng trĩu buồn đau cùng phẫn nộ.

Bất chấp đầu gối kẽo kẹt như than phiền, Lovejoy ngồi xổm xuống, ánh mắt ông vẫn dán chặt vào gương mặt đầy máu nhợt nhạt. "Biết cô ấy là ai không?"

Câu hỏi được dành cho người duy nhất còn lại trong điện thờ, một người đàn ông ngoài ba mươi tuổi cao lớn, vạm vỡ với mái tóc vàng hoe bù xù hợp mốt và chiếc cà vạt được thắt kiểu cách. Là cảnh sát cao cấp của Queen Square, Edward Maitland là viên chức đầu tiên được gọi đến hiện trường và cũng là người thụ lý vụ án cho đến lúc này. "Một nữ diễn viên," anh nói, đứng chắp hai tay sau lưng, người đung đưa qua lại như thể đang kiềm chế sự thiếu kiên nhẫn với tác phong tỉ mỉ, chậm chạp của Ngài Henry. "Một cô Rachel York nào đó."

"À. Bảo sao tôi thấy cô ấy trông quen quen." Nuốt khan, Lovejoy kéo mảnh vải che phần còn lại của thi thể cô gái xuống và buộc mình nhìn xuống.

Cổ họng của cô bị rạch nhiều vết dài một cách man rợ. Điều đó giải thích các vệt máu trên tường, ông nghĩ. Quá nhiều máu, ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên, cái chết của Rachel York không nhanh chóng cũng chẳng dễ dàng. Tay cô vẫn nắm chặt như thể đang cam chịu, với những vết bầm tím sẫm và xấu xí nổi bật trên làn da trần nhợt nhạt của cổ tay và cánh tay. Gò má trái bị đánh vỡ. Chiếc váy satin màu ngọc lục bảo rách bươm và áo choàng viền lông bằng nhung tả tơi đã tự nói lên mọi sự.

"Tôi cho là hắn cưỡng bức cô ta phải không?" Lovejoy nói. Maitland đứng thẳng, chuyển trọng lượng cơ thể xuống gót giày đắt tiền, ánh mắt anh không nhìn cô gái mà nhìn chằm chằm vào lớp kính xanh đỏ trên cao của cửa sổ phía đông. "Vâng thưa ngài. Không nghi ngờ gì về điều đó."

Chắc chắn không nghi ngờ gì, Lovejoy nghĩ. Mùi tinh dịch không thể thoát ra vẫn còn lơ lửng trong không khí, hòa lẫn với mùi kim loại nặng của máu và mùi sùng đạo ngọt ngào của hương trầm và sáp ong. Ông lướt ánh mắt qua chân tay được sắp xếp cẩn thận của cô gái và cau mày. "Khi anh phát hiện ra cô ta, cô ta đã nằm thế này?"

"Không, thưa ngài. Cô ta ở kia, trước bàn thờ. Để cô ta nằm lại đó không phù hợp lắm. Dù sao đây cũng là một nhà thờ."

Lovejoy đứng thẳng dậy, ánh mắt ông trôi xuống những bậc đá cẩm thạch vấy máu. Tất cả nến trên bàn thờ đã cháy tàn.

Ông nghĩ, cô ấy hẳn đã thắp sáng tất cả nến trước khi qua đời. Tại sao? Vì kính cẩn? Hay vì cô sợ bóng tối?

Ông nói thành lời, "Theo anh, cô ta đã làm gì ở đây?"

Lông mày Maitland giật giật, phản bội lại dáng vẻ bất động. Anh ta rõ ràng chưa nghĩ đến điều này. "Tôi không chắc, thưa ngài. Người coi nhà thờ phát hiện ra cô ta khi mở cửa nhà thờ sáng nay." Anh lấy một cuốn sổ từ túi áo choàng ngoài và mở nó ra với vẻ phô trương đôi lúc khiến Lovejoy khó chịu. "Ông Jem Cummings. Cả ông ta lẫn Mục sư" - các trang giấy lạo xạo - "Mục sư James McDermott nói rằng họ chưa từng gặp cô ta."

"Họ khóa nhà thờ mỗi đêm đúng không?"

"Vâng, thưa ngài." Maitland lại kiểm tra cuốn sổ. "Vào đúng tám giờ tối."

Cúi xuống, Lovejoy cẩn thận che tấm vải trên thi thể của Rachel York, hơi dừng lại một chút để ngắm nhìn khuôn mặt xinh đẹp, tái nhợt đó lần nữa. Cô gái ấy có một vẻ đẹp kiểu Pháp với những lọn tóc xoăn vàng hoe, đôi mắt nâu cách xa nhau và bờ môi trên ngắn, đặc trưng của vùng Normandy8. Ông vừa thấy cô vào tuần trước cùng Kat Boleyn trong vở kịch As You Like It9 tại Nhà hát Covent Garden. Ông đã xem cô diễn và ngưỡng mộ cô, không chỉ bởi nhan sắc mà còn bởi tài năng. Ông nhớ rõ hình ảnh cô trên sân khấu, tay giơ cao, bàn tay siết chặt tay bạn diễn khi họ cúi chào khán giả lần cuối, đôi mắt cô rực rỡ và toả sáng, nụ cười của cô rộng mở, hân hoan vui sướng.

8 Normandy là địa danh chỉ cả một vùng duyên hải thuộc Tây Bắc nước Pháp, được đặt theo tên của những người Viking từ phía Bắc đi theo đường biển đến đây vào thế kỷ thứ IX.

9 As You Like It là một vở hài kịch của William Shakespeare được viết vào năm 1599.

Ông đắp tấm vải che thân hình bất động, lấm máu đó rồi quay đi, ánh mắt nheo lại khi xem xét cách bố trí của nhà thờ cũ, với gian giữa có lối đi và cung thờ bên lớn, ca đoàn và khu tụng niệm rộng rãi. "Ông Cummings này... ông ta có nói mình trở lại điện thờ Đức Mẹ trước khi khóa cửa đêm qua?"

Maitland lắc đầu. "Người coi nhà thờ nói ông ta liếc qua chỗ này từ sau điện thờ và đã hô to một tiếng, cảnh báo rằng ông chuẩn bị khóa cửa. Nhưng ông ta không bước vào điện thờ, thưa ngài. Và ông ta cũng sẽ không nhìn thấy cô ấy từ sau điện thờ. Tôi đã tự mình kiểm tra."

Lovejoy gật đầu. Trong cái lạnh ẩm ướt của nhà thờ, vài vũng máu vẫn chưa khô. Bóng và đặc quánh, chúng sáng lên mơ hồ dưới ánh đèn, ông cẩn thận tránh dẫm vào chúng khi chậm rãi đi lại quanh điện thờ. Trong sáu giờ qua, có nhiều dấu chân lớn bất cẩn dẫm đạp ra vào điện thờ đến nỗi không thể tái tạo lại chính xác mặt sàn trước khi người coi nhà thờ xuất hiện. Nhưng như vậy có vẻ thiếu tôn trọng và xâm phạm đến cô gái đáng thương đang nằm dựa vào tường này nếu như vô ý dẫm lên máu của cô. Vì vậy Lovejoy cố gắng tránh chúng.

Ông dừng lại trước bậc đá cẩm thạch trắng của bàn thờ nhỏ. Máu tụ dày nhất ở đây, nơi tìm thấy cô. Một chiếc đèn lồng nằm bên cạnh, kính vỡ tan tành. Ông quay lại liếc nhìn viên cảnh sát. "Có biết ai là người cuối cùng sử dụng điện thờ Đức Mẹ không?"

Maitland lại lật cuốn sổ của mình. Tất cả chỉ để phô diễn, Lovejoy biết vậy. Edward Maitland có thể đọc toàn bộ nội dung của cuốn sổ từ bộ nhớ. Nhưng anh ta nghĩ những tuyên bố của mình sẽ có thêm sức nặng khi người ta thấy mình tra cứu các sự kiện hay số liệu. "Chúng tôi vẫn đang kiểm tra," anh ta lại nói với sự chậm chạp để tạo hiệu ứng, "nhưng có thể đó là bà William Nackery. Bà ấy là vợ góa của một nhà buôn vải. Đến điện thờ Đức Mẹ mỗi chiều vào khoảng bốn rưỡi và cầu nguyện chừng hai mươi đến ba mươi phút. Bà ta nói rằng nhà thờ không có ai khi mình ra về vào lúc trước năm giờ."

Lovejoy nhìn lên những bức tường vấy máu, môi mím chặt thành một nụ cười không hề hài hước. "Có thể giả định một cách tương đối chắc chắn rằng cô ta đã bị giết ở đây."

Maitland hắng giọng vẻ thận trọng. Anh ta luôn trở nên khó chịu khi Lovejoy bắt đầu nêu ra những điều hiển nhiên. "Tôi nghĩ vậy, thưa ngài."

"Điều này loại bỏ khả năng vụ giết người của chúng ta xảy ra trong khoảng từ năm giờ đến tám giờ đêm qua."

"Chúng tôi cũng nghĩ vậy, thưa ngài." Viên cảnh sát lại hắng giọng. "Chúng tôi tìm thấy túi xách tay cách cô ta khoảng sáu mươi mốt xen-ti-mét. Nó bị mở, nên hầu hết đồ đạc trong đó đã văng ra. Nhưng túi tiền của cô ta vẫn còn đó, không bị động đến. Và cô ta đang đeo đôi bông tai và một sợi dây chuyền bằng vàng ròng."

"Nói cách khác, không cướp của." "Không, thưa ngài."

"Nhưng anh nói rằng túi xách đã bị mở? Tôi tự hỏi liệu nó bung ra khi rơi xuống hay do hung thủ đã tìm kiếm gì đó?"

Lovejoy liếc nhìn xung quanh nhà thờ lạnh lẽo, cảm thấy cái lạnh ẩm ướt của đá thấm qua đế giày của mình. Ông đút bàn tay đeo găng vào sâu trong túi áo choàng ngoài và thầm ước mình không quên bỏ chiếc khăn. "Tôi đang đợi đây, ngài Cảnh sát."

Khuôn mặt phóng khoáng, đẹp trai của Edward Maitland nhíu lại trong sự bối rối. "Vâng thưa ngài?"

"Đợi anh cho tôi biết tại sao anh cảm thấy tôi cần phải đến đây."

Cái cau mày giãn ra thành một nụ cười tự mãn. "Bởi vì chúng tôi đã tìm ra hung thủ, thưa ngài."

"Thật sao?"

"Thứ này đã cho chúng tôi biết phải bắt đầu từ đâu." Maitland chìa ra một khẩu súng kíp nhỏ từ túi của mình. "Chắc chắn rằng nó đã bị hung thủ đánh rơi. Một cảnh sát của chúng tôi tìm thấy nó lẫn trong nếp áo choàng của nạn nhân."

Lovejoy cầm lấy vũ khí và trầm ngâm giữ nó trong tay. Đó là một khẩu súng bằng thép cao cấp tinh tế với báng làm từ gỗ gụ đánh bóng và vòng cản bằng đồng thau được thiết kế phức tạp với hình con rắn quấn quanh thanh kiếm. Nhìn bên ngoài, ông chắc chắn rằng đây là loại bốn mươi bốn li, với một nòng rãnh và một tấm biển đăng ký ghi W. REDDELL, LONDON. Máu trên nòng súng vẫn đủ để lại một vết bẩn đen trên lòng bàn tay ông.

"Hãy để ý đến vòng cản, thưa ngài. Con rắn và thanh kiếm?" Lovejoy di ngón cái bàn tay trái của mình trên vết bẩn. "Có, tôi có nhìn thấy nó, anh Cảnh sát."

"Đó là khẩu súng của Tử tước Devlin, thưa ngài."

Trong thoáng chốc Lovejoy bất giác siết chặt tay vào khẩu súng lục. Chỉ còn ít người ở London chưa nghe nói đến Sebastian, Tử tước Devlin. Hay cha anh, Lãnh chúa Hendon, bộ trưởng tài chính và bạn tâm giao đáng tin cậy của Spencer Perceval10, vị Thủ tướng đảng Bảo thủ11 của Vua George già nua điên khùng tội nghiệp12.

10 Spencer Perceval (1762 - 1812) là Thủ tướng Chính phủ Vương quốc Anh từ ngày 4 tháng 10 năm 1809 cho đến khi qua đời vào ngày 11 tháng 5 năm 1812. Ông là thủ tướng Anh duy nhất bị ám sát.

11 Nguyên văn: Đảng Tory (Tories), tiền thân của Đảng Bảo thủ, là chính đảng lớn theo đường lối trung hữu ở Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland.

12 George William Frederick (1738 - 1820) là Vua George III của Anh và Ireland từ 1760 đến 1800 và là Vua của Vương quốc Anh thống nhất từ 1801 đến khi qua đời. Ngoài ra ông còn là Công tước và Vương công - Tuyển hầu của Braunschweig-Lüneburg trong Thánh chế La Mã cho tới khi được phong làm Vua của Hannover năm 1814. Cuộc đời và thời gian cai trị của ông được đánh dấu bởi một loạt các xung đột quân sự liên quan đến vương quốc Anh, nhiều vùng lãnh thổ khác tại châu Âu và lan đến cả châu Phi, châu Mỹ và châu Á. Đầu triều George III, nước Anh đánh bại nước Pháp trong chiến tranh Bảy năm và vươn lên địa vị đế quốc châu Âu nắm quyền thống trị Bắc Mỹ và Ấn Độ. Tuy nhiên nhiều thuộc địa của Anh tại Bắc Mỹ đã li khai sau Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ. Sau đó quân Anh tham gia cuộc chiến chống lại Cách mạng Pháp và quân đội Napoleon từ năm 1793 cho đến thất bại của Napoleon tại trận Waterloo năm 1815. Trong giai đoạn cuối đời, tâm bệnh của George III tái phát, ông bị bệnh tâm thần vĩnh viễn. Cuối cùng vào năm 1810, Đạo luật Nhiếp chính đã được thông qua, và con trai trưởng của nhà vua, George, Hoàng tử xứ Wales, cai trị với danh hiệu Hoàng thân Nhiếp chính. Sau cái chết của George III, Hoàng thân Nhiếp chính nối ngôi cha và trở thành Vua George IV.

Lovejoy lật khẩu súng để đưa nó cho vị cảnh sát, báng hướng lên trên. "Cẩn thận đấy, anh Cảnh sát. Chúng ta đang đi trên khu vực nguy hiểm. Không nên kết luận vội vàng."

Maitland từ tốn đón nhận ánh mắt của ông. Anh ta không lấy lại khẩu súng lục từ tay Lovejoy. "Còn nữa, thưa ngài."

Lovejoy thả khẩu súng lục vào túi áo choàng ngoài của mình. "Hãy cho tôi biết."

"Chúng tôi đã nói chuyện với người hầu gái của Rachel York, một phụ nữ tên là Mary Grant." Lần này Maitland không giả vờ tham khảo ghi chép của mình. "Theo Mary, vào tối muộn ngày hôm qua, chủ của cô ta đã đi gặp St. Cyr. Cô nói với người hầu gái, và tôi trích, 'Đừng sợ, Ngài sẽ trả ta hậu hĩnh." Viên cảnh sát dừng lại như thể để tác động của lời nói thấm thía, rồi bổ sung: "Đó là lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô ấy."

Lovejoy bình tĩnh nhìn chằm chằm vào đôi mắt xanh lơ của viên cảnh sát. "Anh có ý gì? Rằng cô ta tống tiền Tử tước?"

"Hoặc đe dọa anh ta theo một cách nào đó. Vâng, thưa ngài." "Tôi cho là anh đã kiểm tra hành tung của Tử tước Devlin vào đêm qua?"

"Vâng, thưa ngài. Người hầu của Tử tước nói rằng anh ta rời nhà vào khoảng năm giờ. Bảo là mình đến câu lạc bộ. Nhưng theo bạn bè của anh ta, Devlin không đến Watier trước chín giờ."

"Tử tước nói anh ta ở đâu?"

"Chúng tôi chưa thể xác định vị trí của Tử tước, thưa ngài. Đêm qua anh ta không ngủ trên giường của mình. Có lời đồn rằng anh ta chuẩn bị cho một cuộc đấu súng vào sáng nay."

Lovejoy khum tay lên che miệng và thổi vào lòng bàn tay cùng các ngón tay của mình đầy suy tư trước khi thả tay xuống. "Kẻ làm điều này hẳn phải đẫm máu. Nếu Devlin là hung thủ, anh ta cần trở về nhà thay quần áo và tắm rửa trước khi đến câu lạc bộ."

"Tôi cũng đã nghĩ đến điều đó, thưa ngài." "Sao? Người hầu của Devlin nói gì về điều đó?"

"Thật không may, đêm qua trước khi đi ra ngoài, Devlin cho toàn bộ nhân viên của mình nghỉ. Anh ta có vẻ là một ông chủ hào phóng nhất." Có điều gì đó trong cách diễn đạt - một nguyên âm líu lưỡi, một đôi môi thắt chặt - đã cho thấy một cảm xúc thoáng qua mà Maitland thường kín đáo che dấu cẩn thận. Maitland không phải là một người cực đoan. Anh ta tin vào trật tự xã hội, vào Chuỗi Hiện Hữu Vĩ Đại13 và phân cấp của con người. Nhưng điều đó không ngăn anh ta thèm khát giàu sang địa vị, và ghen tị với những người, như Devlin, được sinh ra với những gì Maitland thậm chí không thể vươn tới.

13 Chuỗi Hiện Hữu Vĩ Đại (The Great Chain of Being) là một cấu trúc thứ bậc tôn giáo nghiêm ngặt của tất cả vật chất và đời sống, được cho là sắc lệnh của Thiên Chúa. Chuỗi bắt đầu từ Thiên Chúa và tiến xuống đến thiên thần, ma quỷ (thiên sứ sa ngã/phản bội), sao, mặt trăng, các vua chúa, Hoàng tử, quý tộc, dân thường, động vật hoang dã, vật nuôi, cây xanh, các loại cây khác, đá quý, kim loại quý, và các khoáng sản.

Lovejoy quay người đi lang thang trong điện thờ Đức Mẹ nhỏ bé. "Người hầu của anh ta sẽ biết nếu một bộ y phục dạ hành biến mất khỏi tủ quần áo của ông chủ."

"Người hầu cho biết không có gì bị mất. Nhưng ngài cũng biết những người hầu này là thế nào mà. Trung thành đến mù quáng."

Lovejoy lơ đãng gật đầu, dành sự chú ý của mình cho bức tranh khổng lồ vẽ Đức Mẹ Đồng Trinh thăng thiên treo cao trên bàn thờ. Bản thân ông có khuynh hướng Kháng cách Tin lành, một xu hướng hiểm nguy mà ông mà tất nhiên đã cẩn thận giữ kín. Ông không ủng hộ kính màu, hương trầm và những bức tranh ngợi ca thời Phục hưng ám khói trong khung mạ vàng nặng nề; coi chúng là tàn dư Thiên Chúa giáo La Mã tội lỗi không liên quan đến vị Thiên Chúa khắc khổ mà Lovejoy tôn thờ. Tuy nhiên, ông nhận thấy máu từ cổ họng bị cắt tả tơi của Rachel York đã vấy lên bàn chân trần của bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh khiến người ta liên tưởng đến, một cách đầy ám ảnh, những bức tranh khác ông từng xem, vẽ Chúa trời trên cây thập giá, máu chảy ra từ vết thương ở bàn chân bị đóng đinh của Ngài. Và ông lại thầm tự hỏi, người phụ nữ này đã làm gì ở đây, trong một nhà thờ cổ tầm thường sắp bị lãng quên này. Thật kỳ lạ khi một nữ diễn viên trẻ đẹp chọn địa điểm này để hẹn hò. Hoặc để tống tiền.

Maitland hắng giọng. "Tôi cần phải thông báo với ngài rằng Lãnh chúa Jarvis mong muốn được gặp ngài. Tại Dinh thự Carlton. Ngay sau khi ngài kết thúc công việc tại đây."

Câu từ được lựa chọn tinh tế có chủ đích và Lovejoy biết điều đó, vì đây là một giấy triệu tập không thẩm phán nào có thể từ chối. Mọi công sở, dù ở phố Bow hay Queen Square, Đường Lambeth hoặc Vườn Hatten, có lệnh phải báo cáo với Lãnh Chúa Jarvis ngay lập tức nếu xuất hiện một vụ án có liên quan đến những nhân vật nhạy cảm, chẳng hạn như tình nhân một công tước hay anh em của một nguyên thủ quốc gia. Hoặc con trai duy nhất và là người thừa kế của một thành viên nội các đầy quyền lực.

Lovejoy thở dài. Ông chưa bao giờ hiểu được chính xác tầm ảnh hưởng của Lãnh chúa Jarvis. Ngoài một biệt thự khổng lồ trên Quảng trường Berkeley, ông ta có văn phòng tại Cung điện St. James và Dinh thự Carlton, mặc dù ông không nắm chức danh nào trong chính phủ. Và mặc dù ông ta đúng là hoàng thân quốc thích, nhưng chỉ là quan hệ anh em họ. Lovejoy thường nghĩ có thể miêu tả đúng nhất chức vụ của Jarvis bằng một cụm từ mơ hồ thời trung cổ, buông rèm nhiếp chính, mặc dù Lovejoy không bao giờ hiểu được làm thế nào mà Jarvis có thể thâu tóm và duy trì quyền lực trong quá trình Vua George trở nên điên loạn. Ông chỉ biết rằng Hoàng tử xứ Wales14 giờ đây phụ thuộc vào người đàn ông này cũng như Vua George từng phụ thuộc. Đó là lý do vì sao khi Jarvis triệu tập thẩm phán nào, thẩm phán đó phải xuất hiện.

14 Hoàng tử xứ Wales là tước hiệu của George IV (1762 - 1830). Ông là Vua của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland và Vương quốc Hannover sau cái chết của cha mình, George III, vào ngày 29 tháng 1 năm 1820. Ông giữ chức Hoàng thân Nhiếp chính trong giai đoạn cha mình bị bệnh tâm thần.

Lovejoy quay lại với viên cảnh sát. "Anh đã báo cho ngài ấy ư?" "Tôi nghĩ rằng ngài ấy muốn biết ngay lập tức. Dù sao cha Tử tước cũng rất thân cận với Thủ tướng."

Lovejoy thở dài đầy căng thẳng tạo thành một màn sương lạnh trong không khí buốt giá. "Anh nhận ra sự nhạy cảm của tình hình chứ?"

"Vâng, thưa ngài."

Ánh mắt Lovejoy nheo lại khi ông nghiên cứu khuôn mặt bình thản của viên cảnh sát. Kỳ lạ là từ trước đến nay, Lovejoy chưa bao giờ tự hỏi về xu hướng chính trị của Edward Maitland. Nhưng điều đó chưa bao giờ thực sự quan trọng, cho đến tận bây giờ. Lovejoy cố trấn an mình rằng giờ đây nó vẫn chẳng quan trọng, rằng công việc của họ sẽ bắt đầu và kết thúc với đòi hỏi phải điều tra và giải quyết vụ án mạng này, và trừng phạt kẻ thủ ác. Mặc dù…

Mặc dù Bá tước Hendon, cũng như Spencer Perceval và các Bộ trưởng khác trong nội các của Vua15 theo đảng Bảo thủ, nhưng Hoàng tử xứ Wales và phe cánh của ông ta lại theo đảng Tự do16.

15 Chỉ Vua George III.

16 Nguyên văn: Đảng Whig (Whigs), là một nhóm chính trị, sau đó là một đảng chính trị trong Quốc hội Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland, tiền thân của Đảng Tự do. Giữa những năm 1680 và 1850, họ tranh giành quyền lực với Đảng Tory, (tiền thân của Đảng Bảo thủ). Nguồn gốc Đảng Tự do bắt nguồn từ chế độ quân chủ lập hiến và sự phản đối chế độ quân chủ tuyệt đối.

Vào bất kỳ thời điểm nào, việc con trai và người thừa kế của một thành viên đảng Bảo thủ nổi bật bị cáo buộc phạm một tội ác như vậy cũng sẽ gây chấn động. Việc những lời buộc tội xuất hiện vào lúc này, khi vị Vua cũ sắp bị tuyên bố là điên khùng và Hoàng tử đang nhiếp chính, có thể gây ra những tác động sâu xa. Không chỉ đối với cơ cấu chính phủ mà đối với cả bản chất của chính chế độ quân chủ.