Ở thế kỷ thứ XXI, con người tuy học rộng hiểu nhiều nhưng ta vẫn chưa thấu hiểu một điều tưởng chừng như rất đơn giản, đó là làm thế nào để sống an lạc và hạnh phúc. Để được hạnh phúc ta cần đến những chỉ dẫn về phương cách sống hạnh phúc, và thông điệp đó đến từ đạo Phật.
Đ
ạo Phật là gì? Đây là một câu hỏi rất quan trọng nên ta cần có câu trả lời thật thỏa đáng, đặc biệt là trong thế kỷ XXI này khi có nhiều người hiểu lầm về đạo Phật. Có lẽ vấn đề này nên được đặt ra vào khoảng 2.500 năm trước, khi đức Phật còn tại thế. Lúc đó, nếu có người hỏi ngài “đạo Phật là gì?” thì chắc chắn đức Phật đã đưa ra lời giải đáp. Tuy nhiên, chúng ta lại đặt câu hỏi này vào thời điểm 2.500 năm sau khi đức Phật nhập diệt.
KHOA HỌC TÂM THỨC
Nhiều người cho rằng đạo Phật là một tôn giáo. Tuy nhiên, đạo Phật hoàn toàn không phải là một tôn giáo, mà đạo Phật là một môn khoa học – khoa học về tâm. Đạo Phật và khoa học đương đại rất giống nhau, giữa chúng chỉ có một khác biệt nhỏ. Điểm chung của đạo Phật và khoa học hiện đại là mục tiêu truy tìm chân lý và khám phá thực tại. Khoa học hiện đại truy tìm chân lý và khám phá thực tại mà không quan tâm đến lòng bi mẫn; trong khi đó, đạo Phật truy tìm chân lý và khám phá thực tại cùng với lòng bi mẫn. Đạo Phật đặt nền tảng trên lòng bi mẫn nhưng khoa học đương đại thì không, và theo tôi đây là điểm khác biệt duy nhất giữa đạo Phật và khoa học hiện đại.
Nếu đạo Phật không phải là một tôn giáo thì đạo Phật và tôn giáo khác nhau như thế nào? Trước hết, tôn giáo và các tư tưởng tôn giáo luôn được xây dựng trên nền tảng khuôn phép và nguyên tắc rất nghiêm khắc. Đạo Phật không dựa trên nền tảng khuôn phép và nguyên tắc như vậy. Ngoài ra, tôn giáo không xem chân lý là nền tảng căn bản mà chủ yếu xem trọng đức tin. Đạo Phật đề cao chân lý hơn đức tin. Đạo Phật dạy rằng trước hết ta hãy đi tìm chân lý, hiểu rõ chân lý rồi mới nên tin theo. Tôn giáo lại hay nói rằng trước hết hãy tin, sau đó chấp nhận những điều mình tin là chân lý rồi thực hành theo. Đây chính là điểm khác biệt chính yếu giữa đạo Phật và tôn giáo. Đức Phật luôn dạy chúng ta hãy phân tích kỹ lưỡng, vì phân tích là chìa khóa để tìm ra chân lý. Ngài dạy rằng trước hết ta hãy phân tích để tìm ra chân lý rồi mới tin theo, như vậy thì lòng tin mới thật vững chắc. Vì vậy, chúng ta không nên xem đạo Phật đơn thuần là một tôn giáo.
ĐẠO PHẬT ĐẶT NỀN TẢNG TRÊN LÒNG BI MẪN VÀ TRUY TÌM CHÂN LÝ VỚI LÒNG BI MẪN.
Nhìn lại kiếp nhân sinh và cuộc đời của chính mình, ta sẽ thấy từ khi chào đời cho đến nay, cuộc sống trải qua rất nhiều kinh nghiệm và thử thách, tùy thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện khác nhau. Nhiều dạng khó khăn và thử thách luôn diễn ra trong cuộc sống, và bản năng con người luôn thôi thúc ta nỗ lực hết mình để tìm giải pháp cho những vấn đề đó. Những giải pháp của ta có lúc đúng đắn nhưng cũng có khi sai lầm; vai trò của đạo Phật là hướng dẫn ta cách đương đầu với thử thách, khó khăn trong cuộc đời, và hướng dẫn ta cách nhìn nhận các sự việc diễn ra trong cuộc sống một cách chân thật và đúng đắn. Tư tưởng đạo Phật đơn giản là những phương pháp và lời khuyên giúp chúng ta biết cách suy nghĩ tích cực hơn nhằm cải thiện bản thân, vì vậy đạo Phật còn được gọi là khoa học về tâm thức.
Giá trị cốt lõi của tư tưởng trong đạo Phật, hay còn gọi là Phật pháp, có thể được đúc kết thành ba điểm chính:
(1) Không làm điều ác,
(2) Làm điều thiện, và
(3) Điều phục tâm.
Điều phục tâm là điểm quan trọng nhất trong ba điểm căn bản nêu trên. Đây cũng là thông điệp chính từ đức Phật và đạo Phật hướng dẫn chúng ta điều phục tâm. Trong cuộc sống, tâm ta thường cảm nhận được niềm hạnh phúc hoặc nỗi thống khổ, và đối với nhiều người hạnh phúc thì ngắn ngủi nhưng khổ đau thì lại kéo dài. Nếu điều phục được tâm mình thì ta có thể giảm bớt nỗi khổ và gia tăng hạnh phúc, từ đó ta sẽ cảm thấy an lạc hơn trong cuộc sống.
Các tư tưởng trong đạo Phật đã được chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) thuyết giảng. Đức Phật đã chuyển tải thông điệp của ngài bằng nhiều cách hết sức đơn giản và hiệu quả, nhờ vậy Phật pháp có thể dễ dàng được áp dụng vào đời sống hàng ngày. Bất cứ ai nếu dành thời gian nghiên cứu và thực hành đạo Phật sẽ nhận thấy đó là những phương pháp và lời khuyên giúp bản thân thay đổi để trở thành một người tốt hơn và hạnh phúc hơn. Đây chính là mục đích cốt lõi của đạo Phật. Khi đức Phật giảng dạy, ngài chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn con người cách tự giải thoát bản thân khỏi khổ đau và trở nên an lạc hơn. Vì vậy, tôi thường nói về đạo Phật rất ngắn gọn: đạo Phật dạy chúng ta sống mạnh mẽ và hạnh phúc. Bạn có quyền được hạnh phúc và mạnh mẽ, đây là quyền của chính bạn; điều này rất quan trọng. Nếu có thể sống mạnh mẽ và hạnh phúc thì cuộc sống của bạn là một ân phước. Phật pháp có thể được xem là một dạng tri thức đề cao nhân phẩm và góp phần làm cho hạnh phúc của nhân loại ngày càng thăng hoa.
LUYỆN TÂM
Nhiều người thường cho rằng đạo Phật đồng nghĩa với việc đi chùa, lễ lạy các pho tượng, và dâng cúng lễ vật. Thực tế không hẳn là như vậy. Theo quan điểm của đạo Phật, việc đi chùa lễ Phật không quan trọng bằng việc thay đổi bản thân. Đức Phật đã thuyết pháp suốt 45 năm và nếu đúc kết toàn bộ lời dạy của ngài trong suốt giai đoạn đó thì ta sẽ thấy Phật chủ yếu hướng dẫn ta cách thức thay đổi bản thân và làm chủ tâm mình. Chỉ khi nào làm chủ được tâm mình thì ta mới có thể sống an lạc hơn và hạnh phúc hơn; đây chính là tư tưởng cốt lõi của toàn bộ lời Phật dạy.
CHỈ KHI NÀO LÀM CHỦ ĐƯỢC TÂM MÌNH THÌ TA MỚI CÓ THỂ SỐNG AN LẠC HƠN VÀ HẠNH PHÚC HƠN.
Có một mẩu chuyện kể về một vị tu sĩ già. Khi vị tu sĩ qua đời và tái sinh vào cõi trời, ông ấy rất vui sướng vì được hưởng thụ mọi lạc thú nơi đó. Vài ngày sau, ông ta phát hiện một sự việc lạ lùng. Ông nhìn thấy rất nhiều tổ tiên và bạn bè của ông đang bị xiềng xích trong một nhà tù ở cõi trời. Vị tu sĩ rất sửng sốt và hỏi chư thiên, “Tại sao ông giam bạn bè và tổ tiên của tôi trong tù? Tại sao ông trói họ lại?” Vị Thiên trả lời, “Nếu tôi không trói tổ tiên và bạn bè của ông trong tù thì họ sẽ đòi về trần gian mà không muốn sống ở cõi trời nữa.” Vị tu sĩ lấy làm ngạc nhiên và hỏi, “Tại sao họ lại muốn trở về trần gian?” Vị Thiên đáp, “Bởi vì tổ tiên và bạn bè ông nói ở cõi trời rất chán. Ở cõi trời không có Internet, không có điện thoại di động, vì vậy họ muốn trở lại trần gian. Ở trần gian có tất cả những thứ đó!” Đây là một điểm chúng ta cần hiểu thấu đáo. Nếu không thể điều phục tâm mình thì dù có sinh vào cõi trời, chắc chắn ta sẽ gặp rắc rối. Bây giờ nếu được sinh vào cõi trời, có lẽ bạn sẽ rất nhớ món phở. Nếu không thể điều phục tâm mình thì dù có được sinh vào cõi trời, bạn sẽ cảm thấy “Sao không có phở? Sao không có mì xào?”
Chúng ta có thể đạt đến một đời sống an lạc và hạnh phúc hơn bằng cách thay đổi đường lối tư duy của bản thân, thông qua luyện tâm. Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy:
Một điều ác nhỏ cũng không được làm,
Phụng hành viên mãn hết thảy điều lành,
Điều phục toàn diện tâm ý chính mình,
Đây chính là lời dạy của chư Phật.
Đức Phật đã dạy “Điều phục toàn diện tâm ý chính mình. Đây chính là lời dạy của chư Phật.” Một khi có thể điều phục tâm mình thì bạn có thể thay đổi rất nhiều điều. Nếu không thể điều phục tâm thì bạn sẽ gặp rất nhiều thử thách và khổ đau trong cuộc sống. Đạo Phật hướng dẫn chúng ta nhiều cách để kiểm soát các tư tưởng tiêu cực trong tâm, và những cách thức này được gọi là các pháp luyện tâm. Luyện tâm không là gì khác ngoài việc kiểm soát tư tưởng tiêu cực hay phiền não trong tâm. Kiểm soát phiền não chính là luyện tâm. Luyện tâm chính là kiểm soát phiền não như nóng giận, căng thẳng, lo sợ, đố kị, ham muốn...
Tôi từng nghe một câu chuyện nổi tiếng ở Tây Tạng. Có một hành giả thực hành thiền định liên tục chín năm trong một hang động nhỏ. Trong suốt thời gian này, râu tóc và móng tay của ông mọc rất dài. Một ngày nọ, một con chuột cắn đứt một bên tóc của ông nhưng ông không biết vì ông đang trong trạng thái định rất sâu. Sau chín năm, ông ra khỏi hang và phát hiện một bên tóc của ông đã bị chuột gặm. Ông đã rất giận dữ và hét lớn, “Ta sẽ giết con chuột nào cắn tóc ta!” Vậy đâu là lợi ích của việc hành thiền suốt chín năm? Ông ta đã làm gì trong suốt chín năm đó mà vẫn không thể điều phục sân giận? Điều đó có nghĩa là trong suốt thời gian ấy, hành giả này đã không thực hành luyện tâm mà chỉ tự ép buộc mình thực hành mà thôi. Có sự khác biệt giữa thực hành gượng ép và thực hành thật sự. Có một vị thầy yêu cầu người học trò hành thiền. Khi hành thiền, người học trò không thể tập trung vào đề mục thiền, và anh ta hỏi thầy mình phải làm thế nào để khắc phục. Vị thầy chỉ luôn nói một điều, “Hãy tập trung! Tập trung! Tập trung!” Phương pháp này hoàn toàn không mang lại hiệu quả. Tương tự, trong suốt chín năm, ông hành giả đã không thực hành đúng cách nên ông ta không thể điều phục sân giận trong tâm.
ĐẠO PHẬT HƯỚNG DẪN CHÚNG TA NHIỀU CÁCH KIỂM SOÁT CÁC TƯ TƯỞNG TIÊU CỰC TRONG TÂM, VÀ NHỮNG CÁCH THỨC NÀY ĐƯỢC GỌI LÀ CÁC PHÁP LUYỆN TÂM.
Bạn có theo đạo Phật hoặc có trở thành Phật tử hay không, đó là vấn đề cá nhân. Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta luôn mong ước được sống an lạc, hạnh phúc, và ta cần biết rõ mình phải làm gì để sống hạnh phúc. Đơn giản là ta phải kiểm soát tâm mình, hay luyện tâm. Rất nhiều điều có thể được thay đổi từ bên trong thông qua luyện tâm, đạo Phật luôn đưa ra thông điệp như vậy.
Atisha, học giả nổi tiếng người Ấn Độ, đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ XI. Khi đến Tây Tạng, Atisha gặp một người liên tục lễ lạy ở một ngôi chùa. Atisha nói với người đó, “Lễ lạy ở chùa là điều tốt, nhưng nếu anh có thể thực hành Pháp thì sẽ tốt hơn.” Lúc đó, người đàn ông kia nghĩ rằng lễ lạy ở chùa không phải là thực hành Pháp, nên anh ta bắt đầu tụng thần chú. Atisha nói, “Tụng chú là điều tốt, nhưng nếu anh có thể thực hành Pháp thì sẽ tốt hơn.” Anh kia nghĩ rằng tụng chú không phải là thực hành Pháp, và anh ta chuyển sang đi kinh hành quanh ngôi chùa. Atisha nói tương tự, “Đi kinh hành là điều tốt, nhưng nếu anh có thể thực hành Pháp thì sẽ tốt hơn.” Người đàn ông hoang mang và đến hỏi Atisha, “Tôi cảm thấy rất khó hiểu. Phải thực hành Pháp như thế nào?” Atisha trả lời, “Thực hành Pháp là luyện tâm.” Tôi cũng muốn nói với bạn điều tương tự như vậy. Nếu bạn tụng chú thì rất tốt; nếu bạn lễ lạy cũng rất tốt. Tuy nhiên, nếu bạn có thể luyện tâm thì sẽ tốt hơn rất nhiều. Chỉ khi nào điều phục được tâm mình thì bạn mới có thể thấy lợi ích to lớn của Phật pháp. Nếu không thể luyện tâm thì bạn sẽ không cảm nhận được bất cứ lợi lạc nào cả.
LÒNG TỪ BI CHÍNH LÀ CỘI NGUỒN CỦA MỌI HẠNH PHÚC.
Ở thế kỷ thứ XXI, khi mua một vật dụng nào đó như điện thoại, máy tính... bạn sẽ nhận được sách hướng dẫn sử dụng. Tuy nhiên, khi chào đời ta không được nhận một quyển sách nào hướng dẫn ta cách sống hạnh phúc, thậm chí cha mẹ cũng không thể trao cho ta một quyển sách như vậy. Để được hạnh phúc ta cần đến những chỉ dẫn về phương cách sống hạnh phúc, và thông điệp đó đến từ đạo Phật. Nói cách khác, những chỉ dẫn trong đạo Phật chính là nghệ thuật sống một cuộc đời hạnh phúc và tràn đầy ý nghĩa. Vì vậy, tôi thường gọi đạo Phật là khoa học về cuộc sống. Ở các trường đại học bạn được dạy rất nhiều môn như tâm lý học, xã hội học, sinh học... nhưng bạn sẽ không thể tìm thấy môn khoa học về cuộc sống. Đạo Phật chính là khoa học về cuộc sống.
TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ
Nếu đúc kết những điểm chính của các pháp luyện tâm thì ta sẽ đi đến hai điểm: từ bi và trí tuệ. Tất cả chúng ta luôn hướng đến một đời sống an lạc, hạnh phúc, đồng thời ta luôn mong muốn mình sẽ trở thành một người tốt và có ích. Vì vậy, đạo Phật luôn dạy ta về từ bi và trí tuệ. Từ bi và trí tuệ là hai phương diện quan trọng trong thực hành luyện tâm; ta phải hiểu cách thực hành hai điểm này.
Từ bi là một trong những điểm chính yếu giúp chúng ta có đời sống an lạc. Tâm từ bi không liên quan đến bất kỳ tôn giáo nào, mà đó là một tình cảm cao quý của con người. Trong cuộc sống, đôi khi vì thói quen suy nghĩ ích kỷ mà ta quên mất giá trị của lòng từ bi. Tại sao chúng ta thường trở nên ích kỷ? Vì con người luôn muốn tìm kiếm hạnh phúc cho riêng mình mà bỏ quên hạnh phúc và an lạc của những người xung quanh, thậm chí quên cả hạnh phúc của người thân. Nhưng ta cần nhớ lòng từ bi chính là cội nguồn của mọi hạnh phúc.
Khi vừa được sinh ra đời, chúng ta không theo tôn giáo và thậm chí ta cũng không có tên. Tuy nhiên, nhờ tình thương của cha mẹ và những người xung quanh mà ta đã có thể sống đến hôm nay. Ta vẫn có thể sống mà không cần tôn giáo, nhưng nếu không có tình thương và lòng bi mẫn từ người khác thì rất khó để chúng ta sinh tồn. Bạn cần tình yêu thương từ chồng, vợ, con cái, người thân, bạn bè... Vậy làm sao để chúng ta có được tình yêu thương đó? Rất đơn giản, bạn hãy thương yêu họ. Khi yêu thương họ thì bạn sẽ nhận được tình thương yêu từ họ. Hãy cho đi rồi bạn sẽ được nhận lại. Đối với một con chó, nếu bạn chăm sóc và thương yêu nó thì nó sẽ thương yêu bạn. Tôi từng gặp vài người và họ kể rằng khi chung sống với thú nuôi như chó hoặc mèo, thú nuôi chính là bạn thân nhất của họ. Thú nuôi trở thành bạn thân nhất của con người vì họ không có người bạn thân nào cả. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta quá quan tâm đến lợi ích cá nhân mà không nhận ra rằng mình đang dần mất đi nhiều bạn bè. Lòng từ bi là chất keo gắn kết bạn bè với chúng ta và nhờ lòng từ bi mà ta có được tình thương yêu từ những người xung quanh.
Một người mẹ có một cậu con trai và con trai bà làm việc ở một công ty nọ. Khi đang làm việc, một tai nạn xảy ra và cậu con trai qua đời ngay tại công ty. Giám đốc công ty gửi tới bà mẹ một lá thư nói rằng ông ta rất tiếc và xin lỗi bà rất nhiều về tai nạn đó. Khi nghe tin con trai mình qua đời, người mẹ đau buồn và khóc rất nhiều. Nước mắt của bà chảy đầy một cái bình, và bà gửi bình nước mắt đến ông giám đốc công ty. Khi nhận được bình nước mắt, ông giám đốc lo sợ bình nước có thể chứa chất độc nên ông ta gửi nó đến phòng thí nghiệm để kiểm tra. Kết quả phân tích từ phòng thí nghiệm cho thấy không có chất độc trong bình mà chỉ có nước, muối... Người mẹ biết chuyện và gửi lá thư thứ hai đến ông giám đốc. Trong thư bà viết: “Tôi nghe nói ông đã gửi bình nước mắt của tôi đi xét nghiệm và nhận được kết luận trong đó có nước, muối... Tuy nhiên, phòng thí nghiệm không thể tìm ra được một thứ trong nước mắt của tôi. Đó là nỗi đau và sự thống khổ của một người mẹ bị mất con trai. Phòng thí nghiệm sẽ không bao giờ có thể tìm ra điều đó.” Rất đúng! Khi chúng ta được sinh ra, mẹ cho chúng ta vài phần đạm, vài phần can-xi... nhưng chúng ta không nhận ra tình thương và lòng bi mẫn bao la của mẹ. Ngay từ khi chào đời, chúng ta đã được đón nhận tình thương và lòng bi mẫn từ mẹ. Đây là một điểm then chốt: Con người luôn cần lòng bi mẫn để sinh tồn.
LÒNG TỪ BI LÀ CHẤT KEO GẮN KẾT BẠN BÈ VỚI CHÚNG TA VÀ NHỜ LÒNG TỪ BI MÀ TA CÓ ĐƯỢC ĐƯỢC TÌNH THƯƠNG YÊU TỪ NHỮNG NGƯỜI XUNG QUANH.
Phát khởi lòng từ bi là làm phát khởi một dạng tư tưởng tích cực. Những tư tưởng tích cực này thật sự có thể giúp chúng ta dễ dàng đương đầu với nghịch cảnh. Khi thương yêu và có lòng bi mẫn đối với người khác, bạn sẽ có thêm dũng khí để làm việc. Nếu bạn có dũng khí thì mọi việc đều trở nên rất dễ dàng. Nếu không có tình thương và lòng bi mẫn đối với người khác thì bạn chỉ lo nghĩ cho bản thân mình, và nếu càng tập trung vào bản thân thì bạn càng dễ đánh mất chính mình, bạn sẽ căng thẳng và lo âu nhiều hơn. Đó là lẽ thường trong tư duy của con người.
Khi nói về trí tuệ trong Phật giáo, không dễ dàng giảng giải chủ đề này một cách ngắn gọn. Chính đức Phật đã mất hơn 40 năm để giảng về trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ về tánh không. Nếu tôi buộc phải diễn giải một cách ngắn gọn về tầng mức cao nhất của trí tuệ trong đạo Phật thì đó là “Sắc tức là không, không tức là sắc, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc.”
Ở mức độ đơn giản hơn, đức Phật luôn khuyến khích chúng ta phân tích. Niềm tin của chúng ta phải đến từ phân tích và hiểu biết. Có hiểu biết rồi ta mới nên tin theo. Lời khuyên này rất khoa học. Trí tuệ của đạo Phật có thể song hành với khoa học vì khoa học luôn dựa vào sự thật và lý lẽ để đưa ra kết luận. Tất cả những gì đức Phật thuyết giảng đều dựa trên sự thật. Do đó, khi nói về trí tuệ trong đạo Phật ta cần phải tỉnh giác và phân tích.
Có một câu chuyện về một cô gái trẻ. Cha cô đã mất và mẹ đang bị bệnh nặng, nhưng cô ta rất nghèo và không có tiền mua thuốc cho mẹ. Lúc đó, cô gái quyết định viết thư cho Thượng Đế để cầu xin. Trong thư cô viết: “Xin ngài hãy cho con mười đô la để con mua thuốc cho mẹ.” Khi cô gửi thư đến bưu điện, các nhân viên bưu điện nhận được thư rất hoang mang và không biết phải gửi đi đâu cho Thượng Đế, vì vậy họ mở thư xem. Nhân viên bưu điện rất cảm thông với cô gái nên họ quyên góp tiền và gửi cho cô được tám đô la. Khi nhận được tiền, cô rất vui và lại gửi thêm một lá thư viết, “Cảm ơn ngài đã gửi tiền cho con, nhưng lần sau ngài đừng gửi qua đường bưu điện nữa, vì những nhân viên ở đó đã lấy mất hai đô la của con rồi.” Trong cuộc sống, chúng ta cũng hay làm những điều ngu ngốc như vậy. Ta hay gửi những lá thư như vậy cho đức Phật. Chúng ta không dùng những phương pháp mà Phật đã dạy để sống đúng nghĩa, vì vậy ta gặp rất nhiều khó khăn. Khi gặp khó khăn, ta phải sử dụng bộ não của mình, phải luôn phân tích và tư duy.
ĐỨC PHẬT LUÔN KHUYẾN KHÍCH CHÚNG TA PHÂN TÍCH. NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA PHẢI ĐẾN TỪ PHÂN TÍCH VÀ HIỂU BIẾT. CÓ HIỂU BIẾT RỒI TA MỚI NÊN TIN THEO.
NHỮNG NGỘ NHẬN TRÊN CON ĐƯỜNG
Đạo Phật thường đề cập đến việc đối trị lòng tham, vậy thực hành đạo Phật có phải là từ bỏ mọi khát vọng và ước muốn, kể cả đối với những người trẻ? Khi một bạn trẻ đưa ra câu hỏi này, tôi đã hỏi anh ấy: Khi nói “giảm ước muốn,” đặc biệt đối với những người trẻ tuổi, anh có chắc là mình đang đi đúng hướng không? Tôi biết tất cả các bạn trẻ đều muốn thành công trong cuộc sống. Vậy đâu là chìa khóa của thành công? Chìa khóa thứ nhất của thành công là khát vọng. Thành công chỉ có thể khởi đầu với khát vọng và ham muốn. Nếu không có khát vọng và ham muốn thì làm sao bạn thành công được? Để trở thành kiến trúc sư thì bạn phải có ước muốn trở thành kiến trúc sư. Đối với các bạn trẻ đang trong giai đoạn khởi nghiệp thì thành công là điều quan trọng. Trong cuộc sống, nếu muốn thành công thì bạn phải có hoài bão lớn.
Tuy vậy, ham muốn của con người đôi lúc rất kỳ lạ và không thực tế. Hơn nữa, nếu có quá nhiều ham muốn thì bạn không thể tập trung vào một ước muốn cụ thể nào. Ví dụ, khi từ trường học về nhà, bạn muốn xem TV, Facebook, và làm bài tập; vậy bạn ưu tiên cho mong muốn nào? Có lẽ là Facebook và TV. Bạn phải biết cách giảm bớt những ham muốn như thế. Đức Phật dạy “giảm ham muốn” (thiểu dục) chứ ngài chưa từng nói phải từ bỏ mọi ham muốn. Nếu có quá nhiều ham muốn thì ta sẽ dễ thất bại vì không có đủ thời gian. Nếu có ít ham muốn, ta có thể tập trung tốt hơn, làm việc chăm chỉ hơn và ta sẽ thành công. Như trong ví dụ trên, khi đi học về có thể bạn sẽ có rất nhiều mong muốn như dùng Facebook, xem TV... Nếu có quá nhiều ham muốn thì bạn sẽ mất tập trung và không thể chú tâm vào công việc chính. Bạn phải phân tích hệ quả của từng ham muốn và cần giữ lại những ham muốn mang đến kết quả tốt.
Bên cạnh đó, đạo Phật xem trọng đời sống nội tâm bình yên và thanh thản. Vấn đề được đặt ra là nếu giữ tâm bình yên bằng cách không chạy theo ganh đua hay cạnh tranh thì ta sẽ không còn động lực phát triển bản thân và cải thiện cuộc sống, nhưng nếu ra sức cạnh tranh và chạy theo ganh đua thì lại không thể giữ tâm bình yên. Vậy làm cách nào để dung hòa hai điều này?
BẠN PHẢI PHÂN TÍCH HỆ QUẢ CỦA TỪNG HAM MUỐN VÀ CẦN GIỮ LẠI NHỮNG HAM MUỐN MANG ĐẾN KẾT QUẢ TỐT.
Ở trường học hay nơi làm việc, bạn phải đối mặt với nhiều sự cạnh tranh. Khi làm những công việc mang tính cạnh tranh, bạn phải luôn nhớ một điều: kết quả không hoàn toàn nằm trong tay chúng ta. Khi làm những việc mang tính cạnh tranh, đôi lúc chúng ta quá quan tâm đến kết quả và vì vậy ta thật sự gặp rất nhiều khó khăn, căng thẳng và lo âu. Khi làm việc bạn chỉ cần tập trung vào việc mình đang làm và đừng kỳ vọng quá mức vào kết quả. Ngoài ra, mọi sự cạnh tranh đều có một phương diện khác, đó là cơ hội; và mọi cơ hội đều đi cùng với tính cạnh tranh. Nhìn vào mặt cạnh tranh hay mặt cơ hội, điều đó tùy thuộc vào bạn. Mọi khó khăn đều mang đến thời cơ, và mọi thời cơ đều mang theo thử thách. Bạn phải nhìn thấy thời cơ trong từng thách thức, chứ không chỉ nhìn vào thách thức trong thời cơ. Ví dụ, cuộc thi chạy giữa mười vận động viên điền kinh ở Thế Vận Hội là một cuộc đua rất khốc liệt. Tuy nhiên, các vận động viên chỉ có một phần triệu cơ hội để được tranh tài trên đường chạy đó. Vậy, mười vận động viên đó may mắn hay đen đủi? Người nhìn vào mặt cơ hội sẽ nói là may mắn, còn người nhìn vào mặt khó khăn sẽ nói là đen đủi. Bạn nên nhìn vào mặt tích cực của mọi sự cạnh tranh.
Tóm lại, chúng ta không nhất thiết phải từ bỏ mọi ham muốn và khát vọng trong cuộc sống mà chỉ cần tri túc hay biết đủ, đồng thời bạn nên tập trung vào những ước muốn mang đến kết quả tích cực và giảm bớt những ham muốn thiếu thực tế. Bên cạnh đó, ta nên cố gắng tiếp cận các vấn đề trong cuộc sống từ mọi phương diện và chủ động nhìn vào mặt tích cực của vấn đề thay vì suy nghĩ quá nhiều về những điều tiêu cực.