Mỗi khi bạn nhìn vào một kết quả, có nguyên nhân đưa đến kết quả đó; và mỗi khi bạn nhìn vào một nguyên nhân, có hệ quả đến từ nguyên nhân đó. Với một kết quả, có rất nhiều nguyên nhân đưa đến quả đó. Xác định tất cả những nguyên nhân đưa đến kết quả là điều bất khả thi.
NGHIỆP
Nghiệp (karma) là vấn đề thường gặp và rất quan trọng trong đạo Phật. Chữ “karma” có nghĩa là hành động, và đạo Phật rất xem trọng vấn đề này. Nếu nhìn lại khởi đầu của vũ trụ, khoa học cho rằng vũ trụ hình thành từ Vụ Nổ Lớn (Big Bang). Theo quan điểm của đạo Phật, vụ nổ lớn là một hành động, nó cũng là một nghiệp, và vũ trụ được hình thành từ đó.
Nói chung, đây là một chủ đề rất thâm sâu và cũng là tư tưởng chính của Phật giáo. Luật nhân quả không những được nhìn nhận từ quan điểm của đạo Phật mà còn theo quan điểm của khoa học. Chúng ta có thể tiếp cận vấn đề này theo quan điểm của đạo Phật hoặc theo quan điểm của khoa học; tuy nhiên, đạo Phật nói về nhân quả sâu sắc hơn.
Trước khi bắt đầu, chúng ta cần nhìn lại thời đức Phật còn tại thế. Tôi nghĩ bạn đều biết câu chuyện này. Có một con voi điên tấn công đức Phật. Khi con voi điên sắp tấn công Phật, tất cả đệ tử của ngài, các vị tu sĩ đều sợ con voi điên đang lao về phía họ và họ đều bỏ chạy. Chỉ có một vị đệ tử không rời đức Phật, vị ấy là thầy Anan (Ananda). Lúc nào thầy Anan cũng đi cùng với Phật. Tất cả những vị tu sĩ khác, kể cả vị đệ tử xuất sắc nhất của Phật là thầy Xá Lợi Phất, đều hoảng sợ và bỏ chạy. Tất cả đệ tử của đức Phật, những người hết mực phụng sự ngài, đột ngột quên Phật khi thấy con voi điên lao đến họ. Chỉ có một vị đệ tử là thầy Anan không bỏ chạy mà vẫn ở lại với ngài ngay cả khi con voi điên đang tấn công.
Sau khi đức Phật đã thuần hóa được con voi điên, tất cả đệ tử của Phật đều tụ hội lại bên ngài. Các vị đệ tử hỏi Phật, “Chúng con đều luôn kề cận, hết mực phụng sự Thế Tôn, và luôn nhớ đến ngài. Nhưng trong tình huống đáng sợ khi con voi điên tấn công, vì sao tất cả chúng con đều quên Thế Tôn và bỏ chạy, chỉ duy nhất thầy Anan không bỏ chạy mà vẫn ở lại với ngài?” Lúc đó, đức Phật kể một câu chuyện, “Thầy Anan không chỉ phụng sự tôi trong đời này, mà thầy ấy đã luôn kề cận tôi trong rất nhiều đời quá khứ. Nhiều kiếp trước, tôi đã sinh ra làm một con thiên nga, và lúc đó thầy Anan cũng sinh ra làm một con thiên nga. Có một nhóm thợ săn tấn công chúng tôi. Khi thợ săn tấn công, những con thiên nga khác đều chạy; tuy nhiên, thầy Anan vẫn ở lại cùng với tôi.”
VỚI MỘT KẾT QUẢ, CÓ RẤT NHIỀU NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN QUẢ ĐÓ. XÁC ĐỊNH TẤT CẢ NHỮNG NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN KẾT QUẢ LÀ ĐIỀU BẤT KHẢ THI.
Với mọi sự kiện, người ta thường hỏi “Tại sao chuyện này lại xảy ra? Tại sao chuyện kia lại xảy ra?” và đức Phật thường kể nhiều câu chuyện tiền thân từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước về luật nhân quả để trả lời những câu hỏi về nguyên nhân mà người khác hỏi ngài. Mỗi khi bạn nhìn vào một kết quả, có nguyên nhân đưa đến kết quả đó; và mỗi khi bạn nhìn vào một nguyên nhân, có hệ quả đến từ nguyên nhân đó. Với một kết quả, có rất nhiều nguyên nhân đưa đến quả đó. Xác định tất cả những nguyên nhân đưa đến kết quả là điều bất khả thi.
Có một câu chuyện về một vị a-la-hán (arhat) vĩ đại. Một dịp nọ, vị a-la-hán đang đi trên đường và ông ta trông thấy một sự việc rất lạ. Ông trông thấy một con quỷ đói. Ông hỏi con quỷ đói, “Tại sao ông bị sinh thành quỷ đói?” và con quỷ kể về tất cả ác nghiệp mà nó đã gây tạo trong quá khứ. Vì những ác nghiệp đó mà con quỷ đói không thể thọ dụng bất cứ đồ ăn thức uống nào, dù vị a-la-hán cũng đã bố thí thức ăn cho nó. Đây là câu chuyện về một vị a-la-hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước.
Bây giờ đến câu chuyện tôi từng trải nghiệm và kể ở trên. Tôi gặp hai người phụ nữ ở hai quốc gia khác nhau. Một người là một bà cụ khoảng 90 tuổi, người kia là một phụ nữ ngoài 30. Bà cụ 90 tuổi khá khỏe mạnh. Bà ấy nói khá nhiều, ăn khỏe và còn trông coi bầy gia súc nữa. Người phụ nữ ngoài 30 đến gặp tôi và kể với tôi về khó khăn của cô ấy. Cô ấy mắc bệnh dạ dày nghiêm trọng. Cô ấy nói cô đến phòng tập thể hình mỗi ngày, chỉ ăn thực phẩm sạch, và tập thể dục hàng ngày. Cô ấy hỏi tôi vì sao cô lại mắc bệnh như vậy. Tôi nghĩ bà cụ già có một bí quyết trường thọ nào đó. Tôi hỏi về chế độ ăn uống của bà cụ, và người ta nói với tôi bà là một người nghiện rượu và hút thuốc. Tôi đã rất ngạc nhiên khi biết bà ấy hút thuốc và uống rượu mà vẫn có thể sống khỏe ở độ tuổi 90. Người ta thường nói: “Người hút thuốc không bị lão hóa vì họ đều chết trẻ.” Người phụ nữ mới ngoài 30 tuổi, ăn thực phẩm sạch, đến phòng tập thể hình và tập thể dục mỗi ngày nhưng vẫn mắc bệnh dạ dày nghiêm trọng. Tuy nhiên, bà cụ hút thuốc và uống rượu lại sống khỏe ở độ tuổi 90. Chuyện gì đang diễn ra trong hai tình huống này?
Câu hỏi đó nảy sinh trong suy nghĩ của tôi. Nếu bạn đến bệnh viện và hỏi các bác sĩ, bạn sẽ có một câu trả lời khác. Tuy nhiên, câu trả lời đúng hay sai, đó lại là vấn đề hoàn toàn khác. Khi nhìn vào hai tình huống này, tôi đã có lời giải trong tâm. Đó chính là quy luật nhân quả. Đôi khi quy luật nghiệp và nhân quả vận hành theo cách rất buồn cười. Ở đây, điều rõ ràng là để có đời sống khỏe mạnh và kéo dài tuổi thọ, ta cần quan tâm đến một yếu tố khác chứ không chỉ đơn thuần duy trì chế độ ăn uống hay luyện tập thể chất. Ta cần có hiểu biết về luật nhân quả và nghiệp.
ĐỂ CÓ ĐỜI SỐNG KHỎE MẠNH VÀ KÉO DÀI TUỔI THỌ, TA CẦN QUAN TÂM ĐẾN MỘT YẾU TỐ KHÁC CHỨ KHÔNG CHỈ ĐƠN THUẦN DUY TRÌ CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG HAY LUYỆN TẬP THỂ CHẤT. TA CẦN CÓ HIỂU BIẾT VỀ LUẬT NHÂN QUẢ VÀ NGHIỆP.
BỐN ĐẶC TÍNH CHUNG CỦA NGHIỆP
Tác phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay đề cập đến bốn đặc tính chung của nghiệp và nhân quả: (1) Cách nghiệp được ấn định; (2) Nghiệp luôn tăng trưởng; (3) Không lãnh quả nếu chưa tạo nghiệp; và (4) Nghiệp đã tạo không tự mất đi.
Cách nghiệp được ấn định
Nói chung, khi đã làm điều sai trái hoặc đã phạm ác nghiệp, chắc chắn bạn sẽ nhận kết quả xấu, và bạn sẽ nhận kết quả tốt đẹp từ một hành động đúng đắn. Nếu làm thiện hạnh thì bạn sẽ không phải đối mặt với hệ quả tiêu cực, còn khi đã phạm ác hạnh thì bạn không thể nhận kết quả tích cực. Nghiệp được ấn định rõ ràng như thế.
Nếu bạn hỏi những đứa trẻ học lớp hai hoặc lớp ba, “Hai cộng hai bằng bao nhiêu?”, và hỏi nhà bác học Albert Einstein câu hỏi tương tự thì đáp án từ hai phía sẽ hoàn toàn giống nhau. Thậm chí Einstein cũng không thể đưa ra lời giải tốt hơn cho câu hỏi này. Đó là vì đáp án cho câu hỏi “Hai cộng hai bằng mấy?” đã được ấn định. Quy luật của nghiệp cũng giống như lời giải trong toán học, chúng được ấn định khá chặt chẽ. Ví dụ, nếu gieo hạt táo thì bạn chỉ có thể có cây táo, nếu gieo hạt xoài thì bạn chỉ có thể có cây xoài. Nếu gieo hạt táo thì bạn không thể nào có cây xoài.
Nghiệp được ấn định như thế nào? Lấy ví dụ về hành vi sát sinh, chẳng hạn như giết một con bò. Khi giết con bò, ta tạo một ác nghiệp, và ác nghiệp đó chuyển hóa thành một tập khí (hay một dấu vết) trong tâm ta. Tập khí sẽ tích tụ trong tâm, chúng ta gọi nó là tập khí nghiệp. Sau đó, những tập khí này sẽ mang lại những hệ quả tiêu cực. Vì vậy bạn nên cẩn thận. Khi hành động sai trái, dù hành vi đó không rõ ràng nhưng nó sẽ chuyển thành tập khí trong tâm ta.
Khi bạn tạo nghiệp, chắc chắn hành động đó sẽ chuyển hóa thành tập khí trong tâm. Khi chúng ta chết, tâm vẫn tiếp tục duy trì tập khí đó và nó sẽ được kích hoạt ở đời sau. Chính vì vậy, đôi khi bạn đến một nơi mà mình chưa từng đến, bạn vẫn có cảm giác mình đã đến nơi đó rồi. Lý do là bạn mang theo tập khí từ đời trước. Khi gặp một người mà bạn chưa từng gặp trước đây nhưng bạn vẫn có cảm giác mình đã biết họ rất lâu rồi, đó là do tập khí từ đời trước. Khi một người chết và tái sinh ở đời sau, tâm của họ tiếp tục lưu giữ tập khí và những tập khí này khi được kích hoạt sẽ làm cho vài ký ức của đời trước trỗi dậy.
MỌI HÀNH ĐỘNG ĐỀU ĐỂ LẠI TẬP KHÍ TRONG TÂM VÀ TẬP KHÍ NÀY SẼ MANG ĐẾN HỆ QUẢ TƯƠNG ỨNG.
Nhiều người kể cho tôi nghe kinh nghiệm của họ. Khi ngủ họ có những giấc mơ lạ mà phần lớn không thể nào giải thích, đó là những điều mà họ chưa từng trải qua. Theo quan điểm khoa học, Sigmund Freud, một nhà tâm lý học nổi tiếng, luôn cố chứng tỏ giấc mơ là điềm báo về tương lai. Tôi nghĩ ông ấy là một nhà tâm lý học rất nổi tiếng ở thế kỷ XX. Ông đã viết quyển sách Diễn Giải Giấc Mơ (The Interpretation of Dreams). Sigmund Freud muốn chỉ ra mọi giấc mơ là điềm báo về tương lai. Tuy nhiên, theo quan điểm Phật giáo, không phải mọi giấc mơ đều là điềm báo. Một vài giấc mơ do tập khí đến từ rất nhiều đời trước. Những tập khí này được kích hoạt, khiến cho chúng ta thấy những điều lạ lùng mà không thể nào giải thích. Đạo Phật cho rằng một số giấc mơ là hiệu ứng đến từ những đời trước, vài giấc mơ là điềm báo tương lai, vài giấc mơ chỉ là giấc mơ bình thường.
Mọi hành động đều để lại tập khí trong tâm và tập khí này sẽ mang đến hệ quả tương ứng. Hệ quả này chính là sự phản ứng lại hành động. Mọi hành động đều có phản ứng trở lại, điều này rất khoa học. Tương tự, bản thân ác nghiệp là một hành động, và nó kéo theo một phản ứng ngược lại; chúng ta gọi phản ứng này là nghiệp báo. Bạn có thể đọc thêm tác phẩm Giải Thoát Trong Lòng Tay, trong đó đưa ra nhiều ví dụ về cách nghiệp được ấn định.
Có một câu chuyện kể về một tu sĩ có chất giọng rất hay nhưng gương mặt lại rất xấu xí. Đức Phật đã nói tu sĩ đó có giọng nói ngọt ngào vì trong quá khứ ông ta đã cúng dường chuông cho chùa. Tuy nhiên, gương mặt của ông rất xấu xí vì ông đã hủy hoại tháp Phật. Bạn có thể thấy rất rõ trong ví dụ này, vì hành động hủy hoại tháp mà ông ta phải mang một gương mặt rất xấu; và nhờ cúng dường chuông cho chùa mà ông ta có được giọng nói ngọt ngào. Câu chuyện này được nhắc đến trong Giải Thoát Trong Lòng Tay. Đây là một mẩu chuyện cho thấy cách nghiệp được ấn định. Nói chung, nghiệp được ấn định rõ ràng: ác nghiệp không thể mang đến hệ quả tích cực, và thiện nghiệp không thể mang đến hệ quả tiêu cực.
Nghiệp luôn tăng trưởng
Khi ta tạo ác nghiệp và nếu không tịnh hóa thì ngày qua ngày, những ác nghiệp này sẽ tăng trưởng. Cả thiện nghiệp và ác nghiệp đều sẽ tăng trưởng chứ không riêng gì ác nghiệp. Giải Thoát Trong Lòng Tay minh họa nghiệp luôn tăng trưởng thông qua ví dụ về sự phát triển của một hạt giống táo. Một khi hạt giống táo đã được gieo thì nó sẽ phát triển và nảy nở thành hàng ngàn quả táo.
Thông thường, mọi sự việc diễn ra đều là kết quả của nghiệp. Tuy nhiên, nếu mọi thứ là kết quả của nghiệp thì cớ gì chúng ta phải làm việc tốt nữa, bởi vì chuyện gì xảy đến thì chúng sẽ đến, còn chuyện gì không đến thì sẽ không đến. Mọi thứ được ấn định bởi nghiệp, chúng ta có thể làm được gì? Chúng ta như những người vô vọng.
Chúng ta phải nhìn sâu hơn nữa vào nghiệp và nghiệp báo. Có hai loại nghiệp: nghiệp cố định và nghiệp bất định. Đối với nghiệp cố định, hệ quả của nó là không thể tránh khỏi, chúng ta buộc phải đối mặt với nghiệp báo. Ví dụ, khi bạn gieo một hạt táo xuống đất nhưng không tưới nước thì hạt giống đó chắc chắn không thể phát triển thành cây táo. Nghiệp cố định giống như vậy, ta không thể tránh khỏi nghiệp báo mà buộc phải nhận lãnh kết quả.
KHI TA TẠO ÁC NGHIỆP VÀ NẾU KHÔNG TỊNH HÓA THÌ NGÀY QUA NGÀY, NHỮNG ÁC NGHIỆP NÀY SẼ TĂNG TRƯỞNG.
Chúng ta có thể thay đổi hệ quả của nghiệp bất định. Một vài sự việc trong tương lai là kết quả của nghiệp cố định mà ta không thể tránh khỏi; tuy nhiên, tương lai cũng chứa đựng rất nhiều điều không chắc chắn và ta vẫn có thể làm được nhiều điều. Chuyện gì sẽ diễn ra trong tương lai? Có rất nhiều khả năng mở. Có lẽ chỉ 40% các sự việc trong tương lai đã được cố định, còn 60% vẫn chưa cố định, và 60% chưa cố định này nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta. Có một câu chuyện về cuộc đời ngài Long Thọ. Ngài Long Thọ được tiên đoán rằng sẽ chết vào năm bảy tuổi nhưng nếu ngài xuất gia thì sẽ không bị yểu mạng. Ngài Long Thọ đã xuất gia và đã không chết lúc bảy tuổi. Tương tự, ta có thể thay đổi nhiều nghiệp. Thực hành tịnh hóa ác nghiệp chính là tạo thêm thiện nghiệp để thay đổi ác nghiệp, điều này cũng giống như ta không tưới nước cho hạt giống ác nghiệp vậy.
Có phải tất cả sự việc diễn ra trong đời này đều là kết quả của nghiệp đời trước hay không? Bây giờ bạn phải xem xét hai loại nghiệp: nghiệp của đời hiện tại và nghiệp của đời quá khứ. Đôi khi vấn đề này rất phức tạp. Khi nhìn vào cơ thể chúng ta, thậm chí nếu ta tập thể dục rất tốt và ăn uống hợp lý thì cũng có lúc ta mắc những chứng bệnh mà y học không thể giải thích. Đó chính là hệ quả của nghiệp đời trước. Chúng ta cần phân biệt rõ ràng, có nhiều chuyện không phải là kết quả của nghiệp đời trước mà do trong đời này chúng ta làm nhiều điều sai trái. Mặt khác, chúng ta có thể thấy rõ có nhiều chuyện xảy ra ngoài dự tính của chúng ta mà ta không thể giải thích được; đôi lúc đó là kết quả của nghiệp đời trước.
Không lãnh quả nếu chưa tạo nghiệp
Chúng ta phải làm rõ những điều kỳ lạ trong cuộc sống, ví dụ như nhiều người vẫn sống sót trong các tai nạn nghiêm trọng, nhưng nhiều người khác lại qua đời vì những sự cố nhỏ. Tôi từng gặp một người đàn ông có một vết nứt trên bàn chân. Ông ấy nói với tôi là ông bị rơi từ trên giường xuống đất trong lúc đang ngủ nên bị gãy chân. Điều đó thật lạ! Một số người ngã từ một hoặc hai tầng lầu xuống đất mà vẫn bình an vô sự, nhưng người đàn ông đó chỉ ngã từ trên giường xuống mà đã bị gãy chân. Nhiều sự việc như vậy diễn ra trong thực tế, và đó là kết quả của nghiệp. Người nào không tạo nghiệp thì không phải kinh nghiệm kết quả tương ứng. Người nào không tạo nghiệp thì không phải nhận hệ quả xấu thậm chí khi gặp nạn.
Khi chúng ta gặp điều gì tồi tệ, điều đó có nghĩa là ta đã tạo nghiệp nào đó trong đời quá khứ hoặc đời hiện tại. Nhìn chung là như vậy, tuy nhiên thực tế thì đôi khi rất khó nói đâu là điều tốt và đâu là điều xấu. Đôi khi chúng ta thấy một hoàn cảnh rất xấu, nhưng nó lại có thể tốt. Chúng ta nhìn nhận một hoàn cảnh là bất thuận, nhưng thực tế thì đó có thể là thuận duyên. Khá khó để chúng ta xác định đâu là thuận lợi và đâu là bất thuận.
NGƯỜI NÀO KHÔNG TẠO NGHIỆP THÌ KHÔNG PHẢI KINH NGHIỆM KẾT QUẢ TƯƠNG ỨNG.
Nghiệp đã tạo không tự mất đi
Nghiệp đã được tạo không tự nhiên biến mất. Thiện nghiệp và ác nghiệp đều không thể tự chúng biến mất, nhưng ta có thể tịnh hóa ác nghiệp và cũng có thể hủy hoại thiện nghiệp. Khi đã tạo thiện nghiệp và chúng ta khởi sinh những ác niệm như thù hận, nóng giận..., những cảm xúc này sẽ hủy hoại thiện nghiệp. Ngược lại, dù đã tạo nhiều ác nghiệp nhưng chúng ta có thể tịnh hóa chúng, đây là điểm quan trọng. Khi ác nghiệp đã được giảm thiểu thì bất cứ khi nào tạo thiện nghiệp, chúng ta sẽ nhận được kết quả của thiện hạnh ngay lập tức. Đôi khi ta làm rất nhiều thiện nghiệp nhưng không thể nhận kết quả tốt ngay lập tức vì ta mang ác nghiệp nặng nề. Ác nghiệp ngăn chặn thiện nghiệp trổ quả ngay tức thì.
Điều quan trọng nhất ta cần hiểu là thiện nghiệp và ác nghiệp có công năng riêng của chúng. Khi chúng ta có quá nhiều ác nghiệp, chúng sẽ hủy hoại thiện nghiệp, và ngược lại. Đây là cơ chế vận hành chung của nghiệp. Nói chung, khi phân tích bốn đặc tính chung của nghiệp và nhân quả, chúng ta có thể thấy nghiệp vận hành như thế nào, công năng và bản chất của nghiệp. Khi thành Phật thì ta sẽ hiểu toàn diện về nghiệp và luật nhân quả. Hiện tại rất khó để ta hiểu nghiệp và nhân quả một cách toàn diện.
MƯỜI BẤT THIỆN NGHIỆP
Đạo Phật chia hành động thành ba nhóm: thiện nghiệp (hành động tốt), bất thiện nghiệp (ác nghiệp, hành động xấu), và vô ký nghiệp (hành động trung tính, không tốt cũng không xấu).
Trong cả ba loại hành động này, mỗi hành động đều có một phản ứng cùng loại. Như tôi đã nói, mỗi hành động đều có một phản ứng ngược lại, điều này rất khoa học. Hai loại hành động mà con người rất thường tiến hành là thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp. Hầu hết chúng ta đều thực hiện hai loại hành động này. Chúng ta cũng làm những việc trung tính. Những hành động trung tính, hay vô ký nghiệp, chỉ mang đến kết quả trung tính, không tốt cũng không xấu; còn thiện nghiệp mang đến kết quả tốt và ác nghiệp gây ra hậu quả xấu.
Ác nghiệp hay bất thiện nghiệp là hành động khiến chúng sinh khác tổn thương. Có mười ác nghiệp, và đây là những hành vi tồi tệ nhất mà ta vẫn luôn phạm phải mỗi ngày. Trong mười ác nghiệp, bạn cần phân biệt ba ác nghiệp của thân thể (thân nghiệp), bốn ác nghiệp của lời nói (khẩu nghiệp), và ba ác nghiệp của tâm ý (ý nghiệp). Thân nghiệp gồm sát sinh, trộm cắp, tà dâm; khẩu nghiệp gồm nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm; và ý nghiệp gồm tham, ác tâm, và tà kiến.
ĐÔI KHI TA LÀM RẤT NHIỀU THIỆN NGHIỆP NHƯNG KHÔNG THỂ NHẬN KẾT QUẢ TỐT NGAY LẬP TỨC VÌ TA MANG ÁC NGHIỆP NẶNG NỀ.
Thân nghiệp
Sát sinh
Ác nghiệp thứ nhất là sát sinh. Bạn phải từ bỏ sát sinh, dù chỉ là giết những con thú rất nhỏ như côn trùng. Đôi lúc vấn đề này rất phức tạp. Nói về việc giết muỗi, muỗi là loài gây ra nhiều bệnh nguy hiểm cho con người, vậy chúng ta phải làm gì? Ta phải giết muỗi hay từ bỏ việc giết muỗi? Khi đối mặt với một vấn đề, nhiều lúc chúng ta chỉ chăm chăm tìm cách giải quyết vấn đề đó. Nếu bạn chỉ tìm cách giải quyết vấn đề trước mắt mà không chịu tìm hiểu nguyên nhân của nó thì đôi lúc sẽ bị rơi vào vòng luẩn quẩn. Nói chung, chúng ta cần tìm giải pháp cho nguyên nhân của vấn đề, chứ không chỉ giải quyết bản thân vấn đề đó.
Ở một nước nọ, quốc vương đang phải đối mặt với nhiều khó khăn vì số lượng rắn trong vương quốc gia tăng rất nhanh và chúng tấn công người dân. Vua tìm cách giải quyết vấn đề và ngài thông báo: “Người nào nộp một cái đầu rắn thì sẽ nhận được một đồng tiền vàng.” Rất nhiều người giết rắn và mang đầu rắn đến nộp cho vua, tất cả họ đều nhận được tiền vàng. Ai nộp mười cái đầu rắn thì được mười đồng tiền vàng. Vài tháng sau, vua nghĩ rằng số lượng rắn hổ mang và các loài rắn khác đã giảm. Tuy nhiên, ngài phát hiện một sự việc rất lạ, số lượng rắn không những không giảm mà còn tăng lên. Vua vô cùng sửng sốt. Dù dân chúng đã giết rất nhiều rắn nhưng số lượng rắn vẫn tăng. Vua phát hiện ra khi ngài thông báo thưởng một đồng tiền vàng cho một cái đầu rắn, người ta đã bắt đầu giết rắn, và khi không còn rắn để giết nữa thì người ta lại chuyển sang nuôi rắn để dùng đầu rắn đổi lấy tiền vàng. Người ta mở trại nuôi rắn và số lượng rắn tăng lên. Tương tự, đôi lúc chúng ta chỉ cố tìm giải pháp cho vấn đề trước mắt nhưng không tìm cách hóa giải nguyên nhân của vấn đề.
Trước khi giết muỗi để phòng bệnh, ta cần tìm hiểu nguyên nhân khiến muỗi sinh sôi. Muỗi sinh sôi vì ô nhiễm môi trường và nguồn nước. Hiện tại chúng ta không tìm nguyên nhân của vấn đề. Nhằm nhắc nhở chúng ta tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân của mọi vấn đề, đức Phật đã dạy tập đế, tức sự thật về nguồn gốc của khổ. Tôi thấy 80% số người đập muỗi chỉ đập muỗi sau khi đã bị muỗi đốt. Khi phát hiện mình đã bị muỗi đốt thì họ đập muỗi, nhưng nếu con muỗi đó mang mầm bệnh thì nó đã truyền bệnh vào máu rồi. Nếu con muỗi đã truyền mầm bệnh vào máu thì giết chết nó có lợi ích gì? Một dịp nọ, tôi đến giảng ở một nơi đang có dịch sốt rét lan rộng ở Đài Loan. Khi tôi đến đó, họ đề nghị tôi bôi kem chống muỗi lên da. Chúng ta có thể làm rất nhiều cách mà không cần giết muỗi.
CHÚNG TA CẦN TÌM GIẢI PHÁP CHO NGUYÊN NHÂN CỦA VẤN ĐỀ, CHỨ KHÔNG CHỈ GIẢI QUYẾT BẢN THÂN VẤN ĐỀ ĐÓ.
Đức Phật đã dạy không sát sinh vì sát sinh là một ác nghiệp. Nó sẽ mang đến hệ quả tiêu cực là khiến chúng ta bị giảm thọ. Khi bạn cứu mạng người khác, điều đó sẽ giúp chúng ta kéo dài tuổi thọ. Vì sao sát sinh khiến ta bị giảm thọ? Chúng ta có minh chứng nào cho điều đó không? Chúng ta sẽ phân tích điểm này một cách đơn giản. Khi giết động vật, bạn làm giảm thọ mạng của chúng sinh khác. Bản thân việc làm chúng sinh khác giảm thọ chính là một hành động. Mỗi hành động đều có một phản ứng cùng loại. Bạn có biết định luật vật lý đó không? Mọi lực tác dụng đều có phản lực. Khi bạn giết động vật, chính điều đó sẽ làm giảm tuổi thọ của bạn. Đây không phải là vấn đề về tôn giáo hay của riêng đạo Phật; đây là một định luật vật lý. Điều này được xem là một lý thuyết khoa học để chúng ta ứng dụng. Mọi hành động đều có một phản ứng cùng loại. Ở điểm này, tôi rất ngưỡng mộ truyền thống văn hóa phóng sinh cá và các loài động vật của người Việt Nam. Đó là một nét văn hóa truyền thống rất tốt.
Quy luật về nghiệp nói rằng nếu bạn giết hại và làm người khác giảm thọ thì bạn sẽ bị giảm thọ. Quy luật này không phải do đức Phật ấn định mà là một quy luật tự nhiên. Thế giới và vũ trụ này có rất nhiều quy luật tự nhiên không do bất cứ ai thiết lập. Ví dụ, định luật vạn vật hấp dẫn là một quy luật tự nhiên chứ không do con người ấn định. Khi vũ trụ được khởi tạo, quả địa cầu tự nhiên có lực hấp dẫn. Tương tự, quy luật về nghiệp đã tồn tại trước thời đức Phật. Bạn đừng nghĩ rằng quy luật về nghiệp chỉ bắt đầu sau khi đức Phật thuyết pháp.
Hỏi: Sát sinh là ác nghiệp, vậy ăn thịt có phải là ác nghiệp hay không?
Đáp: Hiện tại, tu sĩ Phật giáo thuộc truyền thống Thái Lan và Miến Điện (Myanmar) vẫn dùng thịt, còn truyền thống Trung Hoa thì không. Trong truyền thống Tây Tạng, nhiều tu sĩ ăn chay và cũng có nhiều tu sĩ vẫn ăn thịt. Vậy bên nào đúng và bên nào sai? Vấn đề này không đơn giản là trả lời đúng hay sai. Bạn hãy nhìn lại kinh điển của đức Phật, không phải kinh điển Tạng ngữ mà phải là kinh điển bằng tiếng Pali, ngôn ngữ của đức Phật. Tạng kinh Pali ghi lại mọi sự kiện: Phật đã làm gì, ăn gì, tăng chúng làm gì, ăn gì... Bên nào đúng và bên nào sai? Câu hỏi này không quan trọng. Bên nào tốt? Đây mới là câu hỏi quan trọng. Không ăn thịt vẫn tốt hơn rất nhiều. Nhiều người đã ăn chay suốt thời gian dài, điều này rất tốt. Tuy nhiên, câu hỏi “Ăn thịt đúng hay sai?” lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Để có câu trả lời, bạn phải nhìn lại kinh điển tiếng Pali. Không ăn thịt và chỉ ăn thực vật rất tốt cho sức khỏe của bạn, và cũng rất tốt đối với việc thực hành lòng bi mẫn. Tôi luôn khuyến khích mọi người bớt ăn thịt.
Hỏi: Có sự khác nhau nào giữa việc con hổ ăn thịt và con người chúng ta sát sinh và ăn mặn không?
Đáp: Về vấn đề này, trước hết ta phải so sánh sự khác nhau giữa việc hổ ăn thịt và người ăn thịt. Thứ nhất, đâu là điểm khác biệt về cấu tạo sinh học giữa người và hổ? Loài hổ có nanh sắc và vuốt sắc. Chúng ta không có nanh sắc và vuốt sắc. Điều đó có nghĩa là gì? Về cấu tạo sinh học, chúng ta không phải là loài ăn thịt nhưng hổ là loài ăn thịt, hãy nhìn vào nanh vuốt sắc nhọn của chúng. Thứ hai, hãy nhìn lại thuyết tiến hóa của Darwin. Trước khi tiến hóa thành người, chúng ta là loài vượn người. Bạn chấp nhận điểm này không? Dù bạn chấp nhận hay không cũng không có khác biệt lớn. Đó là khoa học, và ngày nay thế giới đã thừa nhận điểm này. Nếu nhìn lại khởi thủy của loài người, ta sẽ thấy con người tiến hóa từ loài vượn người. Nếu tìm hiểu về thức ăn của loài vượn người, bạn sẽ thấy chúng chỉ ăn thực vật. Về cấu tạo sinh học, chúng ta không phải là loài ăn thịt. Tuy nhiên, về cấu tạo sinh học thì hổ là loài ăn thịt. Chúng không có sự lựa chọn. Loài hổ không thể nào ăn cỏ. Hổ cũng không thể ăn chuối hoặc trái cây. Tôi chưa từng nghe nói có con hổ nào ăn chuối cả; tuy nhiên tôi biết và đã thấy rất nhiều người ăn chuối.
MỖI HÀNH ĐỘNG ĐỀU CÓ MỘT PHẢN ỨNG CÙNG LOẠI. KHI BẠN GIẾT ĐỘNG VẬT, CHÍNH ĐIỀU ĐÓ SẼ LÀM GIẢM TUỔI THỌ CỦA BẠN.
Do đó, chúng ta có thể lựa chọn, còn loài hổ không có sự lựa chọn nào cả. Loài hổ ăn thịt theo bản năng của chúng. Bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng loài hổ không bao giờ ăn thịt loài khác khi nó đã no bụng. Chỉ khi nào đói bụng thì loài hổ mới săn loài thú khác để ăn thịt. Tuy nhiên, con người chúng ta khi no vẫn ăn, chúng ta ăn chỉ để xem món ăn có ngon hay không. Bạn có làm như vậy không? Nếu bạn cũng làm như vậy thì đó chính là khác biệt lớn nhất giữa người và hổ. Loài hổ giết hại loài khác vì chúng vô minh, vì theo bản năng khi đói bụng. Con người chúng ta vẫn giết hại dù chúng ta có nhiều lựa chọn. Chúng ta sát sinh chỉ để được ăn ngon. Khi con người ăn thịt, chỉ có thịt thôi thì không đủ, bạn cần nhiều gia vị để làm thịt ngon hơn. Chính vì vậy, hành vi sát sinh của loài người là ác nghiệp nặng hơn. Hành vi sát sinh của loài thú là một ác nghiệp rất nhẹ. Đó chính là điểm khác biệt lớn.
Hỏi: Sát sinh sẽ làm cho con vật chuyển sang kiếp tốt hơn thì sao? Tại sao người sát sinh lại mang ác nghiệp nếu như thời điểm đó con vật phải chết?
Đáp: Đây là một câu hỏi rất hay, nghe như một câu hỏi triết học. Chúng ta phải nhìn vào điểm này từ góc nhìn rộng hơn. Có một câu nói của đức Phật: “Nếu hiểu Phật pháp thì dù đang làm việc xấu, bạn có thể tịnh hóa và giảm thiểu ác nghiệp. Nếu không hiểu Phật pháp thì dù chỉ làm một việc xấu nhỏ bé, ác hạnh đó sẽ trở nên to lớn.”
Như tôi từng nói, đôi khi bạn sát sinh vì hạnh phúc của bản thân, có khi vì lợi ích của nhiều người khác. Khi bạn sát sinh vì lợi lạc của tất cả mọi người, dù ác hạnh hiện hữu nhưng vẫn có chút thiện hạnh. Một hành động được xem là thiện hay ác tùy thuộc vào hệ quả của nó. Khi một hành động mang đến khổ đau, hành động đó được xem là ác hạnh. Sát sinh khiến các loài thú rất đau khổ.
MỘT HÀNH ĐỘNG ĐƯỢC XEM LÀ THIỆN HAY ÁC TÙY THUỘC VÀO HỆ QUẢ CỦA NÓ. KHI MỘT HÀNH ĐỘNG MANG ĐẾN KHỔ ĐAU, HÀNH ĐỘNG ĐÓ ĐƯỢC XEM LÀ ÁC HẠNH.
Tôi sẽ kể một câu chuyện có thật về anh tôi. Khi đó anh tôi vừa mới mua một con dê con từ một buổi lễ cúng puja và mang nó về nhà. Mẹ tôi nói mỗi lần anh tôi ra khỏi nhà, con dê con đều khóc thét lên. Dù cha mẹ tôi là người cho con dê ăn, nhưng thái độ của con dê đối với cha mẹ tôi và đối với anh tôi hoàn toàn khác nhau. Dù con dê con đó là một con thú nhưng nó vẫn biết ai là người đã cứu mạng nó. Nếu con dê biết ai là người cứu mạng nó thì nó cũng sẽ biết ai là người gây tổn thương và sát hại nó. Do đó, sát sinh khiến loài thú rất đau khổ, và việc đó được xem là ác nghiệp.
Đức Phật từng nhiều lần kể về tiền thân của ngài. Ở một đời quá khứ, tiền thân của đức Phật là một thủy thủ. Lúc đó, trên tàu của người thủy thủ còn có 500 người khác, và có một kẻ xấu âm mưu giết hết 500 người để cướp tài sản của họ. Khi người thủy thủ phát hiện ra âm mưu đó, ông ấy đã giết kẻ xấu để cứu mạng 500 người còn lại. Khi giết một người, người thủy thủ đã phạm một ác nghiệp, nhưng hành động cứu mạng 500 người là một thiện nghiệp to lớn. Trong Nhập Bồ Tát Hạnh, ngài Tịch Thiên (Shantideva) đã nói, “Nếu bạn cắt một ngón tay để cứu chín ngón tay còn lại, đó là hành động khôn ngoan. Nếu bạn cắt chín ngón tay để cứu một ngón tay, đó là hành động ngu xuẩn.” Trong một trận dịch cúm gia cầm, bạn phải giết vài trăm con gà để cứu hàng trăm và hàng ngàn người. Vẫn có ác nghiệp do giết gà, nhưng thiện nghiệp nhờ cứu người mạnh hơn ác nghiệp do giết gà. Giữa việc cứu mạng người và giữ mạng cho loài thú, nếu bạn so sánh thì thiện nghiệp cứu người to lớn hơn rất nhiều. Khi bạn buộc phải giết thú để cứu mạng người thì trong hành động đó có cả ác nghiệp lẫn thiện nghiệp, và thiện nghiệp mãnh liệt hơn. Tôi nghĩ chúng ta cần tìm một giải pháp tối ưu mà không phải giết động vật. Nếu không có một giải pháp tối ưu như thế thì đôi lúc chúng ta sẽ cảm thấy vô vọng. Đây cũng là điều bạn nên phân tích kỹ lưỡng để hiểu rõ.
Trộm cắp
Ác nghiệp thứ hai là trộm cắp, hoặc lấy của không cho. Trộm cắp nghĩa là cố ý lấy trộm một thứ thuộc sở hữu của người khác. Theo quan điểm Phật giáo, trực tiếp trộm cắp và gián tiếp trộm cắp đều là hành vi trộm cắp. Một ví dụ của gián tiếp trộm cắp là yêu cầu người khác trộm cắp. Khi có người không trực tiếp trộm cắp mà lại gián tiếp yêu cầu người khác lấy trộm, hành vi yêu cầu người khác lấy trộm đó cũng được xem là trộm cắp.
TRỘM CẮP LÀ MỘT DẠNG TÂM BỆNH. KHI AI ĐÓ TRỘM CẮP VÀ NGƯỜI KHÁC KHÔNG BIẾT, HÀ VI ĐÓ RẤT DỄ GÂY NGHIỆN, ĐẶC BIỆT LÀ ĐỐI VỚI TRẺ CON..
Nói chung, trộm cắp là hành vi gây nghiện. Nếu lúc nhỏ bạn lấy trộm những vật nhỏ thì khi lớn lên, bạn sẽ lấy trộm nhiều hơn nữa. Về mặt tâm lý, tâm thức thường nhìn nhận và trở nên nghiện ngập đối với mọi thứ, chẳng hạn như máy tính, điện thoại di động... Đó là một dạng tâm bệnh. Khi bạn trộm cắp và người khác không biết, hành vi đó rất dễ gây nghiện, đặc biệt là đối với trẻ con. Tôi có một kinh nghiệm ở một trại tù thiếu niên ở Đài Loan, người ta gọi nơi đó là “Trung tâm giới nghiêm vị thành niên.” Có khoảng 600-700 đứa trẻ ở đó. Hầu hết bọn trẻ đều dưới 18 tuổi, chúng khoảng 12-13 tuổi. Có nhiều lý do khiến chúng bị đưa vào trại, tuy nhiên hai nguyên nhân chính khiến bọn trẻ bị bắt là nghiện ngập và trộm cắp. Đối với việc nghiện ngập, một số đứa trẻ nói với tôi chúng muốn biết cảm giác dùng chất gây nghiện ra sao nên chúng đã thử. Với những đứa phạm tội trộm cắp, chúng nói với tôi rằng chúng không sao cưỡng lại được cơn nghiện hành vi trộm cắp. Điều quan trọng là trẻ em phải được dạy dỗ rằng trộm cắp không phải là điều tốt.
Đức Phật đã đặt ra nhiều giới luật cho tu sĩ. Trong một vài tình huống, khi phạm giới thì chúng tôi có thể sám hối; tuy nhiên đối với giới trộm cắp thì chúng tôi không thể sám hối. Đối với hàng tăng ni, khi họ trộm những vật thuộc về người khác thì họ không còn là tăng ni nữa. Trong tu viện, chúng tôi hiện có một hệ thống ứng xử rất tốt, theo đó nếu ai nhặt được vật gì đó trên đường đi, chẳng hạn như tiền, thì người đó sẽ mang tiền đến giao cho văn phòng của tu viện. Sau đó, đến giờ cầu nguyện, tu viện sẽ thông báo văn phòng vừa nhận được của rơi. Ngay cả với những chú tiểu, khi nhặt được món đồ nào đó, các chú sẽ mang đến văn phòng tu viện. Điều này trở thành thông lệ trong tu viện.
Đối với hành vi trộm cắp, điều luật trong tu viện rất nghiêm ngặt. Khi một vị tu sĩ bị phát hiện trộm cắp, vị ấy sẽ bị đuổi ra khỏi tu viện. Một trong những điều khó khăn nhất của tôi trong tu viện là phải ứng xử với một chú tiểu có thói quen ăn cắp vặt. Đó là vấn đề nan giải nhất mà tôi phải đối mặt. Tôi đã cố gắng hiểu rõ hơn về cách suy nghĩ của chú, tôi đã tìm đủ mọi phương án. Đó thật sự là một thử thách đối với tôi. Sau đó, tôi phát hiện hành vi trộm cắp rất gây nghiện và rất khó cưỡng lại. Tôi đã có buổi nói chuyện dài với chú tiểu đó, và tìm ra giải pháp cũng khá dài. Tôi hỏi chú, “Tại sao con lại trộm bút chì và bút mực của bạn cùng lớp?” Chú tiểu nói với tôi là chú ta biết trộm cắp không phải là điều đúng đắn, nhưng khi thấy bút chì của bạn trong lớp thì chú không thể nào cưỡng lại được hành vi trộm cắp. Do đó, trộm cắp gây nghiện rất nặng. Một khi đã trộm những thứ lặt vặt thì bạn sẽ muốn trộm những thứ lớn hơn và lớn hơn nữa. Nó rất gây nghiện.
Đối với hành vi trộm cắp, không những bạn không được trộm cắp mà bạn còn phải hướng dẫn người khác, truyền tải thông điệp đến mọi người, không được trộm cắp. Điều này rất quan trọng, chúng ta phải chuyển tải thông điệp này, nhất là đến trẻ nhỏ. Ở trong nhà tù ở Đài Loan, những đứa trẻ phạm tội trộm cắp nói với tôi rằng chúng phạm tội vì ở gần bạn bè xấu.
ĐỐI VỚI HÀNG TĂNG NI, KHI HỌ TRỘM NHỮNG VẬT THUỘC VỀ NGƯỜI KHÁC THÌ HỌ KHÔNG CÒN LÀ TĂNG NI NỮA.
Liên quan đến trộm cắp, có một nghi vấn phức tạp về vấn đề bản quyền sản phẩm. Khi chúng ta dùng sản phẩm mà không mua bản quyền thì đó có phải là trộm cắp hay không? Đó là vấn đề chúng ta cần thảo luận nhiều hơn nữa, vì ở thời đức Phật không có vấn đề bản quyền, do đó ngài đã không dạy rõ về điều này. Khoảng hai đến ba năm trước, có một học trò nói với tôi về một chương trình máy tính có thể giúp chúng ta học và cải thiện ngoại ngữ. Anh ta không phải là tu sĩ, mà là một cư sĩ người Ấn Độ. Anh ta nói rằng có thể tải chương trình đó từ Internet, đó không phải là chương trình có bản quyền. Khi đó tôi nói, “Có lẽ anh phải chờ một thời gian nữa, bởi tôi không chắc đó có phải là hành vi trộm cắp hay không, tu sĩ có được phép dùng chương trình từ Internet mà không có bản quyền sử dụng hay không.” Tôi đã nói với anh ta rằng tôi phải nghĩ thêm về vấn đề đó. Tôi đã mất hai năm suy nghĩ và bây giờ vẫn còn đang nghĩ. Đức Phật đã không dạy rõ về vấn đề này. Tuy nhiên, xét về luật pháp quốc tế, việc tải chương trình từ Internet mà không có bản quyền có thể bị xem là hành vi trộm cắp.
Khi tôi mới mua máy tính, tôi không biết là trong máy tính mới không có sẵn các phần mềm xử lý văn bản của Microsoft. Tôi đã không biết rằng mình phải mua thêm các phần mềm đó. Sau đó, họ nói tôi mua thêm phần mềm. Các phần mềm Microsoft, nhất là Microsoft Word, có giá đến hàng trăm USD, rất đắt tiền. Vào lúc đó ở Nam Ấn, người ta bán phần mềm bẻ khóa giống hệt như vậy. Tôi có thể mua phần mềm lậu chỉ với 5-10 USD, nhưng tôi không chắc theo đạo Phật thì đó có phải là trộm cắp hay không. Vì vậy tôi không mua các phần mềm Microsoft lậu. Tôi không mua cả phần mềm có bản quyền lẫn phần mềm lậu, và nhiều lúc tôi gặp một số khó khăn. Tuy nhiên, các bạn đừng nói rằng sẽ tài trợ phần mềm máy tính cho tôi, bạn không cần phải làm như thế. Tôi cũng nói như vậy trong các buổi giảng cho đại chúng ở Đài Loan. Đừng đề nghị tài trợ phần mềm máy tính cho tôi vì bạn có thể dùng vài trăm USD đó để giúp đỡ những người nghèo đói, việc đó quan trọng hơn. May mắn là lần trước tôi có nhờ người phiên dịch tải một số phần mềm hoàn toàn miễn phí từ Internet. Nếu dùng phần mềm được cung cấp miễn phí thì không phạm giới trộm cắp. Chúng ta có rất nhiều chương trình miễn phí, có nhiều công ty cung cấp các sản phẩm miễn phí.
Tà dâm
Ác nghiệp thứ ba là tà dâm. Tà dâm có nghĩa là bạn quan hệ thể xác với những người không phải là chồng hoặc vợ của mình, hay không phải là bạn trai hoặc bạn gái của mình. Để có được gia đình hạnh phúc thì bạn phải tránh tà dâm. Hành vi tà dâm cũng có liên hệ mật thiết đến vấn đề sức khỏe. Chúng ta phải bảo vệ sức khỏe của chính mình nên bạn phải hoàn toàn từ bỏ tà dâm.
Khoảng mười lăm năm trước, người ta đã tiến hành một nghiên cứu về vấn đề ly hôn và phát hiện 90% các trường hợp ly hôn là do ngoại tình. Về phía người chồng hoặc người vợ, bạn có thể nghĩ việc ly hôn không có gì tồi tệ; tuy nhiên, họ không biết tác hại của ly hôn đến tâm lý của con cái. Tôi từng được mời đến nói chuyện ở một trường học. Sau buổi nói chuyện, thầy hiệu trưởng mời tôi vào phòng riêng và muốn tôi khuyên giải 10 học sinh. Thầy hiệu trưởng nói với tôi đó là 10 học sinh tệ nhất trường, rồi thầy kể rằng cha mẹ của hầu hết 10 em học sinh đó đều đã ly hôn. Khi cha mẹ ly hôn, điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý con cái. Khi những đứa trẻ bị ảnh hưởng về tâm lý thì làm sao chúng có thể học tốt đây? Rất khó! Trong tu viện cũng có rất nhiều trẻ con. Tôi cũng tiến hành nghiên cứu về những đứa trẻ học hành không tốt. Tôi đến gia đình các em để tìm hiểu. Tôi phát hiện ra nhiều trường hợp liên quan đến việc ly hôn của cha mẹ. Hơn 90% trường hợp ly hôn có liên quan đến ngoại tình. Tôi đã thấy một mẩu quảng cáo ở châu Âu, hoặc ở một nơi khác mà tôi không nhớ, quảng cáo luật sư cho những trường hợp ly hôn. Mẫu quảng cáo ghi: “Cuộc đời rất ngắn! Hãy ly hôn!” Ly hôn thì rất dễ, nhưng họ không biết việc ly hôn ảnh hưởng đến tâm lý con trẻ như thế nào. Tuy nhiên, tôi lại nói: Cuộc đời rất ngắn! Hãy sống hạnh phúc với nhau! Để làm được như vậy thì phải từ bỏ hành vi ngoại tình. Ly hôn là tác hại của việc ngoại tình. Bạn không biết rõ nó ảnh hưởng đến người khác ra sao. Đôi khi, có nhiều lý do của việc ly hôn. Bạn bè xấu cũng đưa đến nhiều tư tưởng xấu. Không biết Phật pháp và không thực hành Pháp đúng đắn cũng là một lý do. Nếu nhìn theo khía cạnh tôn giáo, mọi tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Hồi giáo... đều khuyên từ bỏ hành vi tà dâm. Nếu bạn đọc Kinh Thánh Cựu Ước thì sẽ thấy điều luật về vấn đề tà dâm rất khắt khe. Tà dâm gây ra rất nhiều vấn đề trong gia đình. Do đó, tôi nghĩ từ bỏ tà dâm là giải pháp tốt nhất để có một gia đình hạnh phúc.
TÀ DÂM GÂY RA RẤT NHIỀU VẤN ĐỀ TRONG GIA ĐÌNH. DO ĐÓ, TỪ BỎ TÀ DÂM LÀ GIẢI PHÁP TỐT NHẤT ĐỂ CÓ MỘT GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC.
Khẩu nghiệp
Nói dối
Ác nghiệp thứ tư là nói dối. Nói chung có hai loại nói dối: nói dối gây hại và nói dối vô hại. Nói dối vô hại là nói dối để làm người khác vui lòng. Ví dụ, bạn nói “Ồ trông cô đẹp quá!” hoặc “Ồ trông chị trẻ quá!” dù bạn không cảm thấy như vậy. Đó là nói dối vô hại. Bạn không thật sự cảm nhận như vậy nhưng vẫn cố gắng nói dối để làm người khác hài lòng. Đó là một kiểu nói dối và là ác nghiệp. Điểm tệ hại nhất của hành vi nói dối là khi bạn đã nói dối thì dần dần sẽ có thói quen nói dối. Khi đã nói dối một lần thì bạn sẽ thấy dễ dàng nói dối năm lần. Khi đã nói dối năm lần thì bạn dễ dàng nói dối mười lần.
Trong đời sống xã hội, điều quan trọng nhất là quan hệ giữa người với người. Nền tảng của quan hệ giữa con người với nhau chính là lòng tin. Nói dối sẽ hủy hoại lòng tin. Chúng ta cần mối quan hệ tốt đẹp giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, và giữa bạn bè với nhau. Những mối quan hệ này đều có nền tảng là lòng tin. Lòng tin có thể dễ dàng bị hủy hoại vì một lời nói dối nhỏ. Không chỉ theo quan điểm của đạo Phật mà còn theo đặc điểm tính cách của con người, nói dối là một thói quen rất xấu.
Thông thường khi đi ôtô, tôi cảm thấy khó chịu khi phải cài dây an toàn. Một lần, khi tôi đi với một anh thanh niên cũng là tài xế, tôi hỏi, “Anh không thấy khó chịu khi cài dây an toàn hay sao?” Anh ấy nói với tôi một điều rất hay, “Cài dây an toàn là một thói quen tốt.” Rất đúng! Chúng ta thường quen với việc nói dối, nhưng đó không phải là một thói quen tốt. Khi nói dối ta sẽ mất lòng tin của rất nhiều người.
LÒNG TIN CÓ THỂ DỄ DÀNG BỊ HỦY HOẠI VÌ MỘT LỜI NÓI DỐI NHỎ.
Bây giờ đã đến lúc bạn phải thay đổi. Đức Phật đã dạy: “Một điều ác nhỏ cũng không được làm.” Nếu bạn có thể từ bỏ ác hạnh thì rất tốt. Nếu không thể nhanh chóng từ bỏ ác hạnh thì ít nhất bạn phải giảm thiểu chúng. Đặc biệt trong gia đình, mọi người vẫn hay nói dối. Khi nói dối, bạn sẽ hủy hoại niềm tin trong gia đình. Nếu bạn đánh mất niềm tin trong gia đình, bạn sẽ mất tất cả, lúc đó ngay cả Phật pháp cũng không giúp bạn được. Đây là điều rất quan trọng mà bạn cần phải suy xét. Nếu bạn muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc, điều quan trọng nhất là lòng tin.
Nếu bạn đang nói dối thì từ hôm nay trở đi, bạn phải nghĩ rằng mình sẽ không nói dối, mình sẽ từ bỏ nói dối. Nếu bạn còn nói dối vô hại thì từ hôm nay trở về sau, hãy cố nghĩ rằng bạn sẽ giảm thiểu việc nói dối vô hại. Có một người đàn ông nói với tôi từ bỏ nói dối là việc rất khó. Mỗi khi anh ta đi làm về nhà, vợ anh nấu thức ăn rất dở nhưng anh vẫn phải nói thức ăn rất ngon!
Trong rất nhiều tình huống chúng ta không thể nói ra sự thật; tuy nhiên, không nói ra sự thật không có nghĩa là phải nói dối. Đôi lúc bạn không thể nói ra sự thật, tốt hơn hết là giữ im lặng. Khi người khác phát hiện bạn nói dối thì họ sẽ bị tổn thương nặng nề. Bạn hãy nghĩ xem chúng ta thường nói dối những ai? Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường nói dối những người quan tâm đến ta nhiều nhất! Đó là một điều rất tồi tệ. Từ giờ trở đi, bạn phải tư duy rằng điều đầu tiên mình phải thay đổi là từ bỏ hoặc giảm thiểu nói dối, vì nói dối là một ác nghiệp.
Nói lời chia rẽ
Ác nghiệp thứ năm là nói lời chia rẽ. Nói lời chia rẽ có nghĩa là bạn thấy có hai người rất thân thiết với nhau và bạn cố ý chia rẽ họ. Mặc dù lời nói có thể là sự thật, nhưng động cơ rất xấu, chia rẽ những người khác. Với động cơ như vậy, dù bạn có nói sự thật thì đó vẫn là hành vi nói lời chia rẽ, bởi nó có thể khiến người khác tổn thương nặng nề. Những lời nói đó có thể là sự thật hoặc giả dối, nhưng nếu động cơ là cố ý chia rẽ những người khác thì hành vi đó được xem là nói lời chia rẽ. Nói lời chia rẽ khiến người khác tổn thương nặng nề nên đức Phật xem hành vi này là một ác nghiệp.
Nói lời thô ác
Ác nghiệp thứ sáu là nói lời thô ác. Khi bạn nói nặng lời để làm tổn thương người khác, đó được xem là nói lời thô ác. Thông thường, người ta nặng lời khi nổi giận, cũng có lúc họ nói như vậy để trêu chọc người khác. Mỗi khi bạn dùng lời lẽ thô ác với ý định làm người khác tổn thương, hành vi đó là một ác nghiệp. Điều quan trọng nhất là bạn phải cố gắng giảm thiểu và từ bỏ nói lời thô ác. Nếu không thể từ bỏ thì ít nhất bạn cũng phải giảm bớt. Không nói nặng lời với người khác là điều đơn giản và không quá khó; tuy nhiên, khi có người nặng lời với bạn, việc kiểm soát cảm xúc của bản thân sẽ khó hơn và quan trọng hơn. Khi người khác nặng lời với bạn, thông thường sẽ có hai tình huống xảy ra: bạn sẽ nổi giận, hoặc bạn sẽ rất buồn. Bạn phải hiểu rằng lời nói không thể khiến bản thân mình đau khổ; điều đó tùy thuộc vào chính bạn, cách bạn tiếp nhận lời nói quan trọng hơn. Khi có người nói lời thô ác với bạn, nếu nhìn nhận những lời nói đó thật nặng nề và nghiêm trọng thì chúng sẽ khiến bạn đau khổ. Vì vậy, đức Phật luôn khuyên rằng chúng ta không nên phản ứng khi bị lời nói của người khác làm tổn thương.
ĐÔI LÚC BẠN KHÔNG THỂ NÓI RA SỰ THẬT, TỐT HƠN HẾT LÀ GIỮ IM LẶNG.
Nói lời phù phiếm
Ác nghiệp thứ bảy là nói lời phù phiếm. Khi có thời gian rỗi để trò chuyện, phần lớn thời gian bạn nói những gì? Có lẽ bạn nói những điều không cần thiết và bàn tán về khuyết điểm của người khác. Đó chính là nói lời phù phiếm, và bạn phải giảm thiểu hành vi này.
Khi tôi nói về việc giảm thiểu nói lời phù phiếm, có một người phụ nữ nói với tôi nếu cô ta không nói về khuyết điểm của người khác thì cô không có hứng nói chuyện. Một dịp nọ, sau một buổi giảng ở Bangalore tôi đến ăn trưa ở một khách sạn. Tôi ngồi ở giữa và thấy phần lớn phụ nữ ngồi bên tay phải của tôi, còn nam giới ngồi ở bên trái. Tôi đã quan sát và thấy phụ nữ nói nhiều hơn nam giới. Sau đó, tôi nghĩ nhóm nữ nói chuyện phiếm nhiều hơn.
Đức Phật đã đặt ra những điều luật khác nhau đôi chút dành cho tăng và ni. Về cơ bản thì các giới luật đó giống nhau, nhưng cũng có những điểm khác biệt vì cấu trúc sinh học của nam giới và nữ giới đôi lúc làm cho họ có cách suy nghĩ khác nhau. Khi nam giới gặp khó khăn hoặc căng thẳng, đau buồn, họ sẽ cố gắng giữ im lặng, muốn một mình tìm giải pháp vượt qua khó khăn. Đó là cách nam giới đối mặt với khó khăn do ảnh hưởng từ cấu trúc sinh học. Khi phụ nữ căng thẳng hoặc gặp khó khăn, cấu trúc sinh học khiến họ muốn nói ra vấn đề của mình. Chính vì phụ nữ thường bày tỏ tâm tư của mình nhiều hơn nên họ phải cẩn thận đối với việc nói chuyện phiếm. Nam giới phải cẩn trọng hơn đối với việc nặng lời với người khác, vì ở họ cơn giận rất dễ bị kích hoạt. Nam giới cần thận trọng với lời nói thô ác hơn là đối với lời nói phù phiếm.
Ý nghiệp
Tham
Ác nghiệp thứ tám là tham. Có hai loại ham muốn: ham muốn chính đáng và ham muốn không chính đáng. Tham chính là dạng ham muốn không chính đáng và rất sai lầm. Ham muốn chính đáng rất quan trọng, ngay cả đức Phật cũng có những ham muốn chính đáng. Ngài muốn dẫn dắt mọi chúng sinh hữu tình ra khỏi luân hồi; đó là một ước muốn chính đáng. Khi bạn có mong muốn được uống Pepsi hay Coca-Cola, không có gì sai trái đối với ham muốn như vậy. Chúng ta gọi đó là mong muốn chính đáng.
THAM CHÍNH LÀ DẠNG HAM MUỐN KHÔNG CHÍNH ĐÁNG VÀ RẤT SAI LẦM. HAM MUỐN SAI LẦM LÀ NGUỒN GỐC CỦA MỌI KHỔ ĐAU.
Tôi sẽ cho bạn ví dụ về ham muốn sai lầm. Vào thời đức Phật còn tại thế, có một người ăn xin đến trước cung điện của đức vua. Người ăn xin luôn mong muốn vua chết bất thình lình và sau khi vua băng hà, vương miện sẽ thuộc về ông ta. Đó là một tham vọng vô cùng sai lầm. Thậm chí khi nhà vua qua đời thì cũng không có lý do gì để trao vương miện cho người ăn xin. Điều đó hoàn toàn là ảo mộng, tưởng tượng, bất khả khi. Tuy nhiên nhiều người vẫn chạy theo những tham vọng hão huyền như thế.
Mong muốn chính đáng là khi bạn ước muốn trở thành người tốt, hoặc ước một điều tốt đẹp. Ham muốn sai lầm là khi bạn ước muốn những thứ thuộc sở hữu của người khác. Bạn nên có mong ước chính đáng chứ không được ước muốn sai lầm. Ham muốn sai lầm được xem là một ác nghiệp. Khi bạn mong muốn một thứ không quá độc hại, đôi khi bạn không phân biệt được đâu là ước muốn chính đáng và đâu là ước muốn sai lầm. Khi đó sẽ có rất nhiều ham muốn sai lầm nảy sinh trong tâm bạn. Trong nhà hàng, khi người khác đang ăn, bạn nhìn vào các món ăn và khởi tâm muốn được ăn thức ăn của họ, đó chính là ham muốn sai lầm. Tuy nhiên, nếu bạn muốn được ăn món ăn giống với món ăn của họ, đó lại là mong muốn chính đáng. Chính vì vậy, chúng ta cần phân biệt mong ước chính đáng và sai lầm. Mong ước sai lầm là nguồn gốc của mọi khổ đau.
Ác tâm
Ác nghiệp thứ chín là ác tâm. Khi bạn nghĩ đến việc làm người khác tổn thương, đó chính là ác tâm. Nói chung, con người khởi sinh ác tâm khi họ nổi giận. Tuy nhiên, có những người thậm chí có ác ý khi không nổi giận. Ví dụ, câu cá là một trò tiêu khiển, nhưng để câu cá thì bạn phải giết con cá, hãm hại chúng, và do đó sinh khởi ác tâm. Bạn có thể thấy người ta xem câu cá là một trò chơi, nhưng thực tế thì chúng ta đang hãm hại rất nhiều cá. Đôi khi trong lúc trò chuyện, chúng ta dùng nhiều lời lẽ thô ác, mỉa mai, chúng ta nói ra để làm người khác tổn thương; đó cũng là ác tâm. Thậm chí dù chỉ là lời nói đùa cợt để làm tổn thương người khác, điều đó cũng trở thành ác tâm. Chính vì vậy, bạn phải rất thận trọng khi nói. Bạn không cố ý làm người khác tổn thương. Tuy không cố ý nhưng cũng có lúc lời nói của bạn, dù chỉ là lời nói đùa, cũng có thể khiến người khác tổn thương. Vì vậy bạn phải rất cẩn thận. Đôi khi bạn chỉ nói những điều chung chung, nhưng nó có thể khiến người khác tổn thương, nên bạn phải cẩn thận với mọi lời nói. Một khi bạn có ý định làm tổn thương người khác, dù ý định của bạn chỉ là đùa cợt, thì đó cũng là ác nghiệp. Khi lời nói của bạn làm người khác tổn thương nhưng bạn không cố ý thì đó không phải là ác nghiệp.
MỘT KHI BẠN CÓ Ý ĐỊNH LÀM TỔN THƯƠNG NGƯỜI KHÁC, DÙ Ý ĐỊNH CỦA BẠN CHỈ LÀ ĐÙA CỢT, THÌ ĐÓ CŨNG LÀ ÁC NGHIỆP.
Tà kiến
Ác nghiệp thứ mười là tà kiến. Tà kiến là ác nghiệp tệ hại nhất! Vì sao lại như vậy? Bởi nếu mang tà kiến thì bạn sẽ phạm vào tất cả ác nghiệp. Bây giờ bạn phải hiểu thế nào là tà kiến. Tà kiến có nghĩa là bạn tin rằng không có kiếp sống quá khứ và không có kiếp sống tương lai, và tin rằng không có luật nhân quả. Một khi đã mang tà kiến thì bạn sẽ phạm vào mọi ác nghiệp. Do đó, điều quan trọng là phải có chánh kiến. Chỉ khi nào có chánh kiến thì bạn mới có thể tiếp tục bước sang những thực hành khác. Để có chánh kiến thì bạn phải hiểu biết nhiều hơn. Nếu không hiểu thì bạn không thể có chánh kiến. Để có chánh kiến vững chắc hơn, bạn phải hiểu biết nhiều hơn và phải phân tích kỹ lưỡng hơn.
Nếu ai mang tà kiến thì người đó sẽ bị cuốn vào những điều sai quấy. Nói chung, trong cuộc sống ta có rất nhiều tư tưởng và quan điểm sai lầm vì ta quá tin tưởng vào những gì mình nhìn thấy. Đôi lúc, chúng ta không thể đặt trọn niềm tin vào những gì mình thấy, cũng như ta không thể hoàn hoàn tin những gì mình không thấy. Những gì chúng ta nhìn thấy, chúng không thật sự như vậy. Nhiều lúc chúng ta không thấy được bản chất thật sự của chúng. Một nguyên nhân khác dẫn đến tà kiến là chúng ta nhìn nhận, đánh giá sự việc quá nhanh và quyết định quá vội vàng. Khi quá vội vàng đưa ra phán xét, ta tạo nên nhiều tư tưởng và quan điểm sai lầm trong tâm.
Trong cuộc đời của đức Phật, ngài đã gặp một triết gia ngoại đạo, người luôn bắt lỗi giáo lý của Phật. Không chỉ bắt lỗi mà người đó còn dùng lời lẽ thô ác với Phật. Vào thời điểm đó, đức Phật đang dạy một tư tưởng rất mới và đi ngược lại với tư tưởng xa xưa của Ấn Độ. Vào thời xa xưa, ở Ấn Độ có nhiều tư tưởng ngoài Phật giáo rất lạ lùng, đức Phật đã phủ nhận tất cả và lý giải vì sao chúng là những tư tưởng sai lầm. Chính vì vậy, một triết gia ngoại đạo đã gặp Phật, ông ấy không chỉ bắt lỗi giáo lý của ngài mà còn dùng nhiều lời lẽ thô lỗ. Theo quan điểm của triết gia đó, đức Phật đang mang nhiều tà kiến. Theo quan điểm Phật giáo, tôi nghĩ ông triết gia đó mới là người mang nhiều tà kiến. Khi tranh luận mới diễn ra, đức Phật và triết gia đều chưa thể thuyết phục được người kia. Khi cuộc tranh luận đến chỗ cao trào, triết gia kia đã nổi giận và nhổ vào mặt Phật. Ngay lúc đó, đức Phật vẫn giữ được thái độ bình tĩnh và mỉm cười. Vào thời đó, nhổ vào mặt người khác là một hành động phỉ báng nặng nề. Ngay lúc đức Phật mỉm cười, rất nhiều triết gia ngoại đạo đã vô cùng kinh ngạc khi thấy vị triết gia kia thậm chí đã nhổ vào mặt Phật mà ngài vẫn rất điềm tĩnh. Sau cuộc tranh luận, vị triết gia ngoại đạo đã không thể chợp mắt suốt đêm. Hôm sau, ông ta đến gặp Phật để xin ngài thứ lỗi cho những gì ông đã làm. Câu chuyện cho thấy, ông triết gia hành động lầm lạc vì mang tà kiến. Tà kiến là nguyên nhân đưa đến ác hạnh. Tà kiến đưa đến ác hạnh, và ác hạnh dẫn đến kết quả tồi tệ. Dù bị phỉ báng nhưng đức Phật vẫn mỉm cười và rất bình tĩnh; đó là một hành vi đúng đắn vì đức Phật có chánh kiến, và kết quả là ngài vẫn giữ được bình tĩnh và an lạc trong một hoàn cảnh như vậy.
TÀ KIẾN LÀ NGUYÊN NHÂN ĐƯA ĐẾN ÁC HẠNH. TÀ KIẾN ĐƯA ĐẾN ÁC HẠNH, VÀ ÁC HẠNH DẪN ĐẾN KẾT QUẢ TỒI TỆ.
NĂM GIỚI CƯ SĨ
Sau khi đã quy y Tam Bảo, ta cần thực hành năm giới cư sĩ, từ bỏ năm ác nghiệp: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, và uống rượu. Bốn ác nghiệp đầu tiên trong năm giới cư sĩ đã được nhắc đến trong mười bất thiện nghiệp.
Ác nghiệp thứ năm trong năm giới cư sĩ là uống rượu. Tôi có nghe một câu chuyện có thật. Vào cuối năm 2008, khi thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế, có hai ngành lớn vẫn phát triển rất tốt: ngành y tế và ngành kinh doanh rượu. Khi buồn, bạn muốn uống rượu, khi vui bạn cũng muốn uống rượu. Khi buồn rầu người ta cần rượu để giải sầu, khi quá vui họ cũng cần rượu để ăn mừng. Bây giờ, bạn cần biết đức Phật đã dạy phải từ bỏ uống rượu. Theo quan điểm của y học, rượu cũng ảnh hưởng đến cơ thể và gây tổn hại đến sức khỏe của chúng ta. Nếu bạn hiện đang uống rượu, hãy cố gắng tư duy và giảm thiểu uống rượu. Nếu bạn không uống rượu thì rất tốt. Đặc biệt, tôi thấy giới trẻ phải học hành, do đó không uống rượu là điều rất quan trọng.
Một dịp nọ, có một bác sĩ và một bệnh nhân đến gặp tôi, và tôi đã nghe một chuyện rất buồn. Bác sĩ nói mới sáng hôm đó, bệnh nhân của ông vừa đi xét nghiệm và phát hiện mắc bệnh ung thư gan giai đoạn ba. Ngay lập tức một câu hỏi nảy sinh trong tâm tôi. Tôi hỏi, “Anh có uống rượu không?” Anh ta nói trước kia uống rất nhiều rượu. Quá trễ! Đã quá trễ rồi! Bấy giờ, tình huống đáng buồn đó không thể nào được cứu vãn bằng cách ngừng uống rượu. Trong cuộc đời tôi, tôi đã đi rất nhiều nơi để thuyết giảng. Đôi lúc tôi cũng giảng ở bệnh viện. Trong bệnh viện, điều tôi quan sát thấy là tình trạng sức khỏe của bệnh nhân không chỉ tác động xấu đến bản thân người bệnh mà còn ảnh hưởng xấu đến những thành viên trong gia đình họ. Chính vì vậy, nếu bạn có vấn đề gì về sức khỏe, việc đó sẽ ảnh hưởng đến gia đình của bạn. Do đó, sống lành mạnh là điều rất quan trọng. Để sống lành mạnh thì bạn cần làm gì? Tôi nghĩ trong vấn đề này, các bác sĩ sẽ đồng tình với tôi: từ bỏ uống rượu. Nếu bạn nghĩ uống rượu tốt cho sức khỏe thì hãy tận hưởng uống rượu. Khi tôi nói hãy từ bỏ uống rượu, có một người phụ nữ Trung Hoa nói với tôi cô ấy có thể bỏ rượu nhưng mỗi tuần cô ta phải uống ít nhất hai ly rượu vang, vì nó tốt cho tim! Tôi đã hỏi bác sĩ về vấn đề này, và các bác sĩ đưa ra nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên biết có những cách làm khác tốt cho sức khỏe tim mạch, uống rượu không phải là cách duy nhất. Có thể rượu tốt cho tim, nhưng cũng còn rất nhiều món khác tốt cho tim. Những người nghiện rượu thường lấy đó làm cớ để uống rượu. Nếu thật sự muốn làm gì đó tốt cho sức khỏe tim mạch thì bạn có rất nhiều cách chứ không chỉ là uống rượu vang đỏ. Chúng ta cần phải có sức khỏe tốt, và để có sức khỏe tốt ta cần ăn uống đúng cách. Ăn uống đúng cách tạo khác biệt rất lớn đối với sức khỏe thể chất của bản thân.
MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HÀNH PHÁP LÀ ĐỂ GIÚP BẠN TRỞ THÀNH MỘT NGƯỜI TỐT HƠN VÀ HẠNH PHÚC HƠN.
Trong năm ác nghiệp sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu, nếu bạn từ bỏ được cả năm điều thì rất tốt; nếu không thể từ bỏ hết thì ít nhất bạn phải cố gắng giảm thiểu. Từ bây giờ, bạn phải cố gắng thực hành như vậy. Dù bạn thực hành bất cứ giới nào trong năm giới, nó sẽ thay đổi bạn, giúp bạn trở thành một người tốt hơn và hạnh phúc hơn. Mục đích của việc thực hành Pháp là để giúp bạn trở thành một người tốt hơn và hạnh phúc hơn. Tôi hy vọng bạn sẽ thực hành những gì tôi đã nói. Nếu bạn thực hành thì chính bạn được lợi lạc chứ không phải tôi.
TƯ DUY VỀ NGHIỆP VÀ NGHIỆP QUẢ
Có khi chúng ta làm thiện nghiệp, và những lúc khác ta gây ác nghiệp. Vì sao chúng ta tạo nghiệp? Vì chúng ta nghĩ đến “bản ngã,” nghĩ đến “tôi” và “của tôi.” Hai tư tưởng này là động cơ gây ra thiện nghiệp và ác nghiệp. Bởi suy nghĩ về “tôi” và “của tôi” nên ta gây ra nhiều ác nghiệp, và cũng có lúc ta tạo thiện nghiệp khi suy nghĩ về “tôi” và “của tôi.”
Nhiều lúc ta làm rất nhiều thiện hạnh nhưng vẫn không thấy kết quả tích cực. Trong nhiều tình huống, ta không thể nhìn thấy những gì thật sự đang hiện hữu, và những gì ta nhìn thấy lại không có thực. Chúng ta không nhìn thấy hệ quả tích cực của thiện nghiệp vì ta không có khả năng nhìn nhận hoàn cảnh theo chiều hướng tích cực, thay vào đó ta nhìn nhận theo chiều hướng tiêu cực nhiều hơn. Vì vậy, nhiều lúc ta cảm thấy mình chẳng gặt hái được kết quả tích cực nào khi hành thiện nghiệp.
Thiện hạnh sẽ mang lại hệ quả tích cực, nhưng điều quan trọng nhất là khi những điều tích cực đến trong cuộc sống, ta phải nhìn nhận chúng một cách đúng đắn. Nếu không thể nhìn nhận hoàn cảnh theo hướng tích cực thì cho dù có rất nhiều điều tốt đẹp diễn ra trong cuộc sống, ta cũng không thể nhận ra bất cứ giá trị tích cực nào. Tôi luôn cảm thấy mọi sự việc xảy đến trong cuộc đời tôi đều tốt đẹp và tích cực, bởi tôi nhìn nhận chúng một cách khác biệt.
Tư duy về nhân quả sẽ giúp bạn rất nhiều về mặt tâm lý. Khi có điều gì tồi tệ xảy đến cho bản thân, tâm chúng ta sẽ nghĩ “tại sao, tại sao,” có quá nhiều nghi vấn tại sao: Tại sao nó xảy ra? Tại sao nó xảy đến với tôi? Quá nhiều thắc mắc như thế sẽ khiến bạn tổn thương nặng nề. Tuy nhiên, khi việc tốt xảy đến thì bạn lại chẳng bao giờ hỏi “tại sao?” Nếu bạn trúng số 100.000 USD thì bạn sẽ chẳng bao giờ tự hỏi “Tại sao tôi được trúng số?”
TƯ DUY VỀ NHÂN QUẢ SẼ GIÚP BẠN RẤT NHIỀU VỀ MẶT TÂM LÝ.
Khi điều tốt xảy đến, nếu bạn hỏi “Tại sao nó đến với tôi?” thì bạn sẽ vui sướng hơn vì cảm thấy mình may mắn. Khi có chuyện tồi tệ xảy ra trong cuộc sống, theo lẽ tự nhiên ta thường oán trách tại sao nó lại xảy ra với chúng ta như vậy. Nghĩ rằng những chuyện không hay là kết quả của nghiệp sẽ mang lại sự xoa dịu tâm lý. Nếu không nghĩ như vậy thì khi nghịch cảnh đến, bạn cứ hỏi đi hỏi lại “Tại sao nó xảy đến với tôi, tại sao không phải là người khác,” nhiều câu hỏi tương tự sẽ nảy sinh trong tâm và bạn sẽ càng căng thẳng hơn.
Hơn nữa, khi gặp khó khăn hay đau khổ, ta có thể nghĩ rằng những nỗi khổ đó đang tịnh hóa ác nghiệp của bản thân. Nếu nghĩ như vậy thì chúng ta thậm chí có thể tận hưởng nỗi đau. Điều quan trọng nhất là cách suy nghĩ này mang đến cho chúng ta sức mạnh tinh thần trong đời sống hàng ngày. Tôi vẫn thường nói rằng nếu có hy vọng thì có sự sống, nếu mất hy vọng thì bạn mất tất cả. Bạn phải tự khơi dậy niềm hy vọng trong cuộc sống và bằng cách thay đổi suy nghĩ, bạn có thể mang hy vọng đến với mình.
Niềm tin vào quy luật nghiệp và nhân quả mang đến cho chúng ta điểm tựa tinh thần khi phải đương đầu với khó khăn trong cuộc sống. Thêm vào đó, nếu thực hành từ bỏ ác nghiệp thì ta sẽ tích lũy được nhiều thiện nghiệp hơn. Khi thiện nghiệp tăng trưởng thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp và thuận lợi hơn.
THỰC HÀNH TỊNH HÓA ÁC NGHIỆP
Chúng ta đã phạm ác nghiệp nhiều lần trong cuộc sống. Không những trong đời này mà còn trong nhiều đời trước, ta đã phạm phải rất nhiều ác nghiệp. Bây giờ ta cần biết cách tịnh hóa ác nghiệp. Khi nói đến tịnh hóa ác nghiệp, điều đó có nghĩa là chúng ta tẩy trừ tập khí của ác nghiệp.
Trong cuộc sống, mỗi khi phát hiện bản thân đã làm điều sai trái, bạn cần tiến hành tịnh hóa. Rất nhiều người khi thấy mình phạm sai lầm vẫn không hối hận mà cố tình lờ đi, thậm chí họ còn hả hê với những điều sai trái mình đã làm. Là những người thực hành theo đạo Phật, chúng ta không được giống như vậy. Khi thấy lỗi lầm của bản thân, chúng ta phải rút kinh nghiệm từ lỗi lầm và ta phải tịnh hóa chúng.
Đôi lúc chúng ta cố tình phạm ác nghiệp, nhưng phần lớn ta phạm ác nghiệp mà không biết mình đang phạm. Vì vậy đức Phật đã dạy “Vô minh là khổ đau.” Tuy nhiên, trong tiếng Anh người ta lại nói vô minh là hỷ lạc, nếu bạn không biết gì cả thì sẽ hạnh phúc và sung sướng.
NẾU THỰC HÀNH TỪ BỎ ÁC NGHIỆP THÌ TA SẼ TÍCH LŨY ĐƯỢC NHIỀU THIỆN NGHIỆP HƠN. KHI THIỆN NGHIỆP TĂNG TRƯỞNG THÌ CUỘC SỐNG CỦA CHÚNG TA SẼ TỐT ĐẸP VÀ THUẬN LỢI HƠN.
Một lần khi tôi đang đi bộ trên một con đường ở Đài Bắc thì thấy một người phụ nữ lớn tuổi đang bán vé số. Lúc đó, bà ấy đang ngủ gật. Tôi cảm thấy thương bà ấy và nói với học trò tôi hãy mua vé số của bà. Học trò tôi đã trả khoảng 2-4 USD cho một tờ vé số. Khi mua giúp bà ấy một tờ vé số chúng tôi cảm thấy rất hạnh phúc. Khi về nhà, học trò tôi dò số ngay và phát hiện trúng thưởng 25 USD. Sau đó, tôi nghiệm ra rằng người phụ nữ đó cầm trên tay xấp vé số có chứa một giải thưởng 25 USD nhưng bà ấy vẫn không hay biết. Trong tay bà có thể còn có những tờ vé số may mắn khác, giải thưởng lên đến hàng trăm ngàn USD. Tuy nhiên, bà ấy không thể nắm bắt thời cơ chỉ vì vô minh. Lúc đó, đột nhiên tôi nhớ đến lời Phật dạy: “Vô minh là khổ đau.” Ở Đài Bắc họ từng kể tôi nghe một chuyện rất buồn cười. Trong một đợt xổ số, giải độc đắc trị giá đến 10 triệu USD. Họ nói rằng người trúng giải độc đắc vẫn lại trở thành người nghèo vài năm sau khi trúng số. Đó thật sự là cách nghiệp vận hành, dù họ trúng số độc đắc nhưng sau đó vẫn lại trở thành người nghèo. Họ nói chuyện đó diễn ra khá thường. Ngài Tịch Thiên đã nói, “Chỉ có đức Phật thấu triệt toàn bộ về nghiệp. Những kẻ khác không thể hiểu được cách nghiệp vận hành.”
Bây giờ chúng ta nói về cách tịnh hóa ác nghiệp thông qua thực hành tịnh hóa Kim Cang Tát Đỏa (Vajrasattva). Có hai cách thực hành: cách thực hành ngắn và cách thực hành dài. Ở đây tôi sẽ hướng dẫn cách ngắn gọn và dễ thực hành.
- Bước 1: Bạn phải sinh lòng hối cải về ác nghiệp đã phạm, dù vô tình hay cố ý. Đồng thời bạn tự hứa với bản thân là mình sẽ không tái phạm nữa, và bạn phải cố gắng hết sức không tái phạm ác nghiệp đó nữa.
- Bước 2: Bạn cần trì tụng thần chú Kim Cang Tát Đỏa để tịnh hóa ác nghiệp: OM BENZA SATTO HUNG (hoặc OM VAJRASATTVA HUM). Bạn có thể tụng ba lần, bảy lần hoặc nhiều hơn tùy theo ước muốn. Bạn cần quán tưởng đức Kim Cang Tát Đỏa trong khi tụng thần chú.
Nếu không quen thuộc với việc quán tưởng đức Kim Cang Tát Đỏa thì bạn có thể quán tưởng đức Phật Thích Ca, và bạn cũng có thể tụng chú của Phật Thích Ca: OM MUNI MUNI MAHA MUNI YE SOHA. Nếu không quen thuộc với việc quán tưởng Phật Thích Ca thì bạn có thể tụng Bát Nhã Tâm Kinh. Nếu không quen tụng Bát Nhã Tâm Kinh thì ít nhất bạn có thể cầu nguyện với đức Phật Thích Ca để tịnh hóa mọi ác nghiệp của mình. Đây là cách tịnh hóa ác nghiệp ngắn gọn và dễ thực hành.