Cơn mưa rừng ồ ạt, rồi tạnh đột ngột. Gió đẩy những đám mây bề bộn giãn ra. Bầu trời sáng hẳn. Những tia nắng yếu ớt ló ra và chiếu vào các sườn đồi đất mới đỏ au. Ngày xưa, nơi đây là chiến trường, là những đồi cỏ tranh bị bom cháy loang lổ. Sau ngày giải phóng, các đoàn khai hoang cùng với bộ đội biến nó thành những vùng đất canh tác mới. Từ sớm tinh mơ, tiếng người, tiếng cuốc, tiếng đẵn cây, chặt gỗ hòa nhau vang khắp sườn đồi.
Vùng đất của đơn vị Tám bắt đầu từ Sa Luông lấn dần về bản Hà Lừng, mở rộng ra hai bên suối Lác. Những ngày đầu, công việc dồn đến gối lên nhau. Là tiểu đội trưởng, Tám không mấy chốc ngơi chân ngơi tay. Ngày dựng lán ở, tranh thủ cả giờ nghỉ trưa, Tám vào rừng chặt nứa về đan phên lót sàn nằm cho anh em. Hôm thì đóng cái chạn bát, dọn lối đi xuống nhà ăn. Hôm thì Tám lợp mái hố tiêu, sửa nhà tắm. Thấy Tám làm quần quật suốt ngày, có đồng chí thốt lên:
- Làm vừa vừa thôi, còn để sức mà lớn chứ “Tám lùn”!
Tám thấp bé, nên anh em thường gọi là “Tám lùn”. Cái biệt danh ấy đã làm Tám phật ý. Những người cao lớn gọi thế còn đỡ, đằng này cả cái cậu Lập chẳng nhỉnh hơn Tám là mấy cũng một điều “Tám lùn”, hai điều “Tám lùn”: Tối nay “Tám lùn” gác nhé! A này, “Tám lùn” có thư!
Nhưng rồi dần dần, Tám cũng thấy quen với sự đùa vui ấy.
Sau ngày giải phóng, Đại đội 2 - đơn vị của Tám nhận nhiệm vụ cùng với đoàn khai hoang mở đất. Tám là một chiến sĩ có nhiều thành tích chiến đấu, lại bị thương nên cấp trên định cho Tám ra miền Bắc điều dưỡng và nhận công tác mới. Năm, sáu năm xa nhà, nhớ cha mẹ, bạn bè, Tám cũng muốn trở về quê hương. Nhưng trong đơn vị, còn nhiều đồng chí đi lâu năm hơn Tám, họ vẫn chưa được về. Và nơi chiến trường ác liệt này đã khắc vào lòng Tám những kỷ niệm thật sâu sắc. Tám nghĩ tới lần bị thương ở Buôn Hồ. Địch bắn rát, Tám được đưa vào lánh tạm ở một nhà dân gần đó. Nửa đêm tỉnh dậy, Tám thấy mình ngồi dựa lưng vào một bà mẹ. Bà gầy guộc nhưng rắn rỏi như một gốc lim già, tóc bà trắng như bông lau. Tám bị khó thở không nằm được, bà mẹ đã ngồi suốt đêm cho Tám dựa lưng. Giặc vẫn lùng sục ở gần đấy. Chúng bắt được Tám ở đây thì liên luỵ đến bà mẹ. Tỉnh dậy, Tám xin đi khỏi nhà. Bà mẹ xua tay:
- Con chưa đi được! Còn yếu lắm. Mà con ra đấy, chúng nó bắt mất! Cứ ở đây!
- Con sợ chúng nó làm rầy mẹ!
- Mẹ già rồi, chúng nó làm gì thì làm. Mẹ không thể để con ra đấy cho chúng nó bắt!
Tám ở lại. Đơn vị Tám tạm thời phải rút sang vùng khác. Bà mẹ giấu Tám vào trong buồng, Tám chưa ăn được sắn, bà tìm rau rừng, rồi đi vay thịt nai khô nấu cháo cho Tám húp. Hơn chục ngày sau, khi đồng đội trở lại đón, Tám đã đi lại được. Tám ra đi, bà mẹ nhìn theo. Đôi mắt mờ đục của bà tưởng như đã khô kiệt nước, lúc này lại rưng rưng. Bà nhìn theo tới khi Tám khuất sau những bụi cây rừng. Tám mang ơn bà mẹ ấy. Ngay trong lúc chiến tranh ác liệt, Tám đã nghĩ tới chuyện phải trở lại đây để làm một việc gì đền đáp công ơn bà mẹ, đền đáp công ơn cái vùng đất đã nuôi mình đánh giặc, đã cưu mang mình khi bị thương. Tiếp đấy là những ngày Tám cùng đồng đội bám dân, bám đất trên vành đai Kơ Rông, Đức Lập. Một ngọn rau rừng, một nắm cơm cũng nhường nhịn cho nhau. Những kỷ niệm ấy càng thêm da diết, khi nói đến chuyện rời vùng đất này mà đi. Không, Tám chưa rời được, Tám quyết định ở lại cùng đơn vị xây dựng vùng đất này.
*
Tám tranh thủ giờ nghỉ lên đại đội nhận thêm dụng cụ. Những hạt nắng lọt qua vòm lá rắc xuống nền đất mới. Ánh nắng vương theo màu diệp lục xanh dịu nhảy nhót trước mặt Tám. Nhìn những lưỡi xẻng cong cớn, những lưỡi cuốc chim mài vào đất sáng loáng mà đại đội phó thận trọng bó lại phân cho từng tổ, Tám thấy lòng bồi hồi. Những dụng cụ đã bao năm gắn bó với đồng đội, với Tám. Nó đã cùng Tám ra trận mở hào, đào công sự. Có lưỡi cuốc cùng người bền bỉ ngày đêm đào hào thông vào đồn địch. Tám cứ tưởng những dụng cụ ấy khi không còn chiến tranh, nó sẽ được yên tĩnh nằm ở kho, hoặc đưa về nhà bảo tàng. Ai ngờ hôm nay, chính chúng lại trở về với đồng đội của Tám, lại cùng Tám vào mặt trận mới. Cái mặt trận này máu sẽ không đổ, nhưng mồ hôi thì đổ nhiều. Đánh giặc xong rồi thì phải sản xuất và xây dựng. Giữ được nước rồi, cần phải làm cho nước giàu.
Từ trên sườn dốc, Đại đội trưởng Toàn vạm vỡ như một lực điền, quần xắn quá gối, để lộ hai bắp chân lấm láp. Anh cầm cuộn dây rừng, với cái thước đo bằng đoạn gỗ mun, thong thả đi xuống khu đất mới cuốc. Cả tiểu đội của Tám ngước nhìn anh:
- Chào thủ trưởng ạ!
- Chào các đồng chí! - Đại đội trưởng cười vui vẻ: - Tiểu đội ta hồi này làm ăn khấm khá đấy. Cứ đà này chả mấy chốc ta sẽ lấn tới mép rừng! - Anh giơ tay chỉ về phía con đường mòn như một dải lụa đỏ au vắt ngang quả đồi phía trước - Xê 2 mình khoanh từ quả đồi kia kìa. Từ đó mở rộng ra hai bên, cho tới vùng giáp ranh của Xê 6.
Đại đội trưởng vẫn nhìn ra xa. Bàn tay phải rê rê ngang tầm mắt, anh tiếp tục nói:
- Những quả đồi hoang này, không xa nữa, ta sẽ biến nó thành một nông trường. Là những người đi trước, tất nhiên ta sẽ vất vả, gian khổ. Nhưng có như thế thì khi đồng bào từ Bắc vào mới có cơ sở để bắt tay vào sản xuất ngay được!
Nhân đại đội trưởng đến, Tám cho anh em giải lao. Anh em xúm đến bên đại đội trưởng. Lập lém lỉnh gợi ý:
- Anh Toàn vẫn còn thuốc lá khao chúng mình đấy nhá!
Toàn sờ túi ngực, miệng tủm tỉm:
- Còn một bao cuối cùng. Cậu nào thật nghiện hãy hút. Nếu chỉ kéo khói vào, thở khói ra thì thôi!
- Báo cáo thủ trưởng, anh em chẳng ai nghiện, nhưng vẫn cứ muốn hút.
- Vì thuốc của thủ trưởng là quà quê hương miền Bắc gửi vào, chúng em hút để chung vui.
- Để cho đỡ nhớ quê hương, thủ trưởng ạ!
Nghe anh em nói thế, Toàn chìa bao thuốc cho tất cả mọi người.
Khói xanh đồng loạt toả ra. Tám hít xong một khói, rồi lim dim mắt vừa thưởng thức cái vị thơm đượm của hương thuốc, vừa ngắm nghía hai chữ Điện Biên nét nhỏ màu xanh trên điếu thuốc. Cậu ngắm anh em nhả khói. Cậu ta chờ anh em hút hết rồi mới hút riêng một mình để trêu ngươi.
Hết bữa tiệc khói, anh em cười vui. Đại đội trưởng bảo mọi người dồn lại, ngả cán xẻng, cán cuốc ra ngồi. Đất dính quần, bụi dính tóc, anh nào cũng nhem nhuốc chân tay, nhưng đôi mắt vẫn đen lay láy.
- Các đồng chí có mệt lắm không? Chắc là rất mệt!
Đại đội trưởng hỏi rồi lại tự trả lời. Tám và anh em đều cười. Anh ngồi nhích lại gần mọi người rồi chậm chạp nói:
- Khu vực chúng ta đang phá đây, có thể còn bom nổ chậm, mìn vướng, mìn lá. Rút kinh nghiệm mìn nổ của các đơn vị bạn vừa qua, hầu hết là do ta chủ quan. Ta phải hết sức thận trọng. Khi phát hiện, hoặc nghi có bom, mìn, phải báo cáo để đại đội xử lý. Tuyệt đối đảm bảo an toàn.
Công việc bây giờ là đánh gốc, bốc chà, đốt cỏ, cuốc đất. Không như ngày nào chống càn, diệt phỉ, công đồn. Thế nhưng Toàn vẫn làm cho anh em hào hứng chăm chú lắng nghe. Truyền đạt xong công việc, anh em tản ra xung quanh.
- À, Tám có thư này!
Đại đội trưởng vừa nói, vừa mở nắp xà cột lấy thư đưa cho Tám. Mọi người ùa lại nói vui:
- Nhất cậu rồi nhá. Ở rừng mà nhận “tình cảm” là phải khao đấy!
- Nào, đưa đây, mình đọc cho cả tiểu đội nghe chung!
- Thôi, tha cho cậu ta, các bạn ơi!
Cầm lá thư, Tám lánh ra một gốc cây ngồi đọc. Những nét chữ thân quen nghiêng nghiêng đều đặn, khiến Tám hồi hộp: “Ôi! Đúng rồi!”. Bỗng hình ảnh Hương, một cô gái nhỏ nhắn, đôi hàng mi xanh mỏng uốn cong, mái tóc dài đen láy, chập chờn hiện ra trước mắt Tám.
Hồi ở quê nhà, Tám với Hương cùng học trường cấp 3 Nam Thư Trì. Trong số bạn gái cùng trường, Tám mến Hương hơn cả. Hương rất ngoan, xinh xắn, học giỏi nữa. Nhưng Tám chỉ thầm thương vụng nhớ thế thôi. Mãi đến hôm nhập ngũ, đi chào bạn bè, Tám mới đánh bạo ngỏ ý. Và cái buổi lên đường, chia tay vội vã ở bến đò Tân Đệ, hai người mới thực sự hò hẹn mai sau. Ngày còn đóng quân ngoài Bắc, nhận được thư, Tám biết Hương vào Đại học Xây dựng. Thế mà đã sáu năm rồi. Chóng thật. Cầm lá thư, hai tay run run, Tám đọc nhanh như muốn biết ngay, biết đầy đủ cả những ẩn ý sau dòng chữ viết có phần dè dặt:
“Anh thân yêu!
... Nhận được thư anh, cả nhà mừng lắm. Hôm ấy, em nghỉ phép sang chơi. Mẹ bảo: “Cái thằng đến là gan. Năm, sáu năm nó mới biên thư về”. Biết anh vẫn khoẻ, đang ở chiến trường Tây Nguyên, em mừng quá. Hôm nay, biên lá thư này cho anh, em cũng đang ở gần anh đây. Anh có tin không? Thật đấy! Em kể cho anh nghe nhé. Sau khi ra trường, em làm đơn xung phong đi phục vụ miền Nam, vùng đất mà các anh vừa giải phóng. Một số đoàn khai hoang của Thái Bình ta cũng đã vào rồi anh ạ. Em đi với đoàn khảo sát của tỉnh. Vào tới Đắk Lắk, thì đoàn em dừng lại. Thế là tranh thủ những ngày nghỉ, em đi tìm anh. Hôm đầu, gặp đơn vị bộ đội đóng gần đấy, em đánh liều vào. Em bảo: “Các anh cho em hỏi thăm có ai là Tám ở đơn vị ta không ạ?”. Các anh cười ầm lên, trêu em:“Bộ đội ở đây thì tám, chín thiếu gì, muốn tìm thì bà chị phải khai rõ cả quê quán ông Tám nhà ta ở đâu nữa chứ!”. Em phải nói kỹ: “Anh Tám ở Vũ Thư, Thái Bình, người lùn lùn ấy mà”. Các anh ấy lại càng trêu: “Thế thì không có nhé. Đây chỉ có “Tám cao” ở Hoà Bình thôi”.
Trong thư anh nói là đang ở Tây Nguyên, em cứ tưởng vào Tây Nguyên là gặp. Ai ngờ cái vùng đất rộng thế. Nhưng em vẫn nghĩ là anh đang ở quanh đâu đây. Ôi, những ngày đầu sống ở rừng buồn quá anh ạ. Đi đâu cũng gặp toàn đồi và núi. Đêm đêm tiếng tắc kè gõ nhịp, tiếng hoẵng kêu vang vào vách đá nghe mới não nuột làm sao. Ngày ngày nhìn những vực sâu thăm thẳm, em lại càng nhớ anh, thương anh bao năm leo đèo lội suối. Nhưng rồi dần dần hóa quen và cũng vui anh ạ. Đến nay đã bốn tháng, công việc của bọn em ngày một nhân lên. Tỉnh nhà định đưa đồng bào vào xây dựng quê hương mới, ngay trên cao nguyên Đắk Lắk này. Nhiệm vụ chúng em là khảo sát địa bàn và thi công xây dựng. Chúng em ở gần dãy núi Ngọc Linh. Anh đã đến Ngọc Linh chưa?”.
Tám vừa muốn đọc nhanh, vừa muốn ngừng lại cho cảm xúc của mình xen vào: “Ôi, thế là Hương đã vào đây! Sao lại có chuyện tình cờ lý thú như vậy nhỉ?”... Tám lật trang thư đọc tiếp:
“Những năm chiến tranh ác liệt, nhiều đêm em không nhắm mắt được. Cứ nằm mà đoán xem lúc này anh đang cùng đơn vị đánh giặc ở đâu, hay đang hành quân lội suối băng rừng. Thương nhớ anh nhiều, em càng chăm đọc báo, nghe đài, để biết cái vùng Tây Nguyên ở đó anh đang chiến đấu có trận nào thắng lớn, có tội ác gì mà giặc gây ra. Em nghiệm ra rằng: ở đâu có người thân của mình thì dù xa mấy, đấy cũng là mảnh đất mình yêu thương nhất.
Nay khác rồi. Đất nước hoàn toàn giải phóng nên đường đi như ngắn lại. Em được cử vào đây công tác mà không phải đắn đo gì nhiều. Không hiểu do có anh trong này hay do điều gì khác nữa. Em đi rất hào hứng anh ạ! Em cứ tưởng tượng là gặp anh ở trong này thì anh sẽ vui sướng ghê lắm. Thật thế, anh nhỉ! Gặp nhau, em sẽ kể cho anh nghe nhiều chuyện khi xa nhau. Những giấc mơ, bật cười lắm anh ạ. Con trai chả biết có hay mơ mộng, chứ con gái là hay mơ lắm.
Anh thân yêu!
Chưa gặp nhau thì phải chăm biên thư cho nhau nhé! Mỗi tháng một lá, hoặc nửa tháng thì tốt hơn. Phải viết tỉ mỉ cơ đấy, em không thích những lá thư chỉ có dăm câu thăm hỏi sơ sơ!
Bắt đầu từ thư này, em viết cho anh thật nhiều, để rồi đòi anh cũng phải viết như vậy!”.
Lá thư kể rất say sưa. Tám gấp thư lại mà lòng còn rạo rực. Tám sẽ biên thư cho Hương. Và nếu được, anh có thể đi tìm Hương nữa.
*
Ba quả đồi dưới thung lũng Ngọc Linh, màu xanh của cây cỏ thu dần lại, nhường chỗ cho đất mới trải ra. Trời hanh khô, nắng không chói chang, nhưng ong ong khó chịu. Những cơn gió lượn quanh sườn đuổi nhau, đưa những đám bụi đỏ bay lên. Đại đội 2 giao vùng đất ấy cho một bộ phận của đoàn nông binh rồi tiến lên mở vùng đất mới, luồn sâu vào trong thung lũng. Đại đội chia làm ba mũi mở ba rẻo đất.
Nhận nhiệm vụ xong, tiểu đội Tám họp bàn cách triển khai ngay trên đồi “Mai rùa”. Năm 1968, bọn lính dù Mỹ đổ quân xuống quả đồi này lập căn cứ phòng ngự nhưng chưa đầy một tuần đã bị các chiến sĩ Sư đoàn 312 đánh bạt xuống thung lũng Đắk Tô. Sườn đồi hiện còn những hàng rào thép gai hoen gỉ, xiêu vẹo, làm giàn cho cỏ dại bò lên. Tám cùng anh em dùng kìm cắt rào thành từng mảnh rời, rồi cuộn lại từng đống, hất xuống chân đồi. Các loại cỏ dại, cây hoang được phát quang, rồi đốt. Mở đến đâu, đất được cuốc lộn ngay phơi nắng đến đó. Bao đời nay, những lớp đất bị mưa nắng nén chặt, giờ được xới lên.
Trời nóng, Tám vẫn mặc quần dài, chỉ xắn vài gấu cho đỡ vướng. Từ cái hôm khiêng cây gỗ bằng lăng qua suối, Tám giẫm lên một hòn đá rêu nên trượt ngã, chân trái trẹo đi. Vết thương cũ sưng tấy. Thấy Tám kém ăn, anh em bảo nghỉ ở nhà, Tám chỉ nói là hơi mệt, rồi lại đi làm. Tám không mặc quần đùi như mọi khi vì Tám sợ anh em thấy vết thương sưng to, lại bắt đi nằm viện. Tám làm quần quật. Cái búa trên tay anh chẳng mấy chốc được nghỉ. Những hạt bụi đỏ quyện mồ hôi đọng trên ngực áo anh. Da anh bắt nắng đỏ sạm.
Tám dồn sức bẩy cho cái rễ bằng lăng bật lên. Đất tung vào đầu, vào mặt anh, nhưng rễ cây vẫn dai dẳng bám chặt vào đất. Tám giạng chân, quai búa ra sau lưng lấy sức. Nhát búa vừa bập xuống thì một ánh lửa loé lên. Ngỡ va phải đá, Tám cúi xuống tìm, một quả bom ẩn dưới đất. Lưỡi búa của Tám trượt cạnh vỏ bom. Rất may là không bổ trúng bộ phận gây nổ. Tám bới đất cho quả bom nhô lên, lộ rõ cái màu gang xam xám. Tám cử một đồng chí đi báo cáo đại đội, rồi cùng anh em lùi ra xa, bàn cách phá bom.
Thế rồi trong phút chốc, việc phá bom được triển khai ngay. Trong lúc Đại đội trưởng Toàn đang cân nhắc chọn người làm nhiệm vụ, thì Tám lên tiếng:
- Đề nghị cho tôi vào phá!
Đại đội trưởng nhìn khắp lượt các chiến sĩ. Những con mắt mở to chờ đợi được chỉ định mình. Anh quay sang Tám:
- Đồng chí mới sốt dậy, người còn yếu!
- Không, tôi khoẻ rồi! Năm trước, ba lần tôi phá bom ở Na Tông, ít nhiều cũng có kinh nghiệm. Hơn nữa quả bom này nằm chếch hướng nào, nhô lên mặt đất bao nhiêu, chính tay tôi đã sờ thấy nó. Đề nghị cho tôi làm.
Đại đội trưởng tự mình điều tra thêm, kết hợp với nghe Tám báo cáo, anh thấy đúng là một quả bom nguy hiểm. Bộ phận gây nổ trật lên trên mặt đất, chỉ khẽ tác động cũng dễ nổ bất ngờ. Mà Tám là người nắm chắc vị trí quả bom, lại có kinh nghiệm. Cuối cùng, Đại đội trưởng đồng ý cử Tám phụ trách tổ phá bom.
Mặt đồi nghiêng nghiêng, màu đất mới đỏ rực, chói chang hơn khi trong lòng nó chứa một vật làm chết người. Mấy đám cỏ dại, lá khô đốt từ sáng khói vẫn nghi ngút dâng đầy sườn dốc. Những ngọn gió từ thung lũng Tà Phình thỉnh thoảng lại ào qua, nâng những đám khói bay lên, làm tăng thêm vẻ dữ dội của khu đồi.
Tổ phá bom ba người do Tám phụ trách tiến vào vị trí. Cầm cái kíp nổ trong tay, bước lên mặt đồi, Tám thấy mình hồi hộp. Tám thoáng nghĩ đến những phút giây sắp tới. Phút giây mà trong cuộc đời chiến sĩ, mấy lần ra trận, Tám chưa từng phải suy nghĩ nhiều về cái phút giây có sự rủi ro! Trong những năm chiến tranh ác liệt, người chiến sĩ có nghĩ tới sự hy sinh cần thiết khi chiến đấu, nhưng chỉ thoáng qua. Trong chiến đấu, sống chết là chuyện bình thường. Nhưng ở đây, cuộc chiến đấu trực tiếp với giặc đã kết thúc. Chỉ còn chiến đấu với những di họa của chúng để lại, nếu mình giữ được an toàn thì tốt. Người ta ai mà không quý sự sống!
Tám quay lại phía sau, hai chiến sĩ trong tổ phá bom cầm xẻng lặng lẽ bước. Hình như họ cũng suy nghĩ gì đó. Trước khi làm một việc khó khăn nguy hiểm, ai mà không nghĩ. Tám nói với họ, giọng bình thản:
- Các cậu đào hầm chỗ này nhé! Để tránh bom nổ. Còn mình sẽ vào tiếp cận với nó!
Rồi Tám đến bên quả bom. Thân nó chìm trong đất, đầu lộ ra, màu gang xam xám. Tám tính toán cách phá sao cho an toàn. Hoà bình rồi, không thể để máu đổ một cách không cần thiết.
Tám nhẹ nhàng khoét đất cho phần trên của quả bom lộ rõ hơn, tạo điều kiện ròng dây điện nối với kíp nổ. Anh đã nhủ mình phải cẩn thận, nhưng rồi anh vẫn chủ quan. Anh ỷ vào kinh nghiệm phá bom lần trước và tin tưởng ở sự từng trải của mình. Anh không xem xét kỹ đoạn đầu của sợi dây điện mà đem nối ngay với kíp mìn.
Một làn gió mát rượi nhè nhẹ quạt vào mặt Tám, Tám ngước lên đón gió và hít một hơi dài khoan khoái. Trong gió có hương hoa rừng thoang thoảng. Hình như gió vừa trườn qua dãy núi Ngọc Linh và mang hương rừng tới đây. Dãy núi Ngọc Linh cao cao và xanh sẫm dưới nắng chiều. Ở bên kia núi, Hương - người yêu của Tám lúc này đang làm gì nhỉ?
Lập được phân công gác dưới chân dốc, không cho người từ đường mòn lên đồi. Khoác khẩu súng trên vai, Lập đi đi lại lại quan sát. Lập nhỏ như Tám, nhưng cao hơn một chút, nên có vẻ mảnh khảnh. Lập vào loại lém lỉnh nhất nhì tiểu đội, nhưng lúc này cậu ta cũng lặng lẽ nghiêm trang trước một việc khó khăn nguy hiểm.
Thời gian nặng nề trôi đi. Vùng đồi trở nên căng thẳng bởi không khí chờ đợi tiếng nổ. Bỗng có tiếng người, Lập quay lại. Một cô gái nhỏ nhắn, từ bìa rừng bước vội về phía Lập. Trông cách ăn mặc, Lập biết cô không phải là người dân tộc. Cô có mái tóc dài bím gọn buông tới ngang lưng, đôi lông mày xanh mỏng như hai nét vẽ uốn cong. Lập bước lại phía cô gái, nói dõng dạc:
- Đề nghị đứng lại, đây là khu vực cấm!
Cô gái chựng lại, ngạc nhiên một chút, rồi tươi cười bước nhẹ đến gần Lập. Một cô gái miền Bắc dáng thon thả, cái miệng xinh xinh chưa nói câu nào nhưng đã biểu lộ vẻ niềm nở ân cần. Đôi mắt đen và cái nhìn bạo dạn khiến Lập hơi lúng túng.
- Chào anh ạ! Cho em hỏi...
Cô gái ngập ngừng, đôi môi mím lại. Lập trở nên bình tĩnh rắn rỏi hơn:
- Cô hỏi ai?
- Em hỏi thăm anh Tám, quê Thái Bình có ở đơn vị đây không ạ!
- Thái Bình, nhưng ở huyện nào?
- Ở Vũ Thư ạ!
- “Tám lùn” phải không?
Cô gái reo lên:
- Phải đấy ạ!
Lập đi đi lại lại, thầm đoán xem cô gái là người nhà hay bạn bè của Tám. Còn cô gái, nghe Lập nói, nét mặt ngây thơ vui hẳn lên, trông càng xinh. Lập hỏi tiếp:
- Thế đồng chí, à cô là người thế nào với Tám?
- Dạ em...
Cô gái ngập ngừng, hai má hồng lên, đôi mắt càng thêm sáng:
- Em là... là em gái anh Tám ạ!
Lập sực nhớ tới cô em gái mà Tám thường kể với anh em. Cô ta tên là Hương, xinh đẹp, kém Tám hai tuổi. Vì vậy, cả tiểu đội đều vui đùa nhận Tám là anh. Cả mấy ông nhiều gấp rưỡi tuổi Tám cũng đòi làm em. Giờ đây Hương đã đến, đúng là Hương đẹp thật. Là tay lém lỉnh, nhưng đứng trước một cô gái đẹp, Lập đâm bối rối, cứ ngây người ra mà nhìn. Một lúc sau, Lập mới mấp máy môi:
- Cô là Hương có phải không?
- Vâng ạ!
- Ôi! Thế thì tôi với cô là đồng hương nhé! Sao cô lại vào được tận đây?
- Em đi với đoàn khảo sát của tỉnh nhà, em cũng ở vùng này. Sáng nay gặp mấy anh bộ đội đi lấy gạo em hỏi thăm, biết có anh Tám ở Thái Bình đang ở Xê 2. Các anh chỉ cho em sang bên này. Thế… anh cũng ở Thái Bình ạ?
Tự nhiên Lập trở lại với cái tính lém lỉnh quen thuộc của mình. Mắt cậu ta nheo lại tinh nghịch, miệng nói như hề chèo nói lối:
- Vâng, tôi với Tám cùng huyện, cùng tiểu đội. Hai đứa lại cùng cả tuổi, anh Tám còn nhận tôi là... em nữa đấy.
Cô gái mỉm cười:
- Cùng tuổi mà lại nhận là em?
Lập biết lỡ miệng, đành cười gượng nói:
- Không, em là em... kia cơ!
Cô gái thẹn cúi xuống, rồi hỏi:
- Thế anh Tám đâu hả anh?
- Cứ bình tĩnh ngồi chờ đây với tôi một lát. Nào, ngồi xuống. Anh Tám còn đang làm một nhiệm vụ quan trọng. Lát nữa xong, tôi sẽ đưa Hương lên gặp Tám!
Hương đợi dưới bóng râm của cây kơ nia cạnh chân đồi. Hương không hiểu Tám làm việc gì mà quan trọng đến mức có người canh gác không cho tới gần. Hương bồn chồn lo lắng, nhưng không tiện hỏi thêm, vì thấy Lập cứ đi đi lại lại, chốc chốc lại nhìn lên đồi như mong ngóng cái gì.
Đúng là Lập đang có cái cảm giác nửa mừng, nửa lo. Mừng vì ở chốn rừng núi hoang vu này, Tám sắp gặp người em gái đã mấy năm xa cách. Lo vì sức khoẻ của Tám không tốt, có thể bị ảnh hưởng không hay vì quả bom sắp nổ kia.
Bỗng một tiếng nổ từ mặt đồi vang lên, cả quả đồi rùng mình như động đất. Bụi và khói phụt cao mù mịt. Lập nhắm mắt lại, hai tay bưng mặt cho khỏi bụi. Rồi khi bụi chưa tan hẳn, Lập đã vẫy cô gái theo đường mòn lên đồi.
Lúc này thì Hương đã hiểu, Tám làm nhiệm vụ phá bom. Bom đã nổ, không hiểu Tám có an toàn không. Lòng dạ Hương như bị xóc lên. Tim Hương đập dồn dập. Hương bước vội, vấp chúi mấy lần, bỏ quên cả cái túi du lịch ở gốc cây.
Trên mặt đồi, nơi quả bom vừa nổ, đất đỏ quật lên tung toé. Hai chiến sĩ quần áo nhuốm bụi đỏ đang khiêng một người đặt vào chiếc cáng thương.
Hương chạy dấn lên, vượt cả Lập. Hương đã nhìn ra người bị nạn. Một người lùn thấp, mặt mũi, quần áo nhem nhuốc bụi bặm. Hương nhào tới bên cáng, nước mắt Hương trào ra, giọng cô lạc đi:
- Anh Tám! Anh Tám ơi!
Một chiến sĩ khẽ khàng ngăn Hương lại:
- Bình tĩnh! Anh ấy bị sức ép. Cứu được! Cứu được!
Đồng chí quân y ra hiệu bảo Hương lui ra, để làm việc cấp cứu. Anh em trong tiểu đội, cả đại đội trưởng cũng đã ào tới. Họ thay nhau hà hơi, thổi ngạt cho Tám. Một lúc sau, Tám cựa chân tay, rồi đôi mắt anh hé mở.
Hương chẳng kịp lau nước mắt, ghé miệng sát khuôn mặt anh lem nhem bụi đất của Tám:
- Anh Tám! Anh nhận ra em không?
- Ừ... ừ... - Tám chớp chớp mắt .
Đại đội trưởng và mọi người thở phào trước sự hồi tỉnh của Tám, Lập quay lại nói với anh em:
- Em gái Tám đấy! Cô ấy mới vào!
Hương quên cả anh em đứng đông bên cạnh, cô cởi phăng áo ngoài để lau bụi bặm trên mặt, trên chân tay Tám. Giọng Hương ấm áp:
- May quá, anh chỉ bị sức ép thôi!
Đôi mắt Tám chớp chớp nhanh hơn, nhưng giọng anh còn yếu:
- Hương! Em đến đây bao giờ?
- Ồ, Hương à? Hương, người yêu của Tám, các cậu ơi! - Lập ngớ người ra một lúc rồi nói như reo lên - Thế mà nãy chị Hương nhận là em gái. Suýt nữa thì...
Anh em nhìn nhau vui mừng. Họ nhớ ra lá thư Hương gửi cho Tám mà tiểu đội đã chuyền tay nhau đọc. Đại đội trưởng bước lại bên Tám, mỉm cười:
- Tôi mừng cho Tám! Đồng chí đã hoàn thành xuất sắc một nhiệm vụ khó khăn nguy hiểm. Đồng chí lại được người yêu đến thăm vào giờ phút cần thiết này!
Tám nắm lấy bàn tay của đại đội trưởng. Tám muốn nói câu gì, nhưng xúc động quá, không nói được.
Đồng chí quân y đề nghị đưa ngay Tám về trạm xá đơn vị. Hai chiến sĩ cáng Tám đi. Hương vội vã bước theo.
Không khí Tây Nguyên xế chiều dịu mát. Một làn gió từ phía núi Ngọc Linh thổi lại, khiến Tám tỉnh táo hơn. Anh mở to mắt nhìn Hương. Hương bước sát bên cáng để Tám nhìn mình cho rõ. Hương muốn nói với Tám nhiều điều nhưng cô lại thôi.
Ở trạm xá, Hương đỡ bát cháo trứng gà nghi ngút khói từ tay chị hộ lý, bưng vào cho Tám. Người khá mệt, nhưng Tám vẫn cố làm ra vẻ ăn ngon để Hương yên lòng. Rồi Tám kể lại tình huống mình bị nạn:
- Anh đã nhủ mình phải cẩn thận, nhưng trước khi nối dây điện vào kíp mìn, anh không kiểm tra lại. Có sự đứt gãy nào đó ở đầu dây mà anh không biết. Khi xuống hầm điều khiển phá, thì bom không nổ. Thế là anh phải đến bên quả bom làm lại các việc. Quay ra được mươi bước thì ánh chớp loé lên. Anh chỉ kịp nằm xoài xuống đất, rồi không biết gì nữa!
Hương nhìn Tám không chớp mắt. Rồi Hương nghiêm giọng trách móc:
- Lần sau anh phải cẩn thận hơn!
- Ừ! Đây cũng là một bài học của anh về bệnh chủ quan, ỷ vào kinh nghiệm và sự từng trải của mình.
Tám uống chén nước Hương rót cho rồi nằm nghỉ.
Hương hiểu rõ công việc của người yêu đang làm. Một ý nghĩ vụt đến trong đầu Hương. Những nơi gian khổ, hy sinh, các anh bộ đội bao giờ cũng là người đi trước. Hương cứ tưởng cái mảnh đất vừa sạch bóng quân thù này, người đầu tiên đến khai thác, xây dựng phải là bọn Hương cơ. Nhưng trước đó đã bao người đi qua rồi. Thì ra vùng đất mà Hương đang ở, đang xây dựng là nơi chiến trường xưa mà hôm nay chính các anh vừa khai phá. Bỗng dưng, Hương thấy yêu Tám và thương anh hơn bao giờ hết.
Bản thảo hoàn thành tại Trại sáng tác văn học về đề tài Lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân tổ chức.
Nhà sáng tác Đại Lải, tháng 8 năm 2018