• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Kho báu Kinh thành Huế sau ngày Thất thủ Kinh đô
  3. Trang 38

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 82
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 37
  • 38
  • 39
  • More pages
  • 82
  • Sau

Sự bội phản

Vua Hàm Nghi và thân cận ẩn náu ở vùng thung lũng gần Quy Đạt, được dân làng che chở và tiếp tế cá khô, nước mắm, trà rừng, v.v. Trong khi đó, từ ngày 16 tháng giêng trở đi, đoàn quân của Metzinger có trách nhiệm khuất phục cả vùng này và truy đuổi các phần tử “chỉ huy phiến loạn”. Lực lượng Pháp đến Quy Đạt và lưu lại mười ngày nhưng chẳng đạt được kết quả nào ngoài việc làm khiếp đảm dân cư bản địa, cướp phá bản làng và đốt rụi chòi tranh vách lá. Ngày 28 tháng giêng, phía Pháp bắt được trong một kho giấu vũ khí của một quan võ cấp dưới nhiều súng đạn, áo xống nghi lễ, vài nén bạc và nhiều tư liệu. Cùng thời gian đó, đoàn ngự giá đang rong ruổi đâu đó giữa các vùng Quy Đạt, Vé và Cổ Liêm, thoát ra khỏi tầm truy tìm trinh sát của Metzinger, vị này cuối cùng quá mệt mỏi phải tự rút về Đồng Hới vào tháng ba.

Pháp lui quân khỏi vùng, cùng lúc rút một phần lực lượng về Bắc Kỳ, đã tạo điều kiện cho vùng lực lượng nổi dậy trút được áp lực và mở rộng địa bàn hoạt động. Đầu tháng tư, Phụ chánh đại thần hàng thứ hai, Nguyễn Phạm Tuân, người thay thế cho Nguyễn Văn Tường, đến đóng ở Cổ Liêm cùng với 200 quân. Ông cho thiết lập tại đây một văn phòng trung ương dưới sự chủ trì của ông Tôn Thất Đạm: vị này dù còn trẻ tuổi, chỉ mới 22 tuổi, đã mang hàm Khâm sai đại thần phụ trách khu vực các tỉnh Bắc Kỳ và là Chưởng lý Quân vụ đại thần. Tuân được hỗ trợ bởi một vị tướng can trường và thông minh, Đề đốc Lê Trực, nguyên là Đề đốc Hà Nội vào năm 1882, đang chỉ huy 2000 quân với bảy hay tám khẩu pháo nhỏ, cộng với khoảng năm mươi súng trường204. Vào cuối năm 1886, phía bắc Quảng Bình và một phần của Hà Tĩnh không nằm trong vòng kiểm soát của quân Pháp vốn chỉ giữ được một phần nào đó các trục đường chính và vài đồn lũy. Ngay cả Đồng Hới cũng có thể bị tấn công. Được lực lượng phò tá cùng dân cư bảo vệ, triều đình Huế, với tầm vóc thu nhỏ, nhen nhóm hy vọng vào tương lai. Nhưng suy nghĩ như vậy đã không tính đến những đối kháng phe phái, phá hoại cánh triều đình đang lẩn trốn không thua gì phá rối cánh triều đình đang còn tại Huế. Đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân dần hồi rơi vào mâu thuẫn và không hợp tác với nhau. Tin này đến tai người Pháp.

204 Léopold Cadière, “Quelques papiers du capitaine Mouteaux”, BAVH, 1944-1, p. 52-53.

Tuần trăng thứ nhất năm Đinh Hợi (tháng Hai năm 1887), quân Pháp trở lại trong vùng với lực lượng hùng hậu và những tay gián điệp đã thu thập cung cấp rất nhiều thông tin. Đại úy Mouteaux với hai đội lính Bắc Phi cùng với lính bộ bản địa tiến về Yên Hương nơi Nguyễn Phạm Tuân đóng quân. Ngày 9 tháng 4, đoàn quân Pháp, được hai gián điệp hướng dẫn, băng qua khu rừng già rồi âm thầm tiếp cận doanh trại [quân Việt]. Quan Phụ chánh Tuân bị bất ngờ khi còn đang ở trong lều tranh, bị Mouteaux bắn trọng thương khi cố tẩu thoát: quan Phụ chánh qua đời ngày hôm sau. Phía Pháp bắt giữ được những người tùy tùng, bộ tham mưu và thân cận của quan Phụ chánh, người con trai trẻ tuổi nhất của Tôn Thất Thuyết, nhưng không có mặt vua Hàm Nghi cũng như ông Tôn Thất Đạm. Quân Pháp tịch thu tài liệu, vũ khí, cờ xí, bảy đồng tiền thưởng bằng vàng, vài vật phẩm bằng bạc và một nén bạc205. Con số này thật xa với con số hàng trăm hòm chứa nén bạc mà Sylvestre đã nêu ra…

205 Léopold Cadière, “Quelques papiers du capitaine Mouteaux”, BAVH, 1944-1, p. 63-65; Charles Gosselin, L’Empire d’Annam, op.cit. p. 283.

Những tháng tiếp theo, với sự thúc đẩy của Mouteaux, quân Pháp gia tăng các cuộc trinh sát, lập ra cả một hệ thống chốt dân quân để bình định vĩnh viễn vùng này nhằm bắt giữ Hoàng đế An Nam. Dần hồi, phần lớn các địa phương vùng Sông Gianh quy hàng phía Pháp và các làng Công giáo nhộn nhịp trở lại. Ngày 19 tháng 6 năm 1887, giữa đêm khuya, Mouteaux bất ngờ tấn công đồn lũy của Lê Trực và bắt giữ vợ con ông, thu giữ cờ xí, ba thanh kiếm chỉ huy, súng ống, khẩu pháo duy nhất, giấy tờ tư liệu: trong hộp đựng đồ chỉ huy của Lê Trực, chỉ có… duy nhất một nén bạc206. Trong nội bộ triều đình đang bôn tẩu, việc đào ngũ đào thoát bắt đầu gia tăng: cũng vào tháng sáu đó, Phạm Văn Mĩ, nguyên là thành viên của Cơ Mật viện, đến quy hàng tại Đồng Hới, sau khi người ta đã tịch thu của ông ngựa, vũ khí, cờ xí và thuốc men. Theo gợi ý của đại úy Mouteaux, Phạm Văn Mĩ quay trở lại vùng Quy Đạt và gửi một bức thư cho Trương Quang Ngọc để kêu gọi đầu hàng và giao nộp vua Hàm Nghi, đổi lại Ngọc được đảm bảo sẽ được đối xử tử tế (tháng 9 năm 1887). Vào thời điểm đó, Tôn Thất Đạm với phần lớn lực lượng đã tách ra khỏi đoàn của vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thiệp cùng Trương Quang Ngọc phò trợ. Ngày 16 tháng 7 năm 1887, một cuộc tấn công chớp nhoáng của phía Pháp đã thu giữ được hành trang của Trương Quang Ngọc gồm: một hộp đựng các ấn tín, bốn sắc phong quan lại, một đồng tiền thưởng trị giá 40 piastres, những đồng tiền kẽm, chiếc áo lụa của vợ ông và đồ dùng hút thuốc… Và vẫn không tìm đâu thấy những rương hòm đựng nén vàng, nén bạc. Ngày 25 tháng 7, Mouteaux nhờ một người trung gian thân tín trao lại cho Ngọc bộ bàn đèn hút thuốc, áo lụa của phu nhân, và tặng cho Hoàng đế [An Nam] khoảng 6 yến gạo trắng207, kèm theo thư của anh mình là vua Đồng Khánh cùng một thư khác của Hoàng Thái hậu Từ Dũ, bảo đảm với vua Hàm Nghi, nếu trở về lại Huế, sẽ được đặt vào vị trí thứ hai của triều đình. Người ta cũng kín đáo trao cho Ngọc một thư theo đó đảm bảo cho Ngọc những quyền lợi nếu vua [Hàm Nghi] được giao nộp. Phúc đáp của Ngọc đó là, chuyện như vậy nằm trong khả năng những sự việc có thể, nhưng mà tạm thời Ngọc phải bất động vì bị gãy chân trên đường thoát thân.

206 Léopold Cadière, “Quelques papiers du capitaine Mouteaux”, BAVH, 1944-1, p. 74-75.

207 Một “picul” tương đương với khoảng 62 kílô ngày nay.

Kể từ đầu tháng 10 năm 1887, vào đầu mùa mưa, như thường lệ, các cuộc động binh đều như ngưng lại, nhất là do vào hôm ngày 7, đại úy Mouteaux bị ốm, phải rời khỏi khu vực và trở về Pháp. Mùa đông là thời gian giảm áp lực cho triều đình trên đường lẩn trốn. Suốt thời gian sáu tháng đầu của năm 1888, những cuộc truy lùng liên tục của phía Pháp chẳng mang lại kết quả nào, và rồi cuối hè năm đó, giới cầm quyền Pháp cũng dần hồi đâm ra mệt mỏi chán nản. Về phần mình, Tôn Thất Đạm, với số quân đã tách riêng ra, không còn giữ liên lạc với hoàng đế An Nam từ nhiều tháng. Những kẻ trốn chạy [theo đoàn ngự giá] chẳng còn tiền của, duy vua Hàm Nghi còn giữ được một lượng nhỏ các đồng tiền thưởng. Rồi vào lúc các cuộc hành quân phía Pháp có thể sẽ phải chấm dứt thì một phép lạ xuất hiện. Phép lạ cho phía người Pháp.

Tối ngày 12 tháng 10 năm 1888, Nguyễn Thình Định208, một [cai] đội của đoàn hộ giá từ ngày 4 tháng 7, là người nấu ăn cho vua, tự trình diện ở đồn Đông Ca, báo tin là Trương Quang Ngọc, vốn đã rời xa nhà vua từ nhiều tháng nay, tự đề nghị nộp mình và hướng dẫn người Pháp đến chỗ vua ẩn náu, với điều kiện được hưởng một số quyền lợi209. Người này mô tả tình trạng thiếu thốn cùng cực của các nhóm người chạy trốn:

208 Tên được viết ra theo những văn bản viết bằng chữ Hán.

209 Léopold Cadière, “La vie dans les petits postes […]”, op.cit. p. 211-212.

“Tất cả đều không còn tiền bạc, đức vua chỉ còn ít đồng tiền thưởng, và ngoài đó ra, của cải còn giữ được chỉ là hai hòm đựng đồ riêng tư mang đi từ kinh thành Huế, thêm hai thanh kiếm bằng vàng, mà một thanh là do Pháp chế tác, vốn trước đây được người Pháp làm quà tặng cho vua Gia Long.”

a19

Sơ đồ có định hướng về nơi trú ẩn của vua Hàm Nghi khi bị quân Pháp bắt. Bên trái bản vẽ có ghi: “Căn nhà của hoàng thân Hàm Nghi”, ghi chú viết tay “Trung úy Lagarrue, đại đội 10, tháng 9?/1888”210

210 DG: BAVH số 3/1929

Đại úy Boulangier, người đã ghi chép lời khai của Nguyễn Định Thình211 (sic), nói rõ thêm là vua Hàm Nghi chỉ còn giữ nơi mình 50 đồng vàng212. Cuộc thương lượng diễn ra chóng vánh, rồi Trương Quang Ngọc tự trình diện tại đồn [của Pháp]. Mọi chuyện theo đó tiếp diễn thật nhanh. Ngày 1 tháng 11, một đoàn quân do đại úy Boulangier chỉ huy tiến về vùng thung lũng hẹp của thác nước Tá Bào nơi vua Hàm Nghi ẩn náu. Tiền quân gồm Trương Quang Ngọc và Nguyễn Định Thình với một toán nhỏ người Mường. Đến nơi, không hề có người canh gác, tiến đến gần con suối trước nơi vua ở, nơi đây chỉ là một cái chòi đơn sơ có khung gỗ, có vách tre đan và lợp bằng lá cọ. Nghe tiếng động, có hai người bước ra khỏi chòi: một người lớn tuổi, về sau được biết là một Thống chế đại thần, và một trẻ hơn, là một Tham biện Nội các, cả hai bị hạ sát ngay. Nghe tiếng đánh nhau, Tôn Thất Thiệp xuất hiện, tay cầm kiếm, bị đâm một mũi lao. Tiến vào bên trong chòi, hoàng đế đang có mặt, ngài ngồi bật dậy trên chiếc giường tre, vật dụng duy nhất của nơi trú thân tồi tàn. Đức vua nắm kiếm, nhận ra mình đã bị phản bội, ngài đưa kiếm cho Ngọc và nói: “Giết ta đi chứ đừng giao nộp ta cho quân Pháp!”. Đức vua bị một trong số người Mường theo phục vụ tước kiếm và giữ chặt. Đức vua hoàn toàn giữ im lặng. Phía Pháp cho cắt thủ cấp của Thiệp và của hai quan đại thần, sau đó sẽ được trưng ra làm bằng chứng cho sự cáo chung của đoàn ngự giá trên đường trốn chạy. Như thế đoàn theo vua Hàm Nghi chỉ còn có năm người: Thiệp, hai quan đại thần, một hộ vệ người Mường và một tiểu đồng theo hầu vua việc ống điếu trà nước. Vua Hàm Nghi liền được đưa về Huế.

211 DG: Ở đây tác giả lại đảo chiều thứ tự tên gọi của nhân vật!

212 Lettre du capitaine Boulangier, cité dans Léopold Cadière, “La vie dans les petits […]”, op.cit. p. 211-213; voir aussi Charles Gosselin, L’Empereur d’Annam,op.cit. p. 302

Phóng viên đặc biệt của tờ Le Temps đã gửi về ban biên tập tòa báo một bài viết như sau, ghi ngày 1 tháng 12 năm 1888, kể lại câu chuyện:

“[Vua] Hàm Nghi về đến Thuận Bài (cửa [Tam] Giang) tại Thuận An, đi kèm có cả một đoàn quân hộ vệ đông đúc do một sĩ quan hiến binh chỉ huy. Tổng trú sứ Rheinart từ Huế ra đón. Cuộc tiếp kiến diễn ra ngắn ngủi, vị quân vương hoàn toàn dửng dưng với số phận dành cho mình. Khi người ta hỏi ngài có muốn nhắn tin cho anh em hay ai đó trong hoàng tộc, ngài nói chẳng quen biết ai ở kinh thành.

Ngài được đưa về vùng Thừa Lưu, lên chiếc thuyền La Comète sẽ đưa ngài về Sài Gòn […] Vũ khí và hành lý của vị cựu hoàng được đưa về Huế. Những vũ khí trông thật đẹp và có giá trị rất lớn: chúng được trao cho vua Đồng Khánh, sẽ nằm trong số những báu vật quý hiếm nhất thuộc kho báu hoàng gia. Một trong các thanh kiếm có bao kiếm và chuôi kiếm bằng vàng. Chuôi kiếm này dài, không có phần quai che tay, có hình thù làm ta nghĩ đến loại kiếm của người Nhật. Kiếm được chạm khắc tuyệt mỹ với trang trí hình rồng dạng nổi bằng vàng. Một cây kiếm khác có chuôi bằng ngọc thạch, phần quai tay bằng vàng, chế tác không kém phần tinh xảo. Một thanh dao dài có chuôi bằng đá quý cornaline, với bao kiếm làm bằng sừng tê giác với trang trí bằng vàng. Đó là một báu vật trang sức hơn là một vũ khí: một vật trang sức, trước đây thuộc Kho báu [hoàng gia] vốn có ý nghĩa [biểu tượng] về mặt chính trị. Thanh dao này cùng với các ấn tín tượng trưng cho vương quyền, được truyền từ vua này sang vua khác, là như một linh vật, như một biểu tượng. Ông Rheinart đã đích thân trao lại cho nhà vua trong một cuộc diện kiến riêng tư cách đây vài hôm: vua Đồng Khánh hết sức vui mừng và biết ơn. Vua Đồng Khánh đã vừa cười vừa nói: “Cho đến nay, trẫm như đã chỉ là đức vua có một nửa thôi”. Ý nghĩa tinh thần của việc trao trả [ấn kiếm] vô cùng lớn. Hành lý của vua Hàm Nghi, đựng trong ba hay bốn rương hòm sơn hai màu đen và đỏ, mỗi mặt có ghi chữ “trường thọ”, cũng đã được thu giữ và đưa về Huế. Trong đó người ta tìm thấy một ít giấy tờ không có giá trị về mặt chính trị, nhưng lại có những bộ áo rất đẹp của hoàng đế bằng lụa vàng, những chiếc quần bằng lụa màu đỏ, và nhiều bộ áo quần đắt giá khác, với thêm một bộ đồ trà rất bình thường mà vị hoàng đế thường dùng. Tất cả đều có vẻ phần nào đó phai nhạt mờ màu mốc meo do những chuyến hành trình dài và những ngày tháng ẩn náu ở những nơi ẩm thấp trong rừng rậm. Tất cả như muốn gợi lên cái giàu sang nay đã biến mất [của vị vua thất sủng], cái [thời] hoàng kim, sau bốn năm trời, nay đã khoác lên cái vẻ bí ẩn thê lương của một dĩ vãng xa xăm.”

a20

Hàm Nghi, cựu hoàng xứ An Nam213

213 DG: BAVH số 3/1941. Ảnh chụp khoảng 1890-1891, theo nghiên cứu của A.Dabat, Hàm Nghi, Empereur en exil, artiste à Alger (t. 73)

Điều mà phóng viên tờ Le Temps đã không nói ra, [vật báu] người ta lục tìm một cách vô vọng trong đống hành lý ít ỏi của vị vua nay đã rơi vào vòng giam hãm, chính là chiếc ấn tín quý báu bằng ngọc thạch gọi là “ấn truyền ngôi” mà vua Hàm Nghi đã mang theo mình: chiếc ấn này có thể đã bị đánh rơi mất đâu đó trong vùng rừng núi của tỉnh Quảng Bình214.

214 Pierre Pasquier, L’Annam d’autrefois. Essai sur la constitution de l’Annam avant l’intervention française, (1907), Paris, 2è édition, Société d’éditions Géographiques, Maritimes et Coloniales, 1929, p. 75

Được tin vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Tôn Thất Đạm ra lệnh ngừng kháng cự và quy hàng người Pháp. Ngay tối hôm đó, ông tự vẫn. Lê Trực quy hàng và về an dưỡng ở làng nơi mình sinh ra. Ngọc bị một nhóm phiến quân, dưới quyền chỉ huy của cựu quan ngự sử Phan Đình Phùng [lúc này là Tán lý Quân vụ do vua Hàm Nghi phong], hạ sát vào ngày 24 tháng 12 năm 1893 tại ngay lãnh địa Thanh Lạng của Ngọc: thủ cấp bị lấy đi để mang đến tận nơi Ngọc đã phản bội và chỉ điểm vua Hàm Nghi cho quân Pháp.

Trước đó, từ cuối tháng giêng 1886, Tôn Thất Thuyết cùng Trần Xuân Soạn đi ra hướng bắc: Thuyết có thể đã quyết định sang Trung Hoa để cầu viện và ký kết một hiệp ước liên minh quân sự. Nhưng người ta cũng còn nói đến một lý do khác cho sự ra đi nhanh chóng như thế nhằm tìm nơi an toàn hơn: các cơ quan dưới quyền tướng De Courcy đã thông báo một khoản tiền thưởng lên đến 1000 lạng cho ai bắt được Tôn Thất Thuyết, một món tiền thưởng có thể rất hấp dẫn đối với đám thủ hạ của ông Thuyết, mà ông thì đương nhiên chẳng thể hoàn toàn tin tưởng những người thân cận xung quanh. Tôn Thất Thuyết, do đó, đã đi sang tỉnh Thanh Hóa, ở đây ông đã cẩn thận gửi mười nén vàng cho một trong số anh em của ông, rồi đi ngược sông Đà, đến Lai Châu vào khoảng tháng 6 để đến nhà ông Đèo Văn Trí, một tộc trưởng người Thái vốn đã thiết lập ở vùng này một lãnh địa tự trị. Thuyết ngã bệnh và lưu lại đây năm tháng, để rồi chứng kiến sự tan rã của phong trào Cần Vương. Vào tháng 2 năm 1887, Tôn Thất Thuyết sang Trung Hoa, đặt chân đến đất Vân Nam, cùng đi có Đèo Văn Trí và khoảng hai mươi người. Thuyết được giới thiệu với Phiên vương của Vân Nam-Quý Châu, Sầm Dục Anh [? Cen Yuying sic, 1829-1889], nhưng không có [cam kết] gì cụ thể từ cuộc gặp này, dù nguyên quan Phụ chánh Thuyết đã trao cho Phiên vương Trung Hoa 500 lạng và 50 xâu tiền lấy từ kho báu triều đình Huế. Thuyết được [phía Trung Hoa] đồng ý đưa đi Quảng Đông nơi ông muốn gặp Trương Chi Động (Zhang Zhitong sic), Tổng đốc Lưỡng Quảng, nhưng Thuyết đã không sao thu xếp được một cuộc tiếp kiến dù ngắn ngủi. Trần Xuân Soạn sang Trung Hoa gặp lại Tôn Thất Thuyết. Thực tế là người Trung Hoa không còn quan tâm đến vấn đề Bắc Kỳ, và căn cứ vào những hiệp ước đã ký với nước Pháp, nước Trung Hoa từ khước mọi can thiệp. Vì Thuyết không có nguồn sinh sống, [phía Trung Hoa] họ cấp cho ông “quan An Nam”, và người tháp tùng, một trợ cấp hàng tháng, nhưng cho giám sát chặt chẽ. Để an toàn hơn nữa, nhóm ông Thuyết bị quản thúc tại gia tại Luodingzhou gần biên giới Quảng Tây. Vào tháng 2 năm 1891, cuối cùng, Tôn Thất Thuyết được đưa đi xa hơn về phía bắc, tại Thiều Quan (Shaoguanfu sic), gần khu vực giáp với tỉnh Hồ Nam. Thuyết mất ở nơi đây vào ngày 28 tháng 6 năm 1913215. Giới chức chính quyền Trung Hoa rất nhiều lần đề nghị giao ông Thuyết cho nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương, nhưng số tiền [phía Trung Hoa] yêu cầu quá cao so với những lợi lộc có thể có được từ việc bắt giữ một vị chỉ huy nay đã thất thế.

215 DG: Có tài liệu ghi là “ngày 22 tháng 9 năm 1913”, xem Wikipedia.