Điều đã cứu vớt tôi
Tôi xuất thân từ một gia đình điên rồ và lạc hậu ở vùng New England, vừa bị nguyền rủa và theo một cách nào đấy lại vừa được ban phước lành, bởi thứ mà tôi gọi là “bộ ba đặc tính của những người da trắng theo đạo Tin Lành”: nghiện rượu, tinh thần bất ổn và lịch thiệp. Cha mẹ, ông bà, và các bậc tổ tiên, những người đã xây dựng nên gia phả gia đình tôi đều có một lượng nhất định của bộ ba đặc tính ấy trong người.
Người mẹ thân yêu dịu dàng nhưng lại mắc chứng nghiện rượu của tôi đã ly hôn đến hai lần. Cha tôi đã phải nhập viện nhiều lần vì chứng loạn thần kinh. Cha dượng tôi là một kẻ tàn bạo nghiện rượu. Trên tất cả những thứ ấy, tôi có (và dĩ nhiên đến giờ vẫn có) hai khuyết tật về khả năng học hỏi: chứng khó đọc và khó tập trung. Bởi vì mọi người ở nhà không thể trông nom tôi được nên tôi bị gởi đi học ở trường nội trú năm lên mười tuổi, lúc đó tôi học lớp năm. Thời niên thiếu của tôi chủ yếu trải qua ở ngôi trường đó.
Như các bạn có thể thấy, gia đình tôi không nằm trong số những gia đình hạnh phúc. Họ nhà Hallowell chúng tôi đã cố gắng sống lạc quan, nhưng phía sau những nỗ lực vui vẻ ấy lại âm ỉ những rắc rối đáng kể.
Khoảng những năm lớp mười, lớp mười một, tức vào bất cứ khi nào mà ta suy nghĩ một cách thực tế về tương lai, tôi nhận ra rằng mình có thể sẽ chẳng bao giờ trở thành người hạnh phúc. Tôi hy vọng mình sẽ tìm được hạnh phúc, nhưng tôi không nghĩ rằng nó được dành sẵn cho tôi trong những lá bài số phận, hay nói chính xác hơn trong trường hợp của tôi là trong gien di truyền.
Tôi quyết định rằng con đường duy nhất tôi phải đi là làm thật tốt mọi nghĩa vụ của mình, học cách không đặt gánh nặng lên người khác vì những rắc rối của bản thân và tìm cách thích nghi nội tâm sầu muộn của mình với thế giới rộng lớn ngoài kia mà còn bao điều tôi chưa thấu đáo được.
Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi nằm dài trên giường ở trường nội trú, nhìn chằm chằm lên trần nhà và tự hỏi: “Liệu tôi có bao giờ được hạnh phúc hay không?”.
Giờ đây, sau khoảng ba mươi lăm năm, ở độ tuổi năm mươi, tôi đã có thể trả lời được câu hỏi đó. Thật đáng ngạc nhiên là tôi đã có thể tìm cho bản thân một cuộc sống tốt đẹp (Sẽ tuyệt vời thế nào nếu tôi của hiện tại có thể quay ngược trở về quá khứ và thỏ thẻ vào tai tôi của mười lăm tuổi rằng: “Đừng lo lắng, mọi thứ sẽ tốt đẹp cả thôi”? Nhưng tôi biết rằng điều đó là trái với quy luật của cuộc sống). Không phải lúc nào tôi cũng phơi phới yêu đời như vài người mà tôi biết. Tôi không nằm trong số những người may mắn lúc nào cũng có vẻ mãn nguyện dù rằng tôi quả thực có biết một vài tâm hồn được ban phước lành như thế. Họ là những viên ngọc quý. Tôi ước gì mình là một trong số họ, nhưng tôi không phải.
Tuy nhiên, về cơ bản, tôi là một người hạnh phúc, hạnh phúc hơn rất nhiều so với lúc tôi nằm dài trên giường ở trường nội trú chán chường suy ngẫm về số phận của mình, và hạnh phúc hơn bội phần so với những gì mà người ta có thể dự đoán về tương lai tôi dựa vào thiên tư mang tính di truyền và những trải nghiệm thơ ấu của tôi.
Từ góc độ thống kê học (người ta đã thật sự tiến hành nghiên cứu để thu thập những con số thống kê này), thì những đứa trẻ từng bị ngược đãi như tôi thường sẽ trở thành người xấu. Chúng sẽ vào tù ra khám, hoặc phải vào bệnh viện tâm thần, rượu chè be bét, hoặc đau khổ triền miên.
Thế thì điều gì đã cứu vớt tôi? Tôi sẽ trả lời câu hỏi ấy nhanh thôi.
Nhưng trước tiên, hãy để tôi trình bày rõ là mình cần được cứu thoát khỏi điều gì. Cuộc hôn nhân thứ hai của mẹ tôi đã đẩy tôi vào những năm tháng kinh hoàng nhất đời mình, khoảng thời gian mà có lẽ tôi đã chẳng thể nào hồi phục được nếu không nhờ có sự giúp đỡ của người ngoài.
Cha mẹ tôi ly hôn khi tôi lên bốn. Không lâu sau đó, mẹ tôi yêu Noble Cathcart, một người đàn ông lớn tuổi hơn sống ở Chatham, một thị trấn nhỏ thuộc Cape Cod, nơi mà sau đấy chúng tôi chuyển đến sinh sống. Cathcart vốn có gốc gác từ miền Nam, nhưng đã sống ở Chatham nhiều năm.
Lần đầu tiên gặp ông là khi tôi đang sống rất hạnh phúc với mẹ và các anh chị họ của mình, Lyn và Jamie, cùng với người dì mà tôi hay gọi là dì Duckie và dượng Jimmy. Bố mẹ tôi đã ly hôn, nhưng tôi đã chấp nhận sự thật đó chẳng mấy phiền hà. Tôi yêu bố tôi, nhưng việc mẹ hẹn hò với Cathcart thì với tôi cũng ổn cả. Sự thật là tôi thích Cathcart vô cùng. Tôi bắt đầu gọi ông là dượng Noble và thường mong cho mau tới khi được cùng mẹ đến thăm ông. Tôi vẫn còn nhớ một lần mẹ tôi đã dỗ ngọt tôi đến nha sĩ trám răng bằng cách đưa ra phần thưởng là tôi sẽ được đến thăm dượng Cathcart ngay sau khi đi nha sĩ.
Một ngày nọ, mẹ hỏi tôi rằng tôi cảm thấy thế nào nếu mẹ kết hôn với dượng Noble. Lúc đó tôi bảy tuổi, đang học lớp hai ở trường công lập tại Chatham. Bà tiếp tục nói với tôi rằng nếu bà kết hôn với ông ấy thì chúng tôi sẽ chuyển đi Charleston, miền Nam Carolina. Dẫu tôi rất thích dượng Noble, nhưng ý nghĩ phải rời bỏ Chatham, lìa xa Jamie và Lyn cũng tệ hại vô cùng. Vì thế, tôi đã nói với mẹ là tôi phản đối bà kết hôn cùng người đàn ông ấy, trừ phi tôi có thể ở lại Chatham.
Nhưng dượng Noble đã thắng. Mẹ kết hôn với ông ấy và cả ba chúng tôi cùng chuyển đến Charleston.
Thế rồi bộ mặt thật của dượng Noble bắt đầu lộ ra. Mỗi ngày đi học về, tôi thường thấy ông say bí tỉ. Trường tan vào độ hai giờ chiều và khi tôi đạp xe về đến nhà thì là khoảng hai giờ rưỡi. Theo nếp sinh hoạt ở Charleston thì vào tầm đó tất cả chúng tôi sẽ cùng ngồi vào bàn để ăn “bữa tối”, bữa ăn chính trong ngày, thường diễn ra vào khoảng ba giờ chiều.
Vào những bữa ăn ấy, dượng Noble và tôi sẽ nổ ra những cuộc chiến tranh.
Tôi đã chuyển từ yêu thương sang căm ghét ông, không chỉ bởi vì ông đã khiến tôi phải rời bỏ Chatham, lìa xa các anh chị họ thân yêu cùng dì và dượng của tôi, mà còn bởi vì ông đã ngược đãi mẹ tôi. Ví dụ, dượng Noble và mẹ tôi thường chơi một trò chơi trẻ con có tên gọi là “bao – búa – kéo”. Đây là trò chơi rất lành tính khi được chơi bởi trẻ con, nhưng qua tay dượng Noble thì nó lại trở thành một trò tàn ác. Có một luật trong trò chơi là bạn có thể tát đối thủ bằng hai ngón tay (hình dạng hai ngón tay trông giống như cái kéo). Thế nhưng dượng Noble lại biến những cái tát bằng hai ngón tay thành những cú đánh gây đau đớn thường để lại những vết thâm tím suốt vài ngày. Ông ép mẹ tôi phải chơi trò đó suốt. Tôi khiếp sợ khi nhìn thấy niềm hân hoan trong ánh mắt ông mỗi lần đến lượt ông tát mẹ tôi. Tôi chẳng thể hiểu nổi vì sao mẹ lại không rời bỏ ông ngay lúc ấy.
Một lần nọ, lúc đó tôi khoảng tám tuổi, tôi gạt chân ông té khi ông đánh mẹ tôi vì bà đã châm thuốc cho ông hút theo cách mà ông cho là không đúng. Chẳng thèm để tâm đến tôi, ông tiếp tục ôm lấy chai martini của mình và đá tôi đi chỗ khác, nhưng ít ra thì ông cũng đã để cho mẹ tôi yên. Một đêm khác, khi bước vào phòng khách, tôi thấy mẹ đang cố tự vệ khi ông ấy tiến về phía bà với thanh cời than. Khi thấy tôi, ông ném thanh cời trở lại vào chỗ để dụng cụ lò sưởi và phun ra câu nói yêu thích của mình: “Biến đi”. Đây thường là lời mào đầu cho câu nói: “Nếu mày không thích thấy điều này thì tại sao mày không… biến đi!”.
Không lâu sau thì tôi thật sự muốn làm liều mà biến đi. Mẹ tôi đã bắt đầu cùng uống rượu với dượng Noble, vì thế mà cả hai người họ đều không thể làm những điều mà các bậc cha mẹ cần làm, đại loại như: làm bài tập cùng con, tham gia các trò chơi, đi câu cá, hoặc chơi bóng. Cuộc đời tôi khi ấy chỉ xoay quanh những việc như đi học, chiến đấu với dượng Noble, xem tivi một mình, rồi đi ngủ.
Điều khiến cho việc ra đi của tôi khó khăn hơn đó là dượng Noble cũng có thể tốt bụng. Đúng là cuộc đời khi trắng khi đen. Thỉnh thoảng ông cũng tốt với tôi, thậm chí cả sau khi chúng tôi khơi mào chiến tranh. Ví dụ, khi tôi bị bệnh sởi năm chín tuổi, sức khỏe của tôi rất yếu. Tôi sốt đến 40,5oC và chuyển sang mê sảng, vật vã với những cơn ác mộng. Tôi đổ mồ hôi nhiều đến nỗi ga giường của tôi ướt sũng và tôi sợ hãi vô cùng. Có lẽ chính trạng thái tâm thần bấn loạn lại giúp tăng cường trí nhớ. Tôi nhớ rất rõ cách mà dượng Noble ngồi bên cạnh tôi, chờ cho cơn sốt hạ xuống. Dượng thức cùng tôi đến tận khuya, chậm mồ hôi trên trán tôi bằng một chiếc khăn lạnh trong khi kể cho tôi nghe những câu chuyện về cái thời dượng làm nhân viên tình báo… khi tôi còn đủ tỉnh táo để lắng nghe.
Những câu chuyện ấy cứ như trong thần thoại; đến bây giờ tôi vẫn không biết liệu chúng có thật hay không, nhưng thật tuyệt khi nghe những câu chuyện ấy giữa cơn sốt cao. Rồi vào nửa đêm thì bác sĩ đến, cho tôi uống thuốc và thế là cơn sốt nhanh chóng qua đi. Ngày hôm sau, dượng Noble trở về là người như cũ, một kẻ nát rượu.
Tôi chống lại dượng Noble, và dượng chống lại tôi. Chúng tôi khiêu khích nhau bằng cả lời nói lẫn hành động. Thỉnh thoảng ông thúc cho tôi vài cú, nhưng ông chẳng bao giờ gây thương tích cho tôi như ông thường làm với mẹ. Tôi đã muốn thương yêu ông, và tôi tin rằng ông cũng muốn thương yêu tôi, nhưng kết cục là chúng tôi lại chỉ hành hạ nhau. Tôi thấy phẫn nộ thay cho mẹ và tôi rất giận vì chúng tôi đã không được sống ở Chatham, trong khi ông ấy thì… ông ấy đã làm gì chứ? Tại sao ông lại quá tệ bạc với mẹ con tôi? Tại sao ông lại trở mặt sau khi cưới mẹ tôi? Và tại sao ông không yêu thương cậu bé đã từng ôm siết ông với vòng tay rộng mở trong lần đầu tiên gặp gỡ?
Ông hẳn sẽ bảo rằng đấy là vì tôi đã trở thành một thằng nhóc hỗn xược, còn tôi sẽ cho rằng đó là bởi vì ông đã biến thành một kẻ tệ bạc nát rượu. Giờ thì ông đã mất rồi, nên tôi không thể hỏi ông vì sao. Nhưng tôi vẫn thắc mắc. Việc tôi là một đứa trẻ hư và ông là một kẻ nát rượu không hoàn toàn giải thích được vì sao ông và tôi đã đánh mất điều gì đấy mà đáng ra sẽ rất tuyệt vời cho cả hai. Tôi có thể tìm thấy người cha thứ hai và ông cũng có được đứa con trai mà ông không bao giờ có. Thay vào đấy, chúng tôi lại trở thành oan gia. Cuối cùng, khi tôi lên mười, mẹ tôi quyết định gửi tôi đến trường nội trú Fessenden ở Massachusetts, gần Boston, rời bỏ Charleston và thoát khỏi thế giới của dượng Noble.
Thế là trận chiến kết thúc. Tôi ra đi. Cơ hội cho những điều tốt đẹp, cũng như tồi tệ (phần lớn là tồi tệ) có thể đến giữa tôi và dượng Noble đã kết thúc. Vài năm sau thì mẹ tôi ly dị ông. Nhưng bà đã không thể hồi phục lại từ cuộc hôn nhân đó. Bà sống độc thân đến hết đời ở Chatham, cố gắng giữ cho tinh thần phấn chấn, một người phụ nữ ngọt ngào, tan vỡ và mắc chứng nghiện rượu.
Đây là bí ẩn của nhiều gia đình: Tại sao quá nhiều những điều vốn có thể trở nên tốt đẹp lại thường trở nên vô cùng tồi tệ?
Thậm chí có điều càng bí ẩn hơn: Tại sao khi mọi thứ đã đi sai hướng đến như thế thì cuộc sống rồi vẫn có thể diễn ra tốt đẹp như nó đã diễn ra với tôi cho đến lúc này?
Dượng Noble đã không thể hủy hoại tôi. Tôi đã sống sót, thậm chí còn thành công nữa, nhờ sự giúp đỡ của nhiều người tốt. Tôi không bao giờ gặp lại dượng Noble kể từ vụ ly hôn và tôi cũng chẳng nói chuyện với ông, ngoại trừ một lần. Tôi gọi cho ông vào năm 1987, khi ấy tôi ba mươi tám tuổi, còn ông khoảng chín mươi. Tôi mới vừa xuất bản quyển sách đầu tiên của mình. Tôi muốn người đàn ông đã làm tổn thương mẹ tôi quá nhiều ấy biết rằng sự xấu xa của ông đã không thể hủy hoại tôi.
Vì vậy tôi gọi đến tổng đài ở miền Nam Carolina để truy ra số điện thoại của ông và gọi cho lão ấy. Không nghi ngờ gì, ông đã bắt máy. Hẳn ông đã thấy phát ốm khi tôi báo cho ông biết ai đang gọi, nhưng với sự cứng rắn của mình, ông đã không gác máy. Ông hỏi: “Mày cần gì ở ta hả nhóc?”.
Bạn có thể tưởng tượng những gì mà tôi muốn nói. Nhưng thay vào đó, tôi đã chỉ đơn giản nói rằng kể từ lần sau cuối ông gặp tôi, tôi đã tốt nghiệp Đại học Harvard (ngôi trường mà ông đã bỏ ngang trước khi lấy được tấm bằng), tôi cũng đã tốt nghiệp trường y, hoàn thành khóa thực tập và vừa ra một quyển sách.
Tôi không thể viết ra đây những gì ông đáp lại. Ông chửi rủa tôi và bảo rằng tôi nói dối. Tôi có thể nghe thấy tiếng rít trong giọng của ông, tôi có thể thấy ông đang ngồi trên chiếc ghế yêu thích của mình với chai rượu trên tay. Rồi tôi nói với ông rằng bất chấp việc ông làm tổn thương mẹ con tôi, ông đã không thể nào hủy hoại chúng tôi. Tôi bảo với ông rằng những điều tốt đẹp nhất của mẹ luôn sống mãi trong tôi. Tôi bảo rằng ở độ tuổi ba mươi tám, tôi đã làm được nhiều việc tốt cho mọi người hơn so với những gì ông có thể làm trong cuộc đời chín mươi năm của mình. Với mỗi lời phát biểu thận trọng, tôi cảm giác mình đang đạt được sự cân bằng ở cán cân công lý đặc biệt mà tôi chưa từng làm được khi còn nhỏ. Hơn nữa cũng sẽ hữu ích khi để dượng Noble nghe được những lời này của tôi. Cũng tốt cho ông khi để ông biết được, trước khi chết, rằng mặt xấu xa của ông đã không thể chiến thắng. Ai biết được, có thể những hiểu biết ấy có thể giúp biến tâm hồn già nua cay độc của ông trở nên đủ tốt để thánh Peter có thể cho ông một sự phán xét khác.
Nhưng dượng Noble chẳng hề có ý định cho tôi bất cứ sự thỏa mãn nào qua cuộc nói chuyện trên điện thoại hôm ấy. Ông chỉ đơn giản là chửi rủa và lặp đi lặp lại rằng tôi là kẻ nói dối. Tôi biết ông đã say, nhưng tôi nghĩ rằng ông đủ tỉnh táo để hiểu.
Tôi vẫn còn nhớ những lời mình nói thay cho lời tạm biệt, những lời cuối cùng mà tôi nói với ông ấy. “Tôi biết rằng dượng biết tôi nói thật. Bây giờ thì cả hai ta đã có thể biến đi khỏi đời nhau mãi mãi”. Đầu dây bên kia yên lặng hồi lâu. Ông già đã cứng họng. Tôi có thể nghe thấy tiếng thở phì phì nặng nhọc của ông vì ông vẫn còn giữ chặt điện thoại. Tôi có thể nghe thấy ông đang cố gắng nói gì đó nhưng lời lẽ đã tắc nghẹn, miệng ông đã khô cạn như trái tim ông vậy. Đã đến lúc phải dừng cuộc chiến. Tôi gác máy.
Vào khoảnh khắc ấy, tôi cảm nhận được cảm giác tuyệt vời của lời khẳng định chiến thắng: “ĐÚNG VẬY!”. Tôi biết rằng những người tốt trên đời luôn thắng thế trước kẻ xấu. Tất cả những người đã cứu tôi thoát khỏi những ảnh hưởng của người đàn ông ấy đã chiến thắng.
Tuy nhiên, tôi phải nói rằng tôi ước gì mình có thể quay về quá khứ và làm cho mọi việc trở nên tốt đẹp với ông. Tôi ước gì mình có thể quay ngược thời gian và biến dượng Noble trở thành một người cha dượng, người chồng tốt mà ông có thể đã trở thành nếu không tại rượu chè và những thứ gì khác ai mà biết được. Tôi cũng ước mình đã không làm những việc khiêu khích ông. Tôi ước gì chúng tôi có thể tìm được, bằng cách nào đấy, tình yêu thương mà đáng ra chúng tôi nên dành cho nhau. Yêu thương đã luôn tồn tại, ở đâu đó. Chỉ là chúng tôi chưa bao giờ biết cách làm cho nó sinh sôi nảy nở.
Bất chấp tất cả những điều xấu xa mà dượng Noble đã làm, tôi chưa bao giờ hoàn toàn căm ghét dượng. Có lẽ đó là món quà mà ông dành cho tôi. Ông đã dạy tôi rằng tình yêu có thể sinh sôi ngay trong sự căm ghét. Ông ấy là người mà tôi căm ghét nhất đời, với những nguyên do hợp lý, nhưng dù vậy tôi biết rằng không phải tất cả là lỗi ở ông.
Ông đã cho cuộc đời tôi một khởi đầu không suôn sẻ. Thế thì điều gì đã cứu tôi khỏi những điều có thể đã trở thành thảm họa ấy?
Câu trả lời là đây: những người tốt.
Những gì đã cứu tôi chính là những gì đã cứu hàng triệu con người mỗi ngày. Chính những khoảnh khắc đời người – khoảnh khắc của sự kết nối đang sinh sôi nảy nở, mang đến cho tôi cảm giác mạnh mẽ, an toàn, quyền lực và hy vọng.
Những gì đã cứu vớt tôi có thể chính là những gì đã cứu vớt tất cả chúng ta.
Quay trở lại vấn đề, tôi muốn nói đến anh bạn Bobby Hitt của tôi, người bạn học hồi tôi còn ở Charleston. Bobby đã gặp dượng Noble khi tôi mời cậu đến nhà dùng bữa tối. Bobby cũng ghét ông. Thật an ủi cho tôi khi Bobby có thể thấy được dượng Noble là một kẻ ngu ngốc thế nào và hiểu được vì sao tôi lại ghét ông ta đến vậy. Bobby cũng mời tôi đến nhà cậu ấy và tôi đã được ăn tối với một gia đình bình thường. Cha cậu ấy làm việc cho tòa soạn báo ở Charleston. Bobby có một gia đình khá là ồn ào với các anh chị em, những con thú cưng và một người mẹ trông mệt mỏi, nhưng mọi người đều luôn rất tử tế, và chẳng ai nghiện rượu cả, ít nhất là với những gì tôi thấy được.
Bobby và tôi đạp xe rong ruổi khắp Charleston, vừa đạp xe chúng tôi vừa trò chuyện. Chúng tôi cũng thường “chơi đấu súng” với nhau, đó là cách chúng tôi dùng để chỉ bất cứ trò chơi nào có liên quan đến vũ khí đồ chơi. Thật ra thì chúng tôi chẳng có khẩu súng nào, dù rằng rất nhiều đứa trẻ ở vào độ tuổi của chúng tôi đều có. Một mùa thu nọ, chúng tôi đến chơi ở một cái hồ cạn và xây công sự bên trong một chiếc thuyền câu bị lật nghiêng. Chúng tôi trang bị cho nó bằng “những chiếc đèn” mà thật ra chỉ là những cái đèn pin được buộc dây và treo vào những cái đinh đóng trên tường, bằng “những chiếc giường” làm từ mấy cái hộp và giẻ lau mà chúng tôi mang từ nhà đến, và bằng “những cái ghế” làm từ mấy mẩu gỗ vụn xung quanh chiếc thuyền. Chúng tôi uống Pepsi, đọc truyện tranh ở trong cái công sự ấy, và quên khuấy việc phải về nhà cho đến khi trời tối.
Bobby khiến tôi quên đi những chuyện rắc rối ở nhà. Cậu cho tôi thấy được sức mạnh của việc có bạn bè.
Nhưng còn tiền bạc thì sao? Chẳng phải đó là “người bạn” đáng tin cậy nhất ở bên cạnh khi chúng ta phải đương đầu với những điều tệ hại nhất trong cuộc sống hay sao? Chẳng phải đồng tiền và những tiện ích kèm theo nó là một đồng minh thật sự hữu ích và đáng tin cậy hơn bất cứ “sự nối kết” hay “khoảnh khắc đời người” nào hay sao? Sự kết nối và khoảnh khắc đời người sẽ tạo điều kiện cho những tình cảm tốt đẹp, còn những kẻ hoài nghi thì sẽ bắt bẻ: “Cứ đưa tiền cho tôi vào những thời khắc khó khăn đi, rồi tôi sẽ tìm được khối bạn bè cho mà xem”.
Từ rất sớm, tôi đã học được điều ngược lại. Tiền chẳng thể giúp được cho tôi ở Charleston. Dượng Noble có rất nhiều tiền và ông sẵn sàng tiêu xài, thậm chí là cho tôi nữa. Nhưng thứ tôi cần không phải là tiền. Tôi cần Bobby Hitt, gia đình cậu ấy và những sự kết nối lành mạnh khác.
Hầu hết chúng ta đều quên đi những bài học thời thơ ấu, hoặc chỉ ghi nhận chúng như những câu chuyện cổ tích đơn thuần. Dù sao đi nữa, cuộc sống rất khó khăn, và chúng ta đều phải trả một cái giá nào đấy. Nhưng tôi vẫn ghi nhớ việc có một người bạn có ý nghĩa với mình như thế nào, trước đây và cả bây giờ nữa. Khi tôi bắt gặp mình đang mong ước có được nhiều hơn – tiền bạc, quyền lực, sức ảnh hưởng, hay bất cứ thứ gì, tôi đều cố nhắc nhở bản thân rằng tôi đã có những gì mình cần nếu tôi biết ghi nhận và trân trọng nó, giống như khi xưa tôi đã có Bobby Hitt vậy.
Tình bạn có thể kéo dài cả đời, nhưng cần phải có những nỗ lực để giữ liên lạc với nhau. Tôi đã để mất liên lạc với Bobby Hitt. Bobby, nếu cậu đọc quyển sách này thì hãy gọi cho tôi nhé! Đồng thời tôi cũng sẽ cố gắng tìm cậu. Cậu vẫn còn sống ở miền Nam Carolina đấy chứ?
So với trẻ con thì dường như việc giữ liên lạc đối với người lớn lại khó khăn hơn nhiều. Vài người bạn của tôi giờ đây đã trở nên quá bận rộn để có thể dành ưu tiên cho tình bạn. Tôi đã cố liên lạc với họ, nhưng chỉ nhận được những câu chào hỏi lịch sự xã giao chứ chẳng có sự khôi phục một tình bạn sâu sắc nào. Người ta bảo rằng đây là việc không thể tránh khỏi khi chúng ta trưởng thành. Người ta tách lìa nhau và bắt đầu bận bịu với gia đình, với công việc. Nhưng tôi vẫn cố hết sức có thể để giữ lấy các mối quan hệ bạn bè của mình.
Tôi cảm thấy nếu không làm thế thì cuộc sống của tôi sẽ trống rỗng. Đương nhiên tôi sẽ cảm thấy như thế. Tôi đã có một cuộc đời được người khác cứu rỗi khỏi thảm họa.
Có bao giờ bạn tự hỏi: “Ai hay điều gì đã cứu vớt bạn?”. Câu hỏi này có thể khiến bạn ngạc nhiên, đặc biệt là khi bạn không phải vượt qua bất cứ chướng ngại lớn nào trong đời. Có thể bạn sẽ bảo với tôi rằng: “Tôi không giống như anh. Tôi chẳng cần ai cứu vớt cả”.
Nhưng tôi cá là phải có một hoặc nhiều người, hoặc điều gì đó, hoặc một nơi chốn, thậm chí là những vật nuôi có thể đã từng giúp đưa bạn đến vị trí hiện tại.
Có thể đó là một hoặc một vài thầy cô giáo như trong trường hợp của tôi chẳng hạn. Hoặc có thể đó là mẹ của bạn, hoặc là một đồng sự đã cứu nguy cho bạn, hoặc đó có thể là một bác sĩ, người đã chẩn đoán đúng bệnh của bạn vào đúng lúc.
Không phải lúc nào chúng ta cũng thích suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Chúng ta thích nghĩ rằng chính mình đã tự cứu lấy bản thân. Chúng ta thích nghĩ rằng mình có thể làm tất cả mọi chuyện, rằng chúng ta hoàn toàn độc lập. Nhưng thật ra chẳng ai trong chúng ta như thế cả.
Có những khoảnh khắc nhất định lơ lửng trong ký ức của tôi như những bức tranh quý báu, những khoảnh khắc mà tôi thường hồi tưởng lại: khoảnh khắc nằm rúc vào lòng bà tôi ở trên giường, khoảnh khắc cùng ngồi uống bia với cậu bạn Peter Metz sau những trận bóng mà chúng tôi thường chơi hai lần mỗi tuần, khoảnh khắc ngắm cậu con trai út Tucker nằm ngủ say trên giường với ánh trăng rọi làm ánh lên sắc bạc trên gương mặt thằng bé, khoảnh khắc lắng nghe Tom, anh vợ tôi, cổ vũ tôi thi vào trường y khi tôi nghĩ rằng mình thiếu sức chịu đựng và sự thông minh, rồi khoảnh khắc tôi ngỏ lời cầu hôn với Sue (giờ đã là vợ tôi) trong một nhà hàng ở Paris khi người hầu bàn thiếu kiên nhẫn, quan tâm đến thức ăn nhiều hơn là những chuyện lãng mạn, thúc giục Sue ăn nốt phần của cô trước khi đồ ăn nguội lạnh, khoảnh khắc được ôm trong tay đứa con đầu lòng và cũng là con gái duy nhất của chúng tôi, Lucy, khi con bé vừa chào đời, rồi ba năm sau lại ôm Jack trong tay, và ba năm sau nữa là Tucker. Những khoảnh khắc này, và còn nhiều nữa những khoảnh khắc khác, là những kiệt tác của cuộc đời tôi, những khoảnh khắc đời người của tôi, những kiệt tác mà tất cả chúng ta có được, bằng cách này hay cách khác, thậm chí dù ta không phải là những nghệ sĩ tài ba.
Ở giữa những kiệt tác ấy vẫn có những cảnh đớn đau. Sớm muộn gì rồi chúng ta cũng phải đối diện với nỗi đau. Khi điều đó xảy đến, chúng ta không chỉ cần có tiền bạc. Chúng ta có thể nhìn nhận những người đứng đầu trong ngành công nghiệp như những người hùng trong cuộc sống thường nhật – như Bill Gates6 hay Michael Dell7 của ngày nay, hoặc J. P. Morgan8 và Andrew Carnegie9 của những thế hệ trước, thế nhưng khi nhắc đến câu hỏi tối hậu thì họ cũng ngơ ngác như những cậu học sinh cả thôi.
6 Bill Gates: Người sáng lập và ông chủ của tập đoàn Microsoft.
7 Micheal Dell: Người sáng lập và ông chủ của tập đoàn máy tính Dell.
8 J. P. Morgan (1837 – 1913): Là nhà tài chính nổi tiếng người Mỹ.
9 Andrew Carnegie (1835 – 1919): Là doanh nhân người Mỹ. Ông được mệnh danh là Vua thép.
Chúng ta tìm kiếm sự giúp đỡ ở những nơi khác để vượt qua đau đớn của cuộc đời. Chúng ta trông cậy vào nhau và trông cậy vào trí khôn bất diệt, nếu chúng ta có thể tìm thấy nó.
Tôi đã tìm thấy nó trong những lời lẽ của thánh Paul [1 Cor.13:8 – 13]:
Tình yêu không bao giờ kết thúc. Những lời tiên tri rồi sẽ kết thúc. Miệng lưỡi thế gian rồi có khi cũng phải ngưng nghỉ. Kiến thức cũng chỉ có giới hạn. Bởi chúng ta chỉ hiểu biết những điều rời rạc và chúng ta chỉ tiên đoán được từng phần, nhưng khi chỉnh thể đến, những phần rời rạc sẽ không còn nữa… Bởi hiện thời chúng ta chỉ nhìn thấy lờ mờ qua gương, nhưng rồi ta sẽ được nhìn trực diện. Hiện thời, ta chỉ biết một phần nào đó; nhưng rồi ta sẽ biết được trọn vẹn, kể cả bản thân mình. Khi ấy, đức tin, hy vọng và tình yêu sẽ trường tồn, cả ba điều này; và điều tuyệt diệu nhất trong ba điều đó chính là tình yêu.
Những lời ấy của thánh Paul vốn quen thuộc với những người theo Thiên Chúa giáo, nhưng chúng nói đến tất cả mọi người, bất kể niềm tin của họ là gì. Điều gì đã cứu vớt tất cả chúng ta nếu không phải là đức tin, hy vọng và tình yêu? Thậm chí nếu đức tin của ta không nằm nơi Chúa, đó là niềm tin rằng sẽ có ai đó chờ ta về nhà, hoặc niềm tin rằng một người thân yêu sẽ chân thành với ta, hoặc niềm tin rằng mái nhà sẽ không đột nhiên sập xuống khi ta đang ngồi dưới đó.
Mái nhà đã không sập xuống đầu tôi, mặc dù nó vốn đã lung lay. Cho đến bây giờ, nó vẫn chưa sập xuống. Điều đã cứu vớt tôi chính là những người tốt, chính tình yêu của họ, đức tin và niềm hy vọng mà họ đã nhen nhóm trong tôi.
Bạn có thể nghĩ ra điều gì đã cứu vớt mình chưa?
Cuộc trò chuyện điên rồ
Ở cương vị một bác sĩ, đặc biệt là một bác sĩ tâm lý, nghĩa vụ của tôi là phải cứu người, hoặc giúp họ tự cứu lấy bản thân. Tôi đã bắt đầu chương này bằng cách kể lại việc ai đã cứu mình, giờ hãy để tôi đưa ra ví dụ về cách tôi tham gia vào quá trình một người khác được cứu vớt, ít nhất là trong chốc lát.
Một buổi trưa Chủ nhật, khi tôi là bác sĩ tâm lý cộng tác (được gọi đến khi cần) ở một bệnh viện tâm thần, một phụ nữ trẻ từ bên ngoài bước vào và tuyên bố rằng cô muốn tự tử. Bản thân sự kiện này chẳng có gì bất thường. Những người vào bệnh viện tâm thần thường nghĩ đến chuyện tự sát. Điều làm cho người phụ nữ này trở nên đặc biệt và khiến tôi vẫn nhớ về cô sau hơn hai mươi năm chính là những việc đã xảy ra một tiếng đồng hồ sau khi cô bước vào.
Cô ấy cho tôi biết tên cô là Ruby. Khi tôi hỏi cô bao nhiêu tuổi, cô trả lời:
– Hai bình phương nhân hai lập phương.
Tôi ngừng một chút, rồi hỏi:
– Vậy có phải cô ba mươi hai tuổi hay không?
Cô gật đầu đồng ý và hỏi xin tôi một điếu thuốc. Chúng tôi quả thật có giấu ít thuốc lá cho những người đến từ bên ngoài, nên tôi đưa cho cô một điếu. Cô ngồi ở chiếc ghế đối diện bàn làm việc của tôi và hút thuốc. Cô ngồi bắt chéo chân và bắt đầu đung đưa lên xuống cái chân ở trên rất nhanh.
Tôi đang trong đợt thực tập, còn rất mới mẻ đối với việc đánh giá chứng bệnh muốn tự sát hay bất cứ kiểu chẩn đoán nào. Ruby đã sớm trở thành người thầy đáng nhớ nhất của tôi.
Tôi hỏi cô một cách tự nhiên:
– Cô có thể cho tôi biết vì sao cô lại muốn tự tử không?
Cô nói:
– Ồ, đó là loại câu hỏi ngu xuẩn gì thế? Gã bác sĩ chíp hôi mới ra trường như cậu thì biết gì về cuộc sống?
Trường học không dạy tôi về những cuộc đối thoại như thế này. Với việc này, tôi phải học từ thực tế công việc. Chẳng ai quan sát tôi vào lúc ấy, ngoại trừ Ruby. Chẳng có ai ở đó để giúp đỡ tôi, cũng chẳng có ai ở đó để khiển trách hoặc hướng dẫn lại cho tôi nếu tôi làm mọi việc rối rắm. Tôi chớp mắt vài lần và không nói gì. Rồi tôi tiếp tục:
– Ừ thì, đúng là tôi không có nhiều kinh nghiệm về việc này, nhưng tôi thật sự muốn giúp cô nếu có thể.
Ruby huýt sáo ra vẻ sửng sốt đầy chế giễu. Rồi cô hướng ánh mắt về phía tôi:
– Cậu thật sự nghĩ rằng điều đó sẽ có hiệu quả? Rằng cậu có thể cứu sống tôi bằng cách cứ bô bô những lời ngu xuẩn là muốn giúp đỡ tôi?
Cô làu bàu lặp lại với giọng khinh bỉ:
– Cậu thật lòng muốn giúp đỡ tôi. Ôi, điều đó mới ngọt ngào chưa kìa?
Rồi cô ấy nói to cứ như thể nói với những khán thính giả trong tưởng tượng:
– Cậu ta thật lòng muốn giúp đỡ tôi. Chúa phù hộ linh hồn tôi. Tôi đã được cứu rỗi!
Cô rít một hơi sâu điếu thuốc, rồi quẳng nó xuống sàn nhà và dập tắt nó bằng mũi giày. Cô hỏi tôi:
– Có điếu nữa không?
Tôi đáp “Có” và đưa điếu nữa cho cô với hy vọng sẽ thu phục được cô nhờ thuốc lá.
Cô gặng hỏi:
– Cậu biết gì về đời tôi, và cậu muốn giúp tôi như thế nào đây?
Công việc của tôi là tiếp bất cứ ai tìm đến, hoặc những người được cảnh sát đưa đến, đánh giá người đó, sau đó quyết định xem liệu có thể trả họ về chỗ của mình hay nhận họ nhập viện. Đây là bệnh viện có giảng dạy y khoa mà tôi làm bác sĩ tâm lý thực tập, nhưng đây cũng là bệnh viện công nên điều kiện vật chất cũng khá tệ. Những người đến đây thường là người nghèo hoặc người vô gia cư. Họ có xuất thân rất khác so với thực tập sinh chúng tôi, những người được cho là sẽ “đánh giá” họ. Vì thế mà cũng dễ hiểu vì sao Ruby hỏi tôi biết gì về cuộc đời, đặc biệt là cuộc đời của cô ấy.
Ruby kẹp điếu thuốc chưa đốt giữa hai ngón tay khi cô bắt đầu đợt tấn công mới:
– Tôi biết cậu muốn giúp tôi. Điều đó thì hiển nhiên rồi. Nhưng cậu có thể làm được hay không thì đấy lại là chuyện khác.
Tôi hỏi:
– Cô sẽ để tôi thử chứ?
Ruby đợp lại:
– Tôi có lựa chọn nào khác à? Tôi tin rằng cậu là lựa chọn duy nhất của tôi trong vụ này, n’est-ce pas (đúng thế không)?
Tôi đáp:
– Rubby, xem nào, cô thông minh hơn tôi. Chúng ta đều dễ dàng nhận thấy điều đó. Vậy, cách duy nhất để tôi có thể giúp cô đó là cô để tôi làm vậy. Nếu cô muốn chơi trò chơi với tôi, cô có thể cứ lòng vòng với tôi như cô đang làm.
Ruby kêu lên:
– Chậc, chậc, chậc! Đừng bao giờ tự hạ thấp bản thân như thế. Tôi chỉ là một kẻ điên, một bộ phận hỗn độn của xã hội, còn cậu là một bác sĩ cao quý đang thực tập tại một bệnh viện nổi tiếng, vốn là một phần của trường y khoa Harvard. Tôi mới là người phải cúi đầu trước cậu chứ đâu phải ngược lại như thế.
Rõ ràng là Ruby biết về bệnh viện này. Rất có thể cô ấy đã từng nhập viện. Tôi muốn gọi cho bên an ninh để nhờ họ lục lại hồ sơ cũ của cô trong khi chúng tôi trò chuyện.
Tôi hỏi:
– Cô đã từng được nhận vào đây chưa?
Cô trả lời:
– Đương nhiên. Những người ở tầng trên biết rõ tôi. Tất cả đều nằm trong hồ sơ của tôi. Nhưng đó không phải là vấn đề mà chúng ta cần giải quyết vào lúc này. Ngay bây giờ, chúng ta phải quyết định liệu tôi có sắp kết liễu đời mình với món vũ khí nhỏ bé mà tôi có hay không.
Nói đến đó, cô lôi từ trong áo ngực ra một khẩu súng ngắn.
Đây là một trải nghiệm nghề nghiệp mới tinh với tôi. Tôi chưa bao giờ có một bệnh nhân móc súng ra trước mặt mình như thế. Tôi hỏi:
– Đó là súng à?
– Chứ sao nữa, bác sĩ, nó không phải là thanh kẹo Tootsie Roll10!
10 Tootsie Roll: Một loại kẹo sô-cô-la dẻo của Mỹ, được sáng chế vào năm 1896 bởi Leo Hirshfield, một người Áo định cư ở Úc. Ông đặt tên cho loại kẹo này bằng tên của con gái ông.
Phía dưới bàn có một nút ấn chuông báo động mà tôi có thể nhấn để gọi lực lượng an ninh đến nếu tôi muốn thế. Nhưng đó có vẻ là một ý tưởng rất tệ. Tôi hỏi lại, đơn giản là vì tôi đã không thể tin vào mắt mình:
– Đó có thật là một khẩu súng không vậy?
– Thế nào, đồ vô dụng, cậu có thấy mình may mắn không?
Cô gầm gừ, cố gắng hết sức để bắt chước cái kiểu của Clint Eastwood11. Rồi cô mỉm cười và bóp cò súng, nhưng không có tiếng nổ mà chỉ có một ngọn lửa nhỏ phụt ra.
11 Clint Eastwood: Diễn viên người Mỹ. Ông nổi tiếng với những màn đấu súng trong các bộ phim cao bồi.
– Đây là bật lửa của tôi. Tôi có làm cậu hoảng sợ không hả, bác sĩ? Nếu có thì tôi hết sức xin lỗi nhé.
– Thôi được rồi, Ruby. Tôi nghĩ cô đã nói chuyện với tôi đủ nhiều để tôi có thể cho cô đi.
– Ồ, bây giờ thì cậu sắp tống tôi ra đường trở lại và để tôi kết liễu đời mình như là một hình phạt cho việc tôi đã dọa cậu bằng chiếc bật lửa ư? Cậu có nghĩ rằng làm thế thì có vẻ quá nghiệp dư không?
– Ruby, tôi nghĩ cô đang đùa cợt tôi. Tôi nghĩ cô bước vào đây hôm nay chỉ vì cô thấy chán, chứ chẳng phải vì cô đang đau khổ. Tôi cũng nghĩ hình như cô đã chơi thuốc thì phải.
Bất chợt, cô ném cái bật lửa vào tôi. Nó bay sượt qua đầu tôi và đập vào tường, vỡ tan tành. Cô hét vào mặt tôi:
– Cậu biết gì về cuộc sống chứ? Cậu biết gì về mọi thứ chứ? Thấy những vết sẹo này không? – Cô rít lên, vén tay áo lên cao để lộ những vết sẹo chằng chịt đã nhạt màu trên hai cánh tay. – Tôi tự cắt tay mình cho vui đấy. Nó chẳng hề hấn gì so với những nỗi đau mà tôi cảm nhận trong lòng. Tôi không thể dừng được. Cậu có hiểu được không? Dĩ nhiên là không. Đừng có mà nói với tôi tại sao tôi đến đây, hay cậu nghĩ hôm nay tôi đã làm gì. Tôi đã cố gắng sống tốt ở ngoài kia, và cuối cùng tôi bước vào đây để tìm sự cứu viện, rồi cậu, một tên chíp hôi cao ngạo, ích kỷ, người chưa từng phải chịu đựng đau khổ, dù chỉ một ngày trong cuộc sống đầy đặc quyền của mình, cậu tốt hơn hết là đừng bảo rằng tôi đến đây chỉ vì nhàm chán. Cậu chẳng biết cóc khô gì cả.
Tôi ngồi yên lặng. Tôi nhận ra mình đã nói chuyện với cô ấy bằng giọng giận dữ và đó quả là một sai lầm. Tôi cũng nhận ra rằng cô ấy là một phụ nữ thông minh, người chắc hẳn hiểu biết nhiều hơn tôi. Tôi thoáng có ý muốn phản pháo về việc cô bảo tôi là cậu nhóc đầy đặc quyền, nhưng tôi cho rằng lúc này mà nói với cô về những rắc rối tôi đã từng trải qua là không phù hợp. Tôi bắt đầu hiểu ra tại sao mọi người gọi nghề bác sĩ tâm lý là một nhiệm vụ bất khả thi. Tôi nói:
– Cô nói đúng. Tôi không hiểu biết nhiều.
– Ô, chết tiệt, tốt hơn là cậu nên học hỏi, vì tôi không thể lo vụ này một mình. – Ruby giãy nảy, rồi bật khóc.
Lúc ấy, chuông điện thoại trên bàn tôi reo. Đó là người điều hành tổng đài, Barney. Anh nói với tôi là anh đang bị nhức đầu nghiêm trọng. Tôi bảo với anh rằng tôi đang có một bệnh nhân. Anh nói anh không nghĩ mình có thể tiếp tục trực tổng đài được nữa vì cơn nhức đầu rất dữ dội. Đó là cơn nhức đầu tồi tệ nhất mà anh từng có trong đời. Anh đã gọi cho quản lý của mình để nhờ giúp đỡ và bà ấy hứa sẽ xuống trực thay để anh có thể về, nhưng đợi mãi chẳng thấy nên anh phải điện cầu cứu tôi. Tôi hứa sẽ điện lại cho anh ngay.
Khi tôi gác điện thoại, Ruby nhìn tôi vẻ dò hỏi. Tôi nói với cô:
– Người điều hành tổng đài bị nhức đầu.
Ruby đáp:
– Ồ, tôi cũng vậy.
– Nhưng anh ấy bảo rằng đó là cơn nhức đầu dữ dội nhất mà anh ta từng có. Đó là dấu hiệu thường thấy của chứng chảy máu não, cô biết đấy, có thể anh ta bị tai biến. Tốt hơn hết là tôi phải đi xem anh ta thế nào. Có thể tính mạng anh ta tùy thuộc vào việc này. Cô cần phải đi cùng tôi. Tôi không muốn để cô lại một mình với bảo vệ.
Ruby rụt rè hỏi:
– Tại sao? Cậu sợ rằng tôi sẽ tự làm mình bị thương à?
Tôi vớ lấy ống nghe và dụng cụ đo huyết áp trong ngăn tủ sắt, rồi giục:
– Coi nào, đi thôi.
Tổng đài điện thoại của bệnh viện đã rất cũ kỹ. Người trực tổng đài phải mang bộ ống nghe và điều hành một dàn máy với hàng trăm phích cắm, tất cả chúng đều có dây nhợ chằng chịt, giống như nhân vật Ernestine, do Lily Tomlin12 thủ vai, từng phải điều hành trên chương trình Laugh-In vậy. Khi tôi đến nơi, Barney đang đổ mồ hôi đầm đìa và rõ ràng là đang đau đớn dữ dội. Thế nhưng anh vẫn mang bộ ống nghe và đang trả lời điện thoại. Anh bảo tôi:
12 Lily Tomlin (sinh năm 1939): Là nữ diễn viên người Mỹ, tác giả kiêm nhà sản xuất hài kịch.
– Tôi không thể bỏ ống nghe xuống cho đến khi nào có người khác đeo nó thay tôi. Đó là quy định. Tổng đài phải luôn có người trực.
Về sau, bất cứ lúc nào có người cười nhạo các nhân viên công chức nhà nước, bảo rằng họ toàn là những kẻ lười nhác và hay trốn việc, tôi liền nghĩ ngay đến Barney đã từ chối rời bỏ vị trí của mình ngay cả khi anh đang bị nguy hiểm đến tính mạng. Tôi yêu cầu:
– Barney, hãy bỏ ống nghe xuống đi. Tôi sẽ chịu trách nhiệm.
Anh ta khăng khăng:
– Bác sĩ, anh phải đeo nó vào thì tôi mới bỏ ra được.
Tôi phản đối:
– Nhưng tôi không biết cách sử dụng nó.
Barney đáp:
– Không sao đâu, tôi sẽ chỉ anh.
– Được rồi, Barney, nhưng giờ hãy lo cho anh trước đã.
Tôi hỏi thăm ngắn gọn về tiền sử bệnh trạng của anh, rồi tiến hành đo huyết áp. Nó cao ngất trời, ở vào mức nguy hiểm. Đây quả là một trường hợp khẩn cấp. Tôi nói:
– Barney, hãy gọi xe cấp cứu. Bảo với họ rằng đây là một trường hợp khẩn cấp.
Barney hỏi:
– Có phải là một ca Code Blue13 không?
13 Code Blue: Trong hệ thống cấp cứu y tế ở Mỹ, người ta thường sử dụng mã màu để phân loại các trường hợp cấp cứu. Tuy sự phân loại này chưa được tiêu chuẩn hóa, nhưng vẫn được sử dụng phổ biến ở hầu hết các cơ sở cấp cứu. Mã Xanh là một ca cấp cứu khẩn cấp với bệnh nhân có nguy cơ ngừng thở, ngừng tim, chết não. Khi bệnh viện nhận được thông báo về một ca Code Blue, họ sẽ lập tức triệu tập ngay một đội ngũ cấp cứu hồi sức và sử dụng các phương tiện ưu tiên để đến với bệnh nhân nhanh nhất có thể.
Tôi đáp:
– Đúng vậy, Barney. Một ca Code Blue. Theo quy trình tiêu chuẩn đi.
Nhanh như chớp, Barney gọi xe cấp cứu, rồi anh quay sang nhìn tôi như thể muốn hỏi: “Giờ ta làm gì đây, bác sĩ?”.
Tôi nói với anh:
– Bỏ ống nghe ra đi. Đưa nó cho tôi.
Barney miễn cưỡng làm theo. Phòng cấp cứu cách không xa lắm và xe cấp cứu đến trong vòng chưa đầy một phút sau cuộc gọi của Barney. Khi các hộ lý vội vã chạy lên lầu, đi đến góc phòng nhỏ nơi đặt tổng đài thì tôi đang nghe Barney hướng dẫn cách sử dụng các thiết bị tổng đài. Tôi thật sự nghi ngờ không biết Barney có chịu để người ta mang anh đi cấp cứu hay không nếu tôi không lắng nghe anh hướng dẫn. Thế nên tôi đã nghe, nhưng rõ ràng tôi chẳng phải là một học trò giỏi.
Đột nhiên, một bàn tay đặt lên cánh tay Barney. Đó là Ruby. Cô bảo:
– Anh phải đi thôi, anh bạn. Tôi sẽ lo liệu việc này. Tôi đã từng làm việc này trước đây nên tôi biết cách, sẽ ổn cả thôi.
Barney mỉm cười, cứ như thể đã có bác sĩ nhi khoa đến chăm sóc cho đứa con của anh. Giờ thì anh đã sẵn lòng rời khỏi vị trí làm việc. Anh nằm xuống trên băng ca và được đưa ra xe cấp cứu.
Khi nhìn anh rời đi, tôi ngồi đó, tai đeo ống nghe, trong khi các ngọn đèn trên bảng điều khiển tổng đài chớp nhá và có những tín hiệu cần được trả lời. Nhưng ai biết phải trả lời thế nào? Nếu như tôi không có kinh nghiệm với hội chứng muốn tự vẫn, thì tôi cũng vô cùng ngơ ngác với việc trực tổng đài.
Ruby ré lên. Không phải trong giận dữ mà trong một trận cười ha hả. Cô vỗ vào đầu gối, cô ôm bụng mà cười ngặt nghẽo. Cô đứng bên cạnh tôi và rất hả hê khi thấy tôi lóng ngóng như thế.
– Tôi rất vui khi biết việc này đối với cô là một trò thú vị! – Tôi vừa nói vừa cố gắng trong vô vọng để cắm phích cắm vào đúng chỗ của nó.
Câu trả lời duy nhất cô dành cho tôi là thêm một tràng cười ngặt nghẽo nữa. Cô thật sự không tự chủ được cảm xúc của mình. Tôi loay hoay xoay xở một mình bởi vì chẳng có sự lựa chọn nào khác và cũng bởi vì việc này rõ ràng có nhiều tác động mang tính trị liệu đối với Ruby hơn so với tất cả những lời lẽ mà chúng tôi đã trao đổi với nhau cho đến thời điểm này.
– Cậu có cần được giúp đỡ không? – Cô vừa hỏi vừa thở hổn hển như đang cố gắng kiềm chế tràng cười. Thế nhưng sự cố gắng kìm nén ấy chỉ tổ làm cô sặc và ho sù sụ.
Tôi trả lời:
– Vâng, tôi thật sự cần cô giúp.
– Cảm giác cần sự giúp đỡ của tôi nó như thế nào hả bác sĩ? Tôi không thể không hỏi cậu điều đó.
Tôi cố gắng ấn cái nút mà tôi nghĩ sẽ thông một đường dây để tôi có thể trả lời các cuộc gọi đến.
– Cậu vừa ngắt đường truyền đấy. – Cô nói và lại cười hô hố.
Tôi nhìn cô, khẩn khoản nói:
– Ruby, xin hãy giúp tôi. Đó có thể là những cuộc gọi quan trọng.
Cô giật tai nghe khỏi đầu tôi và đẩy tôi ra chỗ khác. Khi tôi đã đứng dậy, cô ngồi ngay vào ghế và trả lời các cuộc gọi, trong khi kết nối với các đường dây nhánh đang có tín hiệu sáng đèn. Chỉ trong vài phút, cô đã có thể kiểm soát được tổng đài. Vài phút sau đấy thì quản lý của Barney hối hả chạy đến và cảm ơn tôi vì đã giúp đỡ. Khi bà ấy hỏi tôi ai đã điều hành tổng đài giùm tôi quá tốt như thế, tôi trả lời rằng đấy là một người bạn ghé thăm tôi trong ca trực và may mắn là người ấy có chút kinh nghiệm về việc trực tổng đài.
Tôi cũng kể cho người quản lý ấy nghe về hành động anh hùng của Barney, việc anh cứ khăng khăng từ chối đi cấp cứu cho đến khi biết chắc rằng tổng đài được điều hành đúng cách. Bất chấp tính hóm hỉnh của tình huống, sự thật là Barney đã mạo hiểm tính mạng mình. Rồi chúng tôi gọi đến bệnh viện và được biết rằng Barney đã đến đó kịp thời. Cơn tăng huyết áp đột ngột của anh đã được xử lý và đã ở trong tình trạng được kiểm soát. Anh ấy sẽ khỏe lại.
Giao lại tổng đài cho cấp trên của Barney, tôi và Ruby quay trở về phòng khám, những gì diễn ra tưởng chừng như trong vài giờ, nhưng thực ra chỉ trong khoảng mười lăm, hai mươi phút.
Ruby ngồi xuống và tôi cũng thế. Ruby bảo:
– Cậu đã chữa trị cho tôi rồi đấy, bác sĩ. Việc này tốt hơn là tự cắt tay mình.
Tôi hỏi:
– Giờ cô cảm thấy thế nào?
– Tốt hơn bội phần. Tất cả những việc vừa rồi thật sự gãi đúng chỗ ngứa của tôi.
Chúng tôi trò chuyện thêm giây lát, tôi có thể đoan chắc rằng Ruby đã ổn định và cả hai chúng tôi cùng quyết định là cô có thể an toàn ra về.
Điều tôi học được từ Ruby và từ sự việc diễn ra ngày hôm đó ở tổng đài là về sức mạnh của việc cảm giác thấy mình hữu ích. Khi người ta buồn khổ, việc cảm thấy bản thân có chút giá trị là rất cần thiết. Một cách để bạn có thể cảm thấy bản thân có giá trị là có ai đó cần đến sự giúp đỡ của bạn. Ruby đã đến phòng khám của tôi ngày hôm ấy với cảm nhận rất thấp về giá trị bản thân và cuộc phỏng vấn ban đầu tôi dành cho cô càng khiến cô cảm thấy giá trị của mình thấp kém hơn người khác. Tôi có quyền quyết định về những điếu thuốc, tôi có quyền quyết định để cho cô nhập viện hay không, tôi là người “đánh giá” cô, tôi là bác sĩ, còn cô là bệnh nhân. Tất cả những gì cô có thể làm là phản kháng, điều mà cô đã làm hết sức khôn ngoan và quyết liệt; hoặc đến khi không còn biết làm gì nữa thì cô tự cắt tay mình như đã từng làm nhiều lần trước đây, để có cảm giác gì đấy khác hơn là cảm giác vô giá trị.
Nhưng rồi, hoàn toàn bất ngờ, chính tôi mới là kẻ vô dụng khi đương đầu với việc nằm ngoài sở trường của mình, tôi lại cần sự giúp đỡ của người khác đến là thảm hại, lại là cần sự giúp đỡ từ chính cái người tìm đến tôi để được giúp đỡ, thế rồi… hô biến! Chúng tôi đã hoàn thành việc chữa trị, tạm thời là như thế.
Trong khoảnh khắc đời người đầy sức mạnh ấy, Ruby đã dạy tôi một nguyên lý mà tôi đã áp dụng hàng ngàn lần kể từ đấy về sau. Nguyên lý ấy thế này, khi một người nào đó, bất cứ người nào, không nhất thiết phải là bệnh nhân của tôi, một người bạn, một đứa con, hay thậm chí là một người xa lạ, cảm thấy buồn bã và chua chát trong cuộc sống thì nên để họ giữ vai trò là người giúp đỡ, để không chỉ đơn thuần tạo cho họ cảm giác họ có sức mạnh và quyền kiểm soát, mà còn phải giúp họ cảm nhận được nhân phẩm và giá trị của bản thân.
Tờ bướm
Như Ruby đã nhắc nhở tôi trong câu chuyện vừa rồi rằng nhờ người khác giúp đỡ là việc rất khó khăn. Việc giúp đỡ người khác khi được nhờ cũng khó khăn không kém. Dù người ta có thể bảo rằng họ rất thích giúp đỡ người khác, nhưng khi thật sự bắt tay vào làm việc ấy thì họ có thể cảm thấy vô cùng rầy rà rối rắm. Tôi đã học được điều lạ lùng này vào một ngày mùa đông lạnh giá cùng cô con gái Lucy của mình.
Đầu tháng Mười hai của năm mà Lucy mười hai tuổi, con bé và tôi cùng làm một việc mà hai bố con chưa từng làm trước đây: chúng tôi phát tờ bướm ở quảng trường Harvard.
Tôi rất ghét các tờ bướm bởi vì cho đến lúc đó tôi luôn ở vị thế của người nhận tờ bướm. Chúng được phát đến tay tôi bởi những tay chuyên phát tờ bướm xông xáo tại quảng trường Harvard và bất cứ quảng trường nào khác mà tôi từng đến. Chúng cũng được nhét trên kính chắn gió xe hơi trong lúc tôi xem phim. Chúng nhiều lần làm lộn xộn thùng thư và thềm nhà tôi, vài cái thậm chí còn bay cả vào sân sau. Tôi ghét cay ghét đắng các tờ bướm, cũng như những người đã tạo ra chúng, gửi chúng đi, và nhất là những người đi phát chúng. Việc chìa một tờ bướm vào mặt tôi là một sự xâm phạm, một tờ bướm lên án một việc bất công mà tôi đã biết, hoặc mời chào một vài loại dịch vụ mà tôi không có nhu cầu, hoặc giới thiệu một mối làm ăn mà tôi chẳng có hứng thú. Tôi liệt các tờ bướm và những người phát tờ bướm vào cùng một nhóm với những tờ quảng cáo hay rơi ra khỏi mấy tờ báo hoặc tạp chí và những cuộc tiếp thị qua điện thoại vào đúng giờ ăn. Tất cả chúng đều là những thứ vụn vặt gây bực mình trong cuộc sống hằng ngày của tôi.
Cho đến cái hôm tôi cùng Lucy phát tờ bướm.
Đó là ngày nhà thờ tổ chức hội chợ hàng thủ công. Các nghệ nhân bán những món hàng của họ, các giáo dân bán bánh nướng, bánh sandwich và những cái tô chứa đầy ớt đỏ, còn dàn đồng ca thì hát vang những bài thánh ca mừng Giáng sinh. Tất cả là để gây quỹ cho chương trình “Vươn xa” mà nhà thờ tài trợ. Đó là một mục đích cao đẹp. Nhưng khi được yêu cầu đi phát tờ bướm để ủng hộ cho mục đích cao đẹp ấy thì tôi lại e dè. Tuy nhiên, tôi cảm thấy mình bị sập bẫy, bởi tôi từng viết một quyển sách về tầm quan trọng của việc kết nối với người khác. Và giờ đây, tôi đang được yêu cầu phải thực hành những điều mình đã thuyết giảng. Về phương diện nào đấy tôi đã tưởng tượng đây là điều khó chịu nhất trên đời.
Nhưng sứ mệnh ấy đã trở nên còn tồi tệ hơn so với tưởng tượng của tôi. Những người trong nhà thờ không chỉ bắt tôi đi phát tờ bướm mà họ còn bắt tôi phải mang một tấm biển quảng cáo to đùng trong lúc phát. Tôi chưa bao giờ mang một tấm biển quảng cáo như thế và luôn đoan chắc rằng mình sẽ chẳng bao giờ làm vậy. Nhưng giờ đây tôi bị yêu cầu đi vòng vòng quảng trường Harvard, quảng cáo cho hội chợ hàng thủ công của nhà thờ, chìa những tờ bướm vào mặt những người ngoại đạo ngơ ngác, làm tất cả những việc ấy trong khi mang trên mình tấm biển quảng cáo phủ đầy những dấu chấm than, những mẩu trang trí lấp lánh và nhiều bích họa thu hút sự chú ý khác. Họ không chỉ đơn thuần muốn tôi làm việc này, mà họ muốn tôi làm với sự hăng hái và bằng cả tấm lòng nhằm tạo được sức ảnh hưởng đến người khác nhờ lòng tốt và thiện chí. Và họ muốn tôi làm việc này cùng với con gái của mình.
Khi tôi nói về việc này với Lucy, con bé nhìn tôi giống y cái cách mà tôi đã nhìn người phụ nữ ở nhà thờ khi bà đưa ra lời đề nghị. Nó trả lời một cách khổ sở: “Hẳn là bố đang nói giỡn”. Lucy đã không còn ở cái tuổi bé bỏng để có thể vui vẻ bày trò ngộ nghĩnh ở nơi đông người và con bé đã bắt đầu đánh giá mỗi tình huống dựa vào một thước đo mang tính xã hội đặc thù, giống như người lớn vậy.
Tôi cố bào chữa:
– Việc đó có thể rất vui mà. – Nhưng trong lòng thì tôi còn kinh hãi hơn con bé khi hình dung đến viễn cảnh phải thật sự làm việc ấy.
Thế rồi, cũng như thường lệ, con bé đã làm tôi kinh ngạc. Sau một hồi lâu yên lặng, nó bảo:
– Bố nói đúng. Ta hãy làm việc đó đi nào.
Thế là, người duy nhất mà tôi trông cậy sẽ đứng về phía tôi để khước từ cái nhiệm vụ kỳ cục này cuối cùng lại bóp chết hy vọng của tôi.
Ngày diễn ra hội chợ, trời có nắng nhưng lạnh lẽo. Khi tấm biển quảng cáo được cột vào vai chúng tôi bằng mấy sợi dây ruy băng, Lucy bắt đầu khúc khích cười. Nhưng, khi quan sát con bé, một cảm giác mới lạ trỗi dậy trong tôi. Tôi bắt đầu thấy mình can đảm, thậm chí là hăm hở. Tôi trở thành người đang thi hành nhiệm vụ cùng với cô con gái yêu dấu của mình. Chúng tôi đang tiến hành một cuộc viễn chinh. Khi Lucy và tôi nhận lấy các tờ bướm và thẳng tiến trên các vỉa hè của quảng trường Harvard, tôi tự nhủ với bản thân: “Tiến lên nào!”.
Hôm ấy Lucy mặc chiếc áo khoác màu xanh nhạt, với tấm biển quảng cáo phủ cả phía trước và sau lưng, còn mái tóc vàng óng của con bé được cột gọn gàng bằng một vật màu hồng trông như kết bằng lông vũ (Cái vật ấy gọi là gì nhỉ? Các ông bố thường ngốc nghếch thế đấy!). Với những cơn gió lạnh mơn man trên đôi gò má, trông con bé mới dễ thương làm sao. Trong khi đó thì nhìn tôi như thế nào nhỉ? Khoác trên người chiếc áo khoác kiểu của những nhà ái quốc vùng New England, cùng với tấm biển quảng cáo, điều mà rõ ràng là tôi đã cố gắng trốn tránh.
Khi chúng tôi đến quảng trường, chúng tôi bắt đầu phát các tờ bướm cho những người đang đi trên vỉa hè. Một số người vui vẻ nhận lấy chúng, trong khi một số người khác lại cự tuyệt như thể chúng có chứa chất phóng xạ vậy. Những gì diễn ra trong nửa giờ đồng hồ sau đã dạy tôi một bài học lớn trong đời.
Tôi cố đưa tờ bướm cho một người đàn ông đang bán báo Spare Change, một tờ báo chuyên viết về tình trạng vô gia cư. Tôi nghĩ chắc ông ấy sẽ hiểu về hoạt động từ thiện và muốn ghé vào hội chợ hàng thủ công của chúng tôi khi xong việc. Ông nhìn mấy tờ bướm của tôi, rồi liếc nhìn tôi và nói: “Ông đang giỡn mặt hả?”. Tôi đoán chắc là ông ta nghĩ tôi định cạnh tranh với ông.
Nhưng rồi tôi chìa tờ bướm cho hai người phụ nữ lớn tuổi đang bước song hành và chuyện trò với nhau như những người bạn lâu năm. “Ồ, cảm ơn anh. Chắc chắn chúng tôi sẽ ghé qua” – một người phụ nữ nói, như thể tôi vừa đưa cho bà một mẩu sandwich vào buổi dùng trà. Hai người phụ nữ tiếp tục bước đi và trò chuyện, nhưng giờ thì với tớ bướm màu đỏ của tôi nổi lên trên nền đôi găng tay màu đen của họ.
Kế đến tôi phát tờ bướm cho một chàng trai gốc Á trông có vẻ là một nghiên cứu sinh ở Harvard. Anh chàng khá bảnh bao với quần jean và áo khoác da, cậu cự tuyệt nhận tờ bướm của tôi như thể nó là dữ liệu dư thừa, không có liên quan đến đề tài nghiên cứu mà cậu đang gấp rút hoàn thành. Cậu ta biến mất khỏi tầm mắt tôi trước khi tôi kịp phản ứng với sự khước từ của cậu.
Rồi Lucy chạy đến bên tôi, hào hứng thông báo:
– Con đã bán được ba tờ rồi đấy! Bố bán được tờ nào chưa?
Tôi thật sự có cảm giác như chúng tôi đang đi bán tờ bướm vậy, dẫu rằng thực ra chúng tôi chỉ phát chúng thôi. Việc này là bởi vì rất nhiều “khách hàng” của chúng tôi là những người “có năng lực” như tôi vậy: những người quá bận rộn và quá bị chiếm hữu bởi bản thân họ đến nỗi chẳng thể nào chịu nổi việc bị làm phiền bởi một cô bé với cái gì đấy màu hồng ở trên đầu, hoặc bởi một gã mang biển quảng cáo trên mình, cả hai đang phát tờ bướm cho hội chợ của nhà thờ. Lucy và tôi chỉ là những chướng ngại vật đối với họ trên đường hối hả đến một nơi nào đấy thật sự quan trọng. Đối với những con người tất bật ấy, Lucy và tôi chỉ là những kẻ cản đường.
Tôi sẽ cố gắng chìa tờ bướm ra và một vài người trông dáng vẻ đạo mạo, có thể là một giáo sư của Harvard, hoặc một công dân gương mẫu, hoặc những người đang trên đà thăng tiến, sẽ nhìn, không phải vào tôi, mà là xuyên qua tôi một cách điệu nghệ. Ngay cả khi tôi hết sức cố gắng xuất hiện trong tầm nhìn của những con người vội vã ấy, thì bằng cách nào đấy họ vẫn có thể không chỉ đơn thuần tránh đối mặt với tôi, mà thậm chí bước đi qua tôi như thể họ chẳng hề nhìn thấy tôi. Tôi cảm thấy họ chẳng biết có sự tồn tại của tôi, hoặc nếu họ có biết (mà hẳn là họ phải biết thì mới có thể tránh né tôi một cách tinh xảo như thế), họ cũng muốn tôi biết chính xác những điều mà tôi đã từng muốn tất cả những người phát tờ bướm tôi từng từ chối trước đây biết: rằng họ muốn tôi không tồn tại, rằng họ sẽ cố gắng hết sức để khiến tôi cảm thấy mình thật sự không tồn tại. Ôi, sao mà tôi ghét họ đến thế! Điều này có nghĩa là lần đầu tiên trong đời, tôi đã nhìn ra và căm ghét chính cái đặc điểm ấy trong con người mình.
Trong khi đó thì Lucy lại đang rất vui vẻ. Giờ đây con bé đang “bán” các tờ bướm của nó gần như là cho tất cả mọi người. Nó vui vẻ phát đi các tờ bướm. Nếu một Người Bận Rộn nào đó phớt lờ nó, nó chẳng thèm để tâm và lại tiếp tục hăm hở phát cho người tiếp theo. Con bé có khả năng lấy lại niềm hy vọng trong chớp mắt.
Nhưng tôi lại gặp rắc rối, vào lúc đầu. Việc này thật quá bẽ mặt. Trên đường đến quảng trường, chúng tôi đi ngang qua một thùng rác. A ha! Đột nhiên tôi ấp ủ ý nghĩ quẳng tất cả những tờ bướm của tôi đi, bảo với Lucy rằng tôi đã “bán” hết chúng và rủ con bé quay về nhà thờ uống tách sô-cô-la nóng. Rồi tôi có thể trở về vai trò làm một người bận rộn và cởi bỏ tấm biển quảng cáo đáng nguyền rủa này.
Nhưng không, tôi đã ở lại. Cảm giác tội lỗi giữ cho tôi tiếp tục phát tờ bướm. Tôi hết sức kinh ngạc khi nhận ra mình bắt đầu từ từ thấy vui vẻ để làm việc này. Tôi đã trải nghiệm khía cạnh khác của việc phát tờ bướm và nhận thấy nó dễ chịu một cách lạ lùng. Nó cho tôi một cái nhìn thoáng qua về sự riêng tư của người khác, như thể tôi đang lấy mẫu để xem họ là người như thế nào, trong khi họ chẳng hề hay biết rằng mình đang bị quan sát. Tôi đã học hỏi được vài điều về họ và về chính bản thân mình.
Một khi tôi đã tháo bỏ được sự căm ghét mà tôi dành cho những Con Người Vĩ Đại – những người không có thời gian cho Lucy và tôi, hoặc cho những tờ bướm của chúng tôi, bằng cách tưởng tượng rằng họ trống rỗng và vô giá trị, cho dẫu họ giàu có và quyền lực, tôi đã thừa nhận với bản thân rằng thực ra họ không khác gì tôi (có chăng đi nữa là họ giàu hơn và quyền thế hơn). Tôi phải thừa nhận rằng tôi cũng đã từng vội vã lướt qua những đám đông như họ đang làm, rằng tôi đã từng cự tuyệt tờ bướm từ những cô bé dễ thương như họ đang làm và rằng tôi luôn đặt những công việc của mình lên hàng ưu tiên hơn so với việc tiếp nhận tờ bướm ở quảng trường Harvard hay bất cứ nơi nào khác.
Tôi bắt đầu quan sát mỗi người kỹ hơn. Lucy bảo rằng nó muốn vào bán tờ bướm ở trong hiệu sách Kids Wordworth vì nó thấy lạnh, thế là tôi đứng trơ trọi một mình trên vỉa hè trong khi con bé bước vào trong. Mỗi Người Bận Rộn bắt đầu trông có vẻ bớt xấu xa hơn khi tôi nhận ra một vài dấu hiệu đau khổ ở họ (Trong số những Người Bận Rộn ấy có vài phụ nữ, còn đa số họ là đàn ông).
Tôi bắt đầu cảm thấy vui hơn nhiều khi có ai đó nhận tờ bướm của tôi. Họ len lỏi vào ra trong các đám đông như những đặc vụ bí mật của sự kết nối. Khi tôi tìm kiếm họ và tập trung vào họ thay vì vào những Người Bận Rộn, tôi bắt đầu tìm ra họ ngày càng nhiều hơn. Tôi ghi nhận những nụ cười trong khóe mắt họ. Tôi trân trọng những khoảnh khắc họ dành ra để nhìn tôi khi nhận tờ bướm từ tôi. Trong khoảnh khắc ấy, chúng tôi trao đổi những nguồn năng lượng tràn đầy, một khoảnh khắc của sự xác nhận. Cứ như thể chúng tôi là một phần trong một xã hội bí mật đã quyết định không cho phép Cuộc Sống Hối Hả nuốt chửng tâm hồn mình.
Tôi bắt đầu để ý đến các chi tiết, chẳng hạn như cái hoa cài áo lấp lánh trên chiếc áo khoác ngoại cỡ của một người phụ nữ, hoặc cách mà một người đàn ông đã khéo léo nhét chiếc khăn quàng cổ của ông vào trong áo khoác để nó vừa có thể giữ ấm lại trông hết sức thời trang. Tôi bắt đầu trông chờ mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi cơ hội để tìm ra xem người tiếp theo là người như thế nào. Tôi bắt đầu nhận thấy những Người Chịu Dừng Lại ấy vui vẻ như thế nào dù là chỉ trong một khoảnh khắc rất chóng vánh của cuộc đời khi họ nhận những tờ bướm từ tay một người đàn ông hay một cô bé mang biển quảng cáo trên người.
Đối với họ, những tờ bướm giống như một lời cáo lỗi xin họ dừng lại, chứ không phải là một trở ngại. Một số người còn vui vẻ bắt chuyện với tôi: “Ồ, nhà thờ này ở đâu nhỉ?”, hoặc “Đó có phải là con gái ông không?”, hoặc “Thật tuyệt là hôm nay quảng trường Harvard lại tràn ngập không khí Giáng sinh đúng không?”.
Một số người khác còn nhiệt tình hơn. Một người trông giống William Holden14 ở tuổi xế chiều. Quần áo trên người ông cũ mòn nhưng khá đỏm dáng. Râu ria ông xồm xoàm, còn đầu tóc thì đã lâu chưa gội. Ông ngẫu nhiên tiến về phía tôi lấy tờ bướm và bắt tay tôi, một hành động được xem là bất thường so với những gì mà một người nhận tờ bướm thường làm. Ông chào tôi và nói như thể ông là người đứng đầu những Người Chịu Dừng Lại:
14 William Holden (1918 – 1981): Là diễn viên điện ảnh người Mỹ. Ông là một trong mười siêu sao của thập niên 1950. Ông nhận giải thưởng Hàn lâm cho diễn viên xuất sắc nhất vào năm 1954.
– Xem nào, anh bạn có vẻ lạc lõng ở ngoài này. Tôi đã quan sát anh. Nhưng hình như anh đang dần nắm bắt được sự việc. Bí quyết ở đây là hãy cứ đi cùng dòng chảy. Đừng để những kẻ chẳng ra gì làm anh mất tinh thần. Có rất nhiều người tốt ở ngoài kia, anh chỉ cần chọn đúng họ. Việc này giống như câu cá vậy.
Chúng tôi trò chuyện thêm giây lát. Ông ta là một người ăn xin lão luyện nhưng đồng thời cũng là một triết gia, một nhà tâm lý học, và một người am hiểu sâu sắc về những món ăn ngon mà ông không thể nào mua nổi. Với vốn kiến thức và khả năng ăn nói như thế, ông cũng có thể là một người từng tốt nghiệp từ trường Harvard cũng nên. Ông bảo với tôi:
– Tôi thích đường phố. Tôi thích những gì mình làm và thích lang thang ngoài đó. Mỗi ngày đều mang đến những ngạc nhiên. Tôi chẳng bao giờ thấy nhàm chán và chẳng bao giờ bị căng thẳng.
– Nhưng làm sao ông có thể sống qua ngày? – Tôi hỏi ông, người mà tôi thầm đặt tên là ngài Hạnh Phúc.
– Những công việc linh tinh. Mọi người ở các cửa hàng đều biết tôi. Có rất nhiều công việc mà chẳng ai muốn làm cả. Những công việc lặt vặt, làm cỏ, lau chùi cửa sổ, quét vỉa hè. Tôi luôn bận rộn. Tôi kiếm nhiều hơn số mà tôi chi tiêu. Anh sẽ ngạc nhiên nếu biết tôi đã gửi ngân hàng được bao nhiêu, anh biết đấy, để phòng đến khi về hưu. – Ông nói và nháy mắt tinh nghịch.
Rồi ông biến mất trong tích tắc, như thể ông chỉ là một bóng ma. Ông thậm chí chẳng để tôi có cơ hội kịp cho ông ít tiền. Những lời cuối cùng ông nói với tôi là:
– Hãy tiếp tục làm việc tốt nhé! Chúng tôi luôn ở quanh đây khi anh bạn cần đến. Tạm biệt đồng chí!
Tạm biệt đồng chí? Đây là lời lẽ của một người ăn mày sao? Tôi cảm thấy như thể một nhà thông thái vừa ban vinh dự cho tôi bằng một thông điệp. Tôi nguyện với lòng sẽ học hỏi từ quý ngài Hạnh Phúc, từ những quý bà đeo găng tay đen và từ những Người Chịu Dừng Lại khác. Tôi thề rằng tôi sẽ học để dừng lại và cố gắng tiếp tục công việc mà ngài Hạnh Phúc gọi là “việc tốt”. Tôi cảm thấy hổ thẹn vì trước đây mình đã luôn khước từ những người phát tờ bướm.
Khi tôi tiếp tục phát những tờ bướm của mình, tôi tự hỏi không biết ngài Hạnh Phúc có hàm ý gì khi ông bảo rằng: “Chúng tôi luôn ở quanh đây khi anh bạn cần đến”. Phải chăng có một ẩn ý sâu xa gì khác? Tôi cần gì ở ông chứ?
Khi tôi đứng đó, chìm đắm trong suy tư và thoáng sững sờ, tôi nhận ra rằng mình cần những ví dụ từ ông. Trước hết, tôi cần phải tin tưởng ông và không xua đuổi ông như những kẻ lập dị thời nay. Sau đấy, tôi cần phải lắng nghe ông một cách nghiêm túc, nghiêm túc như thể tôi đang lắng nghe Thoreau15 hoặc John the Baptist, một nhóm thiểu số những con người đặc biệt, có thể nói chuyện với trái tim của cuộc sống.
15 Henry David Thoreau (1817 – 1862): Ông là một nhà thơ, nhà tự nhiên học, sử học, đồng thời là một triết gia người Mỹ.
Điều mỉa mai ở đây là những con người ở trong dòng chảy chính của cuộc sống như tôi lại có thể học hỏi được rất nhiều từ những người như ngài Hạnh Phúc, hoặc Thoreau, hay John the Baptist, những người sống bên ngoài dòng chảy ấy. Chúng ta bận rộn kiếm tiền, nuôi con, giữ thân hình cân đối và cố gắng sống “có trách nhiệm”, trong khi họ lại bận rộn làm những việc khác. Tạ ơn Trời là họ luôn ở đó khi chúng ta cần đến họ, đúng như ngài Hạnh Phúc đã nhắc nhở tôi vậy.
Không lâu sau, Lucy nhảy tung tăng về phía tôi từ trong nhà sách, tự hào rằng nó đã “bán” hết số tờ bướm của nó trước tôi. Tôi chia bớt những tờ bướm còn lại cho con bé và chúng tôi cùng nhau phân phát chúng.
Khi chúng tôi cùng rảo bước về phía nhà thờ để thưởng thức những ly sô-cô-la nóng đang chờ đợi, tôi cảm thấy mình đã đổi thay. Ồ, hiển nhiên rồi, ở vào độ tuổi của tôi thì chẳng ai lại thay đổi nhiều lắm đâu. Nhưng, chao ôi, nếu có thể mượn một cụm từ mà ông ngoại tôi luôn dùng, tôi sẽ nói: “Tôi đã thấy một điều thật đặc biệt”. Tôi sẽ ghi nhớ cái ngày hôm ấy ở quảng trường Harvard và cố gìn giữ nó trong tâm trí mình như thể tôi là kẻ ăn xin bần cùng vừa được Chúa hài đồng đến thăm.
Tôi đã nhìn đời một cách khác đi. Tôi nhìn đời qua con mắt của ngài Hạnh Phúc, người mà cả thế giới cho là kẻ vô công rỗi nghề, nhưng với tôi ông là một sứ giả, một nhà tiên tri. Thông qua những người khác, tôi cũng nhìn thấy được chính mình, thấy mặt tồi tệ nhất của mình: một Người Bận Rộn. Nhưng tôi cũng đã thấy những người có thể dừng lại đủ lâu để mở rộng lòng mình đón nhận những điều không mong đợi trong cuộc sống.
Tóm lại, tôi đã thấy được một khoảnh khắc đời người ở một quảng trường công cộng. Nó nằm rải rác đâu đó. Nó ở khắp mọi nơi. Ý nghĩa và tình yêu tồn tại trong mỗi khoảnh khắc ở khắp mọi nơi tựa như nhựa sống ở trong thân cây vậy. Nó có sẵn ở đó và chỉ chờ đợi được hút ra. Các vị sứ giả, như con cái của chúng ta và quý ngài Hạnh Phúc, luôn cố gắng cho ta biết làm thế nào để nắm bắt được những khoảnh khắc ấy. Nếu ta có thể lắng nghe thì ta có thể học hỏi. Ta có thể học cách nắm bắt được mỗi khoảnh khắc đời người. Rồi ta có thể sống một cuộc đời mãn nguyện như ý.
TIẾNG VANG…
Thỉnh thoảng, thường xuyên, luôn luôn
Các sứ giả như quý ngài Hạnh Phúc và Ruby thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn xuyên qua lớp cải trang của họ. Họ thường không xuất hiện với một tấm biển treo trên cổ ghi là “Nhà tiên tri”, hay “Người đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn”.
Tác giả của bài viết sau đây là một trong những chuyên gia quốc tế về việc học hỏi sự khác biệt và bà đã có những bài thuyết giảng chứa đựng nhiều thông tin, hết sức sống động và đáng nhớ ở khắp nơi trên thế giới. Trong bài viết này, bà kể về một tình huống đã xảy ra trước một buổi thuyết giảng của mình. Trong tình huống này, sứ giả là một người cần được giúp đỡ. Và thông qua việc giúp đỡ, tác giả đã nhận được một món quà.
Khi đọc bài viết này, bạn cần biết rằng tác giả, người mà tôi gọi là Anne, đang ở vào độ tuổi ngoài bảy mươi, mắc bệnh ung thư vú và đã trải qua phẫu thuật cách đây mười năm. Bà cũng đã từng chứng kiến chồng mình bị một cơn đột quỵ khi ông năm mươi tuổi khiến cho não bộ mất khả năng hoạt động bình thường, ông phải ở nhà và cần được hỗ trợ trong cuộc sống hằng ngày. Anne có thể đến thăm chồng và chồng bà vẫn nhận ra bà, nhưng ông chẳng thể nhớ được các chi tiết về những cuộc viếng thăm ấy và cũng không thể hiện dấu hiệu gì là ông trông mong bà đến. Thế nhưng Anne vẫn là một người thật sự lạc quan trong cuộc sống như bất kỳ ai khác. Bà phát ra nguồn năng lượng tích cực bởi vì có vẻ như bà luôn tìm thấy sự ấm áp ấp ủ ngay trong những tình cảnh thảm khốc nhất.
- E. H.
Tôi đã nghĩ rằng tôi có thể dự đoán được mỗi khoảnh khắc của cái ngày được lên kế hoạch sít sao ấy. Tờ giấy ghi chú của tôi được sắp xếp rất có thứ tự. Chương trình đã lên sẵn ở thính phòng, chỉ chờ được bắt đầu. Tôi sẽ có sáu giờ đồng hồ dễ chịu khám phá môn đọc hiểu; giúp các độc giả kết nối với tác giả, với các ý tưởng và với chính bản thân họ; chỉ cho họ làm cách nào để có thể hợp nhất các từ ngữ với kiến thức, cảm xúc và những câu hỏi mà họ đang mang trong lòng. Tuy đôi khi người ta có thể tự hiểu lấy một vài việc, nhưng đa số các sinh viên vẫn cần sự hướng dẫn của giáo viên để có thể lĩnh hội được vấn đề.
Tôi đang đeo sợi dây chuyền Búp Bê Lo Lắng. Thường thì cái nhân vật của xứ Guatemala bé xíu đầy màu sắc độc đáo này được đặt trong một cái lọ hoặc trên một cái đĩa. Khi chủ nhân của chúng đặt chúng ở dưới gối vào ban đêm thì nhiệm vụ của chúng là lo lắng thay cho chủ nhân, để người đó có được giấc ngủ thoải mái, yên bình. Nhưng truyền thuyết bảo rằng nếu những con búp bê lo lắng được ghép thành cặp trên những mảnh gỗ (như trên sợi dây chuyền của tôi) thì chúng trở thành Những Người Bạn, bạn của cả thế giới và bạn của nhau.
Có ba mươi phút rảnh rỗi trước khi bắt đầu bài diễn thuyết, tôi dự định sẽ ngồi ở đại sảnh của khách sạn để trau chuốt lại phần giới thiệu mới cho bài diễn thuyết của mình. Khi tôi đang tận hưởng phút giây riêng tư ngắn ngủi ấy thì một người đàn ông bước xuống đại sảnh, nói với người phụ nữ ở quầy tiếp tân, mà có lẽ là với cả thế giới:
– Tôi không sử dụng được điện thoại. Làm thế nào tôi liên lạc ra ngoài được?
Cô gái trả lời hơi xẵng giọng:
– Nó cũng hoạt động như những cái điện thoại công cộng khác thôi. Chỉ cần đăng nhập vào AT&T16, hay bất cứ nhà cung cấp dịch vụ nào mà anh đang sử dụng. Anh cần phải dùng mã PIN của mình.
16 AT&T: Công ty viễn thông lớn nhất ở Mỹ, cung cấp nhiều dịch vụ quốc tế. Nó được thành lập vào năm 1885 với việc thông đường dây từ New York đi Philadelphia.
Vẻ mặt anh nói lên rằng những lời nói của cô chẳng có nghĩa lý gì với anh cả. Anh tiếp tục:
– Tôi có việc khẩn cấp ở nhà. Tôi cần phải điện thoại về.
Cô gái nhún vai và quay lưng đi:
– Cứ sử dụng nó như những chiếc điện thoại công cộng khác thôi.
Mặt anh xanh tái đi, anh có vẻ lúng túng và mệt mỏi. Tôi đứng dậy và tiến về phía anh, giải thích rằng tôi không thể không nghe thấy câu chuyện và rằng bản thân tôi cũng thường bị rối bởi những thuật ngữ kỹ thuật về điện thoại. Tôi chìa chiếc điện thoại di động của mình ra và đề nghị thực hiện cuộc gọi giúp anh. Anh bước lùi lại, vẻ lưỡng lự, nhưng rõ ràng anh rất muốn gật đầu đồng ý. Tôi bảo rằng với chiếc điện thoại sử dụng thuê bao trả trước này, tôi có thể gọi đến bất cứ đâu, bất cứ lúc nào mà không bị tính thêm cước gọi đường dài.
Tôi nói với anh:
– Nó hoàn toàn không tốn tiền. Xin hãy cứ cho tôi số điện thoại để tôi gọi giùm anh.
Khi chuông đổ ở đầu dây bên kia, tôi đưa điện thoại cho anh và quay đi chỗ khác để cho anh không gian riêng tư. Tôi nghe anh nói với người ở đầu dây bên kia rằng con gái anh đã trải qua mười hai giờ đồng hồ phẫu thuật, các bác sĩ đã cố gắng hết sức, nhưng con bé rất yếu và đang có nguy cơ bị nhiễm trùng nghiêm trọng, thế nên bọn trẻ không nên đến thăm trong vài ngày tới. Anh nói rằng anh không biết khi nào thì anh có thể gọi lại lần nữa hoặc không biết làm thế nào để báo tin cho những người còn lại trong gia đình. Rồi giọng anh đứt quãng. Anh bảo anh phải cúp máy và đưa lại chiếc điện thoại cho tôi, vì anh không biết cách tắt máy.
Anh bắt đầu kể cho tôi nghe về con gái của anh. Con bé bị vướng tay áo vào cái máy quạt. Cái máy không chỉ cuốn lấy tay áo khoác mà còn nghiến nát cẳng tay phải của con bé. Nói đến đó, cả người anh run lên, những cơn nức nở làm anh nghẹn lời. Tôi vòng tay ôm lấy anh, để đầu anh tựa vào vai mình. Tôi chẳng biết nói gì. Sẽ thật ngu ngốc nếu bảo với anh rằng mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi. Tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ ra để nói là tôi có thể thấy anh yêu con gái mình rất nhiều. Điều đó đã an ủi được anh đôi chút. “Vâng, tôi thật sự rất thương nó”.
Anh ngẩng đầu lên khỏi vai tôi và đột nhiên ngưng bặt.
– Tôi không nên làm thế này. Tôi không nên khóc lóc như thế này. Tôi phải mạnh mẽ lên. Tôi là một cảnh sát.
– Có chứ, anh nên khóc như thế này. Anh yêu con gái mình, cô bé bị đau, hẳn anh rất lo lắng và kiệt sức. Anh đến đây bằng cách nào? Anh đi một mình à?
Anh giải thích rằng con gái anh đã được đưa đến bệnh viện bằng trực thăng chuyển thương chuyên dụng, còn anh và vợ thì đến bằng ô tô. Vợ anh đã nhìn thấy chiếc trực thăng bay qua nhà mình nhưng không hề biết ai là nạn nhân. Anh nói với tôi rằng vợ anh đang chờ ở trong phòng để xem anh có điện thoại về nhà được hay không. Tôi bảo anh hãy đưa cô ấy, cùng với danh sách các số điện thoại của gia đình đến đại sảnh. Tôi sẽ giúp anh gọi điện thoại, bao nhiêu cuộc cũng được, trong vòng ba mươi phút nữa. Tôi nhấn mạnh lại là những cuộc gọi hoàn toàn miễn phí. Anh ta nhìn tôi, ngạc nhiên, miễn cưỡng, ngượng ngùng, bối rối, sợ hãi và đau đớn, chờ đợi ai đó quyết định giúp mình. Tôi bảo anh:
– Hãy làm việc này vì vợ anh. Chúng ta có thể giúp cô ấy.
Vài phút sau thì anh tái xuất hiện, tay trong tay cùng với vợ mình. Đầu tóc cô rối bù, mắt thì đỏ hoe vì mất ngủ và khóc. Trông họ giống như Hansel và Gretel17 bị lạc trong rừng. Tôi bỏ qua các nghi thức chào hỏi. Tôi chỉ yêu cầu cô cho tôi số điện thoại của những người mà cô nghĩ rằng nên gọi. Khi đã nối máy, tôi đưa điện thoại cho cô. Chồng cô nắm lấy tay tôi, giống cái cách mà bạn gắn chuôi vào ổ cắm để có điện. Tôi nắm tay anh trong khi vợ anh nói chuyện. Cuộc gọi tiếp theo thì anh nói, vợ anh nắm tay tôi. Và mọi việc cứ diễn ra như thế, hai người thay phiên nhau nói chuyện.
17 Hansel & Gretel: Hai nhân vật trong truyện cổ tích Grimm.
Khi điều tồi tệ xảy đến, chúng ta cần phải nói ra với mọi người. Đó là cách chúng ta dần nhận ra nó là sự thật. Cuối cùng thì họ đã gọi cho tất cả những người trong danh sách và cũng đến lúc tôi phải đi. Tôi ôm hôn hai người và cầu chúc cho gia đình họ được may mắn.
Trên bục giảng, tôi dẹp sang một bên phần giới thiệu được chuẩn bị kỹ càng của mình. Đầu tiên, tôi đưa tay sờ sợi dây chuyền của mình và nói với những người đến nghe thuyết trình lý do tại sao những con búp bê từng đại diện cho sự lo lắng lại được ghép lại thành một cặp, thay vì chỉ có một mình, giờ đây chúng là Những Người Bạn, biểu tượng của tình bạn.
Kế đến, tôi kể với họ về hai con người sợ hãi, kiệt sức vì đau buồn và thông qua họ tôi đã nhận được một món quà tuyệt vời như thế nào: một miếng nhựa màu đen – chiếc điện thoại di động – đã trở thành tấm thẻ thông hành cho phép tôi chạm được đến thế giới nội tâm của hai tâm hồn khác. Tôi đã có một đặc ân khi được đứng giữa nơi hiện hữu của quá nhiều tình yêu thương: tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái, của vợ chồng dành cho nhau. Những con người ấy đã mang đến cho tôi một món quà khi để tôi được giúp họ trong lúc khó khăn. Vì sự kiêu hãnh, theo thói thường thì người ta không muốn làm việc ấy. Hai người này cũng gần như không dám, nhưng trong lúc tuyệt vọng, họ đã thử.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại cương lĩnh của các bác sĩ được khắc trên đế của tượng bác sĩ Livingstone Trudeau18 ở Saranac, New York: “Thỉnh thoảng chữa trị, thường xuyên giải tỏa, luôn luôn an ủi”.
18 Edward Livingstone Trudeau (1948 – 1915): Là bác sĩ người Mỹ, người đã thành lập viện điều dưỡng Adirondack ở vùng Saranac, New York, đây là viện điều dưỡng chuyên điều trị bệnh lao.
Chúng ta cũng có thể có cương lĩnh tương tự. Đối với các nhà sư phạm, các bậc cha mẹ, các sinh viên, thỉnh thoảng chúng ta có thể chữa trị sự thiếu hiểu biết bằng cách cho đi kiến thức. Trong các lớp học, chúng ta có thể thường xuyên giải tỏa nỗi lo lắng cho học viên bằng cách trình bày những chiến lược hướng đến thành công. Và trong cách ứng xử với những người xung quanh, chúng ta có thể luôn luôn an ủi họ bằng cách sẵn sàng về mặt trí tuệ và cảm xúc.
Không có sự tín nhiệm nào uy nghiêm hơn.
Không có đặc ân nào to lớn hơn.
Một thiên thần bác ái
Trong khi Anne ở câu chuyện vừa rồi đã giúp đỡ người khác một cách có chủ ý, thì tác giả của bài viết sau đây đã giúp đỡ người khác mà không hề hay biết. Thông thường thì sự việc ấy diễn ra thế này, chúng ta thường không biết khi nào thì những biểu hiện rất nhỏ như lời cảm ơn hoặc một cái vỗ lưng nhè nhẹ có thể làm thay đổi cả một cuộc đời.
Ví dụ, một người bạn kể cho tôi nghe về chuyện của một linh mục có ý định từ bỏ sứ mệnh của mình và từ bỏ luôn cả chức linh mục bởi vì ông quá thất vọng trước sự tham ô mà ông chứng kiến ở nhà thờ, ông thất vọng vì sự đóng góp của mình là quá nhỏ nhoi. Cho đến một hôm, ông đi cắt tóc. Người thợ cắt tóc lớn tuổi, là một giáo dân trong giáo xứ của ông, trong khi đang cắt tóc, đã kể cho vị linh mục nghe rằng ông đã từng có ý định tự tử nhưng rồi ông từ bỏ ý định ngay lập tức khi ông nghĩ đến vị linh mục, và rằng trong mắt ông vị linh mục là người thật gần gũi và công chính làm sao. Người thợ cắt tóc tiếp tục nói: “Con đã quá chán ngán tất cả mọi thứ, tất cả những kẻ giả tạo đến rồi đi quanh quẩn nơi đây. Kể từ khi các con của con khôn lớn và vợ con qua đời thì con nghĩ rằng con sẽ đoàn tụ cùng bà ấy ở bất cứ nơi nào mà linh hồn chúng ta rồi sẽ đến sau khi chết. Nhưng rồi, con nghĩ đến cha”. Nói đến đó, người thợ cắt tóc ngưng lại và đặt tay mình lên vai vị linh mục trong giây lát.
Vị linh mục kể lại với bạn tôi rằng: “Cái chạm tay ấy như có điện. Khi ngồi trên chiếc ghế cắt tóc cũ kỹ ấy, nhìn vào tấm gương lớn của Joe, anh thợ cắt tóc của tôi, và thấy hình ảnh phản chiếu của hai chúng tôi. Tay anh đặt trên vai tôi khi bảo rằng sự tin tưởng anh dành cho tôi đủ lớn để anh có thể từ bỏ ý định tự tử. Ôi, tôi có thể làm gì đây? Hẳn tôi phải là một kẻ chẳng ra gì mới không nhận thấy một nguồn động lực làm việc lớn lao trong cái chạm tay ấy. Anh có nghĩ thế không?”.
Ông thợ cắt tóc Joe không hề hay biết là ông đã giúp đỡ vị linh mục ấy nhiều như thế nào vào lúc ấy. Việc này thường diễn ra như thế trong những khoảnh khắc đời người. Trường hợp sau đây cũng thế.
- E. H.
Tôi chưa từng được tập huấn về kỹ năng bán hàng, nhưng mỗi mùa Giáng sinh tôi đều đến phụ việc ở cửa hàng của anh trai mình. Đêm trước lễ Giáng sinh, tôi đang loay hoay gói quà sau quầy tính tiền, trong khi anh trai tôi đặt lên quầy những cái giá đỡ nến bằng đồng tuyệt đẹp cao khoảng chín tấc và bảo tôi ghi biên nhận cho người phụ nữ đã mua những cái giá ấy. Bỏ sang một bên mấy thứ đồ gói quà, tôi tiến về phía người phụ nữ tóc vàng dễ mến đang đứng đối diện quầy tính tiền. Bàn tay mảnh mai của cô đang tì lên đế của một cái giá đỡ nến. Tôi mỉm cười với cô và tự hỏi không biết tại sao trông cô quen quen.
“Chị có nhận thẻ American Express19 không?”, cô hỏi khi tôi đang kiểm tra hóa đơn và báo cho cô biết số tiền. Tôi gật đầu và kinh ngạc khi nhận thấy giọng nói của cô cũng rất quen thuộc, ngọt ngào thánh thót với ngữ điệu châu Âu chuẩn. Làm sao tôi biết người phụ nữ này nhỉ?
19 American Express: Một loại thẻ tín dụng.
Cô mỉm cười và đưa thẻ tín dụng cho tôi. Tôi liếc nhìn tên cô trên chiếc thẻ. Cái họ không gây ấn tượng gì, nhưng còn cái tên Leatrice thì quả thật tôi đã nhận ra. Tôi ngước nhìn lần nữa vào đôi mắt màu xanh sa-phia vẫn đang mỉm cười của cô. Tôi hỏi:
– Xin lỗi, có phải chị làm y tá ở bệnh viện không?
– Sao chị hỏi vậy? Đúng, tôi là y tá. – Cô trả lời, vẻ hơi ngạc nhiên.
– Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi có hơi xúc động. – Tôi nói với cô và bắt đầu cảm thấy nước mắt ứa ra. – Chính xác là đã gần hai năm rồi tính cho đến hôm nay, tôi nhập viện với quả thận bị áp-xe và chị là nữ y tá đang làm nhiệm vụ vào cái đêm mà họ cho tôi nhập viện.
Tôi còn nhớ mình đã đọc cái tên Leatrice trên tấm thẻ cô đeo vào cái đêm ảm đạm ấy, khi cô đặt bàn tay mát lạnh dịu dàng của mình lên vầng trán nóng hổi vì cơn sốt của tôi.
– Vâng, hồi đó tôi có trực ca đêm. – Cô trả lời chậm rãi, mắt cô mở to khi nhìn tôi kỹ hơn. – Giờ tôi nhớ ra chị rồi. Chứng áp-xe thận rất hiếm gặp, chị biết đấy. Chúng tôi đã rất lo lắng cho chị. – Cô dịu dàng nói thêm và với qua quầy tính tiền để nắm lấy tay tôi.
– Chị đã rất tử tế với tôi. Lúc đó tôi rất yếu và rất đau đớn, còn chị cứ như là một thiên thần bác ái. Tôi đã cầu phước lành cho chị vì lòng tốt của chị. – Tôi nói với cô, nước mắt tôi ứa ra khi nhớ lại sự việc. Tôi gần như suýt chết vì chứng áp-xe ấy.
Cô ngập ngừng hỏi, vẫn giữ chặt tay tôi:
– Tôi hy vọng giờ thì chị đã khỏe hẳn rồi chứ?
– Ồ vâng. – Tôi khẳng định với cô và gạt nước mắt bằng tay còn lại.
Cô nói gần như thì thầm:
– Chị đã rất may mắn đấy.
– Tôi biết. Tôi đã được ban phước bởi sự chăm sóc tử tế. Lòng biết ơn của tôi đối với sự chăm sóc ấy vẫn không hề giảm đi theo thời gian. Đặc biệt là vào dịp Giáng sinh, ngày kỷ niệm của sự kiện ấy. Tôi đặc biệt nhớ mình đã được ban phước như thế nào và vẫn được ban phước như thế. Còn chị là một y tá tuyệt vời. Tôi chắc rằng tất cả các bệnh nhân của chị đều chúc phúc cho chị.
– Có lẽ vậy. – Cô mỉm cười ý nhị. Tôi quay lại hoàn thành thủ tục chi trả qua thẻ cho cô, trao cho cô biên nhận và giúp cô mở cửa để mang mấy chiếc giá đỡ nến ra ngoài.
Cô nói và vươn người tới để ôm tôi:
– Chúc Giáng sinh vui vẻ và cảm ơn chị nhiều nhé!
Tôi bỏ mấy cái giá đỡ nến xuống để đón lấy cái ôm của cô và nói với cô bằng giọng ấm áp:
– Chúc chị Giáng sinh vui vẻ! Cảm ơn chị vì đã làm một thiên thần bác ái như thế.
– Chính chị mới là một thiên thần bác ái, chị thân mến ạ. – Cô dịu dàng nói và tôi có thể thấy nước mắt đang ứa ra trên đôi mắt xanh biếc của cô. – Tôi khóc vì thật ra đêm hôm ấy trên đường lái xe đi làm tôi đã tự vấn mình về việc có nên tiếp tục làm một y tá hay không.
Cô thừa nhận:
– Tôi đã thật sự cảm thấy khá tuyệt vọng. Rồi tôi gặp chị. Chị chỉ có thể cử động chút ít, chị rất đau đớn, nhưng chị đã cầu phúc lành cho tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Tôi đã có rất nhiều bệnh nhân suốt nhiều năm, chị là người duy nhất đã cầu phúc lành cho tôi. Chị đã thay đổi cuộc đời tôi vào cái đêm hôm ấy.
Cô hôn lên má tôi, đón lấy mấy cái giá đỡ nến và quay về phía cửa.
Tôi nói lời chào tạm biệt, cô mỉm cười với tôi khi cô bước đi. Rồi cô khuất bóng. Chúng tôi chỉ tình cờ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần trong nhiều năm, nhưng tôi biết không ai trong hai chúng tôi có thể quên được người kia. Chúng tôi đã cứu vớt lẫn nhau, mỗi người bằng một cách riêng.
Băng giá
Trong khi ở bài viết trước, khoảnh khắc đời người đến khi một người nói lời cảm ơn, thì trong bài viết này, bài viết của một người đàn ông giờ đang là giáo viên, khoảnh khắc ấy lại đến khi một người trở nên giận dữ. Đôi khi những khoảnh khắc đời người mạnh mẽ nhất và hữu ích nhất lại trỗi dậy trong những mâu thuẫn, thậm chí là những cơn thịnh nộ (Và xin cảnh báo trước rằng những cơn thịnh nộ dưới đây có thể được diễn tả bằng từ ngữ hơi thô tục). Điều này là bởi vì tình thân thường bao gồm cả những mâu thuẫn. Mâu thuẫn không phải là điều trái ngược với sự kết nối. Trái ngược của sự kết nối là sự thờ ơ. Khi bạn quan tâm đủ nhiều để trở nên nóng giận thì có nghĩa là bạn vẫn được kết nối.
- E. H.
Mối quan hệ giữa tôi và cha mình luôn rất lạ lùng và tôi không biết phải diễn tả thế nào. Dĩ nhiên không phải gần đây nó mới trở nên như thế. Chúng tôi từng rất thân thiết khi tôi còn bé. Nhưng rồi thời gian dần trôi và khi tôi vụng về bước vào tuổi trưởng thành, tôi bắt đầu trở nên xa cách với ông theo cái cách mà tôi biết rằng sẽ làm tổn thương ông (Tôi biết thế, đặc biệt là khi giờ đây tôi cũng đã làm cha). Tôi đã trở nên thiếu tôn trọng ông và giờ đây tôi luôn tự khiển trách mình, đặc biệt là kể từ khi ông qua đời hai năm về trước.
Tôi là con giữa trong năm đứa con, đồng thời cũng là con trai trưởng, vì thế mà mọi người đặt ở tôi nhiều kỳ vọng. Cha tôi là một vận động viên thể thao thất bại, đặc biệt là trong môn khúc côn cầu, môn thể thao mà ông thường bảo rằng ông đã đạt tới đỉnh cao của mình vào năm ba mươi tuổi. Ông thường biện minh cho sự tầm thường của mình (ông là thành viên trong đội bóng hạng chót của trường Taft trong một năm, là vận động viên mới vào nghề trong đội khúc côn cầu của Đại học Yale trong một năm nữa, rồi bỏ hẳn) bằng cách đổ thừa rằng chẳng ai hướng dẫn ông chơi bóng cho đàng hoàng cả. Cha ông, một bác sĩ phẫu thuật cực kỳ thành công, là giáo sư danh dự tại Đại học Harvard và cũng là ngôi sao bóng chày được Đại học Yale tuyển mộ hẳn hoi, chẳng bao giờ thèm xem ông chơi bất cứ thứ gì, chẳng bao giờ chịu dạy cho ông các kỹ năng trên sân bóng. Tôi biết thế vì ông đã kể đi kể lại rất nhiều lần.
Tôi đã có một trận đấu tồi. Tôi bị mất khả năng điều khiển động tác của mình, không biết tại sao tôi chẳng thể làm tốt chuyện gì cả. Cha tôi cũng trải qua một ngày tồi tệ với vụ làm ăn thất bại và ông đang bắt đầu la ó trên khán đài như ông vẫn thường làm. Cha tôi là một kẻ hay la ó trên sân đến nỗi chẳng có bậc phụ huynh nào muốn đứng cạnh ông. Tôi ngồi bệt xuống giữa sân và quẳng cây gậy đánh bóng xuống đất. Ông hét lên: “Đứng dậy!” (Khi ông hét thì tôi chẳng thể nghe thấy tiếng ai khác nữa). Tôi mò mẫm tìm cây gậy và đánh rơi nó. “ĐỨNG DẬY!”. Tôi lại đánh rơi nó lần nữa. Ông còn tiếp tục hét nữa. Tôi chẳng thể đứng dậy nổi, tôi đã quá gắng sức.
Và rồi tôi bùng nổ. Tôi đã thật sự bình tĩnh khi trận bóng tiếp diễn quanh tôi. Tôi nhặt cây gậy lên, phớt lờ tất cả mọi thứ khác và trượt chầm chậm về khán đài. Tôi lấy hết hơi và thét lên: “Cút đi, đồ khốn!”. Tôi trượt đi, giơ hai tay lên với biểu tượng chiến thắng. Mọi người im bặt. Tôi trượt đến hàng ghế dự bị, hai tay ôm đầu. Huấn luyện viên bước đến khi mọi người ở hàng ghế dự bị nhìn chằm chặp vào tôi, chết điếng. Huấn luyện viên hỏi:
– Cậu ổn chứ?
– Em vừa làm gì thế này? – Đó là tất cả những gì tôi có thể nói.
Đoạn đường về nhà thật dài và yên ắng, mà tôi chẳng bao giờ quên được. Chúng tôi không nói gì với nhau trong suốt một ngày rưỡi. Tôi vẫn nhớ mình đã buồn bã như thế nào trong suốt thời gian đó. Lúc đó tôi học lớp chín, là một vận động viên khúc côn cầu giỏi, nhưng lại rất tệ ở tất cả các lĩnh vực khác. Tôi bị sa lầy trong cuộc chiến tự khẳng định bản thân, vừa mới chuyển về một trường trung học có khoảng bốn ngàn học sinh và tôi đang thất bại. Tôi hút cần sa, uống rượu, cố tình học tệ môn đại số, bị điểm C ở tất cả các môn khác, thậm chí dù tôi có thể đạt kết quả tốt hơn nhiều. Tôi làm cha tôi thất vọng bằng mọi cách. Giờ thì tôi công khai làm bẽ mặt ông, và chúng tôi không nói chuyện với nhau.
Cuối cùng tôi và cha tôi cũng nói chuyện trở lại. Ông chủ động bắt chuyện và chủ động tạo không khí. Ông rất điềm tĩnh. Tôi có thể thấy được là ông cũng rất buồn. Ông không cần phải nói ra điều đó. Lời mở đầu của ông bình tĩnh và đầy yêu thương, không phải điều mà tôi nghĩ mình xứng đáng được nhận: “Chúng ta cần nói rõ vài việc”. Nhưng với tôi đó là một lối thoát và tôi cần cái lối thoát ấy. Tôi giữ bình tĩnh và nói với ông rằng tôi cần không gian như một vận động viên thể thao, rằng tôi cần được chơi cho bản thân mình chứ không phải cho ông. Ông nên tôn trọng sự thật tôi là một vận động viên đã cố gắng hết sức trong trận đấu của mình và tôi biết rõ khi nào thì mình chơi tệ. Tôi không cần ông phải nói cho tôi biết về điều đó, đặc biệt là không phải bằng cái cách mà ông đã làm. Tôi nói với ông rằng tôi cũng đã trở thành một vận động viên khúc côn cầu giỏi bởi vì ông đã chỉ dạy cho tôi và rằng tôi vẫn muốn bàn luận về các trận đấu với ông, đó là sợi dây liên kết duy nhất giữa chúng tôi, nhưng mà mối quan hệ giữa chúng tôi phải thay đổi.
Cuộc đời tôi đã thật sự thay đổi sau đó, mặc dù phải mất thêm một năm nữa tôi mới cai được ma túy và bắt đầu có những thành tích trong học tập. Sau này tôi mới nhận ra đấy là nhờ những cố gắng của cha tôi. Ông đã nhượng bộ. Ông không bao giờ còn la ó với tôi trong các trận đấu. Sau các trận đấu, ông sẽ hỏi tôi nghĩ thế nào, chứ không bảo là tôi đã sai phạm những gì. Chúng tôi đã có thể trò chuyện với nhau. Vẫn còn nhiều điều chúng tôi không nói với nhau, nhưng ông đã cho tôi quyền lực mà tôi cần và tôi nghĩ rằng làm được việc ấy là rất khó khăn với ông.
Tôi đã luôn trân trọng khoảnh khắc của sự kết nối ấy giữa chúng tôi, khi ông lùi lại và trao cho tôi quyền tự định đoạt cuộc đời mình. Khoảnh khắc ấy vẫn thường quay trở về trong tâm trí tôi.
Tôi nghĩ về điều đó khi dạy dỗ các thanh thiếu niên. Chúng có thể rất khó nhằn, nhưng thường thì những gì chúng đeo đuổi chính là những gì mà chúng hay bị từ chối. Đó là quyền lực. Nếu tôi có thể tạo ra các chiến lược trong lớp học và những sự tương tác một chọi một mang đến cho chúng quyền lực theo cách có thể dạy chúng làm thế nào để sử dụng quyền lực ấy thì tôi sẽ dần dần xích lại gần chúng hơn.
Tôi đã cảm ơn cha tôi vì điều đó trong sự ca ngợi tôi dành cho ông.
TẠO KẾT NỐI
Những điều suy ngẫm
Thông qua sức mạnh của tình yêu và trí tưởng tượng, chúng ta đã biến những khoảnh khắc bình thường thành những khoảnh khắc đời người. Tôi đã định nghĩa những khoảnh khắc đời người là những khoảnh khắc mà chúng ta cảm thấy mình được nối kết gần gũi với những người hoặc những điều gì đấy ở ngoài bản thân mình và với sự hiện hữu của những điều quan trọng mà chúng ta gọi là ý nghĩa.
Ở đâu hoặc với ai thì bạn có thể chắc chắn tìm được khoảnh khắc đời người của mình? Có thể là với con cháu? Hoặc người bạn đời? Hoặc một người bạn? Hoặc có thể ở trong khu vườn nhà bạn, trong một nhà thờ hoặc một ngôi chùa? Có thể là trên một chiếc ghế đặc biệt ở một góc thư viện? Có thể khi bạn đi dạo một mình trong rừng? Có thể là với chú cún của mình? Hoặc với một vài ký ức nhất định? Hoặc có thể là tất cả những điều ấy.
Những trở ngại thường gặp
Bất cứ điều gì ngăn trở tình yêu và trí tưởng tượng đều ngăn trở những khoảnh khắc đời người. Chướng ngại vật có thể rất đơn giản, chẳng hạn như quá bận rộn. Rất khó để có một khoảnh khắc đời người nếu như bạn đang vội vã chạy đi đâu đó. Chướng ngại vật cũng có thể phức tạp, như là chịu tổn thương từ những người nào đấy chẳng hạn. Sự oán giận có thể kiểm soát ta và ngăn không cho ta vươn ra ngoài. Thói quen cũng có thể ngăn trở những khoảnh khắc đời người. Bạn đã quen với việc nhìn thế giới theo một cách nhất định, và vì vậy bạn không mở lòng ra để đón nhận cách nhìn mới. Trí tưởng tượng của bạn đang ngủ vùi.
Một trở ngại của tình yêu chính là chúng ta tự cản đường mình, một cách cố tình. Thật kỳ quặc, ta càng khao khát sự kết nối và những khoảnh khắc đời người mà sự kết nối ấy tạo ra, thì ta lại càng sợ hãi chúng. Chúng ta sợ tất cả những điều mới. Chúng ta sợ đến gần mọi người và sợ mở lòng mình ra. Càng muốn nhiều bao nhiêu, ta lại càng sợ nhiều bấy nhiêu. Vì thế mà ta chọn cách kìm nén lại. Chướng ngại vật của tình yêu, trong trường hợp này, là sự lựa chọn của chính chúng ta. Sẽ dễ dàng hơn biết mấy nếu ta đóng vai trò của một người hoài nghi lão luyện, khô khan nhận xét về sự đa cảm của người khác, so với trút bỏ đi lớp bảo vệ và mở lòng ra với mọi người.
Đây có lẽ là chướng ngại vật lớn nhất trên tất cả: sự lựa chọn kìm nén lại của con người.
Những bước tích cực nên thực hiện
Nếu bạn nhận thấy mình đang kìm nén quá nhiều, nếu bạn nhận thấy nỗi sợ hãi xâm chiếm mỗi khi bạn cố nối kết, thì việc bạn có thể làm là hãy bắt lấy một tình huống an toàn, như là một cuộc trò chuyện với một người bạn chẳng hạn và hãy nói về nỗi sợ của mình. Một sự thật đáng ngạc nhiên về bản chất của con người đó là chúng ta giải quyết các vấn đề, ngay cả khi ta chẳng có vẻ gì là đang giải quyết chúng cả, chỉ bằng cách nói về những vấn đề ấy với những người khác để họ quan tâm đến chúng. Một khi bạn đã xác định sự chần chừ của mình là một vấn đề và bắt đầu nói về nó một cách tự tin với những người đáng tin cậy thì vấn đề ấy sẽ bắt đầu tan biến. Bạn sẽ bắt đầu tìm được các chiến lược và giải pháp. Hơn thế nữa, việc bạn có cuộc trò chuyện thân mật với người khác cũng sẽ bắt đầu mang đến cho bạn nhiều sự tự tin hơn. Chính sự tự tin này sẽ giúp bạn mở rộng vòng kết nối của mình. Tôi biết điều này rất hiệu nghiệm, vì tôi đã ứng dụng nó trong chính cuộc đời mình.