“Hãy làm hết khả năng cho đến khi không làm gì hơn được nữa.
Hãy cống hiến hết mình tới phút cuối.”
Từ công nhân bến tàu Incheon đến chủ cửa hàng gạo
Khi vừa đến Seoul, không xu dính túi, tôi phải mượn Oh In-bo 50 jeon(11) và đi thẳng đến Incheon. Tại đó, tôi không có lựa chọn nào khác ngoài những công việc lao động phổ thông. Tôi thật sự không muốn làm mãi những việc lao động chân tay, nhưng sẽ càng xấu hổ hơn nếu tôi không làm ra tiền và cứ phải sống nhờ vào bạn bè. Trong một tháng sống ở Incheon, tôi làm đủ loại công việc, từ bốc xếp ở bến tàu cho đến vận chuyển hàng hóa. Nhưng dù làm đến chết đi sống lại thì tôi cũng khó khăn lắm mới đủ ăn, lại thêm mùa mưa đến nên cơ hội kiếm việc làm ở Incheon càng mờ mịt hơn. Trước tình cảnh đó, tôi cho rằng mọi thứ ở Seoul có thể khả quan hơn, cho dù tôi vẫn phải làm lao động tay chân. Nghĩ vậy nên một tháng sau, tôi quyết định đi bộ tới Seoul. Tuy nhiên, trên đường đi, tôi lại nghe nói có một nông trại ở Sosa (bây giờ là Bucheon) đang tuyển nhân công. Vì chẳng có ai chờ đợi tôi ở Seoul, trong khi nông trại ở Sosa cung cấp chỗ ăn, chỗ ở và trả lương, nên tôi nghĩ mình có thể nắm bắt cơ hội này chứ không cần lên Seoul vội.
(11) Đơn vị tiền tệ của Hàn Quốc trước đây, 1 jeon = 1/100 won.
Tôi nhận việc ở nông trại và không bao lâu thì tiếng tốt đã lan khắp vùng. Người ta truyền miệng nhau rằng tôi vừa tháo vát vừa có phẩm cách tốt và rất nhiều người thuê tôi làm việc. Vậy là chỉ trong khoảng một tháng, tôi đã có được khoản tiền dành dụm đầu tiên trong đời.
Khi tôi cuối cùng cũng đặt chân đến Seoul và lang thang ở đó vài ngày, tôi tìm được việc ở công trường xây dựng Trường Dạy nghề Boseong (nay là Đại học Hàn Quốc) ở phường Anam. Tại đây, tôi làm công việc vận chuyển gỗ và gạch đá trong gần hai tháng. Sau đó tôi xin chạy việc vặt tại Nhà máy kẹo Pungjeon (bây giờ là Nhà máy bánh kẹo Orion) ở phường Wonhyoro, gần nhà ga Yongsan. Trong khi làm những công việc thời vụ, tôi vẫn đặt mục tiêu là tìm được một việc làm cố định, nên bất cứ khi nào có cơ hội là tôi lại đi tìm một công việc tốt hơn.
Tôi có được công việc tại Nhà máy kẹo Pungjeon là nhờ một lần tình cờ nhìn thấy tờ thông báo “Tìm người học nghề” dán ở cổng nhà máy và đánh liều vào xin việc. Ở nhà máy kẹo, mỗi ngày tôi được trả 50 jeon cho công việc nối và sửa các đường ống, cùng với đủ loại việc vặt khác. Điều kiện làm việc ở đây có thể nói là thoải mái hơn những nơi tôi từng trải nghiệm trước đó, và tôi trụ lại được gần một năm. Tuy nhiên, tôi không thể học thêm kỹ năng nào mới, cũng không tiết kiệm được nhiều tiền, và trên hết, tôi không thấy mình có tương lai nếu cứ tiếp tục như vậy.
Mỗi khi có thời gian, tôi lại lang thang trên phố để tìm xem có công việc nào tốt hơn hay không. May mắn đến với tôi khi tôi được nhận vào vị trí nhân viên giao hàng ở cửa hàng gạo Phục Hưng Thương Hội. Đó là một công việc ổn định, tôi được bao ăn trưa lẫn ăn tối và được phát một bao gạo mỗi tháng.
“So với công việc cũ chỉ đủ để trang trải qua ngày và phải ngủ trong phòng ký túc xá đầy rệp, công việc ở đây tốt hơn hẳn. Một tháng một bao gạo thì một năm được 12 bao gạo. Quyết định rời quê hương của mình thật đúng đắn. Giờ thì cha sẽ hiểu và sẽ công nhận mình.” Tôi đã nghĩ vậy và cảm thấy tương lai tươi sáng bắt đầu rộng mở từ đây. Ngày hôm đó, tôi thật phấn khích và vui vẻ.
Tôi vừa cảm thấy có lỗi với cha, vừa vui vì cuối cùng mình cũng thoát ly quê nhà, thoát khỏi gọng kìm của cha nhằm níu giữ tôi ở lại vùng quê hẻo lánh, và quan trọng là vì tôi đã kiếm được một công việc “ra hồn”. Nhưng nếu biết tôi đang ở đâu thì chắc chắn cha sẽ đến tìm và lôi tôi về, thế nên tôi quyết định cắt đứt liên lạc với ông. Mãi đến ba năm sau, tôi mới gửi về cho cha lá thư đầu tiên. Lúc đó, “lương” của tôi đã là 20 bao gạo một năm, điều này có vẻ ngoài sức tưởng tượng của cha tôi. Ông viết thư trả lời tôi rất ngắn gọn:
“Con trai, có vẻ con đã thành công. Cha rất vui mừng cho con.”
Dù làm công việc gì, tôi cũng không có thói quen lơ là. So với làm nông, công việc ở cửa hàng gạo đơn giản hơn rất nhiều, nhưng tôi vẫn dốc toàn tâm toàn lực cho nó, hệt như cha tôi luôn cật lực với việc đồng áng. Ngay từ ngày đầu đi làm, tôi đã quyết tâm dậy sớm để là người đầu tiên đến cửa hàng. Tôi quét dọn lối ra vào cho sạch sẽ và vẩy nước lên nền đất để ngăn bụi đường.
Ông chủ cửa hàng, người vốn đau đầu vì cậu con trai ham chơi và biếng nhác, rất hài lòng với thái độ làm việc và tinh thần cầu tiến của tôi. Tôi lau dọn và giữ cho cửa hàng ngăn nắp; tôi niềm nở đón khách, trả lời thắc mắc, đong gạo và giao hàng cho khách đúng giờ. Tuy giàu có nhưng ông chủ của tôi không học nhiều, thậm chí ông còn không biết cách ghi sổ sách mà chỉ ghi vào sổ nháp. Đến cuối ngày, con trai của ông đến và ghi lại thông tin vào sổ chính, phân chia theo từng khách hàng. Cách làm này không mấy hiệu quả. Khi tôi vào làm được sáu tháng, ông chủ giao luôn cho tôi việc theo dõi sổ sách thay cho con trai của mình. Điều đó cho thấy ông thật lòng tin tưởng tôi.
Từ ngày hôm đó, tôi bắt tay vào sắp xếp lại nhà kho, vì hiện tại ngũ cốc và gạo đang bị để lộn xộn với nhau. Tôi xếp gạo vào một khu riêng, ngũ cốc một khu riêng, cứ mười bao thành một hàng để khi nhìn là có thể biết được trong kho còn bao nhiêu gạo, bao nhiêu đậu nành, bao nhiêu đậu đỏ... Sổ sách cũng được tôi chia thành một sổ cái và một sổ dành riêng cho khách hàng. Hai tháng học ở trường kế toán nhờ tiền bán bò lấy trộm của cha đã giúp tôi làm tốt việc này. Ông chủ hài lòng và mua cho tôi một chiếc xe đạp mới.
Tôi không thể bỏ qua câu chuyện về chiếc xe đạp này.
Ngày tôi đến xin việc, ông chủ hỏi tôi có biết đi xe đạp không. Câu hỏi này rất hợp tình hợp lý, vì nếu được nhận vị trí này thì tôi phải dùng xe đạp đi giao hàng. Thật ra thì tôi không thạo món này lắm, nhưng tôi vẫn trả lời là mình biết. Ông chủ bèn xem đôi chân của tôi và nói:
“Hừm, chân dài đấy.”
Thế là tôi được nhận vào làm tại cửa hàng gạo.
Tuy nhiên, tôi vào làm được ba ngày thì ông chủ bảo tôi chở một bao gạo và một bao đậu đỏ đến nhà ông ở làng Wangsim. Thật không may, hôm đó lại đúng vào ngày mưa ướt át. Vì không thể nói với ông ấy rằng “Thật ra con không chạy xe đạp giỏi đến vậy đâu” nên tôi cứ cột bao gạo và bao đậu đỏ vào xe rồi loạng choạng đạp đi. Ngay từ đầu tôi đã đoán được hậu quả. Tôi bị ngã xe gần chợ Hwawon. Tay lái xe đạp bị cong sau cú ngã, còn bao gạo và bao đậu đỏ thì dính đầy bùn đất.
Mỗi khi nhớ lại tình cảnh đó, tôi vẫn còn cảm thấy ngượng đỏ mặt. Nhưng thật may là bà chủ cũng tốt bụng như ông chủ. Khi nhìn thấy bao gạo và bao đậu đỏ dính đầy bùn đất, bà cười phá lên rồi động viên tôi: “Trời mưa thế này… cháu vất vả rồi!”.

Ông Chung Ju-yung cùng với bà chủ cửa hàng gạo Phục Hưng Thương Hội vào năm 1934
Tối hôm đó, tôi nài nỉ anh đồng nghiệp Lee Won-jae dạy tôi các kỹ thuật và kỹ năng đi giao gạo bằng xe đạp. Tôi đã tranh thủ dành ba đêm gần như không ngủ để luyện tập theo hướng dẫn của anh ấy.
“Cậu phải dựng đứng bao gạo lên, vì nếu đặt nằm xuống thì rất dễ bị mất cân bằng. Tuyệt đối không được buộc chặt bao gạo vào xe, vì nếu làm vậy thì khi bị ngã, khối lượng bao gạo đè lên xe sẽ làm hỏng chiếc xe.”
Ngay cả việc vận chuyển gạo bằng xe đạp tưởng chừng đơn giản nhưng cũng có nhiều kiến thức cần nắm. Với vốn kỹ năng và kỹ thuật học được trong ba đêm, chẳng bao lâu sau, tôi đã trở thành người giao hàng giỏi nhất có thể chở một lúc hai bao gạo.
Lương khởi điểm của tôi là một bao gạo, sau đó tăng lên hai bao, rồi ba bao. Cả đời tôi luôn nỗ lực hết mình để đạt được kết quả tốt nhất cho bất cứ việc gì mình đang làm, dù là việc lớn hay nhỏ, giống như khi tôi tập giao gạo bằng xe đạp vậy. Đối với tôi, không có chuyện “chừng đó là được rồi”, “như vậy là đủ” hay “chỉ thế thôi”.
“Cố gắng hết sức, làm đến cùng cho đến khi không còn gì cần làm thêm nữa.” Đó là nguyên tắc cơ bản của tôi trong suốt cuộc đời.
Sau hai năm chăm chỉ làm việc, tôi nhận được lời đề nghị bất ngờ từ ông chủ. Ông ấy muốn nhượng lại cửa hàng gạo Phục Hưng Thương Hội cho tôi. Ông không còn tâm trí lo cho cửa hàng vì đứa con ngỗ ngược của ông đã bỏ đến Mãn Châu ăn chơi trác táng và làm tiêu tán gia sản.
Nhờ kế thừa những khách hàng lâu năm của Phục Hưng Thương Hội và được nhà máy xay gạo hỗ trợ cung cấp nguồn hàng ổn định, tôi mạnh dạn thuê cửa hàng ở mặt tiền phường Sindang vào tháng Một năm 1938. Với tham vọng tạo dựng được cửa hàng gạo đông khách nhất Seoul, tôi đã treo bảng hiệu với cái tên “Kinh Nhất Thương Hội”. Năm đó tôi 24 tuổi và đã tha hương lập nghiệp được bốn năm.
Tôi gọi em họ ở quê lên để phụ giúp tôi giao gạo. Bên cạnh việc duy trì mối quan hệ với những khách hàng quen thuộc, tôi vẫn tiếp tục tìm thêm khách hàng mới để mở rộng thị trường. Nhờ những nỗ lực không ngừng đó, Kinh Nhất Thương Hội đã có thêm hai khách hàng lớn là Trường Trung học nữ Paihwa và Ký túc xá Trường Thương nghiệp nữ Seoul. Việc buôn bán gạo cũng ngày càng phát đạt.
Tôi bắt đầu tự tin hơn và cho rằng cứ đà này thì cửa hàng gạo của tôi không chỉ lớn nhất ở Seoul mà còn có thể đứng đầu Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự đời khó lường. Ngày 7 tháng Bảy năm 1937, sự kiện Lư Câu Kiều(12) nổ ra, Phủ Toàn quyền Nhật Bản tại Hàn Quốc ban bố tình trạng chiến tranh. Vào tháng Mười Hai năm 1939, hai năm sau khi tôi tiếp quản cửa hàng gạo, chế độ phân phối gạo thời chiến được ban bố và tất cả các cửa hàng gạo trên cả nước đều phải đóng cửa.
(12) Còn gọi là Sự kiện mùng 7 tháng 7, được xem là sự kiện mở đầu chiến tranh Trung - Nhật.
Sau khi thu xếp xong mọi thứ, tôi mang một phần số tiền kiếm được về quê lần đầu tiên và mua cho cha tôi khoảng sáu héc-ta đất nông nghiệp. Sau đó, tôi lấy vợ.
Xưởng sửa chữa ô-tô Ado
Vào đầu năm sau, tôi trở lại Seoul và bắt đầu tìm việc làm.
Trong lúc suy đi tính lại xem có dự án nào khả thi với số tiền 700 - 800 won trong tay không thì tôi gặp Lee Eul-hak và Kim Myung-hyun. Lee Eul-hak là kỹ sư máy chuyên về động cơ tại Công ty Công nghiệp Kyungsung, còn Kim Myung-hyun là công nhân tạp vụ tại nhà máy. Lee Eul-hak cho tôi biết “Xưởng sửa chữa ô-tô Ado” trên con dốc ở phường Ahyeon đang treo thông báo chuyển nhượng và nếu tôi muốn mua, anh ấy có thể chịu trách nhiệm tìm các kỹ sư cho xưởng. Vì không có đủ tiền nên tôi vay thêm một khoản từ người cho vay lấy lãi Oh Yoon-geun và mua lại xưởng sửa chữa đó. Thế là tôi, cùng với hai đối tác, đã khởi sự công việc kinh doanh mới: xưởng sửa chữa ô-tô mang tên “Xưởng sửa chữa ô-tô Ado” ở phường Ahyeon. Trong tôi tràn đầy hy vọng.
Sau khi ký hợp đồng vào ngày 1 tháng Ba năm 1940, tôi hăng hái làm việc quên ăn quên ngủ suốt hai mươi ngày. Danh tiếng của kỹ sư Lee Eul-hak giúp đem lại cho xưởng rất nhiều khách hàng. Vì không biết gì về ô-tô nên tôi nhận nhiệm vụ đón khách. Mỗi khi có khách đến, tôi liền cất tiếng chào thật to như kiểu mấy anh chàng lễ tân ở nhà hàng lớn thời này hay làm: “Chào mừng quý khách đến với xưởng chúng tôi! Rất vui được đón tiếp quý khách! Quý khách hãy yên tâm, chúng tôi sẽ sửa thật tốt để xe của quý khách chạy bon bon!”.
Tôi kiếm được khá nhiều tiền và cảm thấy phấn khích vì mình đã chọn đúng nghề.

Sự khởi đầu của Hyundai ở Seoul
Tuy nhiên, người đời vẫn nói “họa vô đơn chí”. Vào ngày 20 tháng Ba, năm ngày sau khi tôi thanh toán hết số tiền vay còn lại, xưởng sửa xe xảy ra hỏa hoạn. Đường sá thời đó không được rải nhựa nên bụi đường bay mù mịt, do đó chúng tôi thường sơn xe vào ban đêm để tránh bụi bám vào xe.
Đêm đó, tôi học sơn xe đến khuya cùng với hai nhân viên kỹ thuật. Sau khi kết thúc công việc, hai nhân viên đó về nhà nghỉ ngơi, còn tôi ngủ trong phòng trực. Sáng hôm sau tôi dậy sớm và đốt lửa nấu nước để rửa mặt. Tôi đang cầm thùng dung môi, định đổ một chút dung môi vào lò để châm lửa thì ngọn lửa bén vào thùng. Theo bản năng, tôi ném thùng dung môi đang bén lửa đi. Xưởng chúng tôi được xây bằng gỗ, lại còn bị dính dầu lâu ngày nên chỉ trong nháy mắt, cả xưởng bốc cháy.
Tôi may mắn thoát chết trong gang tấc nhờ dùng điện thoại, một món đồ vô cùng mắc tiền vào thời đó, để đập vỡ cửa kính. Lửa đã thiêu rụi toàn bộ nhà xưởng và mấy chiếc xe của khách hàng gửi lại để sửa. Tôi và hai người thợ cùng sơn xe đêm hôm trước đều bị triệu tập lên đồn cảnh sát để tiếp nhận điều tra. Ban đầu, vì sợ bị phạt nên tôi khăng khăng không biết tại sao lại có hỏa hoạn. Tôi bị tra khảo liên tục, cứ chợp mắt ngủ chưa đầy mười phút đã bị gọi dậy và cứ nhiều lần như vậy. Cuối cùng, vì không chịu đựng được nữa nên tôi đã khai toàn bộ sự thật. Không có sự tra tấn nào gây mệt mỏi hơn là không cho người buồn ngủ được ngủ.
Cuối cùng, cảnh sát kết luận: “Kết quả điều tra cho thấy đây chỉ là tai nạn chứ không phải cố ý phóng hỏa, và vì chỉ có xưởng bị cháy chứ không có thiệt hại về người nên các anh được phóng thích”.
Vậy là tôi được thả. Trận hỏa hoạn đã thiêu rụi năm chiếc xe tải và cả chiếc xe Oldsmobile của Yoon Deok-young, một nhân vật quyền thế thời đó. Chuyện này hoàn toàn có thể khiến tôi suy sụp vì mắc nợ ngập đầu. Nhưng tôi quyết không nản lòng. Tôi không muốn làm kẻ thất bại.
Suy đi tính lại, tôi thấy chỉ có một lối thoát duy nhất là lại tìm đến ông Oh Yoon-geun, quỳ xuống trình bày hoàn cảnh của mình và xin ông ấy cho tôi một cơ hội nữa. Oh Yoon-geun vừa là chủ nhà máy xay gạo vừa là người cho vay lấy lãi. Khi tôi mở cửa hàng gạo, ông đã cho tôi mua gạo “ký sổ”, và khi tôi mở xưởng dịch vụ sửa ô-tô, ông cho tôi vay 3.000 won vì tin tưởng uy tín của tôi.
“Trận hỏa hoạn đã thiêu rụi mọi thứ và giờ đây tôi không còn lại gì ngoài nợ nần. Nhưng nếu tôi bỏ cuộc vào lúc này thì không có cách nào để trả lại cho ông số tiền 3.000 won tôi đã vay trước đây. Thưa ông, xin hãy giúp tôi thêm một lần nữa để tôi có thể trả nợ cho ông.”
Tôi nói với thái độ khẩn khoản nhất có thể, trong tâm trạng của một người đang mấp mé bên bờ vực thẳm. Ông Oh Yoon-geun im lặng nhìn tôi một lúc lâu rồi mới đáp lại: “Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ yêu cầu người vay phải thế chấp. Tôi tin vào chữ tín và chưa từng phải thất vọng về khách hàng của mình. Tôi luôn tự hào về điều đó. Do đó, tôi sẽ chấp nhận đề nghị của anh. Tôi không muốn mang tiếng mất tiền vì nhìn nhầm người”.
Ông ấy quyết định cho tôi vay thêm 3.500 won. Với số tiền đó, tôi kiếm một khu đất trống ở phường Sinseol, đưa các nhân viên đến đó và mở lại xưởng sửa chữa xe ô-tô. Vào thời điểm đó, chỉ có nhà máy chế tạo ô-tô mới có thể xin giấy phép mở xưởng sửa chữa ô-tô, vì thế việc xin cấp phép cho một xưởng sửa chữa ô-tô độc lập như xưởng của tôi là bất khả thi.
Điều hành một xưởng sửa chữa ô-tô không giấy phép, cộng thêm tình trạng nợ ngập đầu khiến tôi luôn cảm thấy mình giống như đang đi trên một lớp băng mỏng có thể vỡ bất kỳ lúc nào. Gần như ngày nào nhân viên cảnh vụ bên đồn cảnh sát Dongdaemun cũng đến và đe dọa rằng nếu tôi không đóng cửa xưởng thì họ sẽ bắt cả đám về đồn. Mặc dù khó khăn chồng chất khó khăn, xưởng sửa chữa của tôi vẫn hoạt động hết mức có thể. Sáng nào tôi cũng đến nhà ông Kondo, Trưởng phòng Bảo an của Sở cảnh sát Dongdaemun, để nài nỉ cho đến khi nào vấn đề được giải quyết mới thôi.
Suốt một tháng trời, trưởng phòng Kondo luôn từ chối tôi, nhưng cuối cùng, đến một ngày ông ấy đã nói với tôi thế này: “Thôi được rồi. Lẽ ra anh phải bị bắt giam nhưng làm sao tôi có thể bắt giam người mà sáng nào cũng đến nài nỉ trước cửa nhà mình! Anh không làm việc gì xấu, nhưng suy cho cùng thì anh vẫn phạm luật. Cho nên anh cần phải cân nhắc một chút và nghĩ cho cảnh sát chúng tôi nữa. Anh hiểu ý tôi chứ?”. Sau đó, ông ấy khuyên tôi dựng bờ rào xung quanh xưởng để ít ra thì người ta không thấy được nhà xưởng từ bên ngoài.
Đó chính là thành quả mà tôi có được nhờ một tháng nỗ lực với tinh thần “cố gắng hết sức cho đến khi không thể làm gì hơn được nữa”. Vào thời điểm đó, Seoul chỉ có vài xưởng sửa chữa ô-tô như Dịch vụ Gyeongseong ở Euljiro 6-ga, Công nghiệp Gyeongseong ở ngã tư phường Hyehwa và Xưởng sửa chữa ô-tô Iljin ở Jongno 5-ga. Những xưởng này thường biến những hỏng hóc nhỏ thành lớn rồi kéo dài thời gian sửa chữa để lấy thêm tiền của khách hàng.
Tôi thì áp dụng chiến lược kinh doanh ngược lại với những xưởng nói trên. Nếu trung bình người ta sửa xe mất mười ngày thì tôi rút ngắn lại còn ba ngày, thay vào đó tôi lấy phí sửa chữa cao hơn. Đối với những người sử dụng ô-tô như phương tiện di chuyển chính, điều mà họ quan tâm nhất là xe có được sửa nhanh hay không chứ không phải chuyện tiền nong. Kết quả là những chiếc xe bị hỏng đều đổ dồn về xưởng sửa xe không giấy phép của tôi ở phường Sinseol.
Mặc dù xưởng vẫn chưa có giấy phép nhưng nhờ sự “làm ngơ” của Sở cảnh sát Dongdaemun, hoạt động sửa chữa ô-tô của tôi được vận hành khá trơn tru. Vào ban ngày, tôi đi loanh quanh các nơi để tạo mối quan hệ, nhận yêu cầu sửa chữa và thu tiền. Vào ban đêm, tôi và những người thợ cùng nhau ăn uống và làm việc thâu đêm.
Nhờ trực tiếp tham gia sửa xe, chẳng mấy chốc tôi đã gần như hiểu được cấu tạo cũng như chức năng của tất cả bộ phận và máy móc trong xe. Những kiến thức mà tôi vừa làm vừa học được trong quá trình này đã giúp ích rất nhiều cho tôi ở những năm về sau.
Tôi tin một khi chúng ta nỗ lực hết mình thì không có việc gì là không thể thành công. Mọi người có thể cho rằng tôi cường điệu khi nói mình đã rút ra bài học từ những con rệp, nhưng đó là sự thật. Hồi còn làm công việc lao động chân tay ở Incheon, tôi ngủ trong ký túc xá dành cho công nhân và thường trằn trọc cả đêm vì giường ở đó có quá nhiều rệp. Một số đồng nghiệp của tôi đã cố gắng tránh lũ rệp bằng cách ngủ trên bàn, nhưng cuối cùng họ vẫn bị rệp cắn vì lũ ký sinh trùng đó có thể men theo chân bàn bò lên. Thế là chúng tôi lại vắt óc nghĩ ra cách kê chén nước dưới mỗi chân bàn để bọn rệp “chết đuối” khi cố bò lên. Cách này hiệu quả, nhưng chỉ tạm thời. Chúng tôi ngủ ngon giấc được một, hai hôm rồi đâu lại vào đấy. Bọn rệp lại xuất hiện và quấy rầy giấc ngủ của chúng tôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, tự hỏi bọn chúng xuất hiện từ đâu.
Một đêm nọ, chúng tôi quyết định thức để nhìn xem lũ rệp làm thế nào tránh được những chén nước và bò lên bàn. Khi bật đèn lên quan sát, tất cả chúng tôi đều sững sờ bởi cảnh tượng trước mắt. Lũ rệp đã men theo bờ tường để bò lên trần nhà và “nhảy” từ đó xuống người chúng tôi.
Đến tận ngày nay tôi vẫn không thể quên được cảm giác lạnh sống lưng hôm đó. Tôi đã nghĩ: “Ngay cả những con rệp cũng cố gắng tìm cách và nỗ lực hết sức để hoàn thành mục tiêu và cuối cùng chúng đã làm được. Tôi không phải là con rệp, tôi là một con người đã học được vài bài học quý giá từ lũ rệp. Nếu rệp còn làm được thì không có lý do gì con người chúng ta không làm được. Chúng ta chỉ cần kiên trì đến cùng và nỗ lực hết mình thì không có việc gì là không thể”.
Bây giờ nhìn lại, tôi thấy đời mình là những chuỗi ngày luôn nỗ lực hết sức cho đến khi không thể làm gì hơn được nữa mới thôi.
Tôi làm việc không ngừng nghỉ và kiếm được khoản thu nhập kha khá từ Xưởng sửa chữa ô-tô Ado ở phường Sinseol. Tôi đã trả nợ xong cả vốn lẫn lãi cho ông Oh Yoon-geun - tôi bảo vệ được uy tín của mình và ông ấy thì giữ vững “thành tích” cả đời cho vay tiền mà chưa bao giờ bị quỵt nợ.
Tuy nhiên, tình hình xã hội Hàn Quốc dưới sự chiếm đóng của Nhật Bản ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Cuộc chiến toàn diện giữa Nhật và Trung Quốc đã bắt đầu từ sự kiện Lư Câu Kiều. Sau khi sắc lệnh thời chiến được ban hành, Phủ Toàn quyền Joseon đã tiến hành kiểm soát việc phân phối các vật liệu có thể thay thế cho các vật liệu quân sự như đinh, dây thép hoặc tấm sắt. Các nhà máy xay gạo cũng bị kiểm soát khi Phủ Toàn quyền áp dụng chế độ phân phối gạo thời chiến, đồng thời ban hành lệnh kiểm soát các vật dụng sinh hoạt thiết yếu vào tháng Tư năm 1941.
Tháng Mười Hai năm 1941, đế quốc Nhật, với ảo tưởng về sự vĩ đại của mình, đã gây chiến ở khu vực Thái Bình Dương. Vào tháng Năm năm 1942, họ ban hành lệnh “Sắp xếp lại doanh nghiệp”. Đến thời điểm này, Nhật đã kiệt quệ vì chiến sự liên miên. Chính phủ Nhật ra lệnh thu gom chén, đĩa, muỗng và đũa đồng trên toàn quốc để chế tạo vũ khí. Vào đầu năm 1943, Xưởng sửa chữa ô-tô Ado của chúng tôi bị buộc phải sáp nhập vào Xưởng sửa chữa Iljin ở Chongno. Tuy nói là sáp nhập nhưng thực tế là chúng tôi bị thâu tóm. Lee Eul-hak và Kim Myung-hyun, những người đã cùng góp vốn với tôi, đã rời công ty trước, và cuối cùng tôi cũng rút chân khỏi xưởng vì không còn chút ý chí hay nhiệt huyết nào với doanh nghiệp bị cưỡng chế sáp nhập này nữa.
Tất cả những việc này xảy ra vào năm tôi hai mươi chín tuổi.
Họa chuyển thành phúc ở mỏ khoáng sản Holdong
Vậy là Xưởng sửa chữa ô-tô Ado mà tôi dồn hết công sức để tạo dựng đã bị tước mất. Không chỉ vậy, em thứ hai của tôi là In-yung, em thứ ba là Soon-yung cũng bị bắt đi quân dịch. Trước tình hình đó, tôi tìm đến giám đốc Công ty Yuhwa Gwangcheon mà tôi quen biết khi mở xưởng sửa chữa ô-tô. Con trai của vị giám đốc này có mối quan hệ với Công ty Luyện kim Joseon, nên tôi đến thương lượng xem họ có thể nhận tôi vào làm tại một khu mỏ thuộc công ty luyện kim hay không. Nếu làm việc ở khu mỏ chuyên cung cấp nhiên liệu cho quân đội thì tôi sẽ được miễn nghĩa vụ quân sự. Sau nhiều nỗ lực cuối cùng tôi ký được hợp đồng thầu phụ vận chuyển quặng từ mỏ vàng Holdong ở huyện Suan thuộc tỉnh Hwanghae đến nhà máy luyện kim Jinnampo ở Pyeongnam, sau đó chuyển đến làng Seongyo ở Pyeongyang.
Tôi đặt cọc 30 ngàn won để ký hợp đồng thầu. Sau đó, tôi mua 10 chiếc xe tải cũ và 20 xe tải mới để bắt đầu vận chuyển quặng. Tôi giao cho Kim Young-ju phụ trách máy móc và thiết bị. Anh ấy là một người thợ máy giàu kinh nghiệm, có thể nghe tiếng xe là biết xe hỏng ở đâu và hỏng tới mức độ nào. Ở vùng đồi núi, lại thêm quãng đường vận chuyển dài hơn 130 ki-lô-mét và mặt đường xấu, khó đi nên xe thường xuyên bị hỏng hóc. Dù một ngày chỉ một chuyến đi và về cũng đã rất khó khăn.
Chuyện còn tồi tệ hơn khi chúng tôi phải đối mặt với thái độ hằn học của gã quản lý, vốn là bạn học với giám đốc công trường Holdong. Phải vô cùng, vô cùng kiên nhẫn thì chúng tôi mới có thể chịu được những lời phàn nàn liên tu bất tận của anh ta như “Sao lại chất nhiều quá”, “Sao lại chở ít vậy” hoặc “Sao lại để rơi vãi những viên quặng quý thế này”… Mãi sau này tôi mới biết anh ta làm khó làm dễ như vậy vì muốn đẩy chúng tôi ra và đưa bạn bè vào làm thay. Để không bị bắt đi quân dịch, tôi đành phải chịu đựng cho qua chuyện.
Nhưng sự chịu đựng nào cũng có giới hạn của nó. Sau hai năm, vào tháng Năm năm 1945, tôi nhượng lại quyền thầu phụ cho anh ta với giá trị hợp đồng tổng cộng là 50 ngàn won, bao gồm khoản tiền đặt cọc 30 ngàn won và 20 ngàn won chuyển giao hợp đồng thầu phụ. Tôi cầm số tiền đó và rời khỏi khu mỏ Holdong cùng với gia đình mình mà không một chút nuối tiếc.
Hóa ra việc rời khu mỏ lại là điều may mắn.
Chỉ ba tháng sau khi chúng tôi rời khu mỏ thì Nhật bại trận. Mỏ khoáng sản Holdong bị đóng cửa, những người Nhật làm việc ở đó cũng bị quân đội Xô-viết bắt làm tù binh. Nếu tôi tiếp tục ở lại đó thì số tiền 50 ngàn won tôi kiếm được trong thời gian qua đã tan thành mây khói và khả năng cao là tôi cũng bị bắt đi Siberia cùng với những người Nhật, vì vào thời điểm đó, họ Chung của chúng tôi ở Hadong đã được đổi thành Gado theo cách phát âm của tiếng Nhật.
Có thể tôi không phải là một chí sĩ yêu nước đến mức kiên quyết không chịu đổi sang họ tiếng Nhật, nhưng tôi cảm thấy chẳng có gì phải hổ thẹn khi xuôi theo dòng chảy của thời đại. Trong thời buổi hỗn loạn đó, một cái họ tiếng Nhật rất có thể khiến tôi bị người ta hiểu nhầm là người Nhật và bắt vào tù. Nhưng dù sao đi nữa, tôi vẫn tin việc mình rời khỏi khu mỏ trước giải phóng chính là phúc phận trời cho. Ai lại ngờ rằng những người Nhật đối xử tệ bạc với chúng tôi ở khu mỏ đó hóa ra đã vô tình cứu chúng tôi một mạng. Chúng ta không bao giờ biết được định mệnh an bài cho mình những gì.
Thời kỳ sau giải phóng ở phường Donam
Từ tháng Năm năm 1945, từ khi rời khỏi mỏ khoáng sản Holdong đến khi treo bảng hiệu “Công ty Ô-tô Hyundai” ở phường Cho, quận Jung vào tháng Tư năm sau, là khoảng thời gian duy nhất tôi không có việc làm. Vào thời điểm đó, đại gia đình chúng tôi gồm hai mươi người sống trong một ngôi nhà mái ngói nhỏ ở phường Donam. Tôi đã mua căn nhà này khi làm việc tại xưởng sửa chữa xe ô-tô ở phường Sinseol.
Tôi đón cha mẹ từ quê lên sống cùng vào năm 1941. Hôn sự của em thứ hai In-yung và em thứ ba Soon-yung cách nhau sáu tháng và đều được tổ chức ở phường Donam. Vì việc học mà em thứ tư Se-yung và em thứ năm Shin-yung phải ở lại quê, và vào thời điểm hai tháng trước khi rời khu mỏ Holdong, tôi đã về đón các em.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy thật khó tin khi cả đại gia đình hai mươi người chúng tôi - bao gồm cha mẹ, anh chị em tôi và con cháu - có thể sống trong một ngôi nhà nhỏ chỉ rộng hơn 66 mét vuông như vậy. Lương thực cho hai mươi khẩu phần ăn cũng không hề nhỏ, nhưng nhờ có số tiền kiếm được trước đó nên bọn trẻ cũng không thiếu ăn.
Tìm một công việc mới thật chẳng dễ dàng. Dù vậy, mỗi ngày ăn sáng xong, tôi cùng em rể và em thứ ba Soon-yung đều hăng hái ra khỏi nhà như thể có công việc bận rộn lắm, trong khi thật ra chúng tôi vẫn đang thất nghiệp.
Có lẽ một năm thất nghiệp ở phường Donam là khoảng thời gian tôi hướng về gia đình nhiều nhất trong đời. Cha tôi rất thích hút thuốc, nhưng thời đó, bật lửa là hàng khó kiếm và diêm lại càng hiếm hơn. Kiếm đồ để châm thuốc hút còn khó hơn kiếm thuốc lá. Với hy vọng tìm được cách châm thuốc lá dễ dàng nhất cho cha, tôi đã nghĩ đến nguyên lý đánh lửa của xe ô-tô, tức là ma sát than chì vào dây đồng để tạo nên lửa. Thế là tôi thử nối dây đồng với dây điện và dùng đá lửa thay cho than chì. Sau vài lần thử nghiệm, cuối cùng tôi đã thành công châm điếu thuốc cho cha. Tôi vẫn còn nhớ như in gương mặt hài lòng của cha tôi lúc đó.
Trong các anh em, tôi là đứa giống mẹ nhất. So với đa số phụ nữ Hàn Quốc thời đó, mẹ tôi có bàn tay và bàn chân khá to. Vì luôn gặp khó khăn trong việc tìm được đôi giày vừa chân nên bà thường mang giày cao su của nam. Tuy nhiên, vào những dịp quan trọng như gặp gỡ thông gia, mẹ tôi luôn muốn mang giày nữ và hành trình tìm giày thật sự rất gian nan. Giày cao su nữ ở Hàn Quốc có cỡ 25, cỡ của mẹ tôi, nhưng rất hiếm. Tôi từng đặt làm một đôi giày bằng da màu trắng cho mẹ, nhưng có lẽ người mẹ năng động của tôi không cảm thấy thoải mái khi mang giày da. Sau này tôi phát hiện mỗi khi không có ai nhìn, bà thường cởi đôi giày da đó ra và chỉ đi với đôi chân mang vớ. Bà giữ gìn đôi giày da rất kỹ vì đó là món quà từ đứa con trai yêu quý. Tôi nghe nói bà thường cắp nách một chiếc và cầm chiếc còn lại trên tay.
Củi để nấu ăn cũng là một vấn đề. Nếu như ở quê, chúng tôi chỉ cần lên núi là có thể kiếm được củi thì ở Seoul, việc kiếm củi để nấu ăn thật nan giải. Thế nên tôi bèn thương lượng với một đồng nghiệp cũ ở mỏ Holdong để mua một xe tải than mang về nhà. Cả mẹ tôi và năm người phụ nữ trong gia đình đều ngạc nhiên và vui mừng với giải pháp này.
Gánh vác vai trò con dâu trưởng trong nhà, vợ tôi rất vất vả. Tất nhiên, cả vợ của In-yung và Soon-yung cũng không dễ dàng gì. Lúc đó, em trai thứ hai In-yung của tôi đang du học ở Nhật. Làm dâu trong một đại gia đình mà không có chồng bên cạnh thật sự rất đáng thương nên mỗi khi có dịp, tôi thường nói vợ tôi quan tâm đặc biệt đến vợ của In-yung. Tuy nhiên, dù rất tử tế nhưng vợ tôi không giỏi giao tiếp cho lắm, nên tôi không nghĩ cô ấy có thể giúp được gì nhiều cho em dâu.
Em dâu thứ ba, vợ của Soon-yung, vì sợ bị bắt đi học nên đã lấy chồng khi mới mười tám tuổi. Thật đáng buồn khi thấy một cô gái mới mười tám tuổi đã phải làm lụng vất vả chẳng khi nào ngơi tay, hết nấu ăn, dọn dẹp bếp núc đến giặt giũ. Ở thế hệ chúng tôi, việc thể hiện tình cảm yêu thương với vợ trước mặt cha mẹ bị xem là điều cấm kỵ. Hơn nữa, hai cô em dâu này cũng chẳng có ai để dựa dẫm vì In-yung thì đi du học, còn Soon-yung lại trầm tính giống cha tôi.
Một hôm, tôi chợt nghe tiếng khóc nức nở của vợ Soon-yung. Tôi hỏi vợ tôi thì được biết em ấy đã khóc suốt từ khi đi giặt đồ trở về. Có lẽ việc giặt một núi quần áo bên con suối phủ kín tuyết giữa mùa đông lạnh giá đã khiến nỗi buồn tủi trong em ấy vỡ òa. Sau chuyện đó, mỗi khi có phim mới được công chiếu ở Rạp chiếu phim Danseongsa, tôi thường dẫn em gái Hee-yung và hai em dâu đi xem. Sau khi xem phim xong, chúng tôi thường đi ăn, thỉnh thoảng là ở nhà hàng món Tây. Đáng tiếc là vợ tôi không thể đi theo vì cô ấy phải chăm con nhỏ và chăm sóc cha mẹ tôi cho tròn trách nhiệm của con dâu trưởng. Em gái và hai em dâu cảm thấy áy náy với vợ tôi nên thường giữ kín chuyện tôi dắt chúng ra ngoài xem phim.
Năm 1944, cha tôi đến tuổi lục tuần, nhưng vì sức khỏe của ông không tốt nên chúng tôi quyết định tổ chức tiệc mừng vào năm sau, tức là năm 1945. Sau giải phóng, cha mẹ tôi về thẳng Tongcheon vì muốn tổ chức lễ mừng thọ cho cha tôi ở quê nhà, nơi các chú, các bác của tôi vẫn còn đang sinh sống. Cả gia đình chúng tôi đều về quê, trừ em gái và em dâu thứ ba (vợ của Soon-yung) ở lại phường Donam để giữ nhà.
Sau bữa tiệc thịnh soạn kéo dài ba ngày, chúng tôi trở về phường Donam. Chuyến đi khá thuận lợi và đường sá thông thoáng, nhưng chuyến về lại rất gian nan vì con đường bị kiểm soát nghiêm ngặt. Linh cảm rằng nếu cứ chần chừ thì có thể sẽ gặp rắc rối nên tôi quyết định tìm đường đi bộ xuyên qua núi từ Bokgae. Chúng tôi phải vừa đi vừa tránh né để không bị phát hiện vì nếu bị quân Xô-viết bắt thì cả nhà có thể phải ly tán. Cuối cùng chúng tôi cũng đến được Jeokseong nhưng lại bị con sông Hantan chắn ngang phía trước. Vượt sông chẳng dễ dàng gì vì chỗ cạn nhất cũng đã sâu đến ngang hông tôi. Con trai Mong-joon của tôi bị bạch hầu nên đã sốt từ Tongcheon. Tôi chỉ mặc quần đùi, công kênh Mong-joon trên cổ và lội qua sông. Chúng tôi buộc phải lội qua con sông đó để về nhà. Cả nhà tôi - từ cha mẹ, con trai đến con dâu - đều phải cởi bỏ quần áo ngoài và lội qua sông chỉ với bộ đồ lót trên người.
Không lâu sau chuyến đi đó, vợ In-yung phải nằm liệt giường vì bị sốt thương hàn. Sốt thương hàn là bệnh lây nhiễm qua đường tiêu hóa. Cha tôi tự mình chăm sóc con dâu, ngoài ra không ai được phép đến gần người bệnh cả. Dù kiệm lời nhưng cha tôi là người suy nghĩ thấu đáo. Ông muốn đảm bảo rằng không có ai khác trong nhà có thể bị lây bệnh, trừ bản thân ông.
Theo lời vợ tôi kể, cha tôi thậm chí còn chải tóc cho em dâu tôi và chăm sóc em ấy như con gái ruột. Nhờ sự tận tâm của cha, em dâu tôi đã khỏi bệnh. Nhưng cha tôi lại bị ốm, không phải vì lây bệnh mà do sức khỏe của ông vốn đã không tốt nay lại thêm kiệt quệ vì gắng sức chăm sóc con dâu.
Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai, Công ty Xây dựng Hyundai và cuộc nội chiến ngày 25 tháng Sáu năm 1950
Sau giải phóng, Hàn Quốc rơi vào cảnh hỗn loạn. Chính phủ lâm thời chưa định hình đã phải chịu sự kiểm soát của quân đội Hoa Kỳ. Nhiều tổ chức chính trị và xã hội mọc lên tràn lan và công khai các yêu sách đòi quyền độc lập, tự chủ hoàn toàn. Sau khi được giải phóng, tình trạng không kiểm soát được giá cả cộng thêm những bất ổn về kinh tế và chính trị khiến vật giá tăng vọt. Trong cuộc họp ở Mát-xcơ-va vào tháng Mười Hai, Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh thống nhất rằng đất nước chúng tôi được quản lý theo mô hình ủy thác.
Trong thời gian làm việc tại Công ty Luyện kim Joseon, trước đây là Công ty Jeoksan, tôi đã có mong muốn tìm kiếm cơ hội để bắt đầu kinh doanh độc lập. Vào năm 1946, khi chính quyền quân đội Hoa Kỳ chuyển nhượng một phần Công ty Jeoksan, tôi đã mua khu đất số một rộng khoảng 660 mét vuông ở số 106 phường Cho, quận Jung. Tháng Tư năm đó, tôi treo bảng hiệu “Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai”, mở xưởng sửa chữa ô-tô với mười người chủ chốt, trong đó có em rể Kim Young-ju (chồng của em gái Hee-yung), em trai thứ ba Soon-yung, người bạn Choi Gi-ho đã cùng làm ở mỏ Holdong với tôi, và anh thợ máy kiêm bạn đồng hương Oh In-bo.
Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai chính là sự khởi đầu của thương hiệu Hyundai.
Ngày 28 tháng Sáu năm 1946, hai tháng sau khi Huyndai được thành lập, cha tôi qua đời. Tôi nhận được tin dữ từ em gái Hee-yung, mẹ tôi đã báo tin cho em ấy.

Ông Chung Ju-yung cùng các nhân viên của Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai ở Thác Guyrong, Núi Geumgang vào đầu những năm 1940
Quãng thời gian sau khi cha qua đời, tôi thường nhớ lại những kỷ niệm với mẹ. Có lần tôi đưa mẹ từ quê nhà ở tỉnh Gangwon đến Seoul và ngồi xe điện tham quan thành phố. Khi xe chạy ngang Hội trường trung tâm khi đó đã bị phá bỏ, tôi nổi hứng khoác lác với mẹ: “Mẹ à, đó là Phủ Toàn quyền Joseon. Sau này con sẽ trở thành người giàu nhất Seoul và sống trong một ngôi nhà lớn hơn tòa nhà đó”.
Mẹ tôi đáp lại: “Nghe này cậu bé nông dân. Con đến đây chỉ với bàn tay trắng mà còn muốn trở thành người giàu nhất Seoul và sống trong ngôi nhà như thế ư? Đừng có mơ mộng hão huyền nữa. Lo sống đời mình đi”.
Tôi nhìn mẹ với vẻ mặt nghiêm túc và nói:
“Không mơ mộng hão huyền đâu mẹ. Con sẽ làm được”.
Tôi không nhớ rõ lắm nhưng dường như vào thời điểm đó, tôi đã ấp ủ một tham vọng lớn và tự tin rằng mình sẽ trở thành một doanh nhân thành đạt.
Đáng tiếc là cha tôi không đợi được đến lúc tôi thành công. Như tôi đã nói, cha là người thầy vĩ đại nhất trong cuộc đời tôi. Ông đột ngột qua đời khiến tôi mất đi điểm tựa vững chắc. Trong cả một thời gian dài, tôi không thể lấy lại được cân bằng. Nếu biết cha ra đi nhanh như vậy, tôi đã về nhà sớm hơn. Giá mà tôi biết trước, tôi đã chuẩn bị những món ăn ngon nhất, hoa quả quý nhất, quần áo đẹp nhất cho cha và tôi sẽ làm mọi điều tốt hơn nữa...
Khi đấng sinh thành dưỡng dục chúng ta đột ngột qua đời, ta bị gặm nhấm bởi nỗi ăn năn hối hận vì đã làm một đứa con bất hiếu không kịp báo đáp công ơn của cha mẹ. Mới ngày nào, mỗi khi về nhà vào lúc nửa đêm, tôi vẫn thường nghe cha đánh tiếng “E hèm!” như muốn nói “Về rồi đấy à!”. Giờ đây tôi cảm thấy trống rỗng và nuối tiếc biết bao vì không còn được nghe tiếng hắng giọng đó nữa. Tôi đã nghĩ cha tôi sẽ còn sống rất lâu và luôn dõi theo tôi.
Khi chứng kiến ngành công nghiệp ô-tô ngày càng phát triển, Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai ngày càng lớn mạnh và sau đó là Công ty Xây dựng Hyundai được thành lập, tôi thường nghĩ: “Giá như cha còn sống và thấy tôi thành công như thế này”. Các em tôi lần lượt có sự nghiệp riêng và mỗi khi chúng vượt qua một thử thách, tôi lại nhớ cha và lại ước gì ông còn sống. Mặt khác, khi gặp chuyện buồn hoặc phải đương đầu nghịch cảnh, tôi lại nghĩ may mà cha mẹ không phải trải qua những chuyện này.
Tôi mừng vì cha mẹ không phải chứng kiến em thứ năm Shin-yung của tôi qua đời khi còn rất trẻ, hoặc giai đoạn tôi bị các chủ nợ đập cửa đòi nợ sau khi tôi thất bại với dự án xây dựng Cầu Goryeong. Xuyên suốt cuộc đời nhiều thăng trầm của mình, tôi luôn nghĩ đến cha mẹ, và thật kỳ lạ là khi càng lớn tuổi tôi lại càng nghĩ đến họ nhiều hơn. Thế nhưng các em tôi dường như không nhớ cha mẹ nhiều như tôi. Chuyện đó khiến tôi cảm thấy thất vọng và đau lòng. Cũng có thể vì tôi là con trai trưởng nên mới có cảm nhận như vậy.
Trong giai đoạn mới phát triển, Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai được yêu cầu đưa những chiếc xe bị hư đến kho vũ khí của quân đội Mỹ để thay động cơ. Sau đó khoảng một năm, chúng tôi tìm cách cải tạo những chiếc xe phế thải của Nhật cho phù hợp với mục đích sử dụng mới. Chúng tôi cắt thân xe loại có tải trọng 1,5 tấn, nối dài hoặc cải tạo chúng thành xe 2,5 tấn, hoặc cải tạo xe chạy bằng xăng thành xe chạy bằng hơi đốt hoặc các-bua. Đó là xu hướng chung vì vào thời điểm đó, xăng rất khan hiếm. Sau giải phóng, số lượng xe cộ tăng lên nên doanh nghiệp ô-tô của chúng tôi ngày càng phát triển. Số lượng nhân viên tăng lên nhanh chóng - từ ba mươi người đã tăng lên tám mươi người chỉ sau một năm.
Mẹ tôi là người giàu tình cảm. Hồi tôi còn nhỏ, dù đang ở trong nhà giặt tã cho tôi nhưng nếu nghe đứa bé hàng xóm khóc thì mẹ tôi lập tức chạy sang đó dỗ. Sau này, khi tôi mở công ty, mẹ tôi cũng chăm sóc nhân viên của công ty như con đẻ của mình. Khi công ty đi dã ngoại vào mùa xuân và mùa thu, không chỉ vợ tôi mà cả vợ của In-yung, Soon-yung và em gái Hee-yung đều được huy động để chuẩn bị thức ăn. Bản thân tôi biết rõ cái đói là như thế nào, nên ngay từ đầu tôi rất hào phóng trong việc ăn uống của nhân viên. Vợ tôi, em gái Hee-yung và những thành viên khác trong gia đình tôi đều có lòng nhân ái và hào phóng giống mẹ tôi. Sau này, khi quy mô doanh nghiệp ngày càng lớn, thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ lại bầu không khí của thời kỳ đó như một kỷ niệm đẹp, khi mọi người trong công ty đều xem nhau như người một nhà.
Vào thời điểm đó, hầu hết các dự án của ngành xây dựng hay công việc sửa chữa ô-tô đều đến từ văn phòng Chính phủ, tức quân đội Mỹ. Một ngày nọ, khi vào văn phòng Chính phủ để trình hợp đồng và nhận tiền giải ngân, tôi thấy các nhà thầu công trình đang nhận chi phí xây dựng. Số tiền tôi nhận được cho mỗi hợp đồng chỉ khoảng từ 300 ngàn đến 400 ngàn won, nhưng những công ty xây dựng này nhận một lần đến 10 triệu won. Tôi thấy đầu óc quay cuồng khi phát hiện ra sự thật đó. Công sức chúng tôi bỏ ra gần như nhau nhưng vì ngành nghề khác nhau nên dẫn đến thu nhập khác nhau. Tôi nghĩ đằng nào cũng nỗ lực hết sức nên kiếm được số tiền lớn vẫn tốt hơn. Thế là tôi đưa vấn đề ra để mọi người trong công ty cùng bàn bạc. Cả người bạn Oh In-bo và em rể Kim Young-ju đều phản đối dữ dội. Họ cho rằng chúng tôi không có nguồn vốn dồi dào, cũng chưa có kinh nghiệm nên tốt nhất là đừng liều lĩnh mà hãy lo tập trung vào lĩnh vực sửa chữa xe ô-tô đang tiến triển tốt đẹp.
Trong suốt cuộc đời mình, tôi luôn tìm kiếm cơ hội để được thử thách với những công việc mới, nên tôi thường bị cho là kẻ liều lĩnh. Lần đầu tiên tôi nghe người ta gọi mình bằng biệt danh này là khi tôi muốn thử sức với lĩnh vực công nghiệp xây dựng trong khi đang thành công với ngành sửa chữa ô-tô. Thế nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ mình đang liều lĩnh hay mạo hiểm. Về cơ bản, ngành xây dựng không phải là lĩnh vực quá mới mẻ với tôi. Tôi từng làm ở công trường xây dựng và quan trọng là ngành xây dựng ở Hàn Quốc vào giai đoạn đó mới phát triển ở mức cơ bản, chủ yếu gồm sửa chữa và cải tạo mà thôi. Vậy nên tôi đã nghĩ: “Có gì quá to tát đâu, cũng chỉ là dự tính chi phí, báo giá, sửa chữa rồi nhận tiền. Chẳng khác việc sửa chữa ô-tô là bao”. Khi quyết định khởi sự bất cứ việc gì, nếu tôi cảm thấy chắc chắn khoảng 90% thì coi như ổn, 10% còn lại là sự tự tin. Tôi không cho phép mình có 1% nào cho sự hoài nghi hoặc lo lắng rằng việc đó có thể không thực hiện được. Em rể Kim Young-ju và người bạn Oh In-bo của tôi tỏ vẻ lo lắng, nhưng tôi đã quyết định treo thêm bảng hiệu “Công ty Xây dựng Hyundai” kế bên bảng hiệu “Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai” ở tòa nhà của công ty ở phường Cho.
Ngày 25 tháng Năm năm 1947 là ngày hoạt động đầu tiên của Công ty Xây dựng Hyundai.
Vào thời điểm đó, bên cạnh 15 công ty hàng đầu thì ngành công nghiệp xây dựng của Hàn Quốc còn có 3.000 doanh nghiệp nhỏ, nhưng tất cả các dự án lớn đều do các công ty xây dựng lớn độc quyền nắm giữ và giao thầu lại cho các doanh nghiệp nhỏ. Với khả năng lúc đó, chúng tôi chỉ có thể thuê một cựu giáo viên trường kỹ thuật làm kỹ sư và mười người thợ có tay nghề để đưa Công ty Xây dựng Hyundai chen chân vào thị trường khốc liệt này, nơi chúng tôi phải cạnh tranh với 3.000 nhà thầu phụ khác. Trong tình hình cam go như thế, thành tích năm đầu tiên của công ty không thể nói là tốt được.
Từ tháng Năm năm 1948, Bắc Hàn ngừng cung cấp điện cho Hàn Quốc. Hàn Quốc đơn phương tổ chức một cuộc tổng tuyển cử. Hiến pháp mới vừa được ban hành vào tháng Bảy thì đến tháng Tám, Tổng thống Lee Seung-man tuyên bố độc lập. Tháng Chín năm 1948, “Đạo luật xử phạt hành vi chống dân tộc”(13) được Quốc hội thông qua. Đến tháng Mười, bạo động đã nổ ra trong các đơn vị quân đội Hàn Quốc đóng tại Yeosu, Suncheon.
(13) Đạo luật được Quốc hội Hàn Quốc ban hành vào năm 1948 nhằm trừng phạt những người được cho là từng cộng tác với chính quyền Nhật trong 35 năm Hàn Quốc bị Nhật Bản chiếm đóng. Đạo luật này được chỉnh sửa nhiều lần và cuối cùng được xóa bỏ vào năm 1949.
Trong năm đó, tôi thuê hai căn phòng tại tòa nhà của tòa soạn báo Pyeonghwa ở Gwanghwamun, Seoul và chuyển văn phòng công ty xây dựng đến đó. Vào giai đoạn này, Công ty Xây dựng Hyundai đã thực hiện các công trình như xây dựng mới và tu sửa các tòa nhà ký túc xá của Mỹ ở các thành phố Pocheon, Incheon và Daejeon.
Tháng Một năm 1950, tôi quyết định hợp nhất Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai với Công ty Xây dựng Hyundai thành Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai. Việc sáp nhập này nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng ngày càng tăng sau khi Chính phủ công bố kế hoạch tái kiến thiết quốc gia trên phạm vi toàn quốc. Công ty sau khi sáp nhập có tổng giá trị tài sản là 30 triệu won, tổng vốn đầu tư là 7,5 triệu won và trụ sở được đặt ở số 1-41, phường Pil, quận Jung, Seoul.
Trong ngành xây dựng, mặc dù rất khó kiếm được công trình nhưng lợi nhuận thu được từ một công trình khá cao, nên tôi cho rằng mọi nỗ lực đều xứng đáng. Khi hợp nhất hai công ty thành một, tôi có thêm động lực để phát triển công ty lớn mạnh hơn nữa. Tôi tự nhủ: “Tốt rồi, từ bây giờ hãy làm thật tốt”. Nhưng chỉ sáu tháng sau, vào ngày 25 tháng Sáu năm 1950, chiến tranh Hàn Quốc nổ ra. Khi nghe tin từ đài phát thanh rằng quân đội Bắc Hàn xâm lược Nam Hàn, tôi nghĩ sao mọi việc lại xảy ra nhanh đến thế.
Gia đình em gái tôi vốn sống ở phường Donam. Khi tiếng súng bất ngờ nổ ra ở phía Jeongneung, cả nhà em ấy đã chuyển đến nhà tôi ở phường Jangchung. Em rể tôi đề nghị tranh thủ mua gạo để dự trữ.
Tôi liền hỏi vặn lại: “Cậu tưởng quân đội của chúng ta ngủ hết rồi hay sao? Cậu nghĩ quân đội có thể dễ dàng giao thủ đô Seoul vào tay địch à? Đừng nói vớ vẩn nữa”. Tôi gạt phắt lời em rể vì tôi rất ngây thơ tin tưởng vào Chính phủ và quân đội Hàn Quốc.
Sáng ngày 26 tháng Sáu, em thứ hai In-yung chạy vào nhà báo tin rằng xe tăng của quân đội Bắc Hàn đã tiến đến đèo Miari. Tối ngày 27, In-yung, lúc này đang là phóng viên phụ trách tin tức quốc tế của Đông Á Nhật báo, đưa tin rằng các cơ quan nước ngoài tại Seoul đang chuẩn bị rút lui. Sau khi cho in và phát hành thêm 300 bản, em tôi uống chén rượu chia tay với một số nhà báo và những người còn ở lại tòa soạn phường Mugyo rồi về nhà. Vì toàn bộ thợ in đều đã sơ tán, tòa soạn chẳng còn ai nên In-yung phải trực tiếp làm công việc in ấn. Khi còn niên thiếu, In-yung từng vừa theo học lớp tiếng Anh ban đêm ở YMCA (Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc) vừa làm việc ở phòng in ấn thuộc văn phòng xuất bản của Phủ Toàn quyền trong năm năm, nên thằng bé thừa sức đảm nhiệm việc này. Tôi nghe nói thợ sắp chữ cũng đi sơ tán nên đích thân trưởng phòng công vụ đã trực tiếp sắp chữ rồi cho phát hành số báo đặc biệt đó.
Tôi đã ngây thơ tin rằng Chính phủ sẽ tử thủ Seoul. Đến tận lúc đó tôi mới nghĩ đến chuyện đưa mẹ tôi, người đang dưỡng bệnh do bị đột quỵ, đi sơ tán nhưng bà kiên quyết không đi.
Ngày hôm sau, tôi và em trai lái xe jeep ra ngoài thì thấy xe tăng đã đến đường Eulji. Để đề phòng trường hợp bất trắc, tôi trở về nhà và đốt những quyển sách mà In-yung đã mang về sau khi đi du học tại Đại học Aoyama của Nhật. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy sách cháy quá chậm.
Vì công ty của tôi thuộc nhóm doanh nghiệp nhỏ và chúng tôi không phải là tầng lớp địa chủ nên đa số thành viên trong gia đình tôi không cần phải lo lắng. Chỉ có tôi và In-yung cần sơ tán. Vì In-yung là phóng viên, lại từng phụ trách loạt bài về lý lịch các đại sứ nước ngoài tại Hàn Quốc, nên em ấy nhất định phải lánh đi. Tôi đã rất hối hận vì không nghe lời em rể mua lương thực dự trữ. Lúc này xem lại tôi mới biết nửa bao lúa mạch và hai thùng gạo nhỏ là toàn bộ số lương thực còn lại trong nhà.
Tôi cùng em trai và nhân viên Choi Gi-ho của xưởng sửa chữa ô-tô đi bộ đến bến phà Seobinggo. Cây cầu duy nhất bắc qua sông Hán đã bị phá hủy, mưa trút xuống suốt đêm khiến nước sông dâng cao và chảy xiết. Bến sông là một cảnh tượng hỗn độn với rất đông người đi sơ tán và những người lính thất trận đeo súng ngược(14). Phương tiện để qua sông là một chiếc thuyền nhỏ chỉ chở được tối đa ba người một chuyến.
(14) Cách đeo súng trước mặt, báng súng hướng lên trên, nòng súng hướng xuống dưới.
Tôi đang lo lắng nhìn đám đông la ó, chen chúc nhau để được qua sông trước thì bỗng nhiên ông chủ thuyền kéo chiếc thuyền lên bờ rồi cầm mái chèo bỏ đi. Tôi không biết tại sao ông ấy làm vậy. Rõ ràng đây là một cơ hội tốt để kiếm tiền, nhưng có lẽ ông ấy khó chịu với tiếng huyên náo, hoặc quá mệt mỏi khi thấy có quá nhiều người đang chờ.
Choi Gi-ho, In-yung và tôi đợi ông chủ thuyền đi xa rồi mới nhanh tay lẹ chân đẩy thuyền xuống nước và chèo đi. Vì không có mái chèo, chúng tôi phải dùng tay hối hả gạt nước. Nhưng dù chúng tôi có gắng sức đến mấy thì dòng chảy vẫn đẩy con thuyền sang hướng khác và cuối cùng trôi dạt vào bờ phía Banpo.
Từ bờ sông đó, chúng tôi đi bộ khoảng hơn 30 cây số đến Suwon, sau đó lại đi xe lửa đến Cheonan. Từ Cheonan, vì tin vào một tin đồn vô căn cứ rằng quân đội Hàn Quốc đã đánh lùi quân đội Bắc Hàn nên chúng tôi đi bộ trở lại Noryangjin. Nhưng trên đường đi, chúng tôi kinh hồn bạt vía trước thế lực của quân đội Bắc Hàn nên đã quay ngược trở lại Cheonan rồi cứ thế đi tiếp về phía nam, đến tận Daejeon và ở đó khoảng một tuần. Các lực lượng Liên Hiệp Quốc bắt đầu vào cuộc, nhưng tình hình chiến sự vẫn không được cải thiện. Chúng tôi đón chuyến tàu cuối cùng xuống Daegu.
Tại Daegu, In-yung làm biên tập viên cho tờ Đại Hàn Nhật báo, còn tôi không có việc làm nên tình nguyện phân phát báo cho tiền tuyến để khích lệ tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Đơn vị mà tôi làm việc là Jeonghoon. Phương tiện đi lại giữa thời chiến rất hạn chế, thế nên ngày nào tôi cũng phải đi bộ miệt mài để mang báo đến cho quân tiền phương ở tận trong rừng.
Một hôm, tôi đến văn phòng để phát báo nhưng không thấy tờ báo nào. Hóa ra người phụ trách phát hành đã bán hết số báo cho tiệm đậu phụ để kiếm lời. Số báo đó có bài viết về việc quân đội Mỹ đang trên đường đến hỗ trợ Hàn Quốc, cùng với lời khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân đội nước nhà. Những thông tin đó rất có giá trị cổ vũ tinh thần đối với tiền tuyến, vậy mà người ta lại đi bán cho tiệm đậu phụ. Tôi vô cùng phẫn nộ và chán nản với cách làm đó nên đã quyết định bỏ việc từ hôm đó.
Sau đó, tin tức lan truyền rằng chiến tuyến ở đèo Chupungnyeong đã bị phá vỡ, quân đội bị đẩy lùi xuống khu vực sông Nakdong, khiến nông dân phải lùa bò sang sông Nakdong. Chúng tôi cũng bơi qua sông Nakdong. Lần đầu tiên tôi mới biết bò bơi giỏi như thế.

Ảnh kỷ niệm một năm thành lập Công ty Công nghiệp Ô-tô Hyundai, năm 1947
Từ sông Nakdong, chúng tôi đi thẳng đến Busan. Tại Busan, theo lời khuyên của viên đại úy lục quân mà tôi quen ở đơn vị Jeonghoon, In-yung và tôi cùng đi đến các hòn đảo và các thành phố ven biển ở vùng lân cận bằng tàu động lực bảy tấn để tuyên truyền thông điệp “Quân địch sẽ sớm bị đẩy lùi, quân Mỹ sẽ đến ngay, vì thế đừng dao động, đừng ngã về phía quân địch và đừng phản bội Tổ quốc”. Vì đất nước và nhân dân nên chúng tôi đến đảo Geoje để tuyên truyền. Tuy nhiên sau đó, khi chúng tôi nhận ra bộ mặt thật phi nhân tính của viên đại úy, chúng tôi đã không tiếp tục công việc này nữa.
Đó là khi tàu chúng tôi đậu ở Mokpo, viên đại úy đã ra lệnh cho các ngư dân đang phơi cá ở đó thu gom cá lại và chất lên thuyền của hắn ta. Những ngư dân tội nghiệp van xin để lại cho họ một nửa số cá, nhưng viên đại úy đã không nghe lại còn đánh họ không thương tiếc và mang tất cả cá lên thuyền của hắn. Nhìn cảnh tượng ấy, chúng tôi cảm thấy bất nhẫn và không còn muốn đi theo hắn nữa. Nếu không muốn chứng kiến những việc như vậy thì chỉ còn cách từ bỏ công việc để không phải trông thấy mặt của hắn.
Sau khi tôi bỏ việc và đi lang thang, một ngày nọ, tôi ghé qua văn phòng của Đảng Dân chủ xem có thông tin nào được tiết lộ không. Lúc đó là tháng Bảy. Khi bước vào văn phòng, tôi thấy những chính khách ở trần và uống bia. Nhìn cảnh tượng đó, tôi giận sôi máu. Trong khi trên chiến trường ở ngoài kia, biết bao nhiêu con người trẻ tuổi đang ngã xuống mỗi ngày, những chính khách này lại có thể bình thản ngồi uống bia và đánh cờ với nhau như thể chiến tranh là việc của người khác vậy.
“Những công dân bình thường như chúng tôi, vì lòng yêu nước mà ra tận tiền tuyến để phân phát báo, lênh đênh trên thuyền để tới từng hòn đảo tuyên truyền, nói khản cả cổ họng, thế mà những chính khách này lại uống bia và chơi cờ. Họ chẳng có một chút lo lắng hay trách nhiệm nào về vận mệnh của đất nước.” Nghĩ vậy, tôi cảm thấy quá thất vọng. Chưa hết, còn có tin đồn rằng Busan sắp thất thủ và các chính trị gia hèn nhát đã chuẩn bị tàu bè để vượt biên sang Nhật Bản. Tim tôi như muốn vỡ ra.
Khi đi sơ tán, hai anh em tôi chẳng có một xu dính túi, trên người chỉ có một bộ đồ lao động mặc từ hôm rời Seoul. Một hôm nọ, tôi đến tiệm cầm đồ để cầm chiếc đồng hồ đeo tay, chỉ mong có đủ tiền ăn hai bữa cơm. Thấy họ trả món tiền chẳng đáng là bao nên tôi đổi ý không bán nữa. Trong lúc lang thang trên đường, tôi vô tình thấy Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ đăng tin cần tuyển thông dịch viên. In-yung lập tức đến văn phòng của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ ở Seomyeon, trình thẻ nhà báo của Đông Á Nhật báo cho viên sĩ quan để xin việc.
Không biết có phải là do họ ưu ái phóng viên báo chí hay không mà viên sĩ quan phỏng vấn đã nói với em tôi rằng có rất nhiều bộ phận cần phiên dịch, em tôi muốn về bộ phận nào tùy ý. In-yung nghĩ anh mình là người làm ngành xây dựng nên đã xin làm thông dịch cho đội công binh của Mỹ với hy vọng có thể kiếm được việc làm cho tôi. Do làm tốt cho nên em tôi được giao làm phiên dịch cho Trung úy McAllister.
Vào thời điểm đó, Busan là nơi có nhiều công việc xây dựng do đang rất thiếu chỗ nghỉ ngơi ngắn ngày cho quân đội Mỹ trước khi họ ra tuyến đầu. Busan lúc này là thủ đô tạm thời và là đầu mối chiến lược cuối cùng nên cần có nơi tập trung vật tư quân sự, cũng như phải có Bộ Tư lệnh hỗ trợ quân đội. Vào khoảng thời gian đó, Trung úy McAllister bảo em tôi: “Tôi chẳng quen biết ai, anh hãy tìm cho tôi một doanh nghiệp xây dựng có thể đáp ứng nhu cầu của chúng tôi”. Tôi liền chạy ngay đến.
McAllister hỏi:
“Anh có thể làm được gì?”
Tôi trả lời một cách tự tin:
“Tôi có thể làm được mọi thứ.”
Thế là tôi có việc làm luôn, đó là xây dựng một doanh trại tạm thời cho 100 ngàn quân Mỹ.
Lúc này, các trường học đang trong kỳ nghỉ nên chúng tôi đến đó khử trùng, dọn dẹp sạch sẽ, quét sơn các bức tường, trải ván sàn rồi dựng lều, biến lớp học thành doanh trại để nghỉ ngơi. Thời gian đó, chúng tôi làm việc chẳng ngơi tay, mỗi ngày ngủ không quá ba tiếng đồng hồ.
Còn In-yung thì ban ngày làm phiên dịch, hết giờ làm việc lại về làm ở văn phòng của tôi. Số tiền tôi kiếm được trong một tháng làm việc cả ngày lẫn đêm đó chất đầy một túi lớn, trong khi hình ảnh cả gia đình ở lại Seoul với nửa bao lúa mạch và hai thùng gạo nhỏ cứ lởn vởn trong đầu tôi, nhưng tôi không biết phải giúp nhà mình bằng cách nào. “Hy vọng mọi người ở nhà vẫn ổn. Hy vọng họ tìm được cách để sống qua ngày”, tôi tự nhủ.
Tôi nhớ đến người mẹ đau ốm của mình và không tránh khỏi đau lòng. Sau đó tôi lại nghĩ không biết quân đội Hàn Quốc và quân của Liên Hiệp Quốc làm gì mà chậm trễ thế.
Các công trình do quân đội Mỹ đặt làm đều đòi hỏi chúng tôi phải theo họ ra chiến tuyến. Cuối cùng, khi lực lượng Liên Hiệp Quốc giải phóng Seoul, chúng tôi đã theo họ về đến Seoul bằng xe quân đội Mỹ. Tôi vội vã chạy về nhà nhưng chẳng thấy ai cả, chỉ có Soon-yung và em rể đang ngồi giữ cái xưởng trống không ở phường Cho. Nhà xưởng này vốn đã bị tịch thu trước đây. Thời gian qua, khi thành phố bị quân Bắc Hàn chiếm đóng, mọi người ở nhà chịu nhiều gian khổ không thể kể hết. Nhà tôi ở phường Jangchung gồm có gia đình tôi, gia đình In-yung, gia đình Soon-yung, gia đình em rể Kim Young-ju và gia đình Choi Gi-ho, tất cả là năm gia đình. Cả người lớn và trẻ em cộng lại không biết bao nhiêu là miệng ăn. Tôi nghe mọi người kể lại chuyện mang bộ đồ vest ra đổi lấy một đấu gạo, cái máy may đổi lấy đấu lúa mạch, chuyện em rể và em trai Soon-yung làm chiếc xe kéo rồi đi khắp đường phố, gom góp tất cả những gì có được để đổi lấy thức ăn sống qua ngày. Để tiết kiệm lương thực, họ nấu cháo lúa mạch với bí đỏ cho bọn trẻ ăn, nhưng đang mùa hè nên mấy đứa trẻ bị tiêu chảy. Cuối cùng, không thể chịu đựng thêm được nữa, năm gia đình đã phân tán đi tìm người thân để nương nhờ. Gia đình tôi thì đến nhà Lee Gi-hong ở Gwangju, tỉnh Gyeonggi; gia đình In-yung thì về nhà vợ ở Icheon; gia đình Soon-yung cũng về nhà vợ ở Jongno 5-ga; còn gia đình em rể thì đến nhà tôi ở phường Donam.
Theo như Kim Young-ju nhớ lại lúc đó, tôi và In-yung mặt mày dơ bẩn với bộ râu chưa cạo, bất ngờ nhảy xuống từ chiếc xe tải quân đội, cầm cái túi chạy vào nhà và hổn hển nói: “Xem này, tiền đây, bọn anh đã kiếm được tiền”.
Các gia đình lại trở về đoàn tụ đông đủ, chúng tôi tiếp tục nhận các công trình của quân đội Mỹ ở Seoul như cải tạo lại Trường Đại học Seoul cũ và Trường Đại học Luật thành trụ sở của căn cứ tiền phương Sư đoàn 8. Thế rồi khi quân tình nguyện Trung Quốc tràn vào Seoul vào ngày 1 tháng Tư, quân Đồng minh phải lùi một bước. Toàn bộ gia đình và nhân viên của tôi đều phải cùng sơ tán xuống Busan.
Tôi mua một căn nhà ở phường Beomil, Busan, xây những căn phòng tạm ở trong sân trước nhà để các nhân viên kỹ thuật cùng sống chung. Tôi treo bảng hiệu tạm thời “Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai” trên đường Daegyeo. Các nhân viên mượn nồi, mượn bếp cùng nấu cơm trong sân và chăm chỉ làm việc.


Ảnh gia đình, chụp tại Busan vào cuối cuộc chiến tranh Triều Tiên, năm 1953
Hai tháng sau, Seoul được giải phóng và chúng tôi có rất nhiều công trình để làm. Vào thời điểm đó, Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai là công ty duy nhất của Hàn Quốc có thể thầu độc quyền gần như toàn bộ công trình của Sư đoàn 8 của Mỹ, từ việc tu bổ nơi ở cho Tổng thống Eisenhower(15) mỗi khi ông đến Hàn Quốc, đến công trình phủ xanh các ngôi mộ của quân đồng minh nằm rải rác ở cánh đồng lúa mạch giữa mùa đông. Nhờ sự ủng hộ của Sư đoàn 8, tôi dễ dàng nhận được nhiều công trình, “nơi nào họ chỉ tay là nơi đó được giao cho Hyundai thi công”.
(15) Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ, nhiệm kỳ 1953-1961.
Kinh nghiệm xương máu từ công trình Cầu Goryeong
Có khởi đầu thì cũng có kết thúc. Chiến tranh cũng vậy.
Tôi biết đến lúc nào đó chiến tranh cũng phải kết thúc và tôi không nên hoàn toàn phụ thuộc vào các công trình của quân đội Mỹ, vì vậy tôi đã chủ động tích cực tham gia vào các công trình do Chính phủ phát thầu. Vào thời điểm này, tôi đã nhận được một số công trình của Chính phủ nhưng lợi nhuận không cao, vì xã hội đang trong tình trạng hỗn loạn và nền kinh tế bị suy thoái do chiến tranh.
Vào ngày 27 tháng Một năm 1953, mẹ tôi bị đột quỵ và qua đời tại Busan. Vào tháng Bảy năm đó, đúng như dự kiến, một thỏa thuận đình chiến được ký kết và quân đội Mỹ bắt đầu rút khỏi Nhật Bản. Vào tháng Tám, Chính phủ chuyển văn phòng đến Seoul. Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai cũng chuyển lên Seoul vào tháng Chín, sau đó chuyển văn phòng trụ sở chính đến tòa nhà Công ty Ô-tô Hyundai, rồi đến tháng Tám năm sau lại chuyển văn phòng đến phường Sogong.
Vào tháng Tư cùng năm, khi Hiệp định đình chiến được ký kết, chúng tôi bắt đầu “cơn ác mộng” trùng tu cây cầu Goryeong. Từ khi khởi nghiệp cho đến hôm nay, tôi chưa gặp bất cứ thử thách nào gian nan như vậy. Tôi không phải là người hay mơ khi ngủ, vậy mà đến tận bây giờ, đôi khi tôi vẫn mơ thấy giai đoạn vất vả không có một đồng trong tay này. Có lẽ nỗi đau mà tôi phải gánh chịu khi xây dựng Cầu Goryeong năm xưa đã khắc sâu trong tiềm thức của tôi.
Cầu Goryeong nối liền Daegu và Geochang. Việc khôi phục cây cầu là yêu cầu rất cấp bách để đáp ứng không chỉ nhu cầu vận chuyển hàng hóa mà còn nhằm thu phục quân du kích. Với tổng chi phí xây dựng là 5.478 hwan(16), tương đương 547.800 won, và thời gian thi công là 26 tháng, Cầu Goryeong là công trình xây dựng lớn nhất mà Chính phủ phát thầu vào thời điểm đó, và chúng tôi cũng đặt rất nhiều kỳ vọng vào công trình này.
(16) Đơn vị tiền tệ dưới thời chính quyền Lee Seung-man. 1 hwan = 100 won.
Tôi mời Kim Young-pil, người có nhiều kinh nghiệm thi công các công trình cầu đường tại Chi nhánh Công ty đóng tàu và xây dựng Shimizu trước giải phóng, làm giám đốc điều hành kiêm trưởng ban quản lý công trường. Tôi cũng bổ nhiệm Lee Yeon-sul, người tốt nghiệp khoa kỹ thuật xây dựng Trường trung cấp Waseda, phụ trách kỹ thuật và người bạn Oh In-bo của tôi đảm nhiệm khâu kế toán công trình.
Nhưng ngay từ đầu, chúng tôi đã gặp khó khăn. Trụ cầu chỉ còn lại phần lõi, phần bên trên thì bị phá hủy và lại chìm trong nước nên xây mới cây cầu còn dễ dàng hơn nhiều so với việc phục hồi nó. Ngoài ra, sự chênh lệch độ sâu của sông Nakdong cũng là trở ngại lớn với chúng tôi. Vào mùa đông, cát dồn lại nên mực nước khá cạn, trong khi mùa hè thì nước sâu gấp mấy lần mùa đông. Chúng tôi chưa hề có kinh nghiệm làm các công trình lớn như thế này nên không hình dung được mình cần máy móc thiết bị gì. Nhưng thiết bị xây dựng trong nước vào giai đoạn đó, cũng hầu như không có gì nhiều. Một chiếc cần cẩu 20 tấn, một chiếc xe trộn bê tông và một máy nén là tất cả những thiết bị chúng tôi có thể sử dụng.
Trong hoàn cảnh gần như không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phụ thuộc vào nhân lực, chúng tôi phải lắp hai cầu giàn 60 mét trong một thung lũng ngập nước sâu 10 mét và phải đóng 13 chân cầu để xây cầu bê tông. Tiến độ công trình bị trì trệ, đến khi khó khăn lắm mới lắp được các trụ cầu thì lại bị lũ cuốn trôi… Quả thật là họa vô đơn chí. Tuy nhiên, yếu tố có tính quyết định nhất là vật giá tăng chóng mặt, cứ sau một đêm thức dậy là lại thấy giá tăng. Tại thời điểm khởi công, đơn giá dầu theo dự tính là khoảng 7 won, đến khi công trình kết thúc thì giá dầu đã là 45 won. Khi công trình mới bắt đầu, giá gạo là 0,4 won một bao, nhưng khi công trình được hoàn thành thì đã lên đến 40 won. Đương nhiên, tất cả các vật liệu khác cũng tăng giá và tiền lương cũng tăng lên từng ngày. Thế mà kinh phí xây dựng bị “đóng đinh” ở mức 547.800 won chứ không tăng theo vật giá.
Chúng tôi không có cách nào khác ngoài gồng mình chịu trận.
Ngoài ra, hai công trình được khởi công trước công trình Cầu Goryeong là dự án xây dựng văn phòng và phòng sấy khô cho Tổng công ty in tiền ở phường Dongnae cũng khiến chúng tôi bị thâm hụt vốn rất lớn - con số lên đến 700 ngàn won. Số tiền chúng tôi chắt chiu kiếm được trước đây từ các công trình của quân đội Mỹ gần như đổ hết vào đó, bây giờ lại thêm khoản thâm hụt từ công trình xây Cầu Goryeong, tình thế thật nan giải.

Công trình trùng tu Cầu Goryeong
Vì không được trả lương nên công nhân xây dựng đình công, còn văn phòng hay nhà tôi đều lâm vào tình trạng khốn khổ vì chủ nợ đến đòi tiền hằng ngày. Con trai tôi, Mong-joon, đến giờ vẫn nói rằng điều nó luôn nhớ đến đầu tiên khi nghĩ về thời thơ ấu là cảnh các chủ nợ đến nhà la hét và dùng rìu đập xuống sàn nhà để đòi nợ. Tôi cũng không thể tiếp tục gửi chi phí du học từ 100 đô-la đến 150 đô-la/tháng cho em trai Se-yung nữa. Vì luôn cảm thấy lo lắng rằng em mình phải nhịn ăn hay đau bệnh gì đó nên ngày nào tôi cũng chạy như điên để xoay tiền.
Dù thua lỗ nhiều đến mức nào đi nữa, tôi vẫn phải giữ chữ tín, vì đối với người kinh doanh, uy tín là ưu tiên hàng đầu. Trong đầu tôi chỉ có một suy nghĩ duy nhất là công trình phải được hoàn thành đúng hạn.
Ở các công trình xây dựng, tai nạn đôi khi cũng xảy ra. Nếu chẳng may công nhân chết do thi công công trình thì em rể tôi phải ở lại công trường vào ban đêm để trông xác chết. Không xoay được tiền trả lương, công nhân chết do tai nạn lao động,… khó khăn chồng chất khó khăn. Trong những lúc căng thẳng như vậy, tâm trạng của công nhân cũng rất dễ bị kích động nên chúng tôi lại càng phải cẩn thận hơn.
Đến một ngày, Choi Gi-ho và In-yung đến gặp tôi và đề nghị chúng tôi nên dừng dự án Cầu Goryeong. Tôi nói với họ:
“Ý của hai người là muốn anh gỡ bảng hiệu công ty xuống luôn hay sao? Dừng thi công trong lúc này đồng nghĩa với việc giải thể công ty. Đối với một doanh nhân, chữ tín là trên hết. Mất uy tín là mất hết. Ước mơ của anh là thành lập công ty xây dựng lớn nhất Hàn Quốc, vậy mà hai người lại muốn anh bỏ hết tất cả sao? Chúng ta phải hoàn thành công trình này bằng mọi giá. Cầu Goryeong phải được trùng tu.”
Có lẽ quyết tâm của tôi đã truyền cảm hứng cho mọi người nên ai cũng cố gắng tìm cách xoay xở. Soon-yung đã bán ngôi nhà ngói diện tích 60 mét vuông ở phường Samseong. Em rể tôi, Kim Young-ju, cũng bán căn nhà ở phường Donam. Sau đó, Choi Gi-ho cũng treo bảng bán nhà. Tôi bán xưởng sửa xe ô-tô ở phường Cho thay vì căn nhà tôi đang ở, vì các em tôi muốn giữ lại ngôi nhà để thờ cúng tổ tiên. Với 997.000 won tiền bán nhà và bán xưởng, chúng tôi tiếp tục thi công cây cầu Goryeong. Dù đã dồn hết tài lực nhưng chúng tôi vẫn phải đi vay nợ với lãi suất hằng tháng cao ngất ngưởng là 18%. Cuối cùng thì đến tháng Năm năm 1955, công trình Cầu Goryeong được hoàn thành, trễ hai tháng so với thời hạn hợp đồng.
Số tiền ký hợp đồng là 547.800 won, nhưng số tiền nợ lại đến 650.000 won. Đây là kết quả quyết toán cho dự án Cầu Goryeong.
Chúng tôi mệt mỏi đến nỗi không còn sức để dọn dẹp các thiết bị máy móc để mang về sau khi kết thúc công trình. Dù công trình đã hoàn thành nhưng chúng tôi vẫn bị các chủ nợ vây kín.
Đến tận bây giờ khi nhìn lại công trình xây dựng Cầu Goryeong, tôi cũng không đổ lỗi cho vận xui. Chúng tôi chỉ tập trung vào việc làm thế nào để trúng thầu, giành được dự án và đã lơ là không tính toán kỹ lưỡng mọi phương diện để đề phòng những vấn đề có thể phát sinh.
Đối với các công trình xây dựng dài hạn, lẽ ra phải phân chia hợp đồng theo từng giai đoạn và ký theo từng năm để ngăn chặn tổn thất do lạm phát. Vào thời điểm đó, mặc dù nền kinh tế đã có dấu hiệu lạm phát nhưng chúng tôi vẫn chặc lưỡi: “Nếu có lạm phát đến mức nào đi nữa thì cũng chỉ gấp đôi thôi”. Phán đoán theo ý kiến chủ quan của mình và ký hợp đồng trọn gói là việc làm thiếu thận trọng nhất của tôi. Nguyên nhân thất bại là do tôi thiếu kinh nghiệm, không biết một thực tế rằng rất khó để xây dựng một cây cầu như Goryeong trong tình trạng thiếu thốn máy móc thiết bị như vào thời điểm lúc bấy giờ ở Hàn Quốc; một nguyên nhân nữa là chúng tôi cứ lao vào thi công mà không biết chất lượng đất đáy sông Nakdong ra sao.
Rốt cuộc tất cả các nguyên nhân của thất bại đều là do tôi. Trong sách Thái Căn Đàm(17) có câu “Đắc ý chi thời, bình sinh thất ý chi phi”, nghĩa là con người khi thành công thì cái rễ của thất bại đã nảy mầm sẵn.
(17) Một quyển sách bàn về tinh hoa xử thế của phương Đông.
Tôi nhớ các công ty xây dựng đối thủ lúc bấy giờ cũng hả hê khi tôi thất bại. Họ cho rằng tôi chỉ mới học hết cấp một thì không thể nào biết đến lạm phát, rằng không biết cách chia nhỏ hợp đồng cho một công trình xây dựng dài hạn thì chỉ có thất bại mà thôi…
Tuy nhiên, tôi hoàn toàn không có ý định từ bỏ ngành xây dựng. Tôi luôn tâm niệm một điều là tôi còn thiếu sót và cần học hỏi không ngừng. Mọi việc xảy ra là do lỗi của tôi. Tôi đã trả học phí quá đắt cho bài học này. Vì suy nghĩ như vậy nên tôi không tuyệt vọng, mà trái lại, tôi luôn bình tĩnh.
Vì đã bán hết nhà cửa và không còn tiền để thuê nhà ở, em rể và em trai Soon-yung của tôi dựng một cái lán ở ngay bên cạnh cây cầu ở phường Cho để ở tạm. Một buổi sáng khi tôi đến và nhìn thấy cảnh đó, tim tôi như tan vỡ. Không biết nói gì hơn, tôi chỉ thấy đau lòng và có lỗi với các em. Khó khăn lắm tôi mới thốt thành lời: “Khi anh giàu, anh sẽ mua cho hai em căn nhà thật lớn”. Tôi nhớ khi nghe những lời nói lắp bắp đó của tôi, em rể tôi khóc, em trai tôi khóc và bản thân tôi cũng khóc.
Nhưng cũng nhờ có công trình Cầu Goryeong…
Những món nợ kếch xù từ hai công trình xây dựng công ty in tiền và khôi phục Cầu Goryeong đã để lại cho chúng tôi vô vàn khó khăn, chẳng khác nào việc đeo quả tạ vào chân trong một thời gian dài. Tuy nhiên, ngoài những điều “mất” cũng có những điều “được”. Bộ Nội vụ đánh giá cao uy tín của Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai - mặc dù đã chịu khoản thiệt hại lớn nhưng vẫn cố gắng để hoàn thành công trình. Nhờ vậy, sau này chúng tôi đã không gặp khó khăn nào trong việc tham gia đấu thầu các dự án của Chính phủ.
Kể từ năm 1954, các dự án phục hồi, tái thiết sau chiến tranh “nở rộ” nhờ có vốn viện trợ của Mỹ. Nhờ vậy, tôi nhận được rất nhiều công trình, bao gồm công trình mở rộng Đập Gachang, xây mới nhà máy thiết bị công nghiệp nặng của Bộ Nội vụ và xây dựng bến tàu thứ tư ở cảng Busan vào năm 1955. Vào năm 1956, chúng tôi xây Cầu Oksan, rồi nhận công trình mở rộng Đập Gachang lần thứ ba và thứ tư; sau đó là công trình mở rộng Cầu Ganggu lần hai và ba… với tổng giá trị các hợp đồng là 540 triệu hwan. Công ty tôi dần dần được vực dậy.
Một trong những bài học xương máu tôi rút ra được từ công trình Cầu Goryeong là phải ưu tiên giải quyết tình trạng thiếu thiết bị. Trong Kinh Thi cũng có câu: “Tay không không bắt được hổ, đi bộ không thể lội qua sông Hoàng Hà”. Đối với công ty xây dựng thì thiết bị là không thể thiếu. Vào thời điểm đó, tất cả các thiết bị xây dựng hạng nặng đều thuộc sở hữu của nhà nước, trong khi với cá nhân thì ngay cả việc nhập khẩu cũng không được phép. Cách duy nhất để doanh nghiệp tư nhân có thể sở hữu thiết bị là mua và sử dụng thiết bị thông qua Sư đoàn 8. May mắn thay, chúng tôi là công ty xây dựng duy nhất được phép đăng ký chuyển nhượng thiết bị của Sư đoàn 8. Các nhà thầu xây dựng khác phải mua thông qua trung gian, còn chúng tôi được nhận danh sách thiết bị cần thanh lý mỗi tuần.
Tôi trực tiếp tham gia lựa chọn thiết bị cùng với trưởng phòng vật tư Lee Gi-hong. Hầu hết các thiết bị của quân đội Mỹ chỉ cần sửa sang đôi chút là lại tốt như mới. Khi còn làm ở xưởng sửa xe ô-tô, tôi cùng các công nhân thường thức đêm để vừa sửa xe vừa học hỏi nên tôi biết khá rõ về các nguyên lý, chức năng của động cơ và các phụ tùng xe ô-tô, thậm chí cả chất liệu của sắt thép. Vậy nên tôi có được nhiều thuận lợi hơn người khác trong việc lựa chọn thiết bị.

Người dân Seoul vào ngày thông Cầu sông Hán, công trình trùng tu do Công ty Xây dựng Hyundai thực hiện, năm 1957
Tôi cho rằng thời điểm Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai bắt đầu thu hút sự chú ý là khi chúng tôi thắng thầu công trình trùng tu Cầu sông Hán vào tháng Chín năm 1957. Từ trước đó, Hyundai đã luôn sẵn sàng nhảy vào bất cứ cuộc cạnh tranh nào để giành được hợp đồng. Đây là chuyện mà ai trong giới xây dựng cũng biết và cũng là điều khiến các đối thủ của Hyundai đau đầu. Mặc dù đã có chút nể phục năng lực cạnh tranh của Hyundai, nhưng nhiều công ty xây dựng vẫn rất ngạc nhiên khi chúng tôi đấu thầu thành công công trình Cầu sông Hán.
Cầu sông Hán được khởi công trùng tu vào tháng Chín năm 1957 và hoàn thành vào tháng Năm năm 1958. Thời gian thi công tương đối ngắn trong khi tổng giá trị hợp đồng lên đến 230 triệu hwan khiến đây trở thành công trình có quy mô lớn nhất Hàn Quốc giai đoạn hậu chiến kể từ sau công trình Cầu Goryeong. Không phải vô cớ mà giới xây dựng ngạc nhiên khi chúng tôi nhận được công trình này.
Ban đầu, Bộ trưởng Bộ Nội vụ định giao gói thầu này cho Công ty Xây dựng Joheung, nhưng người có quyền phê duyệt công trình là Bộ trưởng Bộ Tài chính lại muốn giao dự án cho Công ty Heunghwa. Không ai nhượng bộ ai, đến nỗi kế hoạch giải ngân bị kéo dài thêm một năm mà vẫn không thể đi đến thỏa hiệp nào. Thế nên cuối cùng, họ phải đưa công trình ra đấu thầu công khai. Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai dĩ nhiên cũng tham gia đấu thầu với các đối thủ cạnh tranh khác. Công ty Heunghwa bỏ thầu chỉ 1.000 won và tuyên bố sẽ xây dựng công trình với mục đích từ thiện. (Vào thời điểm đó, phí taxi từ trung tâm đến sông Hán đã là 4.000 won.) Nghe vậy, các công ty tham gia đấu thầu đều chỉ có thể cười trong cay đắng. Công ty nào khi tham gia đấu thầu cũng mong trúng thầu và kiếm được tiền, nên biết nói gì hơn khi một công ty tuyên bố xây cầu từ thiện chỉ với 1.000 won? Thật là một vụ đấu thầu không thể nào quên!
Khi mở thầu và thấy mức giá đấu thầu của Công ty Heunghwa, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã tuyên bố luôn là Chính phủ không chấp nhận việc tham gia với mục đích từ thiện. Nhờ thế, Công ty Hyundai hiển nhiên trúng thầu công trình trùng tu cầu dành cho người đi bộ qua sông Hán vì là công ty có mức thầu thấp thứ hai. Hyundai lãi tới 40% trong gói thầu này. Qua công trình trùng tu Cầu sông Hán, tôi càng củng cố niềm tin rằng “Trải qua mọi chuyện, chỉ cần bạn không chết và luôn khỏe mạnh thì tất cả đều là thử thách, không bao giờ là thất bại”.
Kể từ thời điểm đó, người ta bắt đầu nói đến “Nhóm năm công ty” hay “Nhóm sáu công ty”, gồm Công ty Công nghiệp Daedong, Công ty Xây dựng cơ bản Joheung, Công ty Xây dựng cơ bản Sambu, Công ty Xây dựng Kukdong, Công ty Công nghiệp Daelim và Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai. Chúng tôi được xếp vào nhóm những công ty hàng đầu trong số hơn một ngàn công ty lúc đó.
Các công ty xây dựng thời kỳ này thường xuyên móc nối hay có những thỏa thuận với nhau vì lợi ích chung. Trong hoạt động cạnh tranh đấu thầu xây dựng, vị trí thứ hai hay thứ ba đều vô dụng. Vì thế, tuy không cầm dao hay súng trong tay, không thật sự phải đánh đổi tính mạng, nhưng các công ty xây dựng luôn phải đấu trí và cạnh tranh gay gắt với nhau. Có người còn bị giám đốc công ty đối thủ bắt giữ rồi thả ra, có người thậm chí còn suýt bị ngồi tù.

Ông Chung Ju-yung ký hợp đồng thực hiện một công trình xây dựng với quân đội Mỹ
Từ tháng Bảy năm 1957, cùng với việc đình chiến, các công trình của quân đội Mỹ vốn đã bị đình trệ nay được hồi sinh nhờ chương trình xây dựng các cơ sở quân sự bán vĩnh cửu theo chính sách tăng cường lực lượng của Mỹ tại Hàn Quốc, bao gồm cả việc trang bị vũ khí hạt nhân. Khác với các công trình khôi phục khẩn cấp trong thời chiến, các công trình do quân đội Mỹ đặt hàng có nhiều yêu cầu nghiêm ngặt về thiết bị trong bảng quy định thi công. Qua kinh nghiệm cay đắng trước đây, tôi đã học được rằng việc đảm bảo thiết bị là vô cùng thiết yếu. Vì vậy, vào tháng Năm năm 1957, tôi thành lập một văn phòng chuyên trách máy móc hạng nặng tại xưởng sửa chữa ô-tô ở phường Cho. Tôi giao cho Kim Young-ju phụ trách văn phòng này. Ngoài việc mua, sửa chữa, lắp ráp các thiết bị và phụ kiện, Kim Young-ju còn có trách nhiệm quản lý và chế tạo các máy móc mà chúng tôi không có. Dù sao đi nữa, việc đi trước các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực cơ giới hóa và trang thiết bị đã đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của Hyundai. Đây là một thực tế không thể phủ nhận, và một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh tất cả là nhờ thử thách mà chúng tôi đã trải qua từ công trình Cầu Goryeong.
Không giống với các công trình của Chính phủ Hàn Quốc, vốn chỉ cần đặt giá thấp nhất là thắng thầu, các công trình của quân đội Mỹ còn yêu cầu phải làm đơn giá chi tiết cho từng hạng mục. Vào thời điểm đó, việc lập bảng báo giá các công trình của quân đội Mỹ do Lee Yeon-sul và Lee Chun-lim phụ trách, về sau thì việc này hoàn toàn do Kwon Gi-tae đảm nhiệm. Thời kỳ mới bắt đầu xây dựng các công trình của quân đội Mỹ, chúng tôi gặp khó khăn khi phải đọc bảng quy định thi công và bản vẽ thiết kế bằng tiếng Anh mà họ cung cấp, vì vậy việc thi công phải được thực hiện theo chỉ đạo của viên quản lý người Mỹ thông qua một phiên dịch viên. Ban đầu có nhiều chuyện dở khóc dở cười xảy ra, chẳng hạn như tài liệu quy định thi công bị dùng để nhóm lửa, thậm chí dùng làm giấy vệ sinh. Bây giờ ngẫm lại quãng thời gian đó, tôi cũng không biết nên khóc hay nên cười.
Trải qua những tình huống bi hài như thế, cuối cùng chúng tôi cũng đã giành được hợp đồng cho công trình làm đường băng sân bay Osan. Vào tháng Sáu năm 1959, chúng tôi bắt tay vào thi công công trình khôi phục bến tàu số một ở Incheon, công trình lớn nhất kể từ khi Đại Hàn Dân Quốc được thành lập, do Công binh Lục quân Viễn đông Hoa Kỳ phát thầu. Thời ấy, khi thi công các công trình của Mỹ, Hyundai gần như không có nhân sự biết nói tiếng Anh nên rất vất vả và việc tìm kiếm các trang thiết bị theo yêu cầu trong bảng quy định thi công cũng gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, tôi đã tận dụng hai công trình này như những cơ hội quý báu để nhân viên của Hyundai được huấn luyện thực tế. Các nhân viên được cử đi tham gia công trình nhiều nhất có thể để học hỏi các chuyên gia của Mỹ.
Sách Luận Ngữ dạy rằng “bất tri hạ vấn”, có nghĩa là học hỏi từ những người trẻ hơn hoặc những người có địa vị thấp hơn thì không có gì là xấu hổ cả. Trong suốt thời gian thi công hai công trình này, chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều từ các kỹ sư người Mỹ với thái độ thật sự nghiêm túc và tinh thần ham học hỏi. Chúng tôi cố gắng “hấp thu” tất cả những gì có thể học được.
Từ cuối những năm 1950 đến những năm 1960, không chỉ Hyundai mà tất cả các công ty xây dựng đều gặp khó khăn khi thi công các công trình xây dựng của quân đội Mỹ. Nhưng tất cả chúng tôi đều đã học hỏi, phát triển và trưởng thành qua những gian nan và thử thách.
Với mọi công trình sau đó, chúng tôi đều làm theo quy chuẩn của Mỹ. Việc quản lý chất lượng công trình cũng ngày càng nghiêm ngặt hơn. Tất cả những điều này đều được chúng tôi học từ các chuyên gia của Mỹ trong quá trình xây dựng các công trình của quân đội.
Thời gian và hành động quyết định sự thành bại
Tôi nghĩ chính thời gian và hành động là yếu tố quyết định chúng ta thành công hay thất bại trong đời.
Xi măng là nguyên liệu thiết yếu đối với công trình xây dựng, không khác gì gạo đối với con người. Trong quá trình thi công các dự án xây dựng, đôi khi việc cung cấp xi măng không được suôn sẻ khiến chúng tôi bỏ lỡ thời điểm quyết định và gây gián đoạn công trình - đó thật sự là tình huống cay đắng nhất. Có những công đoạn phải được hoàn thành trước mùa mưa hoặc trước khi trời trở lạnh nhưng vì thiếu xi măng nên chúng tôi không thể làm gì được, nhưng rồi đến giữa mùa mưa thì lại có xi măng, hoặc Chính phủ áp dụng chế độ Nhà nước cung cấp xi măng ngay giữa mùa đông. Những tình huống này giải thích tại sao chúng tôi thường xuyên ở trong tình trạng thiếu xi măng.
Tất cả nguyên liệu làm xi măng đều có thể tìm được trong nước. Tỉnh Gangwon và tỉnh Chungcheong có rất nhiều núi đá vôi, vì vậy mọi nhu cầu về xi măng đều có thể được đáp ứng. Quá trình sản xuất cũng không có gì quá khó khăn.
Khi quyết định làm bất cứ việc gì, tôi đều suy nghĩ đơn giản. Năm 1957, tôi bắt tay vào thành lập nhà máy xi măng để loại bỏ tình trạng xây dựng bị gián đoạn do sự thiếu hụt xi măng gây ra. Một năm sau, tức là năm 1958, tôi mua một mỏ đá vôi với trữ lượng 82 triệu tấn ở xã Eosangcheon, huyện Maepo, thị trấn Danyang, tỉnh Chungcheongbuk. Cũng vào năm đó, tôi xây dựng chiến lược kinh doanh xi măng cho công ty, bao gồm nhiều nhiệm vụ khác nhau như lên kế hoạch, khảo sát và đàm phán với Chính phủ để thành lập nhà máy xi măng. Chúng tôi lập bản vẽ chi tiết nhà máy xi măng với công suất 200 ngàn tấn một năm và chính thức nộp hồ sơ lên Bộ Công thương để xin sử dụng nguồn vốn từ Quỹ Cho vay Phát triển.
Thời ấy, xi măng khan hiếm đến mức đôi lúc nhiều công nhân xây dựng không có việc làm do thiếu xi măng, vậy mà Bộ Công thương lại quyết định bảo lưu dự án xây dựng nhà máy xi măng với lý do “các nhà máy hiện tại có thể đáp ứng nhu cầu”. Tuy nhiên trên thực tế, nguyên nhân thật sự là do các công ty xi măng đang cố gắng duy trì thế độc quyền trên thị trường xi măng trong nước.
Nỗ lực đầu tiên của chúng tôi vào năm 1958 đã bị bác bỏ và chuyện này khiến chúng tôi vô cùng thất vọng vì thời gian bị lãng phí. Sau sự kiện ngày 19 tháng Tư năm 1960, chính quyền Đảng Tự do sụp đổ và chính quyền Đảng Dân chủ được thành lập. Chúng tôi đã đệ trình lại kế hoạch xây dựng nhà máy xi măng với quy mô 200 ngàn tấn. Một thời gian sau, Chính phủ trả lời: “Nhu cầu thực tế không nhiều như vậy”. Chúng tôi phản đối và chất vấn rằng dựa trên cơ sở nào mà Chính phủ khẳng định nhu cầu không nhiều như vậy. Không có dữ liệu để Hyundai chứng minh “xi măng đang bị thiếu hụt”, nhưng cũng không có dữ liệu để Chính phủ chứng minh “đang thừa xi măng”. Nếu có thì đó là việc Công ty phát triển Quốc tế Mỹ (AID Corp) từng yêu cầu công ty dịch vụ Smith Hinchman & Grylls tiến hành một cuộc khảo sát vào thời điểm đó. Kết quả khảo sát cho biết đến năm 1963, Hàn Quốc cần khoảng 750 ngàn tấn xi măng, nên chỉ cần mở rộng các cơ sở sản xuất xi măng hiện có là đủ.
Tôi nghĩ rằng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tự mình điều tra. Việc xác định nhu cầu xi măng thực tế cần tính đến việc khôi phục thành phố Seoul và các thành phố lớn cũng như tình trạng thiếu nhà ở... Sau nhiều tháng làm việc, cuộc khảo sát của chúng tôi cho kết quả là “Trong năm 1962 và 1963, Hàn Quốc cần 1,2 triệu tấn xi măng”. Chính phủ rơi vào tình cảnh khó xử vì không thể tin chúng tôi mà cũng không thể tin AID. Rất may là cuối cùng Chính phủ đã chính thức thông qua việc thành lập nhà máy xi măng của chúng tôi như một phần của kế hoạch phát triển nền kinh tế. Tôi cảm thấy an tâm rằng từ giờ sẽ không còn nghe mấy thông báo kiểu như “Hiện không có xi măng nên mọi người hãy tạm dừng công việc”.
Thế nhưng dự án xây dựng nhà máy xi măng còn chưa bắt đầu thì cuộc cách mạng ngày 16 tháng Năm đã bùng nổ. Vào thời điểm đó, tôi cảm thấy tương lai mờ mịt. Vì không tìm ra cách ứng phó nên tôi vô cùng mệt mỏi và chán nản.
Tuy nhiên, thật may là Chính phủ cách mạng đã tập trung ưu tiên công cuộc xây dựng đất nước ngay từ những năm đầu nắm chính quyền. Ngành xây dựng bùng nổ nên tình trạng thiếu xi măng ngày càng nghiêm trọng. Mức độ phụ thuộc vào xi măng nhập khẩu vào năm 1961 ở Hàn Quốc là 12,9% và con số này ngày càng tăng. Yêu cầu thiết lập một hệ thống sản xuất xi măng hàng loạt đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách. Trong kế hoạch năm năm đầu, mục tiêu cấp thiết là phải tăng công suất sản xuất xi măng trong nước lên 720 ngàn tấn trong năm 1961; trong đó, Công ty Xi măng Ssangyong được Chính phủ cho phép sản xuất 400 ngàn tấn xi măng, Công ty Xi măng Hanil sản xuất 400 ngàn tấn và Công ty Hyundai sản xuất 200 ngàn tấn.
Sau khi được Bộ Ngoại giao Mỹ phê duyệt khoản vay và kết quả nghiên cứu tính khả thi của AID dựa trên trữ lượng của núi đá vôi Danyang được Chính phủ thẩm định, vào ngày 13 tháng Bảy năm 1962, một thỏa thuận cho vay đã được ký kết giữa Chính phủ Hàn Quốc, AID và Công ty Xây dựng và Cơ khí Hyundai, với khoản cho vay là 4,25 triệu đô-la Mỹ để xây dựng Nhà máy Xi măng Danyang. Tôi cảm thấy vô cùng tiếc nuối những năm tháng bị lãng phí do sự cản trở của một số doanh nghiệp đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích quốc gia, cũng như bởi sự bất lực và thiếu niềm tin vào doanh nghiệp của Chính phủ.

Tổng thống Park Chung-hee tại lễ khánh thành Nhà máy Xi măng Danyang cùng ông Chung Ju-yung và vợ, năm 1964
Vào thời điểm đó, trong hoàn cảnh của chúng tôi, việc xây dựng Nhà máy Xi măng Danyang là một dự án đột phá mà các nhân viên gọi là Phong trào Mùng Một tháng Ba của Hyundai. Trong suốt 24 tháng từ khi khởi công cho đến khi hoàn công, cứ mỗi Chủ nhật, tôi lại đến công trường bằng chuyến tàu đêm từ ga Cheongnyangni (tuyến Jungang). Khi làm bất cứ việc gì, tôi tập trung vào công việc và không quan tâm điều gì khác ngoài công việc. Bản tính tôi rất ghét những người lười biếng. Dù ở công ty hay công trường, bất kỳ người lười nhác nào nếu bị tôi bắt gặp sẽ bị tôi mắng cho “tối tăm mặt mũi”.
Chẳng hạn như vào khoảng ba tuần trước đó, trong khi đang ăn trưa với một số thành viên trong ban giám đốc công ty, tôi nghe một giám đốc nói về sự cố xảy ra do sự cẩu thả của một anh nhân viên mới ở công trường xây dựng đường cao tốc. Tôi liền lái xe jeep đến kiểm tra một vòng công trường đó. Đang đi “thị sát” thì tôi phát hiện một tài xế đang ngủ gật trên một cỗ máy, thế là tôi gọi anh ta dậy và mắng cho một trận.
“Máy móc thiết bị đắt tiền như vậy, anh không dùng để làm việc mà lại dùng để ngủ à!”
Bị tôi “tập kích” bất ngờ như vậy, anh tài xế hoảng hồn đến mức vội vàng bỏ chạy và mãi một lúc lâu sau khi tôi rời đi, anh ta mới dám quay lại. Có người hỏi cậu phó giám đốc của tôi: “Anh ta chạy trốn thật à?”. Cậu phó giám đốc trả lời: “Thật mà, ông Chủ tịch mà giận thì vô cùng đáng sợ. Khi Chủ tịch nổi giận thì trước tiên hãy bỏ chạy đi đã. Nhìn tay Chủ tịch đi, to biết dường nào. Nếu bị bàn tay đó đánh thì chết mất. Giám đốc Kim Young-ju cũng bỏ chạy rồi mới quay lại sau đấy”.
Trước câu nói của phó giám đốc, mọi người đều cười bò lăn, tôi cũng chỉ biết cười trừ. “Giám đốc Kim Young-ju” mà cậu phó giám đốc nhắc đến là em rể tôi.
Cậu phó giám đốc nói không sai. Hồi đó, để có thể điều hành một doanh nghiệp với số lượng công nhân đông đảo như vậy thì tôi phải luôn mở to mắt, có khi phải quát khan cả họng. Đôi lúc tôi cũng thấy trong mắt công nhân, mình trở nên đáng sợ và khủng khiếp hơn cả thần chết. Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng mọi người thường truyền tai nhau câu chuyện về một người cầm hồ sơ cần thanh toán vào gặp tôi nhưng thế nào đó lại bị tôi mắng tới tấp khiến anh ta sợ hãi đến nỗi tưởng nhầm cánh cửa tủ sắt là cửa ra vào nên đã mở ra và đi vào đó.
Tôi cũng không nhớ nổi mình đã làm gì đến mức tại công trường xây dựng Nhà máy Xi măng Danyang, tôi được đặt biệt danh là “con hổ”. Cứ đến chiều thứ Sáu, các nhân viên lại hỏi nhau: “‘Con hổ’ có đến không?”.
Có một lần vào cuối tuần, tôi ngủ quên trên một chuyến tàu đêm và khi tôi tỉnh dậy thì tàu đang xuất phát từ ga Danyang. Không còn cách nào khác, tôi nhảy khỏi tàu, phủi bụi rồi đứng lên. Khi đó tôi mới nhận ra mình đang ở trên một con đường tối tăm ven sườn núi, không rõ hướng nào là hướng nào. Tôi cứ mò mẫm đi bộ khoảng 50 cây số để đến công trường vào sáng sớm hôm sau. Mọi người ở công trường đều tưởng là tôi không đến. Khi họ thư thả vào căn-tin ăn sáng thì nhìn thấy tôi đã ngồi sẵn ở đó, ai nấy đều ngạc nhiên như thể gặp ma.
Mọi người đều làm việc rất chăm chỉ, nhưng dù sao thì vẫn có sự khác biệt lớn khi có tôi và không có tôi ở công trường. Khi có mặt tôi, cách mọi người đi lại cũng khác. Việc người quản lý trực tiếp hay không trực tiếp tham gia làm việc ở công trường cũng tạo nên sự khác biệt rất lớn. Tôi được biết đến là “người đàn ông ở công trường”. Những ngày đầu, khi công ty còn chưa lớn mạnh, chưa có nhiều người và không có nhiều công trình nên mỗi khi nhận công trình, tôi trực tiếp lo liệu mọi việc như chuẩn bị thi công và theo sát tiến độ. Từ những việc nhỏ như đào cát ở đâu, đổ cát chỗ nào, đào sỏi ra sao, hay đặt cái gì ở vị trí nào…, chỉ cần một bước cải tiến thôi cũng giúp tiết kiệm đáng kể sức lao động. Tôi trực tiếp xem xét xung quanh và chỉ huy mọi việc. Dĩ nhiên là kinh nghiệm cũng quan trọng, nhưng khi chưa có kinh nghiệm, chỉ cần suy nghĩ bằng cái đầu thì đã có thể đưa đến kết quả tốt hơn nhiều so với việc có kinh nghiệm mà thiếu tư duy.
Vào Chủ nhật hằng tuần, tôi thường chạy xuống công trường để khích lệ nhân viên. Nhưng tôi cảm thấy như thế vẫn chưa đủ nên tôi còn thường xuyên gọi điện thoại để kiểm tra. Tóm lại là khi tôi vừa rời công trường, ngay lập tức mọi người liền thở phào nhẹ nhõm như thể kẻ địch vừa rút lui vậy.
Thời gian không hề dừng lại dù chỉ một giây. Giây gộp lại thành phút, phút gộp lại thành giờ, nhiều giờ gộp lại thành một ngày. Một ngày trôi qua, một năm trôi qua, mười năm rồi trăm năm, ngàn năm trôi qua. Khi thời gian trôi qua, chúng ta không thể bắt nó quay lại. Bất cứ ai cũng muốn mình lười nhác ở một chừng mực nào đó, muốn vui và muốn thoải mái ở một mức độ vừa phải nào đó. Tuy nhiên, tôi nghĩ không có gì ngu ngốc hơn việc lãng phí thời gian một cách vô ích theo chủ nghĩa “chừng mực” hay “vừa phải” và không ý thức rằng quỹ thời gian của mỗi người là vô cùng có giá trị. Trong suốt cuộc đời mình, nếu biết tận dụng thời gian mình được ban cho, chúng ta có thể làm chính trị gia vĩ đại, học giả, nhà cách mạng, nhà văn, nhạc sĩ, họa sĩ và có thể làm doanh nhân. Chúng ta có thể trở thành những con người được kính trọng cả khi đang sống và sau khi đã từ giã cuộc đời. Không phải những người đáng tôn kính đã làm nên những điều ý nghĩa trong hai hay ba kiếp sống, mà họ chỉ có một cuộc đời để sống rồi ra đi. Tất nhiên, không phải ai cũng có thể làm được những điều lớn lao trong đời, vì điều đó còn tùy thuộc vào tài năng, khả năng, môi trường và năng lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nếu sống một cuộc đời chăm chỉ, không lãng phí thời gian, bạn có thể phát triển và đạt được những thành quả riêng trong lĩnh vực của mình. Và một cuộc đời như vậy đã là thành công.
Điều hành doanh nghiệp là một quá trình vô cùng thực tế - mọi hành động đều có kết quả tương xứng. Để đạt được thành quả, doanh nghiệp cần được nuôi dưỡng bằng hành động. Bạn không thể chỉ ngồi một chỗ và sử dụng cái đầu thông minh để phát triển doanh nghiệp, vì đầu óc thông minh là chưa đủ mà bạn còn phải biến những suy nghĩ thông minh của mình thành hành động. Có người vừa có ý tưởng là đứng bật dậy ngay để xúc tiến, có người có thói quen hoãn lại một, hai tiếng hoặc một vài ngày sau.
Có thể một chút trì hoãn không tạo ra sự khác biệt lớn về hiệu quả công việc. Nhưng hãy hình dung nếu tất cả mọi việc đều bị trì hoãn “một chút” thì sẽ thế nào. Nếu cộng tất cả những “một chút” đó lại thì sẽ là một khoảng thời gian rất đáng kể, đủ để khiến một người lẽ ra có khả năng về đích đầu tiên trong cuộc đua đường trường đầy cam go rốt cuộc lại về chót. Do đó, trong mọi việc mà tôi chỉ đạo, dù khó khăn đến đâu, tôi thường không cho nhiều thời gian.
“Hãy làm xong trước sáng mai.”
Vì tất cả nhân viên đều bận rộn nên nếu được cho nhiều thời gian, chắc chắn họ sẽ làm những việc khác và trì hoãn việc được giao ít nhất một, hai ngày. Rồi chờ đến khi lửa cháy tới chân, họ mới hốt hoảng than trời rồi vội vội vàng vàng xử lý công việc. Như vậy thì sẽ chẳng có việc nào ra hồn cả. Xử lý mọi việc bằng nỗ lực tối đa và tập trung cao độ trong thời gian ngắn nhất mới có thể mang lại kết quả. Tôi là người ghét sự lãng phí thời gian hơn bất cứ điều gì, vì vậy tôi trở thành “thần chết” ở các công trường xây dựng. Mỗi công việc đều có tính chất và thời cơ khác nhau, nhưng việc nào cũng cần có sự chuẩn bị tốt như nhau. Tuy nhiên vào thời điểm đó, không có việc gì mà tôi không cần phải để mắt đến, nên có thể đoán được sự có mặt của tôi đối với tất cả các nhân viên đều đáng sợ như thế nào. Trong số các công trình vào giai đoạn đó, nhà máy ở đường Wonhyo 4-ga được tôi ghé đến mỗi ngày một lần, có ngày hai lần. Có lần tôi còn làm cho các nhân viên hết hồn vì họ nghĩ “Hôm nay Chủ tịch đã đến rồi nên chắc ngày mai mới lại đến”. Tất nhiên, tôi biết đôi khi cách làm việc của mình cũng khiến nhiều nhân viên bị tổn thương, vì mỗi khi xuất hiện, tôi luôn tạo cho họ áp lực nặng nề. Tôi xin lỗi vì điều đó. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng chính sự kiểm tra, huấn luyện nghiêm khắc và cả những hành động hay lời nói khích lệ của tôi đã tạo nên một Hyundai như ngày nay.
Trong các chuyến công tác, các doanh nghiệp nước ngoài thường cho những nhân viên trên năm mươi lăm tuổi đến nơi trước ba ngày, những người trẻ hơn thì đến trước hai ngày vì họ cho rằng nhân viên của mình cần thích ứng với sự chênh lệch múi giờ nếu có, để có thể làm việc với tinh thần minh mẫn. Nhưng nếu chúng tôi làm vậy thì không thể giành chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh. Chúng tôi cần phải lập tức ngồi vào bàn thương thảo trong trạng thái tỉnh táo nhất ngay khi vừa đến nơi.
Đa số các công ty lớn ở Nhật Bản, quốc gia lân cận với Hàn Quốc, và ở các nước tiên tiến khác đều có hệ thống triết lý kinh doanh vững vàng được xây dựng và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của các doanh nghiệp, nhờ vậy mà họ không dễ bị lạc hướng hoặc sụp đổ trước nghịch cảnh. Công ty chúng tôi không có bề dày lịch sử được như họ. Cho dù bộ não và năng lực của chúng tôi có xuất sắc đến đâu thì mười hay mười lăm năm của chúng tôi khó có thể theo kịp trăm năm của họ. Trong khi chúng tôi cố hết sức chạy theo để bắt kịp họ thì họ cũng chăm chỉ chạy để vượt xa chúng tôi hơn nữa. Cùng một khoảng thời gian và cùng tốc độ, chúng tôi không thể dễ dàng xóa bỏ khoảng cách một trăm năm.
Ngoài ra, Hàn Quốc cũng có nguy cơ bị các quốc gia khác đang theo sát phía sau mình vượt mặt. Nếu các công ty ở các quốc gia khác làm việc mười tiếng, chúng tôi sẽ cố rút ngắn khoảng cách bằng cách làm việc từ hai mươi đến ba mươi tiếng và nuôi dưỡng những doanh nghiệp có năng lực, có tư duy tiến bộ với niềm tin vững chắc và lòng yêu nước.
Tôi nghĩ rằng việc tôi luôn đốc thúc nhân viên của mình ở các công trường có thể giúp truyền động lực cho họ, cho cả chính tôi, cho xã hội và cho đất nước ngày càng phát triển. Suy nghĩ đó của tôi đến bây giờ vẫn không thay đổi. Hiện tại, trong số những người lãnh đạo Tập đoàn Hyundai hay những người phụ trách lĩnh vực sản xuất của các công ty trong tập đoàn, không ai chưa từng oằn lưng làm việc ở các công trường xây dựng, và ai cũng đã từng bị tôi mắng đến rơi nước mắt.
Tôi tin rằng bất cứ ai từng làm việc với tôi hay đã từng được tôi huấn luyện tại công trường đều có thể đảm trách mọi việc, bởi vì tôi đã đào tạo họ thành những “người làm việc thực thụ”, có năng lực và tinh thần trách nhiệm để hoàn thành mọi việc được giao một cách kỹ lưỡng và hoàn hảo hơn bất kỳ ai. Chúng ta phải phát triển mỗi ngày. Phải biết rằng nếu hôm nay không khác hôm qua, ngày mai cũng hệt như hôm nay thì đó không phải là dừng lại mà là tụt hậu. Chúng ta phải phát triển hằng ngày, dù chỉ từng bước, từng bước một. Nếu chúng ta không phát triển thì sẽ bị vượt mặt và sẽ ngay lập tức tụt lại phía sau.
Hiện nay, nền kinh tế Hàn Quốc đang ở mức tồi tệ nhất.
Vào đầu những năm 1990, khẩu hiệu “Hãy cứu lấy nền kinh tế” vang lên khắp cả nước, nhưng khẩu hiệu vẫn chỉ là khẩu hiệu, nền kinh tế vẫn ngày càng tệ hơn, đến mức chúng tôi không thể nhìn thấy tương lai. Đến hôm nay, khẩu hiệu “Hãy cứu lấy nền kinh tế” vẫn vang lên một cách rỗng tuếch. Trong mắt những người như tôi, mọi thứ như đang sai hướng. Mỗi ngày trôi qua, tôi đều thấy những sai lầm tệ hại và không thể xem như không thấy.
Công trình xây dựng Nhà máy Xi măng Danyang, dự án đã “đem về” cho tôi biệt danh “con hổ”, đã được hoàn thành vào ngày 30 tháng Sáu năm 1964, sáu tháng trước thời hạn hợp đồng, và bắt đầu đi vào vận hành sản xuất từ ngày 4 tháng Bảy cùng năm. Khi bắt đầu cho ra sản phẩm, nhà máy này đã giải quyết được tình trạng thiếu hụt nguồn cung xi măng, và dĩ nhiên, kết quả là toàn bộ các công trường xây dựng như được hồi sinh. Trước đó, Hyundai chỉ tham gia vào các công trình xây dựng hạ tầng, nhưng sau sự kiện này, Hyundai đã thực hiện bước chuyển đổi thành công, nâng cao tỷ trọng tham gia vào lĩnh vực xây dựng nhà máy.
Vào tháng Một năm 1970, Nhà máy Xi măng Danyang được tách thành Công ty Xi măng Hyundai. Công ty Xi măng “thương hiệu con hổ” đã đóng góp vào việc hạ giá thành sản phẩm và phát triển thành một công ty xuất sắc chỉ trong một thời gian ngắn.
Vốn thành lập Nhà máy Xi măng Danyang bao gồm khoản vay 32,5 triệu won từ Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc, cộng với khoản vay vốn 250 ngàn đô-la từ AID, tổng cộng là 330 triệu won. Ngoài số tiền vay ngân hàng và vay quỹ quốc tế, số vốn còn lại của chúng tôi là từ nguồn tiền lãi có được từ công trình xây dựng bến cảng Incheon 1 vào năm 1960.
Em trai Shin-yung
Tôi là anh cả của sáu em trai và hai em gái, trong đó có một em gái lập gia đình ở Bắc Hàn và qua đời khi tuổi còn trẻ.
Vào ngày 14 tháng Tư năm 1962, ba tháng trước khi khởi công xây dựng Nhà máy Xi măng Danyang, tôi nhận được điện thoại cho biết Shin-yung, em trai thứ năm của tôi vừa qua đời. Khi ấy Shin-yung đang ở Hamburg, Đức để làm luận án tiến sĩ. Em ấy bị tắc ruột khi đang trên đường về nhà sau chuyến đi trượt tuyết cùng với nhóm bạn nghiên cứu sinh. Tuy đã được phẫu thuật nhưng Shin-yung đã không qua khỏi. Em ấy vốn là một người khỏe mạnh và năm đó chỉ mới ba mươi hai tuổi.
Shin-yung nhỏ hơn tôi mười sáu tuổi. Cũng giống như tất cả anh em chúng tôi, em ấy học chữ Hán ở trường làng do ông tôi dạy, đến chín tuổi thì vào Trường Tiểu học Songjeon. Như các anh trai của mình, tuổi thơ Shin-yung gắn liền với việc đi cắt cỏ khô cho bò ăn, cắt lúa rồi làm túi rơm. Vì cách nhau mười sáu tuổi nên khi tôi rời quê hương thì Shin-yung chỉ mới ba tuổi.
Vào tháng Ba năm giải phóng, Shin-yung chuyển đến Seoul khi đang là học sinh lớp bốn. Tôi thu xếp cho em ấy học Trường Tiểu học Yongsan. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, em tôi vào Trường Trung học cơ sở Boseong, lúc đó đang theo hệ sáu năm. Ở đây, Shin-yung tham gia vào nhóm văn nghệ làm báo của trường và thể hiện là một tài năng trong các buổi thảo luận về triết học. Em tôi là người thân thiện, vui vẻ, hoạt bát, hài hước, thích kết bạn và thường nhiệt tình giúp đỡ người khác. Xung quanh em có rất nhiều bạn bè. Em cũng là người giàu cảm xúc, có lần tôi nghe thấy bạn bè của em đặt cho em biệt danh là “người dễ xúc động”.

Ông Chung Ju-yung và vợ, cùng với em trai Chung Shin-yung tại lễ tốt nghiệp Đại học Luật Quốc gia Seoul của Chung Shin-yung, năm 1957
Shin-yung rất ham học. Khi đang học năm thứ ba tại Trường Đại học Luật Quốc gia Seoul và sống trong vùng tị nạn ở Busan, em tôi đã bị viêm phổi do học quá sức để chuẩn bị cho kỳ thi tuyển viên chức cao cấp nên đành phải nghỉ dưỡng cả mùa hè ở làng chài, sau đó em phải chuyển hướng học lên cao học. Khi đang học cao học, em được nhận vào làm phóng viên cho tờ Đông Á Nhật báo. Shin-yung làm phóng viên cũng có thể là do ảnh hưởng của anh trai In-yung, nhưng tôi nghĩ bản thân em ấy cũng bị thu hút bởi công việc làm báo.
Em tôi được bổ nhiệm phụ trách ban chính trị, là phóng viên được phép ra vào văn phòng quốc hội. Sau đó, em trở thành thành viên của Câu lạc bộ Kwanghoon, một nhóm ái hữu và nghiên cứu của các nhà báo trẻ ưu tú. Chính tôi là người đã hết sức động viên em đi du học. Học vấn của tôi chỉ đến hết cấp một không phải vì tôi là người không thích học, mà vì gia đình khi đó không đủ điều kiện cho tôi học lên tiếp, nên bây giờ tôi muốn các em tôi không chỉ đi du học mà còn học cao hơn nữa. Sau khi làm phóng viên cho Đông Á Nhật báo được một năm ba tháng, Shin-yung chọn chuyên ngành kinh tế và sang Đức du học. Ở đó, em ấy đã lấy vợ và sinh con. Trong thời gian du học, em làm đặc phái viên cho tờ Hàn Quốc Nhật báo và Đông Á Nhật báo tại Đức và viết khá nhiều bài. Shin-yung thường chọn làm những công việc khó khăn thay vì tìm những việc dễ dàng. Em là niềm tự hào và an ủi tinh thần nhiều nhất đối với tôi. Sau đó, vì muốn tập trung hoàn tất luận án tiến sĩ nên Shin-yung đã thôi làm đặc phái viên tờ Đông Á Nhật báo. Em cũng gửi con gái và người vợ đang mang thai con thứ hai sang nhà tôi ở phường Cheongun.
Tôi không quá sốc khi cha mẹ tôi qua đời, vì sinh lão bệnh tử là quy luật tự nhiên, hơn nữa, cả hai người đều bị bệnh khá lâu nên tôi đã chuẩn bị tâm lý và tinh thần cho sự ra đi của họ. Nhưng cái chết của Shin-yung thật là một cú sốc lớn. Một đứa em trai đang khỏe mạnh, tràn đầy năng lượng mà lại ra đi khi tuổi đời chỉ mới ba mươi hai thì thật khó chấp nhận.
Tôi không thể nào tin đây là sự thật.
Tôi thật sự trân trọng và yêu mến tấm lòng trong sáng và sự tử tế của Shin-yung. Em ấy luôn thân thiện với tất cả mọi người, và điều đáng quý nhất ở em là sự thuần khiết, luôn lấy tình nghĩa làm trọng. Cho dù Shin-yung trở thành phóng viên hay học giả, tôi luôn hy vọng và kỳ vọng đứa em này có thể đem lại nhiều đóng góp có giá trị cho xã hội và đất nước trong tương lai. Khi đọc một bài báo có đăng tên đặc phái viên ở Cộng hòa Liên bang Đức cùng với ảnh của Shin-yung, tôi đã tự hào và hãnh diện biết bao... Về phía Shin-yung, kể cả khi đang mệt mỏi vì phải học ngôn ngữ bản địa, nhưng nhận được thư của tôi, em rất vui và có tinh thần học hành hơn. Shin-yung chính là một phần ước mơ và niềm tự hào của tôi, nên tin em ấy qua đời đã khiến tôi gục ngã.
Em dâu chưa đầy ba mươi tuổi mà đã phải ở vậy một mình. Em ấy rồi sẽ ra sao? Hai đứa con thơ lớn lên thiếu vắng cha sẽ ra sao? Thật đắng lòng. Ngoại trừ lần cha và mẹ tôi qua đời, đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi đã khóc như xé lòng. Khi nghe tin em mất, tôi đã không đi làm trong mười ngày, đó cũng là “kỳ nghỉ” dài nhất trong đời tôi cho đến hôm nay. Các thành viên của Câu lạc bộ Kwanghoon đã đưa thi thể em tôi về bằng đường hàng không. Bất chấp mọi người xung quanh phản đối rằng người chết ở bên ngoài thì không được mang vào nhà, tôi vẫn đưa em vào ngôi nhà ở phường Cheongun được xây dựng từ năm trước để tổ chức đám tang theo nghi thức Cơ Đốc giáo. Em dâu tôi vốn là một tín đồ Cơ Đốc giáo. Hai em ấy đã tổ chức hôn lễ tại nhà thờ ở Đức và thường đi nhà thờ ở đó. Tôi lẳng lặng cho khắc cây thánh giá trên bia mộ của Shin-yung, điều này đã làm em dâu ngạc nhiên.
Ngày đầu tiên em dâu đi lễ nhà thờ sau lễ tang của em trai, tôi lặng lẽ đưa vợ theo em dâu đi lễ. Tôi không thể để cho cô ấy đi nhà thờ một mình khi chồng mất sớm để lại hai con nhỏ. Trong bảy tháng sau đó, tôi cùng vợ thường xuyên theo em dâu đi nhà thờ.
Tôi đã cố gắng để em dâu cảm thấy bớt cô đơn vì không có chồng bên cạnh, để các cháu không thấy thiếu thốn khi thiếu vắng cha, nhưng vì công việc của tôi bận rộn ngày đêm nên tôi không làm được nhiều như mong muốn. Tôi cảm thấy có lỗi vì điều đó.
Em dâu tôi lớn lên trong một gia đình được giáo dục tốt nên suy nghĩ sâu sắc và tính cách điềm đạm. Mỗi lần làm lễ cầu nguyện cho em trai tôi đều có mục sư, có lẽ em dâu thấy ngại cho tôi vì lời cầu nguyện của mục sư quá dài, nên có một năm, tôi đã không thấy mục sư trong lễ cầu nguyện. Sau này tôi được biết, vì tôn trọng tôi nên em dâu không mời mục sư. Tôi bèn nói làm lễ cầu nguyện mà không mời mục sư sao được. Từ đó trở đi, buổi lễ cầu nguyện nào cũng có mục sư.
Tôi chưa bao giờ thể hiện cho Shin-yung thấy tôi rất thương em, tôi kỳ vọng vào em và tự hào về em. Tôi chưa bao giờ chính thức nói với em ấy những điều đó, nên cho đến tận bây giờ tôi vẫn hối hận về chuyện này hơn bất kỳ điều gì.
Năm 1977, tôi đề nghị đóng góp quỹ cho câu lạc bộ Kwanghoon, nơi em trai tôi là thành viên, với mục đích đơn thuần là mong họ tiếp tục thực hiện những dự án mà em tôi đã không thể hoàn thành. May mắn thay, họ đã chấp nhận. Sau đó, tôi tiếp tục tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu, viết lách của các nhà báo, cũng như xuất bản những quyển sách có giá trị mà không quan tâm đến lợi nhuận. Tôi thành lập Quỹ nghiên cứu Shin-yung để duy trì hoạt động tài trợ đó và quỹ vẫn hoạt động hiệu quả cho đến ngày nay.
Vào giữa những năm 1970, tôi đã mời vị giáo sư có ơn với Shin-yung ở Trường Đại học Bonn đến Hàn Quốc, với nguyện vọng hoàn thành luận án tiến sĩ mà em trai tôi đang làm dang dở với đề tài “Mối tương quan giữa tiết kiệm và phát triển kinh tế, tập trung vào mô hình các nước đang phát triển”. Nỗ lực đó đã mất nhiều năm để đạt được thành quả. Luận án của em trai tôi đã được Giáo sư Voigt trực tiếp thực hiện phần còn lại, được thẩm định để cấp bằng và được trường đại học nơi em tôi theo học xuất bản bằng tiếng Đức vào năm 1982. Luận văn đồng thời cũng được dịch ra tiếng Hàn và xuất bản bởi Quỹ nghiên cứu Shin-yung. Khi được Quỹ nghiên cứu Shin-yung mời đến dự lễ kỷ niệm luận án được dịch thuật và xuất bản, Giáo sư Voigt đã phát biểu như sau:
“Trong thời gian làm nghiên cứu sinh, Chung Shin-yung đã triển khai một lý thuyết khác lạ về nền kinh tế Hàn Quốc mà các học giả cũng khó hiểu được. Với tư cách là giáo sư hướng dẫn, tôi cũng nghĩ luận án này khó lòng hoàn thành. Nhưng qua hai mươi năm, thực tế phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc đã chứng minh rằng lý thuyết của Shin-yung hoàn toàn hợp lý.”
Em trai Shin-yung của tôi đã trở thành tiến sĩ sau hai mươi năm từ giã cõi đời. Hai đứa con của em ấy giờ đã trưởng thành, lập gia đình và sinh con. Tôi không biết thể hiện lòng biết ơn thế nào đối với em dâu, người đã góa bụa khi chưa đầy ba mươi tuổi và sống một mình suốt quãng đời còn lại.