Ta biết công nghệ sẽ sớm thay thế những công việc thủ công. Nhìn về tương lai, ta lo lắng con sẽ sinh tồn thế nào sau này. Ta tự nhủ nếu con không giành được thành tựu, cuộc sống tương lai của con sẽ chật vật.
Việc học hành bị trói buộc với khả năng thành thạo lĩnh vực nhất định, vì vậy ta sớm dạy con phải học tập và làm việc vì mục đích nào đó. Ta cho con tham gia các hoạt động ngoại khóa để con giỏi hơn, thay vì cho con tham gia vì con thích. Ta chỉ tập trung vào nơi con đang đi đến, thay vì nơi con đang đứng.
Thay đổi cách nhìn về tương lai để trở về hiện tại – ví như thôi không hỏi “Thế rồi sao nữa?” – ta giải phóng con khỏi nỗi lo sợ không biết diện mạo mình thế nào, hay mình thể hiện ra sao và cho phép con học hỏi mà không bị áp đặt. Chính sự quan tâm của ta đối với kết quả khiến con không học được kỹ năng cần thiết để chịu đựng sự bình thường, sự tức giận và cả sự thất bại.
Khi con gái tôi 6 tuổi và đến ngày họp phụ huynh, các phụ huynh đều đăng kí lịch tham gia còn vợ chồng tôi không tìm được thời gian phù hợp trong số các giờ còn trống trong danh sách đăng ký của cô giáo. Tôi nghĩ ngay, “Cô giáo sẽ nghĩ mình vô trách nhiệm.” Thời gian trôi qua, tôi thấy mình không cần phải quá dính mắc vào suy nghĩ của cô giáo về mình, hay nhận xét của cô về con gái. Không phải nhận xét của cô không hữu ích vì suy cho cùng, chúng ta đều có thể học hỏi từ quan điểm của người khác, nhất là khi người đó dành rất nhiều thời gian ở bên con chúng ta. Tuy nhiên, tôi biết con là một con người, tôi không cần phải băn khoăn về việc con có biết làm toán, biết đọc hay biết viết không. Thay vì phải biết con học hành ra sao ở trường, tôi tập trung vào việc học sinh ấy sống thế nào. Tôi muốn biết quá trình của con trong cuộc sống hơn là quá trình đạt điểm số. Tôi muốn biết con có tốt bụng, có biết đồng cảm, linh hoạt, kiên cường, biết thể hiện cảm xúc, biết chơi đùa và chân thật hay không – tôi đã thấy những điều này của con ở nhà. Tôi biết nếu con tôi làm người thành công, con sẽ quan tâm đến các khía cạnh khác của quá trình học vấn theo cách của mình. Cuối cùng, vợ chồng tôi cũng sắp xếp được lịch họp sau với cô giáo.
Một người mẹ tâm sự với tôi rằng con gái 4 tuổi của chị phát triển chậm vì con hay tè dầm buổi tối, dù chị đã dạy con đi bô. Để trấn an chị, tôi khuyên chị không nên tập trung quá nhiều vào việc con có phát triển đúng tiến độ hay không, thay vào đó hãy coi đây là cơ hội đầu tiên trong số rất nhiều cơ hội mà chị cần có để thuyết phục bản thân về sự khác biệt của con. Hai tuần sau chị gọi cho tôi và nói rằng con gái đã bớt tè dầm và chị không còn lo lắng về việc này nữa.
Chị phấn khởi đến mức muốn mua tặng con một món quà. Tôi nói, “Được chứ”, kèm theo lời khuyên là thay vì chỉ cần khen con đã đạt mục tiêu, món quà sẽ hữu ích nhất nếu nó thể hiện sự khen ngợi vì hai mẹ con đã hiểu nhau hơn nhờ trải nghiệm này. Có lẽ, chị sẽ giải thích vì chị quá lo lắng, nhưng giờ chị xin lỗi vì đã không tin tưởng con và thật tuyệt khi con biết tự đi vệ sinh.
Nếu ta chỉ tập trung vào kết quả, thay vì quá trình học hỏi, con sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để phát triển lòng tự trọng của mình. Đừng nói với con, “Con làm tốt lắm. Thưởng cho con này”, hãy nhấn mạnh sự phát triển về tính cách của con, nói cho con biết ta tự hào khi thấy con biết kiên nhẫn, quyết tâm và dũng cảm. Ta cũng có thể khen con vì con biết biểu lộ thái độ thư giãn, còn ta thì không – bởi không giống chúng ta, con không cảm thấy áp lực, con trân trọng cơ thể và nhịp điệu cơ thể ấy. Nhờ đó, con khám phá ra niềm vui học hỏi – nó hoàn toàn khác với việc đạt mục tiêu.
Một cậu bé 5 tuổi đi bô cả ngày nhưng tối vẫn đóng bỉm. Người cha không nói gì vì anh nhận thấy việc cho phép con tự điều chỉnh thói quen vệ sinh là vô cùng quan trọng. Buổi tối trước hôm con bắt đầu đi mẫu giáo, khi cha chuẩn bị đóng bỉm cho con, cậu bé nói, “Con không đóng bỉm đâu. Con lớn rồi mà. Mai con đi lớp rồi!” Và con tè dầm không chỉ một lần. Nhưng ta muốn con phát triển kỹ năng tự chủ này.
Khi con về nhà với vẻ mặt lo lắng về bài kiểm tra, phương pháp dạy con trong tỉnh thức không khuyến khích bạn động viên con rằng con sẽ làm tốt, thay vào đó hãy giúp con xử lý nỗi lo ấy. Ta cần trấn an con rằng kết quả thi không quan trọng, quan trọng là con thích bài thi như thế nào. Khi ta quan tâm đến thiện chí của con để tham gia chủ đề này và nhiệt tình thảo luận, ta cho phép con tận hưởng quá trình mở rộng vốn hiểu biết. Nếu ta chỉ quan tâm đến kết quả bài thi, ta truyền cho con thông điệp rằng quá trình chỉ xác đáng nếu tạo ra kết quả. Ta nói ta muốn con không sợ thất bại. Nhưng thất bại mới chính là thứ ta dạy con khi ta quan tâm đến nơi con cần đến, chứ không phải nơi con đang đứng.
Khi ta ghi danh cho con đi học hoặc nhìn thấy phiếu báo điểm của con, ta cần nhớ rằng phản ứng của ta qua ngôn ngữ cơ thể, giọng nói và các dấu hiệu hài lòng hoặc không hài lòng là phương tiện truyền tải sự kỳ vọng của ta với con. Có phải ta nói với con rằng điểm cao sẽ nhận được phản ứng tích cực và ngược lại? Có phải ta nói rằng đạt điểm A hoặc xếp hạng nhất môn nào đó mới là thước đo giá trị của con?
Khi tôi 12 tuổi, tôi đạt điểm A tất cả các môn học. Hết sức vui mừng, tôi chạy vù về nhà và lao thẳng vào vòng tay mẹ. Vốn tính sôi nổi, mẹ cùng tôi nhảy múa, hòa chung niềm vui với tôi. Tôi những tưởng bố cũng sẽ vui múa, la hét, hân hoan vui sướng. Nhưng bố chỉ cười và nói, “Đạt điểm A là tốt, nhưng quan trọng hơn là con cảm thấy con đã cố gắng hết mình.”
Quai hàm tôi như muốn rớt xuống, đôi vai ủ rũ, còn mẹ cằn nhằn, “Sao anh không nói anh rất vui và cho con thấy niềm vui ấy?” Lúc ấy tôi không hiểu tại sao bố lại làm người khác mất hứng đến thế.
Mãi đến khi gần hết tuổi niên thiếu, tôi mới hiểu hết câu nói của bố. Bạn biết không, bố luôn luôn phản ứng như thế, bất kể điểm số của tôi. Khi tôi bị điểm C, bố nói, “Đạt điểm C không sao, quan trọng hơn là con cảm thấy con đã cố gắng hết mình.” Và đương nhiên, khi tôi bị điểm C, phản ứng điềm tĩnh của bố khiến tôi nhẹ cả người! Hết sức tinh tế, bố dạy tôi không được dính mắc bản thân với điểm A hoặc điểm C, mà chú tâm vào quá trình học tập.
Nhờ bố, tôi cũng học được cách đặt ra tiêu chuẩn thành công cho mình, chứ không chỉ trông chờ vào các tiêu chuẩn bên ngoài. Tôi nhận thấy thái độ yêu thích nhiệm vụ học tập mới thực sự quan trọng. Rõ ràng là việc bố chấp thuận tôi không bị ảnh hưởng bởi những điểm số tôi mang về, vì thế tôi không bao giờ cảm thấy lo sợ khi cô phát phiếu báo điểm. Bố không kì vọng lớn về kết quả học hành của con gái, và cảm giác không sợ hãi của tôi đã giúp tôi không chỉ có được niềm vui từ quá trình học tập, mà còn đạt kết quả hơn mong đợi.
Phương pháp này sẽ kích thích nỗi lo trong lòng cha mẹ. Chúng ta lo con sẽ lười biếng, không có động lực nếu ta không đặt ra kỳ vọng rõ ràng. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cứng nhắc chỉ khiến con lo lắng hơn mà thôi.
Khi ta tập trung vào quá trình, thay vì kết quả, con sẽ phát triển bản tính hiếu kỳ bẩm sinh, giúp con thể hiện đam mê đối với sáng kiến của chính mình. Khi đó, ta trao cho con niềm khao khát học hỏi và niềm khao khát ấy vượt xa niềm vui thoáng qua vì được chấp thuận nhờ điểm số. Con tìm đến tiếng gọi của lòng mình, nhen nhóm ước mong được sống một cuộc sống ý nghĩa và thành công.
Ta cần dạy con hướng đến cuộc sống mà trọng tâm không phải là con nhận được bao nhiêu lời khen hay lời tán thưởng, mà là con đang cố gắng thế nào. Cuộc sống phản ánh trạng thái nội tâm mà ta bước vào. Con cần phải biết rằng chất lượng cuộc sống nội tâm của con sẽ biểu hiện trong các tình huống bên ngoài.