Cứ đến mùa lụt bão, mưa dầm dề thì ở quê tôi, người dân làng chài lưới sẽ bội thu cá thờn bơn. Loài cá di chuyển vào cửa sông khi nước lũ từ thượng nguồn ồ ạt đổ về.
Những cánh bèo trôi từ ngọn nguồn của con sông Hiếu về, chảy ngang qua cù lao Bắc Phước, Quảng Trị báo hiệu một mùa cá thờn bơn. Những người đánh cá suốt đêm thức cùng sóng nước trên những chiếc thuyền chài ghé vào bờ từ rất sớm để đợi phiên chợ mai. Trên khoang thuyền mùa này đầy ắp cá tôm, trong đó cá thờn bơn như một món hàng nổi trội mà ai cũng muốn mua để ăn trong những ngày mưa dầm. Mẹ tôi thường dậy sớm xách cái rổ rồi quàng thêm chiếc áo tơi dưới cơn mưa phùn đi về phía chợ phiên, ngôi chợ chỉ họp vào buổi sớm và tan trời vừa tảng sáng. Từ phiên chợ này, các thương lái sẽ đưa cá lên thành phố và tỏa đi các vùng. Trên cái rổ mẹ mang về sẽ rất nhiều cá thờn bơn, thứ cá mà anh em tôi bảo ăn hoài không chán trong những ngày mưa giông.
Cá thờn bơn tuy thịt ít vì thân cá dẹt, nhỏ bằng ba ngón tay nhưng ăn rất béo và ngon. Mẹ tôi nói rằng phải rửa cá bằng lá tre và muối. Lá tre nhám và muối sẽ rửa sạch cái chất nhầy nhầy đặc trưng ở loài cá này. Có khi mẹ kỳ công, cố ngồi bóc hết lớp da trơn trơn của cá. Kho cá bơn phải cho lửa thật nhỏ, cho cá chín lần thứ nhất để cho gia vị thấm vào cá rồi đổ thêm một lượng nước nhỏ vào rồi kho tiếp, đến khi nào con cá khô, cong lại như sắp cháy thì thôi. Nếu có ít tóp mỡ heo cho vào kho kèm cá thì càng ngon. Cái mùi thơm của nồi cá sẽ tỏa đi cả gian bếp, phảng phất lên tận nhà. Người ta nói một món dù ngon đến mức nào nhưng khi ăn từ ngày này sang ngày nọ sẽ gây chán. Nhưng với tuổi thơ vùng sông nước của tôi, hình ảnh con cá thờn bơn nằm cong queo, trộn lẫn cùng những hạt ném, trái ớt đỏ đã làm tôi chảy cả nước miếng mỗi khi nhìn. Thế nên, mẹ thường kho một nồi cá thật nhiều, ăn từ ngày này qua ngày khác. “Vì đây là con cá rất đặc trưng, càng kho lâu cá càng đanh lại, cứng, dai và ngon hơn”. Mẹ thường bảo như thế... Những ngày mưa bão, cầm bát cơm nóng hổi mà ăn cùng cá thờn bơn kho khô thì thật tuyệt. Hương thơm của cá làm nức cả mũi, riêng vị béo của cá và cay xè của những trái ớt sẽ khiến người ăn nhớ mãi.
Rau dớn
Ở đất gió Lào cát trắng Quảng Trị, nếu vùng đồng bằng, rau xà lách xoong Hảo Sơn được xem là “vua rau” thì ở vùng cao, miền núi món rau dớn cũng ngon và nổi tiếng không kém.
Rau dớn (đồng bào vùng cao huyện Hướng Hóa gọi là rau rớng) là rau của nhà nghèo. Bởi đây là món ăn rất dễ kiếm, lại chế biến đơn giản hẳng cần nấu kèm những thứ cao lương mỹ vị vẫn làm ra được món ngon, lại bổ dưỡng. Rau dớn thuộc họ quyết, nhỏ hơn cây dương xỉ, cành dài lá nhỏ xòe ra xung quanh. Những cành lá già gần gốc có màu đen giống cơm cháy, những cành lá non mọc lên từ giữa gốc tạo thành hai, ba cái cần, có cái dài tới nửa mét, đầu cong như móc câu.
Cứ đến đầu mùa xuân, những a chói của đồng bào Vân Kiều cõng đầy rau dớn xuống núi đi về hướng các chợ bán. Ban đầu người đồng bằng lên sống ở vùng cao không quen ăn rau dớn, bởi cái chất nhầy nhầy như keo của rau mỗi khi nhai. Nhưng ăn đôi ba lần đâm nghiền. Thế hệ mạ mình, những người xây dựng vùng kinh tế mới ở vùng cao Lao Bảo hầu như “hàm ơn” thứ rau này. Những năm đói kém, nắng hạn, rau khoai lên không nổi thì rau dớn là món ăn “chủ lực” để qua ngày đoạn tháng. Chỉ cần xuống khe, suối sau lưng nhà đi dọc một đoạn, xăm xăm hái một lúc đã có một đĩa rau ngon lành. Những lúc đói kém như thế, “cái ăn” tưởng chừng như rất dễ, chỉ cần “với” tay qua cửa sổ có thể hái được rau! Nhưng giờ thì khác, rau dớn phải đi sâu vào suối, ở dưới những tán cây rừng mát mẻ thì mới có. Rau dớn chế biến được nhiều món: xào, luộc hay làm nộm… Nhưng phổ biến nhất vẫn làm món rau dớn xào tỏi và dớn luộc chấm nước kho cá ngừ. Rau dớn, chọn phần mềm tươi non, rửa sạch bùn đất, bụi bám, sau đó trụng sơ qua nước sôi và vớt ra để ráo, giã dập củ tỏi, phi thơm rồi cho rau dớn vào đảo đều năm phút và bắc xuống nêm đường, bột ngọt, tương ớt, hạt tiêu… là có một món ngon.
Mạ thường bảo, đây là loài rau độc đáo. Bởi chẳng ai đi trồng và chăm bón nó. Nó chỉ mọc ở đất ẩm ướt, mát mẻ dưới những khu rừng dọc khe, suối. Do “xuất thân” từ môi trường đó, rau dớn được xem là loài rau sạch hội đủ các tiêu chuẩn về “không”: Không thuốc trừ sâu, không phân bón, không chất kích thích… Bởi thế, từ cái “lý lịch” ấy, rau dớn ngày nay không còn là món ăn của “nhà nghèo”. Chúng đã len lỏi vào các nhà hàng và nghiễm nhiên trở thành món đặc sản.
Những năm học xa, mỗi lần về nhà là đòi mạ cho được một đĩa rau dớn xào tỏi trong mỗi bữa ăn. Ăn rau dớn mà suy nghĩ về thế sự thì chẳng gì bằng. Bởi lẽ trong cái đĩa rau nhỏ bé, xanh non ấy, mỗi chúng ta luôn “bằng lòng” với những biến thiên của thời cuộc. Biết chấp nhận sự thăng trầm, bể dâu để rồi an nhiên tự tại! Bởi rau dớn thuộc họ quyết, tổ tiên của loài rau này hàng trăm triệu năm trước là những cây gỗ lớn, cao vài chục mét. Sau quá trình tiến hóa, loài rau này chỉ khiêm tốn sống dưới những tán cây nằm dọc khe suối. Và di chỉ của tổ tiên rau dớn còn lại ngày nay là những mỏ than mà người ta gọi là vàng đen!
Rau dớn được người đồng bào thiểu số tôn vinh là “vua” của các loài rau là thế. Trong những tác phẩm điêu khắc của người Cơ Tu, Ba Na… hình ảnh ngọn rau dớn có hình thù như chiếc vòi voi vẫn hiện diện. Đó là hình rau dớn trên chóp mái nhà rông hay các phù điêu trang trí ở nhà mồ và nhà ở.