Thừa dịp họ Hồ cướp ngôi nhà Trần, để mất lòng dân, nhà Minh vin cớ "diệt Hồ phù Trần" đưa quân sang Đại Việt, đánh thắng nhà Hồ, diệt luôn nhà Hậu Trần rồi trắng trợn biến giang sơn Đại Việt thành quận huyện của Trung Quốc. Bọn bành trướng cai trị hà khắc, bóc lột thậm tệ và đàn áp những cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm của dân ta vô cùng dã man.
Nhưng, đạo trời lồng lộng, lòng dân như biển cả, bàn tay không thể vét cạn nước đại dương; ngọn gió khởi đầu chưa tan hết, ngọn gió khác đã nổi lên.
Họ Lê ở đất Lam Sơn, Thanh Hoá nổi tiếng trọng nghĩa khinh tài; đời nọ tiếp đời kia, trong nhà luôn luôn có trên hai nghìn thực khách, chẳng khác gì Mạnh Thường Quân ở nước Tề thời Chiến quốc. Lê Lợi là người hùng tráng, hiên ngang, nung nấu chí hướng khác đời; ông không màng thứ danh vọng phú quý tầm thường, nhưng vâng theo lời các bậc tôn trưởng trong vùng, ông nhận làm phụ đạo Lam Sơn để truyền dạy chữ nghĩa đạo lý thánh hiền và bảo ban con em điều hay lẽ phải ở đời.
Một hôm, Lê Lợi đang ngồi đọc sách thì Thăng Khánh một gia nhân tín cẩn của họ Lê vào báo:
- Bẩm ông. Có một người chạy rẽ lên Đồi Đá, chạy té lên núi Lam rồi chạy vào chân núi Dầu, miệng kêu "Ông đạo Cham, cứu tôi với".
Lê Lợi lia sách lên bàn, đứng dậy, trừng mắt nói:
- Việc khẩn cấp mà mi dài dòng! Người ấy đâu?
Thăng Khánh không đáp mà mách nước cho chủ:
- Tôi nghi là gian tế! Hãy trói nộp cho huyện quan. Đó cũng là cớ mua lòng tin của bọn quan lại.
Lê Lợi cố dằn cơn giận:
- Mi có phải người nhà ta không? Trong lúc người ta nguy cấp đã không cứu lại tính chuyện làm hại thì còn gì bất nhân hơn.
Thăng Khánh không chịu, vì cớ anh đưa ra cũng không phải không đáng theo, anh nói:
- Nhưng mà...
Lê Lợi ngắt lời:
- Làm một việc mà để lương tâm phải áy náy thì không phải là trí dũng - Ông phẩy phẩy tay nói tiếp: - Ra dẫn ông ta lên đây!
Thăng Khánh chưa kịp đi thì một thanh niên cao lớn từ ngoài bước vào. Anh ta quan sát hai vị chủ nhà người nào cũng cao lớn hiên ngang, nhưng tiến lại gần Lê Lợi - người có dáng chững chạc, đường hoàng. Anh ta chắp tay, cúi đầu làm lễ.
Lê Lợi đáp lễ, hỏi:
- Ông gặp chuyện gì?
Khách ngẩng đầu lên, nhướng mày nhìn chủ đáp:
- Tri châu Lương Nhữ Hốt đang dẫn lính đuổi bắt tôi!
Lê Lợi nhìn dáng khách khi nguy cấp mà vẫn mạnh mẽ đàng hoàng, ông ngắm tiếp khuôn mặt vuông, đôi mày xếch... chỉ có thế mà ông đã đem lòng quý trọng ngay. Ông chưa có phản ứng tiếp thì chợt nghe tiếng xôn xao dưới chân đồi. Ông chỉ tay về phía rừng lim, bảo Thăng Khánh:
- Dẫn ông này vòng ra sau, tạm ẩn trong kho cỏ ngựa, nhớ soạn cơm rượu chu đáo.
Ông khách đi, vẫn cố ngoái đầu tự giới thiệu:
- Thưa minh chủ! Đệ tên là Trần Lựu!
Lê Lợi vừa gật đầu vừa xua tay ra hiệu "Lánh mặt mau lên" nhưng lòng ông lại nảy nở niềm hân hoan mới. Người khách lạ đã gợi trong ông một ý tưởng mới: "Minh chủ". Vậy thì tấm lòng lo nghĩ vì dân vì nước của ông đã được các hào kiệt trong thiên hạ chiếu cố rồi chăng? Ông chưa kịp tìm ra lời giải đáp thì Lương Nhữ Hốt bước vào nhà.
Lương Nhữ Hốt người Hoàng Hoá theo giúp giặc Minh có công, được nhà Minh cho làm tri phủ Thanh Hoá. Hắn mặc phẩm phục may bằng đoạn màu lục, chân đi hài cong mũi, hông đeo trường kiếm nên trông vừa có vẻ văn vừa có vẻ võ.
Chủ nhà tiến ra chào:
- Được đại quan quá bộ tới tệ xá, tôi không kịp nghênh đón. Đại tội, đại tội! Xin đại quan lượng thứ!
Lương Nhữ Hốt biết Lê Lợi là hào kiệt vùng Lam Sơn được mọi người vị nể, nên vẫn ngầm có ý lôi kéo ông làm vây cánh, nhưng chưa có dịp thuận tiện. Hôm nay hắn đi kinh lý qua sông Chu, gặp một khách tráng kiện ở bến đò Mục đi lên. Hốt toan giữ lại căn vặn thì người này chui vào rừng lẩn mất; hắn cho lính hỏi dò rồi theo hút tới Lam Sơn.
- Có một tên cường đạo chạy vào đây!
Lê Lợi làm mặt nghiêm, hỏi lại:
- Ngài nghi nhà Lê Lợi này chứa bọn trộm cướp trốn chạy chăng?
Lương Nhữ Hốt cười nhạt, một tay ấn đốc kiếm, một tay xua xua:
- Đâu dám nghi bừa. Nhưng, có một tên gian vừa chạy qua đường thượng đạo(1).
Lê Lợi chìa tay mời khách ngồi xuống ghế, gọi người nhà pha chè. Ông muốn lấy "việc hoãn" để kìm bớt "tính cấp" của khách:
- Hàng ngày trên con đường thượng đạo dưới chân núi nhà tôi có mấy khi ngớt người qua lại: người lên nương, thợ săn, khách buôn... Mà có đúng gã ấy là kẻ gian thì ngài cũng chẳng nên tốn công vô ích. Nó đã lẩn vào rừng thì chỉ có cách Trùng Nhĩ tìm Giới Tử Thôi(2).
(1) Đường thượng đạo là đường đi theo triền núi. Con đường thượng đạo qua Lam Sơn có thể đi tới Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá (Bình Trị Thiên).
(2) Giới Tử Thôi thời Chiến Quốc có công tòng vong nhưng khi Trùng Nhĩ lên ngôi vua nước Tấn, ông không chịu ra làm quan cõng mẹ vào núi ở ẩn. Trùng Nhĩ sai người tìm không được liền cho đốt rừng khiến Giới Tử Thôi không có chỗ trốn phải chạy ra. Thôi và mẹ không ra, chịu chết cháy trong rừng.
Lương Nhữ Hốt gật đầu, hắn chuyển sang đề tài khác hấp dẫn hơn:
- Phủ Thanh Hoá ta còn một huyện bỏ ngỏ. Biết ông phụ đạo Cham là người giỏi lại có lòng với dân, tôi muốn mời ông ngồi vào ghế đó.
Lê Lợi xoa hai lòng bàn tay vào nhau tỏ ý cảm kích nhưng trong đầu lại dấy lên ý nghĩ: "Mi toan dùng chiếc lồng sơn son để nhốt con đại bàng chăng?".
- Lợi này đội ơn quan tri phủ chiếu cố nhiều lắm. Nhưng, không có công mà nhận thưởng há chẳng phải là tham lam quá sao. Lợi xin mang ơn bề trên nhưng không dám vâng lời.
Lương Nhữ Hốt cố nài:
- Vinh thân phì gia là điều trang nam nhi nào cũng phải tính tới. Ông đạo Cham thử nghĩ lại xem, ở đời này dịp may chỉ đến với ta vài lần.
Lê Lợi nắm hai bàn tay làm lễ tạ ơn. Nhưng bụng thầm đánh giá: “người quân tử làm việc hay kẻ tiểu nhân nói điều dở”, ta đâu phải hạng gọi thì đến đuổi thì đi. Tuy nung nấu ý nghĩ cương cường, ông vẫn ôn tồn đáp:
- Lợi không dám ngưỡng vọng sự cao xa, chỉ mong ngày cơm hai bữa, hè mặc áo đơn, đông mặc áo bố. Thế là ung dung nhàn nhã, không phải bận tâm lo lắng điều gì.
Lương Nhữ Hốt biết không thể ép, lấy lễ chủ khách cáo lui. Lê Lợi sai mang đôi ngà voi tặng quan chủ và thân tiễn xuống tận chân núi rồi tiện đường rẽ sang rừng lim, vào kho cỏ thăm ông khách mới tới.
Trần Lựu ngồi trước mâm cơm rượu chiêu đãi, chiếu là cỏ ngựa trải trên nền đất, mâm là lá chuối cắt vuông... tuy không thịnh soạn nhưng cũng không cẩu thả đối với khách giang hồ: chai rượu, gà luộc để cả con, bát canh bí xanh, đĩa cá kho và một chén muối. Khách đáng gậm cẳng gà thì chủ vào lên tiếng sang sảng:
- Chốn núi rừng hoang vu, vật mọn lòng thành, mong Trần đệ chớ phiền - Thấy khách đặt đùi gà xuống đĩa, toan lau tay làm lễ, chủ vội xua tay gàn: - Đừng! Đừng! Huynh xin ngồi tiếp rượu Trần đệ.
Thế là rượu cả bát, thịt gà cả đùi, chủ khách vui vẻ nói cười như từng quen nhau từ lâu.
Trần Lựu bộc bạch tâm sự:
- Năm Mậu Tý (1408) đệ đến bản doanh đại tướng quân Đặng Tất(1) toan xin đầu quân góp sức ong kiến đỡ Thái Sơn, nhưng nghe ngóng thì biết vua Giản Định chí khí tầm thường; không có cái đức của vị vua sáng nên lại bỏ đi; nhờ thế mà thoát được nạn "tướng quân hàm oan, kẻ giặc cả cười". Đệ thất chí, làm nghề chài lưới qua ngày, nay hạ nguồn mốt thượng nguồn, lấy thuyền làm nhà, lấy lưới làm bạn.
(1) Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là hai vị tướng giỏi giúp vua Giản Định liên tiếp đánh thắng quân Minh. Vua Giản Định nghe lời gièm pha giết chết cả hai vị tướng giỏi của nước mình.
Lê Lợi tán thưởng:
- Phải lắm! Con chim khôn chọn cây mà đậu. Trượng phu ở đời đâu dễ phí hoài tấm thân hữu dụng. Còn lửa thì lo gì không có củi chụm
Trần Lựu đặt bát rượu xuống nói:
- Một hôm, đệ ngược dòng sông Luông sang tận Sầm Nưa. Gặp tù trưởng Bồ Sát đi săn bị hổ đuổi giữa rừng, đệ giết hổ cứu được Bồ Sát. Bồ Sát xin được thắt chỉ cổ tay kết làm anh em và hỏi chuyện. Đối với người Lào khi đã kết "xiều" thì có thể bộc bạch mọi chuyện. Đệ giãi bày tâm sự.
Nghe đệ kể xong, Bồ Sát trợn mắt ngạc nhiên kể mà như hỏi:
- Đã có Lam Sơn sao mày mù? Lam Sơn có ông đạo Cham sao mày điếc? Còn dân Lào tao ở đây có thằng Trịnh Đồ, Trịnh Khả nhìn biết, nghe thấy đấy. Bọn nó vốn là người Việt chạy loạn Minh. Biết vậy, đệ liền trở về nước, rời thuyền, bỏ lưới lên rừng làm thợ săn. Quả là nước ngăn giọng nói, lá cây đưa tiếng người, qua phố chợ qua bến sông... được nghe lời lan truyền Minh chủ là người trượng nghĩa khinh tài...
Lê Lợi xua tay ngắt lời:
- Đệ quá khen, ta đâu được thế.
Trần Lựu khảng khái đáp:
- Việc mọi người biết, đệ biết là lẽ đương nhiên - Ông chuyển giọng nói tiếp – Nhìn một nhà biết trăm họ. Nước đang trên lò than, dân đứng chênh vênh bên vực thẳm, quả không thể chần chừ.
Lê Lợi đặt bát rượu, bụng nghĩ: người đã giết được hổ hẳn tài nghệ không thể tầm thường. Ông ấn nắm tay xuống cỏ thành thật đề xuất:
- Lợi này cũng có ý đó, hiềm vì vây cánh chưa thành, lại chưa biết lòng trời hướng vào ai nên không dám khinh động. Nhà ta có vài nghìn nông phu, chọn ra cũng được mấy trăm tráng đinh. Cũng đã cử người săn sóc, nhưng người chỉ huy chí sơ, tài mỏng, chưa làm được mấy việc, Trần đệ có thể giúp gì được chăng?
Trần Lựu rót hai bát rượu đầy, bưng đưa Lê Lợi một bát, tự cầm một bát nâng lên, khảng khái đáp:
- Đệ biết đôi chút võ nghệ, nếu Minh chủ không chê đệ xin nhận thao luyện anh em tráng đinh ấy.
Lê Lợi vui vẻ bảo:
- Quả là đại trượng phu không thèm làm việc nhỏ. Ngày mai Trần đệ hãy vào rừng sâu tìm bãi phẳng để dạy bảo các tráng đinh.
*
Lê Lợi kết thân với Nguyễn Thận phụ đạo sách Mục Sơn và Lê Lai phu đạo làng Dựng Tú không những hoài bão giống nhau mà còn có duyên phận vua tôi lưu tiếng muôn đời. Nguyễn Thận là người có chí khí, ít nói nhưng nói lời nào đích đáng lời ấy. Lê Lai là bậc hào kiệt, tính cấp đã muốn làm gì là làm ngay và làm đến cùng. Ba ông thường gặp nhau bàn soạn việc nhà, việc nước... từ đó hình thành nhóm Lam Sơn - một trong số tổ chức nòng cốt tiền khởi nghĩa Lam Sơn.
Hôm nay, ba người hào kiệt đất Lam Sơn ngồi uống rượu dưới gốc cây cổ thụ trên đỉnh núi Dầu Bàn là gốc cây, ghế là những tảng đá xù xì. Những khi gặp chuyện bức bối, họ thường ra đây đón không khí thoáng mát và cho tầm mắt thoả sức bay xa.
Lê Lợi ngắm địa thế mảnh đất căn bản của mình, nhận xét:
- Đầu gối núi Dầu,
Chân đạp sông Chu!
Lê Lai tợp nhanh chén rượu, ông dằn mạnh chén xuống gốc đa, chỉ tay xuống đất nói như ngâm thơ:
- Lam Sơn làm nguồn.
Nguyễn Thận tủm tỉm cười, ông xoay xoay chén rượu rồi hất hàm về hướng Nam - nơi con sông Chu uốn khúc chảy quanh, ngâm:
- Sông Chu làm mạch!
Lê Lợi giơ thẳng tay chỉ trời xanh như vẫy gọi:
- Đại Việt cháu con!
Đuổi ngay giặc Khách!(1)
(1) Danh từ Khách hoặc Ngô... là danh từ riêng chỉ người Trung Quốc.
Lê Lai chuyển đề tài, một đề tài khiến ông bực tức phải rủ Nguyễn Thận sang gặp "huynh trưởng" uống rượu giải toả nỗi uất ức đến bầm gan tím ruột:
- Thằng Mã Kỳ sang bày đặt đủ thứ thuế: Thuế bằng gạo, thuế bằng vàng, thuế bằng ngọc trai, thuế bằng tơ lụa, thuế bằng ngà voi, thuế bằng quế, thuế bằng muối, thuế bằng... Chà! Chà! Bây giờ đến thứ thuế bằng người - Ông ngừng lời, đấm xuống gốc cây nói tiếp: Thằng tri huyện Đỗ Phú vừa cho lính về dán cáo thị ở Dựng Tú nói: Thanh Hoá dân thưa nên cứ hai suất đinh phải nộp một người ra lính.
Nguyễn Thận nén tiếng thở dài, tiếp lời:
- Bên tôi cũng vậy! Cứ nông nỗi này rồi đến lúc làng xóm chẳng còn lấy một tráng đinh cày ruộng.
Lê Lai gõ gõ chén xuống gốc cây đề xuất ý khác:
- Danh lợi là chuyện nhỏ, đạo lý là việc lớn. Chẳng lẽ bàn tay không che nổi mặt trời?
Lê Lợi cười bảo:
- Có thể một giọt nước không làm nên biển Đông. Nhưng, một tàn than tí xíu mà khéo thổi thì có cơ gây nên đám cháy lớn. Tiếc rằng ngu huynh chưa biết lòng dân hướng vào ai!
Lê Lai đang cúi đầu ngắm rễ cây bỗng ngẩng phắt lên hỏi:
- Đại huynh có cách gì hay?
Lê Lợi trầm ngâm giây lát rồi đáp:
- Một cây làm chẳng nên non. Dù bầu máu nóng của chúng ta có thể làm sôi dòng nước sông Chu, nhưng đánh hổ phải dùng anh em ruột, nếu không tập hợp, liên kết được hào kiệt bốn phương thì cũng chẳng thể làm nên chuyện gì. Đã đến lúc chúng ta mở rộng địa bàn vận động, tôi lo mạn Bái Thượng, chú Thận chu toàn vùng Nga Lạc, chú Lai quán xuyến miệt Chí Linh. Ông ngừng lời, rót rượu vào chén cho hai bạn, nói tiếp: - Vừa rồi, có một tráng sĩ tên là Trần Lựu xin nhập trại Lam Sơn. Hôm nay, Trần đệ đang bận thao luyện tráng đinh nên không được kiến diện hai chú.
Lê Lai sốt sắng:
- Được đại huynh gọi là tráng sĩ lại giao cho việc huấn luyện tráng đinh hẳn phải là người có dũng lực.
Lê Lợi cười hỏi:
- Tài thị tài, khí tức khí chứ gì? Chú thì tôi chưa biết thủ đoạn cao cường đến đâu, nhưng Trần đệ đã từng giết hổ cứu tù trưởng Bồ Sát. Đó là một hảo hán có thể tin cậy.
Nguyễn Thận đỡ lời:
- Chúng ta tụ hội để lo việc lớn chứ đâu vì sự phân biệt cao thấp. Nhưng, dù sao cũng phải làm lễ tương kiến.
Việc đó qua đi mấy ngày. Một hôm Lê Lợi đứng trên núi Dầu, phóng tầm mắt dõi hòn Mục Sơn mờ trong sương, ông chợt thấy lòng mình bồn chồn xao động. Ông lững thững trở về nhà, tự hỏi: "Điềm gì đây?".
Ông ngồi xuống ghế, băn khoăn không tìm ra lời giải đáp cho tâm trạng khác lạ của mình. Vừa lúc ấy, Nguyễn Thận vai vác một bọc dài sải bước tới nhà. Thận đặt bọc lên bàn, nét mặt nghiêm trang bảo:
- Đại huynh hãy đốt hương! Có lý đi khắp thiên hạ, vô lý một bước không qua.
Lê Lợi không hiểu Thận có ý tứ gì, nhưng cũng làm theo.
Khi khói hương đã nghi ngút khiến cả hai cùng ngây ngất vì mùi trầm, Thận mở bọc lấy ra một lưỡi kiếm sáng lóng lánh, hai chữ Thuận Thiên nổi lên như hình rồng cuộn. Thận trịnh trọng đặt lưỡi kiếm trên chiếc đĩa lớn, nói:
- Trời trao mệnh lớn. Không một ai bằng đại huynh, xin nhận lấy.
Lê Lợi thoáng thấy lòng mình thanh thản, tâm trạng bối rối lúc nãy tự dưng không còn. Tuy vậy, ông vẫn hỏi:
- Hiền đệ hãy cho ta biết ngọn nguồn!
Thận đáp:
- Sáng nay đệ ra sông Chu kéo lưới. Nhấc lưới lên thấy nặng ngỡ kiếm được cá lớn, nào ngờ vớ được thanh sắt gỉ. Đệ tức mình quẳng ra giữa sông rồi tiếp tục quăng lưới. Không ngờ lần này vẫn bị thanh sắt ấy ám. Đệ lại ném đi và tiếp tục quăng lưới. Lần thả lưới thứ ba vẫn chỉ có thanh sắt ấy vướng lưới. Ba lần đều thế, đâu còn là chuyện tình cờ. Đệ cầm thanh sắt lau vào lưới, chỉ hai lượt lau phải lau trái mà thanh sắt gỉ bỗng trở nên sáng loáng. Đệ nhìn kỹ thì nhận ra đó là lưỡi kiếm, hai chữ Thuận Thiên nổi lên màu vàng rực rỡ. Biết ý trời đã định, đệ mang đến đây ngay.
Lê Lợi mừng rỡ nói:
- Nếu quả lòng trời xui khiến thì giặc Minh sẽ bị quét sạch khỏi Đại Việt. Anh em ta hoạn nạn cùng chịu, phú quý cùng hưởng. Nhưng, kiếm không chuôi thì khác gì mũi tên thiếu cánh cung, ta chưa thể làm gì.
Nguyễn Thận đáp với vẻ mặt chắc tin:
- Trời đã định kế, ắt vẹn toàn trước sau.
Hai người đang bàn luận thì Trần Lựu từ dưới chân đồi chạy lên, tay bê một tráp sơn then. Lê Lợi cảm thấy có sự linh ứng, chưa kịp hỏi thì Trần Lựu đã thưa:
- Bọn đệ đào hố tập nhảy, bất ngờ bắt được vật này, vội mang về trình huynh trưởng.
Nguyễn Thận mở tráp, lấy ra một thỏi óng ánh màu sắc vàng son. Đó là chuôi kiếm có chữ "hành đạo" Thận cầm lưỡi "Thuận Thiên" tra vào chuôi "hành đạo" thì vừa khớp. Thận muốn rút lưỡi khỏi chuôi nhưng không sao rút nổi.
Lê Lợi cầm thanh kiếm Thuận Thiên giơ lên cao nói:
- Thượng đế trao sứ mạng "Thuận Thiên hành đạo" cho đất Lam Sơn ta. Chư đệ cùng Lợi này cần gắng sức để khỏi đắc tội với Trời - Ông ngừng giây lát rồi nói tiếp: - Vậy là ta có niềm tin để khởi sự.
*
Trên đỉnh đồi Lam thấp thoáng sau những cây đa cổ thụ cành lá um tùm xanh tốt là toà nhà đồ sộ tường xây đá xanh, mái lợp ngói đỏ, hai dãy nhà bên như hai tay ngai tạo ra vẻ bề thế của toàn cảnh.
Từ con đường thượng đạo chạy qua chân đồi, Đinh Liệt vác trên vai con hươu nặng hàng tạ, theo các bậc lát đá phăm phăm bước lên đỉnh đồi. Ông hất con hươu máu còn chảy ròng ròng bên mang tai xuống mảnh sân lát đá phiến, chống tay nạnh hông quan sát, nghe ngóng tứ phía.
Thăng Khánh từ con đường chạy qua thung lũng hẹp sau toà nhà chính hộc tốc chạy lên, vừa thở vừa chắp tay thi lễ:
- Đệ chào cậu Đinh! - Anh giơ tay ra sau gãi gáy phân trần: - Ông chủ lên bãi tập gặp tráng đinh, các bà chủ xuống ruộng lúa chiều tối mới về. Cậu có sai bảo đệ gì không?
Đinh Liệt chỉ con hươu nằm chềnh ềnh trên sân, nói:
- Tớ đi qua khu rừng Bái Thượng thấy chú ta đứng ngơ ngác, liền lượm hòn đá ném chơi, không ngờ trúng chỗ phạm cu cậu lăn ra chết. Cũng là hay, tự dưng tớ có thứ làm lễ ra mắt thầy trò anh.
Thăng Khánh nheo nheo mắt đánh giá vật săn rồi nức nở:
- Cậu thực là trang dũng sĩ, chỉ bằng hòn đá mà hạ được một con hươu to tướng!
Đinh Liệt cười:
- Đừng có bẻm mép khen phò mã tốt áo. Chủ anh đi vắng thì tôi giao việc cho anh: chuẩn bị củi đóm, ống nấu cơm lam, rượu... đặt ở góc sân kia. Từ sáng đến giờ chưa có chút chi vào bụng đây.
Thăng Khánh đi lo chuẩn bị các thứ; Đinh Liệt ngồi chống gối trên bậc hè nghĩ vu vơ.
Đinh Liệt tới đây từ vùng Ngàn Nưa – nơi sinh ra bậc nữ lưu kiệt hiệt Triệu Trinh Nương, cha ông là thái uý Đinh Tôn Nhân - hậu duệ Đinh Tiên Hoàng. Thời kỳ nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi, thái uý Đinh Tôn Nhân từ quan, rời dinh thự ở Đông Đô(1) lánh vào miền Ngàn Nưa ở ẩn. Khí vận nhà Trần đã hết, không ai có thể chống lại thiên mệnh. Khi giặc Minh cướp nước ta, thái uý Đinh không thể yên tâm ở ẩn "quốc gia nguy biến, thất phu hữu trách". Ông vận động đồng liêu thời Trần, bạn bè, thông gia... như tiến sĩ Trần Lân, đô uý Trần Quốc Đạt, Hàn lâm viện thừa chỉ Hồ Tông Thốc, Bùi Quốc Hưng, Ngô Sĩ Liên, Lý Sát, Ngô Từ, Nguyễn Lý và Nguyễn Nhữ Soạn - anh và em cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi, cả thảy bốn mươi người thành lập Nhóm Mỹ Thuỷ do Đinh Tôn Nhân làm chủ tướng, ngấm ngầm chuẩn bị các điều kiện khởi nghĩa. Thái uý Đinh Tôn Nhân có hai vợ. Bà cả là quận chúa Trần Thị Ngọc Huy con gái thân vương Trần Nhật Duật, sinh hai con: Đinh Lễ, Đinh Bồ. Bà thứ là Lê Thị chị ruột Lê Lợi, sinh ra Đinh Liệt. Kể về huyết thống thì chỉ có Đinh Liệt là cháu Lê Lợi, nhưng Đinh Lễ và Đinh Bồ quý Lê Lợi nên coi ông như cậu mình. Tuổi họ xấp xỉ nhau, Lễ và Bồ có phần nhỉnh hơn dăm tuổi nhưng vẫn xưng hô cậu cháu phân miêng.
(1) Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, đều là tên xưa của Hà Nội.
Đinh Liệt đối với Lê Lợi ngoài tình thân cậu cháu, còn có tình đồng chí nung nấu một hoài bão giúp đời, khai sáng nghiệp lớn.
Chủ tướng Đinh Tôn Nhân từ trần. Việc suy tôn thủ lĩnh kế vị trở thành vấn đề có ý nghĩa quyết định sự tồn vong của tổ chức. Sự thất bại của nhà Hồ do vua không được dân tin phục, cơ ngơi nhà Hậu Trần tan nát là do nhà vua thiếu sáng suốt, không biết dùng người... các sự kiện đó đã đem lại cho nhóm Mỹ Thuỷ bài học xương máu. Nhiều vị lão thành, nhiều bậc tuấn kiệt trong nhóm như Bùi Quốc Hưng - anh rể Lê Lợi, Ngô Từ - cháu rể Lê Lợi, Lý Sát, Nguyễn Lý, Nguyễn Như Soạn đề xướng sự hợp nhất và suy tôn Lê Lợi làm minh chủ, nhưng vẫn còn nhiều người chưa tỏ rõ thái độ.
Hôm nay, Đinh Liệt tới Lam Sơn vì ý tưởng hợp nhất và tôn phò.
Lê Lợi về quần ống thấp ống cao, chân đi dép da voi, tay cầm trường kiếm, trông thấy Đinh Liệt, ông chống kiếm nhìn với vẻ ngạc nhiên. Hôm sang dự lễ an táng anh rể, những người trẻ tuổi như ba anh em họ Đinh, Bùi Quốc Hưng, Nguyễn Lý, Lý Sát và Trương Chiến chủ động gặp ông bàn chuyện hợp nhất. Ông cho rằng lúc này tính chuyện hợp nhất là quá sớm vì chưa rõ ý chí của các vị lão thành có danh cao đức trọng. Có thể các vị trọng thần của triều đại cũ không chịu ngồi dưới trướng của một gã phụ đạo vô danh tiểu tốt. Cuối cùng, những người trong nhóm trẻ tuổi phải nhượng bộ chờ chín mùi để tránh sự rạn nứt. Vậy, hôm này Đinh Liệt đến có việc gì?
Đinh Liệt làm lễ bái kiến, kể chuyện bất ngờ bắt được con hươu rồi loay hoay không nói gì thêm.
Lê Lợi nhìn chằm chằm người cháu cao lớn hỏi:
- Hẳn có việc quan trọng?
Đinh Liệt gật đầu, tay cầm sừng con hươu kéo ngược đầu con vật lên, miệng đáp:
- Từ sáng đến giờ cháu chưa được ăn gì. Hễ đói là cháu chịu chết không còn nhớ việc nào ra việc nào.
Lê Lợi dộng kiếm cười lớn. Tiết Nhân Quý đời Đường ăn một đấu gạo mang một cây gỗ, ăn hai đấu gạo mang hai cây gỗ, ăn ba đấu gạo thì kẹp nách bốn cây gỗ, chạy băng băng. Bậc tráng sĩ không lấy ăn làm thượng đế nhưng đói bụng thì cũng yếu hèn như kẻ tầm thường khác. Ông đưa mắt thấy Thăng Khánh khệ nệ bê ra đủ thứ củi, rượu, gạo... liền hất đầu "A" một tiếng rõ to... Ông vung kiếm chém một nhát đứt phăng một đùi hươu rồi ngoảnh lại bảo người gia nhân:
- Nổi lửa to lên! Đói mà uống rượu nhắm thịt hươu nướng, ăn cơm Lam thì tuyệt - Ông nhìn Đinh Liệt bảo: Cháu đến chơi nhưng các mụ ra đồng cả... Cậu cháu ta đành tuỳ nghi hành sự - Ông chỉ con hươu còn ba chân nói với Thăng Khánh:
- Mang xuống bếp bảo nấu cho anh em tập võ. Ấ, ờ... chú mày chứ đâu phải bậc dũng sĩ này. Xuống bảo cánh nhà bếp lên khiêng về.
Một loáng sau, đống lửa đã cháy bập bùng, mùi thịt nướng bốc lên thơm phức. Đinh Liệt đang đói nên ăn như hùm, chỉ một thôi đã xơi hết gần nửa đùi hươu.
Lê Lợi đợi cho anh cháu háu đói lưng lửng dạ mới hỏi:
- Cháu đến có việc gì, nói đi?
Đinh Liệt ăn nốt mấy miếng thịt nướng, uống hết bát rượu đầy rồi gạt đám xương xẩu, xiên nướng cháy dở ra xa như gạt thứ chướng ngại:
- Thất bại của nhà Hậu Trần, và bao nhiêu cuộc nổi dậy tan vỡ, đều do không biết gom sức mạnh về một mối. Nhóm Lam Sơn, nhóm Mỹ Thuỷ, nhóm Đông Sơn... nếu chỉ hùng cứ một vùng thì đó không phải là sự may của đất nước. Tình hình có nhiều biến chuyển, bọn đô hộ đã bộc lộ hết mức tàn ác khiến kẻ hào kiệt bầm gan tím ruột và dân chúng sục sôi oán thù, những cuộc nổi dậy lẻ tẻ chứng tỏ điều đó. Đây chính là cơ hội cho bậc tôn trưởng ra tay. Việc hợp nhất các lực lượng đã trở nên cấp bách và việc tôn phù bậc minh chủ phải được đặt lên hàng đầu. Cháu và dăm người có uy tín ở Mỹ Thuỷ đã bàn bạc thấy không ai gánh vác nổi trọng trách khiển tướng điều quân bằng cậu. Theo cháu thì thế này, việc hợp nhất cứ phải tiến hành, nhưng để tránh khiên cưỡng ta chỉ tiếp nhận vào nhóm hợp nhất những ai tự nguyện.
Lê Lợi băn khoăn đặt vấn đề:
- Dù sao cậu cũng chỉ là một phụ đạo thôn phu, khó có thể khiến các bậc khoa bảng tin phục. Làm vậy gây ra sự chia rẽ bất lợi chăng?
Đinh Liệt lắc đầu, xua tay:
- Chọn chủ tướng không thể nhìn vào danh vọng và học vấn mà nhằm vào khí phách, tài năng và đức độ. Trên toàn cõi Đại Việt lúc này không còn một ai bằng cậu. Người thức thời mới đáng là hào kiệt. Thời cơ tới mà không nhanh chớp lấy, thời cơ qua đi bao giờ mới có lại. Việc cấp mà chần chừ là có tội. Cháu tính thế này: Trong lúc vẫn vận động hợp nhất, ta tiến hành ghi tên những người tình nguyện gia nhập nhóm Lam Sơn, khi có đủ thành viên cần thiết ta cử hành lễ ra mắt.
Lê Lợi gật đầu:
- Tuy còn có điểm nên cân nhắc kỹ. Nhưng lời cháu bàn thật đáng nên nghe. Vậy cháu thu xếp việc nhà rồi sang ở hẳn bên này làm thơ lại giúp cậu công việc sổ sách ghi tên người nhập hội.
Thăng Khánh hớt lẻo:
- Gia chủ được trời ban kiếm "Thuận Thiên hành đạo", việc lớn ắt thành.
Đinh Liệt ngớ người, chẳng hiểu gã gia nhân định ám chỉ gì. Lê Lợi kể lại việc được nhận kiếm.
Đinh Liệt mừng rỡ reo to:
- Người tính không bằng trời định. Trời đã đặt sứ mạng hành đạo cho cậu, hào kiệt nào mà chẳng nghe theo.
Lê Lợi, Lê Lai, Đinh Liệt và Nguyễn Thận trở thành bộ tứ lãnh đạo Lam Sơn thời kỳ tiền khởi nghĩa, thanh kiếm trời ban trở thành mệnh lệnh tập hợp anh hùng hào kiệt. Bùi Quốc Hưng, Ngô Từ, Lý Sát, Lê Ngân, Đinh Lễ, Lê Văn An, Lê Văn Linh lần lượt đến ghi tên, họ mặc nhiên trở thành Hội đồng mưu lược và chia nhau đi ở các vùng từ Thanh - Nghệ - Tĩnh đến mọi miền xứ Bắc động viên nhân dân hưởng ứng cuộc khởi nghĩa chống giặc cướp nước.
Lê Lợi, Đinh Liệt và Trần Lựu trụ ở cơ sở lo huấn luyện trai tráng công việc chiến trận và chuẩn bị hậu cần.
Một hôm, hai người ở biên giới Lào - Việt xưng tên là Trịnh Đồ, Trịnh Khả dẫn một con voi rất lớn đến Lam Sơn xin gặp trại chủ.
Lê Lợi sai Đinh Liệt xuống núi đón khách lên nhà khách.
Người xưng tên là Trịnh Đồ làm lễ tương kiến rồi thưa:
- Chúng tôi đều là người biên giới (Lào - Việt), bước chân từng qua ba sông năm núi hai nước; nghe tiếng phụ đạo Cham trượng nghĩa khinh tài, chuyên cứu khốn phò nguy nên dẫn nhau sang đây xin được đeo lù cở theo quân. Anh em tôi dâng một thớt voi chiến làm lễ ra mắt.
Lê Lợi nhìn hai Việt kiều. Người nào cũng cao lớn hùng tráng, Trịnh Đồ có dáng người nhanh nhẹn tháo vát, Trịnh Khả tỏ ra chững chạc thận trọng, họ đều nói thạo tiếng Lào và Việt. Ông mừng vì có thêm hào kiệt đến tụ nghĩa nhưng mừng hơn vì đây là chứng cớ chứng tỏ ảnh hưởng tốt của Lam Sơn đã loan xa. Ông vui vẻ đáp:
- Hai tráng sĩ có lòng yêu, Lợi này cảm kích vô cùng.
Đinh Liệt dò hỏi:
- Từ phủ Sầm - Nưa tới Lam Sơn không xa, nhưng cũng không thể gọi là gần, đường sá lại hiểm trở cheo leo, con chim nào dẫn đường cho hai tráng sĩ tới được đây?
Trịnh Đồ tinh ý nhưng không phải là người trí trá nên không hiểu ngụ ý trong lời nói thăm dò của Đinh Liệt. Ông trả lời bằng tấm lòng thành thật của mình:
- Tôi có người bạn tên là Trương Lôi, ông ta thường qua lại các vùng Lỗi Giang, Đông Sơn, Nông Cống buôn voi hoặc ngựa. Ông ta là mũi tên chỉ đường của tôi, nay mai bạn tôi sẽ tới đây.
Mắt Đinh Liệt sáng lên, ông đã có chứng cớ để tin:
- Ông Trương Lôi, buôn ngựa thường trú đêm ở nhà tôi - Ông ngưng giây lát như để suy ngẫm rồi đánh giá: Ông Lôi tuy là người buôn ngựa nhưng có khí phách của bậc trượng phu.
Trịnh Đồ hướng về phía Lê Lợi, chỉ Trịnh Khả nói:
- Tôi và Lôi là hạng tầm thường, chỉ có thể cầm roi đi theo ngựa, ông Khả đây mới là người đi trước ngàn vạn quân.
Lời giới thiệu ấy không ngoa. Trịnh Khả chào đời từ xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá. Năm mười sáu tuổi, Khả chăn trâu trên núi, đang ngồi nghỉ ở cổng chùa thì tổng binh Trương Phụ cưỡi ngựa đi qua. Phụ thấy tướng mạo kẻ chăn trâu sáng sủa, đường hoàng liền bắt về làm đày tớ. Qua mấy ngày tiếp xúc, Phụ nhận xét: “Đứa bé này hình rồng mắt hổ, khoẻ nhất ba quân, ngày sau tất cầm cờ mao tiết. Đuổi người Hán khỏi Giao Chân chính là nó”. Khả nghe kẻ thù đánh giá như thế biết có cơ nguy liền bỏ trốn. Tổng binh Trương Phụ không triệt được mầm hoạ bèn giết bố Khả để thị uy. Chí hướng “đền nợ nước trả thù nhà” ở Khả định hình từ đó. Sau này, Trịnh Khả là một bề tôi thân tín, một tướng thao lược của Lê Lợi; nhiều chi thuộc dòng họ Trịnh ở Thanh Hoá gắn bó với triều Lê suốt mấy trăm năm, nhất là giai đoạn Lê trung hưng “Vua Lê Chúa Trịnh”.
Trịnh Khả là người khiêm tốn, không sợ điều chê nhưng ngại lời khen, ông toan lên tiếng thì Lê Lợi đã ngăn lại:
- Tôi biết tráng sĩ định nói gì. Tôi kể chuyện này, tráng sĩ hãy nghe mà chớ bận tâm:
- Thời Tam Quốc, Khổng Minh là người tài cao chí lớn, nhưng nếu không có Từ Nguyên Trực tiến cử thì Huyền Đức làm gì có cơ may tìm ra bậc khai quốc công thần. Các tráng sĩ đã có lòng hạ cố, mong cùng gắng sức vì nghĩa cả. Gặp việc gấp gáp chớ nên câu nệ mà phải bộc lộ ngay. Ta muốn tráng sĩ cùng với Trần Lựu thao luyện các tráng đinh phép đấu võ, đánh trận.
Trịnh Khả cảm kích đáp:
- Anh em tôi nguyện xả thân vì sự nghiệp cao cả của minh công.
Lê Lợi cảm nhận đó là lòng thành. Ông muốn mở rộng ảnh hưởng nên gợi ý:
- Chúng ta đang thời kỳ xây dựng lực lượng. Tình thế trước mắt buộc chúng ta cần phải lo liệu khẩn trương để khi cơ hội vận động tới mới kịp có đưa ra dùng. Sự nghiệp chống quân Minh thì người Lào hay người Việt đều phải quan tâm như nhau. Ta muốn... - Ông chỉ Trịnh Đồ khi nói: - Tráng sĩ và Trương Lôi hãy trở về Lào, yết kiến nhà vua Lan Kham Đêng và các tù trưởng Ai Lao, Lão Qua, Vạn Tượng xin giúp đỡ nghĩa quân Lam Sơn vũ khí, ngựa voi, lương thực...
Trịnh Đồ vui vẻ nhận lời:
- Tôi đợi Trương Lôi đến để cùng đi! Tôi hứa sẽ đem về cho minh công sự giúp đỡ của Lào.
Mấy ngày sau khi Trịnh Đồ, Trương Lôi lên đường sang Lào, các anh hùng hào kiệt lục tục đến ghi tên ứng nghĩa: Lưu Nhân Chú, Nguyễn Lý, Nguyễn Nhữ Soạn, Trịnh Khắc Phục, Võ Uy, Lê Hiểm, Trương Chiến, Lê Bồi, Lê Liễu, tổng cộng trước sau gồm hai mươi hai hảo hán.
Trong đó, có cả Trịnh Nhữ Lương - thân phụ Trịnh Khắc Phục là cháu ruột bà Trịnh Thị Ngọc Thương - mẹ đẻ Lê Lợi.
Lê Lai gặp Lê Lợi nói:
- Anh em ta tụ hội tuy chưa nhiều nhưng cũng đủ làm nên việc. Muốn bắt tay vào việc lớn thì trăm người phải như một, đệ muốn tổ chức Hội thề để tạo ra sự gắn bó. ý huynh trưởng thế nào?
Lê Lợi đồng ý. Ông cho mời toàn bộ Hội đồng mưu lược đến để bàn sự khởi đầu hệ trọng ấy.
Lê Văn An hưởng ứng đề xuất của thủ lĩnh, ông nói:
- Thưa chủ tướng, thưa anh em! Đó là việc nên làm ngay! Ngày xưa Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi kết nghĩa vườn đào thề cùng sống cùng chết phò nhà Hán. Chúng ta cũng mở Hội thề quyết vì giang sơn Đại Việt mà quên mình.
Đinh Liệt đứng lên chắp hai tay đưa ngang tầm ngực, trịnh trọng nói:
- Thưa chủ tướng, thưa các bậc phụ huynh. Anh em ứng nghĩa tập hợp ở Lam Sơn có tới vài trăm người. Việc dự Hội thề không thể tham dự tất cả. Vì bí mật và ý nghĩa Hội thề chỉ nên giới hạn trong số hai mươi hai vị nòng cốt. Hiện nay có bốn vị đang bận việc, ở trại chỉ có mười tám vị. Tôi thiết nghĩ, dù thiếu cũng cứ nên mở Hội thề để còn lo việc khác.
Tất cả đều lên tiếng tán thành. Lê Lợi đứng dậy cắt đặt công việc:
- Anh em đồng lòng nhất trí như thế là điều tốt. Tôi giao việc: Lê Lai, Đinh Lễ lo tìm địa điểm và tổ chức buổi lễ. Lê Văn Linh soạn thảo văn thề. Buổi lễ Hội thề cần nghiêm trang nhưng không phô trương ồn ã.
Sau cuộc họp, ai việc nấy bắt tay vào làm ngay. Lê Lai chọn khu rừng Lũng Nhai hẻo lánh làm nơi mở Hội thề, Đinh Lễ dẫn hai chục tráng đinh đến đốn cây to, dọn cỏ san mặt bằng, đắp ụ đất, làm bàn thờ, cưa gỗ làm ghế ngồi.
Buổi sáng mùa xuân, năm 1416, Mười tám vị anh hùng hào kiệt Lam Sơn xếp hàng một trên bãi rộng trong khu rừng già Lũng Nhai, tất cả kính cẩn, nghiêm trang. Trước họ là bàn thờ cao ba thước, dài năm thước, rộng hai thước phủ kín giấy đỏ, bát hương đại đặt chính giữa, liền đó là thanh kiếm "Thuận Thiên hành đạo" sáng óng ánh, hai con hạc đồng chầu hai bên, kề đấy là nậm rượu, đĩa trầu cau, đĩa hoa quả, lễ tam sinh, một mâm xôi đầy và ba thẻ hương. Trên khoanh gỗ tròn to tày ôm tay cao chừng hơn một thước kê trước bàn thờ là vò rượu lớn và chiếc âu sứ thấp hình trụ màu da lươn.
Lý Vân - một tráng đinh tháo vát từ trong rừng đi ra tay cầm bùi nhùi lửa. Lê Văn Linh bước tới, tay nâng bản văn thề tiến lại đặt lên bàn thờ, nhón tay cầm thẻ hương dúi vào lửa bùi nhùi. Hương bén, ông kính cẩn cắm vào lư hương, vái ba vái rồi lui lại, nói to:
- Mời chủ tướng hành lễ!
Lê Lợi tiến lên đàn thề, ông thắp hương, mở nút rượu, lạy năm lạy rồi mở bài văn thề ra đọc:
"Nay phụ đạo chính ở lộ Khả Lam nước An Nam là Lê Lợi cùng bọn Lê Lai cho đến Trương Chiến mười tám người, kính dâng trầu rượu, hương đèn, máu tươi của hai mươi hai tấm lòng son, thành khẩn tâu lên đức Hiệu Thiên Thượng Đế, Hậu Thổ Địa Hoàng, các cấp Thượng, Trung, Hạ thần tiên cõi núi sông xã tắc, xin kính mời các Đức ngọc bệ, các vị Tôn thần tới đàn thề chứng giám lũ chúng tôi tuy họ hàng, quê quán có khác nhau. Nhưng đã kết nghĩa anh em thề cùng như chung một tổ. Phận vinh hiển dẫu có khác nhau nguyện tình cùng họ không bao giờ khác.
Nay nhân bọn giặc Ngô xâm chiếm nước Nam, tàn sát nhân dân rất là khổ sở nên Lê Lợi cùng là Lê Lai đến Trương Chiến là mười tám người chung sức đồng lòng, giữ vững đất nước, làm cho dân chúng được ăn ở yên lành, thề chết sống đều phải cùng nhau, không dám quên lời thề ước.
Chúng tôi cúi xin Trời Đất và các vị thần linh chứng giám ban cho trăm phúc, tự thân mình, nhà mình, con cháu trong họ hàng đều được yên vui, cùng hưởng lộc trời phúc đất.
Nếu Lê Lợi, Lê Lai cho đến Trương Chiến sinh lòng này khác tham cầu lợi lộc trước mắt, núp bóng quân thù, không còn cùng lòng, quên lời thề ước hôm nay, mang tim đen phản trắc thì kẻ đó sẽ bị Trời Đất, thần linh giáng cho trăm vạ tự mình, nhà mình, con cháu, họ hàng đều bị tru diệt, chịu hết hình phạt của trời”.
Tất cả đồng thanh: “Xin thề".
Sau khi đọc văn thề, Lê Lợi bê vò rượu đổ vào âu sứ. Ông giơ ngón tay trỏ lên trời đưa kiếm cứa mạnh đầu ngón tay khiến máu chảy thành giọt dài, cho máu chảy xuống âu rượu rồi lui xuống. Những người khác theo thứ tự đều làm như thế. Sau đó từng người lên uống máu ăn thề, bắt đầu là Lê Lợi thứ đến người khác, cuối cùng là Trương Chiến.
Sau Hội thề, Lê Lợi bảo chư vị huynh đệ:
- Than hồng đã nhen gây, việc thổi thành ngọn lửa lớn là cần thiết. Các bậc tôn trưởng, chư vị huynh đệ hãy trở về, toả đi các nơi vận động hào kiệt ứng nghĩa. Công việc ở căn cứ Lam Sơn, Lợi xin cùng bọn Đinh Liệt chu toàn.
Lê Lợi biết tài hậu cần của Ngô Từ nên mời ông ta cùng Đinh Liệt ở lại Lam Sơn để lo công việc. Ông gọi toàn bộ gia đình mình lên tuyên bố:
- Có chịu đắng cay, mới có ngày ngọt bùi. Ta xuất toàn bộ tài sản vào việc mua sắm lương thảo, rèn đúc vũ khí để lo việc nước. Nhà ta chỉ giữ số đủ ăn bình thường, còn bao nhiêu, không kể là thóc gạo, trâu ngựa hay vàng bạc đều giao cho Ngô Từ chi dùng vào việc quân.
*
Hà Gia Khánh bao tiêu đoàn ngựa thồ hàng từ Đông Quan vào bán cho mấy phủ huyện miền Trung, tới Thanh Hoá, Khánh chọn những vật phẩm quý hiếm mang đến biếu quan tri phủ sở tại. Hắn đi trước, hai phu khệ nệ khiêng hàng bước theo sau. Thấy có vật phẩm, lính canh cho khách qua cửa vào gặp quan trên ngay.
Tri phủ Lương Nhữ Hốt ngồi bệ vệ trước án thư kê giữa công đường, liếc nhìn sọt hàng lấp ló phía sau ông khách sang trọng, nhưng không tỏ thái độ hoan hỉ hoặc chán nản.
Hà Gia Khánh chắp tay thi lễ, nói rành rọt:
- Tiểu nhân là khách buôn ngoài Đông Quan, có vài vật mọn kính biếu đại nhân. Xin đại nhân che chở.
Khánh vẫy tay ra hiệu cho hai người phu khiêng sọt hàng lên, bày ra mâm để quan xem xét.
Lương Nhữ Hốt xua tay ra ý không cần làm như thế. Con chim đói háu mồi nhưng sợ tiếng dây cung rung hơn. Từ hôm lên Lam Sơn về, hắn bồn chồn không yên, hắn muốn tránh sai lầm "thấy lợi bất trí" - mối lợi làm u mờ trí khôn, hắn hiểu vị thế bấp bênh của mình. Hắn có công giúp quân Minh diệt nhà Hậu Trần nên được nhận chức tri phủ. Tưởng nhà Hậu Trần tan rã là có thể yên tâm ngồi chễm chệ trên ghế tri phủ hưởng vinh hoa phú quý; nào ngờ những cuộc nổi dậy chống ách đô hộ của nhà Minh vẫn không dứt hẳn. Lưu vực sông Hoàng Giang có dấu hiệu bất ổn; huyện miền núi Ngọc Ma phía Nghệ An xảy chuyện binh biến.
Hốt sai lính lấy ghế mời Khánh ngồi, tỏ vẻ ân cần với người đến cầu cạnh:
- Ông có lòng biếu, tôi không dám chối. Của quý thì ai cũng muốn, nhưng tôi muốn thứ này...
Thấy phủ quan ngừng lời, Khánh gặng hỏi:
- Ngài cần gì?
Hốt nghiêng về phía Khánh đáp:
- Cần tin tức.
Khánh muốn cười, nhưng thấy nét mặt nghiêm trang của phủ quan phải cố nén: Hắn thể hiện đúng bản chất của một gã lái buôn thạo xử trí tình huống:
- Có tiền thì sai khiến được cả quỷ sứ.
Hốt ghé tai Khánh thì thầm.
- Tôi muốn biết bọn giặc cỏ ngoài đó có hung hãn lắm không?
Khánh hiểu tâm trạng tri phủ, hắn đi luôn vào vấn đề quan chủ quan tâm:
- Tiểu nhân đi mua hàng ở các châu phủ thường phải tránh xa nơi nguy hiểm. Tiểu nhân không dám xuống An Biên, Đồ Sơn mua ngọc trai và đồ hải sản vì ở đó có một lão sư hổ mang tụ tập tín đồ hùng cứ cả một vùng; tiểu nhân cũng không dám ngược lên các châu Thái Nguyên, Tuyên Hoá vì bọn "giặc áo đỏ" hoành hành dữ lắm, quan quân đánh dẹp mấy lần vẫn chưa yên.
Hốt ngẩn người. Lời nói ấy chẳng khác gì người vừa bị cái đạp lại bị luôn cái đấm. Ngày nào cũng tiếp nhận những tin tức đáng lo ngại. Hốt muốn ngồi một mình để suy tính đường đi nước bước nên toan lên tiếng mời Khánh về thì chợt nhớ lời gã lái buôn “có tiền thì sai khiến được cả quỉ sứ” liền sai lính hầu mang ra mười đĩnh bạc tặng Khánh và ân cần dặn dò:
- Ông có điều kiện đi nhiều nơi, nghe nhiều biết nhiều, nếu dò xét được tin tức gì về bọn dân ngỗ ngược, hãy sai người tới đây thông báo cho bản chức biết. Công ấy không nhỏ đâu.
Hắn gài thêm bằng cách lấy lợi nhử lòng tham:
- Làm giàu không có tội, kiếm tiền phải đúng cách. Việc buôn bán ở miền này, ông có thể tin cậy ở bản quan.
Hà Gia Khánh chưa ra khỏi công đường, Lương Nhữ Hốt đã vẫy Thiên hộ Đoàn Tạo, một tay chân tin cẩn và lanh lợi lại, bảo:
- Dung mạo khác thường và cử chỉ đường hoàng, hiên ngang của Lê Lợi khiến ta không yên lòng. Ta dụ nó ra làm tri huyện nó không nghe, ta ngờ rằng chí nó không nhỏ. Thiên hộ dẫn theo vài tên nhanh nhẹn lên gặp tri huyện Đỗ Phú phối hợp với ông ta thám thính động tĩnh của Lê Lợi.
Đoàn Tạo đi được ba hôm thì cùng Đỗ Phú cưỡi ngựa phi gấp xuống thành Tây Đô gặp Lương Nhữ Hốt.
Đỗ Phú bẩm:
- Lê Lợi mua gạo, tích cỏ khá nhiều... từ đó suy ra...
Lương Nhữ Hốt sốt ruột ngắt lời:
- Chúng có bao nhiêu quân, hang ổ chỗ nào?
Đoàn Tạo đỡ lời:
- Suy ra là chúng có căn cứ đóng quân bí mật, có nhiều dấu chân ngựa và vết chân voi... Nhưng chưa lẻn vào sâu được. Chúng quen đường ngang lối tắt lại canh gác nghiêm ngặt.
Lương Nhữ Hốt trớn mắt hỏi;
- Canh gác hả? Nếu vậy thì quân thế chúng không nhỏ đâu.
Đỗ Phú giải thích rõ ràng tình thế:
- Thưa quan tri phủ! Cũng không hẳn là lính canh gác. Có thể là người đang làm ruộng hoặc kiếm củi hoặc đánh cá... thấy người lạ đi qua là chạy lên chất vấn... trả lời lớ ngớ bọn nó vu là quân trộm cướp rồi gọi người đến đánh đuổi.
Lương Nhữ Hốt tích luỹ nhiều kinh nghiệm làm tay sai cho giặc nên biết ngay nội vụ ấy thế nào, hắn bảo:
- Bọn ông khờ lắm! Bọn nó chính là lính gác đấy. Do thám mà đi đường ngang lối thẳng thì không thể được việc. Các ông về chọn dăm thằng thạo đường rừng giao cho chúng làm việc này.
Hắn không mời hai thuộc hạ thân tín ở lại dùng cơm mà giục lên đường ngay. Hắn cũng sang luôn quân doanh gặp Đả Trung - tướng trấn thủ Tây Đô bàn cách đối phó.
Tây Đô là thành nhà Hồ xây dựng làm kinh đô và cũng là thành luỹ phòng bị Nhà Minh kiếm cớ kéo quân sang xâm lược nên rất rộng và kiên cố, lương thảo tích luỹ đủ cho mười vạn quân kiên thủ vài năm. Nhà Hồ đổ, quân Minh biến kinh đô - Tây Đô của nhà Hồ thành căn cứ khống chế toàn tỉnh Thanh Hoá, Đông Nam Ninh Bình, Đông Bắc Hoà Bình và vùng cực Bắc Nghệ An. Quân Minh đồn trú ở Tây Đô tới năm, sáu vạn và trên năm nghìn ngựa chiến.
Nghe Lương Nhữ Hốt bẩm việc xong, Đả Trung nói:
- Việc này ta không dám tự quyết mà phải cấp báo về Đông Quan.
Con chó săn ham mồi hơn cả chủ nó:
- Tướng quân viết thư, mạt chức xin thân mang về trình quan tổng binh để trực tiếp xin lệnh hành động.
Đả Trung ưng thuận. Lương Nhữ Hốt mang theo hai lính hầu, chọn ba ngựa tốt khởi hành ngay sáng hôm sau. Chúng đi theo đường thượng đạo qua Thạch Thành, Nho Quan, Gia Viễn, Phủ Lý tới Ninh Kiều rẽ sang Ba La, qua cầu Mọc vào Đông Quan. Người ngựa còn mệt thế mà Lương Nhữ Hốt đã lật đật vào dinh tổng binh... đóng trong Hoàng cung nhà Trần. Phong thành hầu Lý Bân, Phó tổng binh - thượng thư Hoàng Phúc và tham tướng Trần Trí cùng ngồi nghe thổ quan tường trình vụ việc. Cuối cùng Lương Nhữ Hốt đánh giá con người mà hắn gờm ngại:
- Chúa Lam Sơn chiêu vong nạp bạn, đãi ngộ quân lính rất hậu, chí nó không nhỏ, mạt chức lại còn nghe dân chúng thì thào đạo Cham được trời trao bảo kiếm "Thuận Thiên hành đạo". ảnh hưởng này rất đáng ngại. Nếu giao long được gặp mây mưa thì tất không phải là vật trong ao nữa. Xin sớm trừ đi, chớ để lo về sau.
Tổng binh Lý Bân nghe với vẻ chăm chú, nhưng thực ra viên tướng già này khá thờ ơ với loại tin tức ấy. Hắn đang phải đối đầu với nhiều cuộc nổi dậy ở ngoài Bắc, nhất là nghĩa quân áo đỏ hoành hành trên vùng rừng núi Tây Bắc lan cả sang Vân Nam; quân của Phật sống La Bình Vương khuynh loát vùng biển Đông - Bắc. Miền Bắc Giao Chỉ trong đó có thủ phủ Đông Quan là miền đất căn bản, còn nó chính quyền đô hộ còn, mất nó chính quyền đô hộ mất. Không thể phân tâm vì mảnh đất phên dậu, nhất là đối với đám dân ngỗ ngược chưa định hình. Vì vậy, Bân lắng nghe mà không tỏ thái độ gì.
Tham tướng Trần Trí, một viên tướng nổi tiếng thận trọng gợi ý:
- Dù bận công việc Đông Quan, Phong thành hầu cũng nên lưu ý mặt trong đó. Nếu để mặc sự việc tự phát triển, tôi e có ngày phải hối.
Tổng binh Lý Bân xua xua tay:
- Đâu có thể thờ ơ! - Hắn bộc lộ một chủ trương khá lập lờ: - Tướng ở ngoài ải xa có khi không theo lệnh trên. Tây Đô có ngót chục vạn quân đồn trú mà không vỗ yên được vùng đó sao? Dẫu có quân quyền, Tây Đô cũng chỉ động binh khi không thể tránh nổi. Họ án binh hẳn không thấy đáng ngại. Bản chức muốn dồn binh lực dẹp giặc ngoài này - Hắn ngẫm nghĩ giây lát rồi nói tiếp: - Nếu việc thực sự cần thiết bản chức sẽ phái giám quan Mã Kỳ vào giúp.
Phó tổng binh Hoàng Phúc là người có học vấn cao trong số quan chức đứng đầu Giao Chỉ, tính tình điềm đạm mềm mỏng, ông ta tự cho mình là người có tài cai trị, mọi cuộc phản nghịch đều có thể vỗ về, mọi tính ngỗ ngược đều có thể đưa vào khuôn phép; Phúc cả tin đến mức năm 1 bốn mươi 8 lên Tam Đảo, ông đã viết bốn chữ lớn ở chùa Tây Thiên: "La Thành Bất Loạn". Đến lúc nhiều cuộc nổi loạn xảy ra, ông ta vẫn chưa tìm ra nguyên cớ phản kháng chính mà lại cho là tại người cai trị không khéo léo, thiếu sự mềm dẻo trong phép cai trị. Hắn chủ trương: tốt nhất vẫn là lạt mềm buộc chặt. Hắn nói:
- Túc hạ là quan trị nhậm địa phương, việc đi lại giao thiệp, việc dùng trí mưu có nhiều thuận lợi, biện pháp cứng mềm tuỳ cơ ứng dụng; nên phối hợp với Đả tướng quân theo dõi biến động của chúng. Khi thấy cần có hành động tảo phạt thì cho người ra đây xin lệnh quan tổng binh.
Lương Nhữ Hốt nghe mà ngao ngán, hắn muốn phá tổ chim khi con chim đang cần cù tha rác. Nhưng xét tình thế toàn cục thì đúng là không thể làm gì hơn, hắn chắp tay có ý cáo lui:
- Mạt chức xin đem những ý đó về trình bày với Đả tướng quân.
Hoàng Phúc e ngại xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, bọn tướng tá hiếu thắng trong đó cứ tuỳ nghi hành sự thì Đông Quan đã bận việc lại đẻ thêm việc, nên bảo:
- Ngài tri phủ đợi nhận mệnh lệnh bằng văn bản.
Lương Nhữ Hốt về Tây Đô truyền đạt ý chí và trao mệnh lệnh của tổng binh cho Đả Trung. Hắn phàn nàn:
- Rõ ràng là Đông Quan không có chủ trương dứt khoát về vấn đề Lam Sơn.
Đả Trung không đồng tình với cách xử lý của tổng binh gã bộc lộ:
- Là quan trấn thủ sở tại, chúng ta phải chủ động trù liệu. Chờ bọn do thám về rồi quyết định.
*
Trong khi bọn Đả Trung mỏi mắt ngồi chờ thì hai tên do thám ranh ma nhất đã bị bắt.
Xế trưa hôm ấy, trời quang mây lành, rừng núi cây cối Lam Sơn như được phết thêm màu xanh, gió Lào chưa đi hết, gió Đông Bắc mới vẩn vơ, Đoàn Tạo đeo gùi lâm sản nhẩn nha bước trên đường thượng đạo, miệng nghêu ngao "pì noọng ơi!" mắt nhìn thấu qua những đường ngang lối mòn; nơi nào có dấu chân voi chân ngựa, hắn dừng lại nhìn ngắm khá lâu.
Hắn đang chăm chú nung nấu ý đồ đen tối thì một con chó Lài to như con bê từ sau chồm tới đẩy hắn ngã sấp rồi choãi chân ngoạm ngang gáy. Hắn càng giãy, hàm răng con chó càng bậm sâu và không ngừng gừ gừ buông tiếng đe doạ.
Ngay lúc đó một người cao lớn xuất hiện - Đó là Nguyễn Xí chủ con vật ghê gớm. Xí huýt sáo miệng, con chó thả nạn nhân. Đoàn Tạo lồm cồm đứng dậy toan trừng mắt quát mắng chủ chó thả chó cắn bậy thì Nguyễn Xí quắc mắt, gằn giọng:
- Mày đi đâu?
Đoàn Tạo nghe giọng nói biết gặp tay đáo để không thể dùng biện pháp sừng sộ để thoát hiểm nên hất hàm ra phía sau, tay vỗ vỗ lù cở chứa mấy đọt măng vầu nói:
- Tao vào rừng lấy măng!
Xí ấn nghiêng miệng lù cở, mầm măng nào cũng khô quắt. Ông rút một mầm măng quất thẳng vào mặt tên nói dối:
- Trong rừng có thứ này hả?
Đoàn Tạo chưa kịp phản ứng đã bị Nguyễn Xí đá ngã ngửa xuống đường. Ông moi trong người tên gian tế lấy ra chiếc thẻ bài Thiên hộ liền quất mạnh xuống mặt hắn, trừng mắt hỏi:
- Đây cũng là măng phỏng? Bọn do thám chúng mày đã rơi vào tay nghĩa quân Lam Sơn dăm tên, đứa nào cũng khôn ngoan khai thật nên được sống, chỉ một tên bướng bỉnh là bị khuyển binh cắn đứt gáy. Còn mày?
Đoàn Tạo biết mình rơi vào tay ai, hắn cuống quýt ngồi bật dậy, chắp tay lạy như tế sao, cuống đến nỗi quên cả việc đối phương đã lấy được tín bài.
- Lạy anh, quả tình em không phải người như thế!
Nguyễn Xí không dài dòng lôi thôi, ông còn nhiều việc phải làm. Ông đạp sấp mặt tên giặc ngoan cố, giật gùi măng khỏi lưng hắn, miệng huýt sáo. Con chó hung dữ nhảy chồm lên, hai chân đạp lên vai, miệng ngoạm gáy tên gian tế.
Mỗi tiếng Đoàn Tạo kêu oan, con chó thông minh lại nhận được một mệnh lệnh, nó bậm mạnh hàm răng thêm một chút... Cuối cùng, tên ngụy quan ngoan cố chịu thua:
- Em xin khai! Hảo hán xin chớ chấp kẻ tiểu nhân. Em khai.
Nguyễn Xí ra hiệu cho con chó lùi ra sau, bảo Đoàn Tạo ngồi dậy, ông doạ:
- Tao cho mày khai, nhưng khai không khớp với lời khai của những tên kia thì con chó này nói chuyện với mày.
Đoàn Tạo nghe lời đe ấy đã trợn, ngắm con chó ngồi chống chân chồm chỗm mắt vằn lên, răng nhe ra càng trợn hơn. Hắn biết muốn giữ mạng sống chỉ còn cách khai thật.
Nguyễn Xí giải tên đốn mạt về nộp chủ tướng.
Mạn này, Đoàn Tạo gặp nạn, mặt Mục Sơn tên phụ đạo ái cũng chung số phận. ái lẻn vào Lam Sơn từ mấy hôm nay, dò la được một số tin về nghĩa quân, đang trên đường về báo cho chủ, tới gần bến đò Mục thì chợt trông thấy Nguyễn Thận chống bơi chèo đứng bên đường. ái biết Thận không cùng chí hướng với mình nên bước vội xuống bến đò. Thận theo dõi hành tung ám muội của tên Việt gian từ hôm hắn bất chợt xuất hiện ở vùng này Hắn hết la cà trong quán nước lại chui lủi vào rừng. Đoán con chó săn tìm đường về với chủ, Thận bước rảo đến sau lưng ái vỗ mạnh bàn tay sắt lên vai hắn, hỏi:
- Ông nghe cái gì mà đến đây? Ông thấy cái gì mà bỏ đi?
Ái cậy mình được người Minh và tri phủ Lương Nhữ Hốt tín nhiệm, lại chưa biết Thận là yếu nhân của Lam Sơn nên nói cứng:
- Ta nghe điều ta nghe mà đến, ta thấy điều ta thấy nên bỏ đi.
Thận cười gằn bảo:
- Vậy là oan gia gặp ngõ hẹp... - Miệng nói tay túm cẳng tên chó săn dúng ngược xuống nước, đợi ái sặc sụa đủ khiếp mới nhấc lên, bảo: - Khai những điều đang giữ trong đầu ra hoặc uống đầy nước vào bụng!
Ái không ngờ đối phương khoẻ và lợi hại đến thế, hắn không có gan ngoan cố như Đoàn Tạo nên vội vã "xin được khai hết".
Nghe ái khai dứt lời, Thận đưa hắn sang Lam Sơn.
Lê Lợi đối chiếu những lời khai biết được âm mưu của địch liền triệu tập Hội đồng mưu lược bàn kế đối phó.
Hội đồng mưu lược gồm chán người đến dự đủ cả. Lê Lai, Đinh Liệt, Nguyễn Thận, Lý Sát, Lê Ngân, Đinh Lễ, Lê Văn An, Lê Văn Linh - đây là liệt kê theo thứ tự ghi tên vào bản danh sách tụ nghĩa chứ không phân theo tài đức hoặc thân sơ.
Lê Lợi thông báo tình hình địch và nhận định âm mưu của chúng:
- Sớm muộn gì thì giặc Minh cũng tiến công Lam Sơn, chúng ta cần có kế sách đối phó kịp thời. Lam Sơn ta đã có ba mươi lăm quan võ, bảy quan văn, hai trăm thiết kỵ, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ, còn lại là khinh binh, cộng ngót hai ngàn người và mười bốn thớt voi; lương thảo đủ dùng trong năm tháng. Các ông xem xét lợi hại nên chọn cách tĩnh hay động?
Lý Sát bàn:
- Quân Minh lực lớn hơn ta bội phần, mang trứng chọi đá là không có lợi. Lúc này ta tạm ẩn nhẫn thêm.
Lê Ngân đứng lên ủng hộ tư tưởng ẩn nhẫn:
- Chúng ta mới gây dựng được một ít lực lượng làm vốn căn bản để chiêu mộ thêm. Nếu đưa ra đánh nhau với quân Minh tất khó tránh bị tiêu hao lớn. Làm hao mòn quân lực lúc này không phải kế hay.
Nhiều tướng tán thành chủ trương ẩn nhẫn đợi thời.
Lê Văn Linh đứng dậy, nói:
- Trịnh Khả qua Ai Lao gặp khách buôn voi từ Trung Quốc sang cho biết bên đó không yên. Phía Bắc, Quỷ Lục Xích cướp ngôi của hậu duệ nhà Nguyên, dựng nên nước Thát Đát, đem quân đánh phá biên cương Trung Quốc, mưu đồ khôi phục cơ nghiệp Nguyên Mông. Người Ngoạ Thích xưng hùng mạn hồ Bai Can. Minh Thành Tổ nhiều lần phái những đạo quân lớn đi Bắc chinh. Trong khi đó, mặt phía Nam phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân Quảng Tây, Phúc Kiến và nghĩa quân áo đỏ Vân Nam. ở nước ta, sau khi nhà Hậu Trần bị diệt, từ Nam chí Bắc đều có những cuộc nổi dậy chống ách đô hộ: Nghệ An có Phan Liêu, Tân Bình (Quảng Trị) có Thiên hộ Trần Thuận Khánh, Tân An (Hải Dương) có Trịnh Công Chứng, Hải Phòng có nhà sư Phạm Ngọc. Nhìn tình thế thì đây chính là cơ hội cho ta dấy binh - Ông ngừng lời giây lát để chuyển mạch: - Nhìn thực lực, ta yếu địch mạnh, nhưng chỉ nhìn yếu mạnh thì chưa thể quyết định được điều gì. Binh pháp có câu: Lấy yếu chế mạnh, lấy ngắn chế dài. Nhân dân ta vốn có truyền thống chống ngoại xâm: Hán, Đường, Tống, Nguyên đời nào cũng có các vị anh hùng hào kiệt quật khởi, nhờ thế mà giữ được nước. Gần đây, Đại Việt ta thất cơ là do nhà Trần suy đồi, nhà Hồ không được lòng dân. Nhiều cuộc khởi nghĩa cùng dấy lên chống ách đô hộ Minh, việc thắng thua thất thường khiến dân chúng ngỡ ngàng không biết hướng vào đâu. Thế nước vì vậy mà càng chênh vênh khó liệu. Mây tan rồi mây tụ. Cây đại thụ cành lá xum xuê, gốc vững thân bền khởi từ mầm non; cứ sợ nắng mưa mà ngại ươm mầm non thì chẳng thể nào có cây bền vững. Nếu cứ ngồi gốc cây đợi thỏ thì đợi đến bao giờ? Muốn nên việc lớn phải kiến tạo thời cơ.
Đinh Liệt thấy Lê Văn Linh ngồi xuống liền đứng lên dõng dạc nói:
- Lời bàn của ông Linh thực hiểu tình thế lại thấu lòng người, đó là kế sách hay nhất nên theo.
Tất cả Hội đồng mưu lược ủng hộ chủ trương dựng cờ khởi nghĩa. Lê Văn Linh đứng lên tiếp tục trình bày quan điểm của mình:
- Minh chủ và chúng ta quần tụ tại đây là nhằm đòi nước cứu dân, bình định thiên hạ. Làm việc lớn phải có danh nghĩa, danh nghĩa có thuận, công việc mới thông: Chủ tướng được trời trao kiếm “Thuận Thiên hành đạo”; việc lập chính danh là thuận ý trời, hợp lòng dân. Bởi lẽ đó trước mắt chúng ta tôn phù Minh chủ Lê Lợi lên ngôi Bình Định Vương; sau đó truyền hịch đi các nơi hô hào nhân dân nổi dậy ứng nghĩa. Đó là biện pháp phù hợp với thực tế hiện nay.
Tất cả reo vang ủng hộ ý tưởng tôn phù.
Lê Lợi đứng dậy, ông nâng hai tay đưa về phía trước, ông nhận thấy đã tới lúc phải hành động và chủ trương phất cờ khởi sự của Lê Văn Linh là đã chín muồi, không thể làm khác. Ông chậm rãi nói:
- Lấy lý mà suy thì chúng ta thắng, nhưng lấy lực mà so thì được hay thua phải nhờ lòng Trời. Chúng ta dấy quân đánh giặc không phải vì tham phú quý, mà vì muốn cho ngàn đời sau biết rằng chúng ta không chịu khuất phục giặc tàn bạo, quyết đem tấm thân hữu ích hiến dâng cho non sông đất nước. Lợi này tài hèn nhưng lảng tránh công việc nặng nhọc thì thật đắc tội với dân đen. Các ông có lòng tôn phù thì hãy chọn ngày cử lễ.
Lê Văn Linh đứng lên, chắp tay nói:
- Văn sinh xem ngày thì mùng Tám tháng Giêng Mậu Tuất (Ngày 13 tháng 2 năm 1418) là ngày đẹp trong năm. Xin chọn ngày đó.
*
Sau lễ xưng Vương, Bình Định Vương ban bố hịch hiệu triệu hào kiệt ứng nghĩa đồng thời quyết định cho đại đội binh mã rời Lam Sơn, chuyển sâu vào rừng lập doanh trại để tránh mũi nhọn tập kích của giặc.
Trong lúc quân sĩ kiến thiết doanh trại, dựng luỹ đào hào, ổn định nơi ăn ở, luyện tập và phòng thủ, Vương gọi Trịnh Khả, Trịnh Đồ, Trương Lôi lên đại bản doanh giao nhiệm vụ:
- Cuộc chiến chống quân Minh dù dựa vào sức ta là chính, nhưng cũng không thể xem nhẹ sự giúp đỡ của nước Ai Lao láng giềng. Ba ngươi mang thư báo tiệp và vật phẩm sang Lào dâng vua Lan Kham Đêng và biếu các tù trưởng biên giới Lào - Việt để yêu cầu sự cứu viện về lương thực, khí giới, voi ngựa... và đề nghị phối hợp đánh quân Minh.
Ba sứ giả lĩnh mệnh lên đường.
Vương triệu tập Hội đồng tướng lĩnh bàn kế hoạch đối phó với quân Minh.
- Ta phất cờ dấy nghĩa, kẻ địch tất điều quân đến đánh. Trận đầu ra quân, Lam Sơn phải thắng. Binh pháp có câu: "Lấy ít chống nhiều, phải dùng phục binh". Các tướng có kế gì hay hãy nói ra!
Thiếu uý Phạm Vấn lên tiếng:
- Thưa Vương thượng! Quân Minh muốn tiến vào căn cứ ta phải qua eo Lạc Thuỷ. Lạc Thuỷ là đoạn đường hiểm, hai bên có đồi thấp cây cối rậm rạp, nhiều cây cổ thụ xoè cành che cả mặt đường. Đặt phục binh ở đó ắt thắng lớn.
Thiếu uý Lê Thạch tiếp:
- Thần cũng thấy Lạc Thuỷ là địa điểm đặt phục binh rất lợi hại. Địa thế cảnh quan nơi đó giúp ta thiết lập cạm bẫy treo, bẫy lăn để tăng thêm uy lực chiến đấu.
Bình Định Vương suy nghĩ, cân nhắc giây lát rồi đáp:
- Đúng là chỉ có một lựa chọn ấy.
Hai ngày sau, trận địa mai phục đã chuẩn bị xong, kéo dài tới hai dặm (khoảng một kilômét). Nghĩa quân xây dựng trận địa khéo tới mức, ai đi qua cũng khó phát hiện ra mối nguy hiểm treo lơ lửng trên đầu.
Đêm 13 tháng 2 năm 1418, quân do thám về báo: Mã Kỳ chỉ huy bốn vạn năm nghìn quân đã tiến vào Lam Sơn, vây quét, lùng sục khắp chân đèo hõm núi.
Bình Định Vương nhận định:
- Giặc điều động binh lực lớn tấn công Lam Sơn chứng tỏ chúng không biết rõ nội tình của ta. Thế giặc mạnh lại đang hăng, không gặp quân ta ở Lam Sơn, nay mai chúng sẽ tiến quân vào đây.
Quả nhiên, mấy ngày sau Mã Kỳ mở cuộc hành quân vào doanh trại nghĩa quân. Người ngựa lên đường kéo dài tới mấy chục dặm. Tiền quân xếp hàng ba tiến vào eo Lạc Thuỷ và lọt hẳn vào trận địa mai phục của nghĩa quân. Pháo hiệu lệnh nổ vang, tất cả các thứ cạm bẫy phát huy tác dụng. Quân Minh bị gỗ càn, đá rơi chồng đống lên nhau mà chết, lũ sống sót chưa kịp hoàn hồn đã hứng luôn trận mưa tên, lao... tiếp đến nghĩa quân từ nơi mai phục cầm đoản khí nhảy xuống đường tung hoành giữa đám loạn quân Minh.
Mã Kỳ thấy tiền quân thất trận vội thúc trung quân tiến lên tiếp ứng. Nhưng đường hẹp quân đông khó vận động lại bị cánh quân làm nhiệm vụ chia cắt của đối phương bắn chặn dữ dội. Hắn đang loay hoay thì năm thớt voi chiến sóng hàng ngang từ phía đầu trận địa sừng sực lao tới; phía sau hàng voi không biết cơ man nào là chiến sĩ vung mã tấu, chĩa ngang giáo hò reo xung trận.
Mã Kỳ không ngờ bị đánh vu hồi liên tiếp vội kéo quân rút chạy về Lam Sơn.
Ba ngàn xác giặc và nhiều quân nhu, khí giới chồng đống khắp mặt đường. Quân ta thắng lớn, giải quyết xong hậu quả chiến trường rồi rút về căn cứ. Bình Định Vương đang cùng các tướng lĩnh rút kinh nghiệm trận đánh vừa rồi và chuẩn bị phương hướng cho các trận đánh sắp tới thì lính vào tâu:
- Bẩm Vương thượng! Nhân lúc quân ta bận lo công việc tác chiến, tên ái, tên Tạo đã bỏ trốn... Tạo bị chém chết dưới chân núi, tên ái lủi vào rừng nên tìm không thấy.
Vương ra lệnh phạt khổ sai viên chỉ huy tốp lính gác. Sau đó, Vương nói với các tướng lĩnh:
- Tên ái biết đường đi lối lại vùng này lại hiểu nội tình quân ta. Đấy là cơ nguy. Mã Kỳ biết quân ta ít, nó sẽ dốc lực tấn công. Nghĩa quân cần có kế lui quân sâu vào rừng để tránh mũi nhọn của giặc.
Tướng Lê Thạch, cháu gọi Bình Định Vương bằng chú vốn là thợ săn nổi tiếng, từng đi lại nhiều núi cao rừng sâu nên thông thuộc địa thế trong vùng, ông hiến kế:
- Chí Linh rất hiểm trở, có hợp lưu sông Chu làm hào, có núi cao làm luỹ, có rừng già làm thành, có đường thông đi nhiều nơi. Chí Linh là một địa điểm thủ hiểm vững chắc.
Bình Định Vương chỉ Lê Thạch, Đinh Liệt, Bùi Quốc Hưng bảo:
- Ba tướng vào Chí Linh tìm đất xây dựng căn cứ tiến có thế công, lui có thế thủ.
Ba tướng lĩnh mệnh lên đường.
Mã Kỳ thất trận kéo quân về Lam Sơn, giận cá chém thớt, hắn xua quân đi bắt và tàn sát các gia đình có người theo nghĩa quân, bà vợ và con gái chín tuổi của Bình Định Vương cũng bị giặc giết hại. Tên chó săn Đỗ Phú còn dẫn lính đi khai quật mồ mả tổ tiên của vị chúa Lam Sơn.
Khi được tên ái trốn về báo tin tình hình nghĩa quân, Mã Kỳ lập tức kén quân tinh nhuệ luồn vào sau lưng nghĩa quân đánh tập hậu.
Nghĩa quân chưa kịp thực hiện phương án lui quân thì lính Minh bất ngờ tràn vào từ phía sau doanh trại nên bị tổn thất nặng.
Bình Định Vương biết không thể xoay chuyển được tình thế bèn ra lệnh cho số quân tướng còn lại phá vây chạy vào Chí Linh.
Các tướng Đinh Liệt, Phạm Vấn, Lưu Nhân Chú, Phạm Văn Xảo, Lý Sát, Bùi Bị, Nguyễn Xí... nhất tề vọt lên trước mở đường. Nhờ lòng quả cảm mà trên một trăm người còn lại thoát được vòng vây, chạy vào tới Chí Linh.
Kiểm lại chỉ còn một trăm tay kiếm, vài chục con voi, ngựa, lương thảo mất hết. Tổn thất thật nặng nề.
*
Núi non, khe suối, đèo dốc, cây cối Chí Linh ngăn chân che mắt giặc, giúp nghĩa quân né tránh khỏi mọi cuộc vây quét của chúng. Nhưng xung quanh Chí Linh là vùng đất đai khô cằn không thể trồng cây lương thực, dân cư vì thế cũng thưa thớt, đi cả buổi mới gặp vài nóc nhà sàn. Nghĩa quân lâm vào cảnh không tìm được lương ăn.
Bình Định Vương đứng dưới gốc cây dẻ, bên ông là nhà nho Lê Văn Linh và thiếu uý Lê Thạch, trước ông là thung lũng cỏ cây um tùm, phía xa trập trùng đồi núi xanh tươi. Vương khoanh tay trước ngực, ngoảnh về phía Lê Văn Linh, hỏi:
- Tiên sinh thấy tinh thần anh em ra sao?
Lê Văn Linh thưa:
- Có kẻ hoang mang, nhưng chỉ một vài người.
Vương nén tiếng thở dài:
- Xảy ra tình thế chông chênh là do lỗi của ta trù liệu công việc chưa thấu đáo.
Lê Văn Linh.
- Bẩm Vương thượng! Ngài nghĩ vậy là đại phúc cho thiên hạ nhưng đấy là lỗi tại bọn thần tài hèn sức kém không giúp ích cho chúa mình đến nơi đến chốn.
Thăng Khánh, mặt mày nhợt nhạt, có lẽ do đói ăn đến vái Bình Định Vương, hổn hển nói:
- Thưa Vương thượng! Con voi già bị giết hôm trước đã ăn hết, hai con còn lại bỏ ăn có lẽ chúng buồn vì thấy đồng loại bị làm thịt!
Bình Định Vương vẫn nhìn ra xa khi nói:
- Không được nghĩ đến chuyện giết hai con vật có nghĩa ấy!
- Nhưng... - Thăng Khánh toan nói thì bị Lê Văn Linh ngắt lời, có lẽ ông đoán anh chàng mặt xanh nanh vàng kia sắp thốt ra những điều vô ích.
- Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Mưu việc gì cũng có vận hội thăng trầm, tráng khí nam nhi là phải vững vàng khi đắc chí nhất cũng như khi gặp gian nguy nhất.
Lê Thạch giơ tay chỉ ra xung quanh toàn là rừng trập trùng cao thấp, nói bằng giọng rắn rỏi:
- Rừng che chở ta, rừng nuôi ta. Vật săn ở đây hiếm nhưng cây ăn củ, ăn quả, ăn lá không thiếu - Ông ngửa cổ nhìn lên ngọn cây dẻ cao chót vót nói tiếp: - Rừng Chí Linh nhiều dẻ có thể lấy hạt ăn trợ thời - Không đợi mọi người hỏi cách trèo lên thân cây gốc to mấy vòng tay, ông phổ biến luôn: Tìm thừng hoặc loại dây gì cũng được miễn là bền vòng qua thân cây rồi dùng con nín nín thật chặt, chỉ vài hôm là quả rụng xuống hết.
Bình Định Vương ngoảnh lại nhìn anh cháu tháo vát và cũng là viên tướng can trường giao việc luôn.
- Cháu hãy vận dụng hết tài trí của người thợ săn lạc trong rừng truyền dạy cho anh em biết cách sống gắn bó với rừng.
Hai tháng tuyệt lương, nghĩa quân phải ăn củ mài, hạt dẻ, măng tre thay cơm; sức khoẻ sa sút nhưng ý chí càng bền chắc hơn.
Nghĩa quân lẩn sâu trong rừng già núi thẳm, không liên hệ được với ngoài, thực chẳng khác gì một bộ lạc sống biệt lập với thế giới xung quanh. Nếu Lam Sơn giữ Chí Linh có quân đông, vũ khí và lương thực dồi dào thì thực đã làm chủ được một vùng hiểm địa "tiến ra có thể công mạnh, lui về có thể thủ bền". Lợi thế ấy không đến trọn vẹn với nghĩa quân. Vừa rồi, Vương phái các tướng Lý Sát, Lê Ngân, Phạm Văn Xảo ngược lên mạn Lô Sơn; Bùi Dị, Lý Triện lách sang Mường Một tìm địa điểm thuận lợi để đưa quân tránh khỏi thế bế tắc. Nhưng, hai tốp vượt vòng vây đi khảo sát địa điểm vẫn chưa về.
Vương động viên tướng sĩ:
- Cố ẩn nhẫn, bọn Minh không thể trụ mãi ở nơi lam sơn chướng khí. Nếu ta giữ kín lực lượng, ắt bọn Minh sẽ rút lui.
Một hôm bất ngờ căn cứ có khách đến. Ngỡ ai hoá ra người nhà, Trịnh Khả, Trịnh Đồ, Trương Lôi từ Sầm Nưa bên Ai Lao trở về nước, theo đường rừng Thường Xuân đi vào doanh trại, mang theo một thớt voi chiến, lương thực. Mọi người vừa mừng vừa ngạc nhiên. Mừng vì có sự giúp đỡ thiết thực của Ai Lao, họ không đơn độc trong công cuộc chiến đấu chống ngoại xâm; ngạc nhiên vì bọn Khả có thể lọt qua được vòng vây của giặc Minh vào đây một cách an toàn.
- Quân Minh nới vòng vây rồi chăng?
Vương phái một tốp kỵ mã do Nguyễn Xí, Trần Lựu chỉ huy xác minh tình hình. Nửa ngày sau, tốp thám báo trở về:
- Mã Kỳ nhận định nghĩa quân đã hoàn toàn tan rã nên đưa hết quân về Tây Đô.
Bình Định Vương và các tướng lĩnh bàn bạc, chọn phương án hành động: vẫn trụ lại Chí Linh hay trở về Lam Sơn? Cuối cùng chọn phương án về Lam Sơn gần nơi tuyến quân và nơi cung đốn lương thảo.
Nhân dân Lam Sơn thấy quân về chẳng còn mấy so với lúc rời quê hương tiến vào rừng, nhưng lòng đau mà chí không nản. Vài ngàn người trang bị thô sơ mà dám chọi với năm vạn tên lính xâm lược thì chỉ những trang hào kiệt anh hùng mới dám làm thế. Chiến thắng lẫy lừng ở Lạc Thuỷ, một thắng mười không những giúp nhân dân Lam Sơn vơi bớt đau thương mất mát mà còn tăng thêm niềm tin ở ngày mai. Không trải qua ngày tăm tối, sao có thể tìm thấy ngày xán lạn. Tình cảm này không nói bằng lời mà thể hiện bằng hành động cụ thể: nhân dân mang thóc gạo, lợn bò đến ủng hộ... thanh niên nam nữ xin gia nhập nghĩa binh, người già và trẻ em cũng đến giúp nghĩa quân đào hào đắp luỹ.
Một trưởng lão nói:
- Chúa thượng đã được Trời giao kiếm "Thuận Thiên hành đạo", việc phục quốc an dân tất thành. Trở ngại, gian truân chỉ càng tỏ chí anh hùng.
Ngày nào, Đinh Liệt và Ngô Từ cũng tiếp nhận người vào quân ngũ và lương thảo nhập kho. Mặc dù vật đổi sao dời, tình yêu nước ở nhân dân không bao giờ cạn. Nhờ đó khí thế nghĩa quân Lam Sơn lại lên.
Bình Định Vương lường trước tình thế vận động, ông nói với các bậc trưởng lão, già làng:
- Lam Sơn là nơi Lợi này dựng nghiệp. Nghĩa quân nhờ có Lam Sơn mà tồn tại, nhưng Lam Sơn không phải là nơi cố thủ tốt nên phải tuỳ cơ ứng biến. Bà con anh em chớ phụ lòng Lợi này.
Vương ra lệnh cho các tướng:
- Quân địch nhiều, quân ta ít; thế địch mạnh, thế ta yếu nên việc chiến trận phải biến hoá nhanh chóng, thoắt tiến thoắt lui, rộng đường tiến, rộng đường lui, lúc nào cũng phải lợi dụng hiểm địa.
*
Tri phủ Đỗ Phú, Bách hộ ái và một lính hầu cưỡi ngựa phi mải miết về hướng Tây Đô. Gió Lào cùng vó ngựa thi nhau xua bụi đường bay mù mịt từng cơn. Thằng chó ái nhờ công dẫn đường cho Mã Kỳ đánh tập hậu nghĩa quân được phong chức Bách hộ. Bây giờ, con chó suỵt được hơi mới lại về mách với chủ. Đỗ Phú kéo luôn ái cùng đi gặp quan trên.
Lương Nhữ Hốt là viên quan thạo nghề mơn trớn, vuốt ve; phương châm dùng người của hắn là: đối với kẻ dưới ra lệnh không đủ mà phải biết ra ân, hắn thường tranh công của cấp dưới bằng thủ đoạn bịt miệng, dùng vài miếng lộc vụn và lời nói khéo để che đậy. Vừa thấy hai tên tay chân khúm núm đi vào Hốt đã tiến ra vỗ vai, cầm tay mời ngồi. Hắn gọi người lên quạt cho khách rồi hỏi vu vơ:
- Hai ông vẫn mạnh chứ!
Đỗ Phú chắp tay tỏ vẻ lễ phép, nhưng giọng hắn thì gai góc:
- Bẩm ngài! Hổ dữ đã quay về đất nghịch, lại được tù trưởng Ai Lao cho voi chiến và lương thực.
Hốt đứng bật dậy như lửa bốc cháy dưới chiếc ghế hắn đang ngồi. Việc này thực hệ trọng, vậy thì khác gì hổ mọc thêm cánh. Hắn bảo hai gã cấp dưới:
- Hai ông sang thư phòng nghỉ ngơi đợi nhà bếp mang cơm rượu lên, tôi sang dinh trấn thủ.
Nói đoạn, hắn xốc mũ áo, đi ngay.
Viên tướng hiếu chiến Mã Kỳ được tin "Đạo Cham có thêm người nhập bọn, Ai Lao giúp đỡ", dù vốn tính tự phụ cũng không dám coi thường, vội phi báo về Đông Quan.
Tổng binh Lý Bân nhận được thư cáo cấp của Mã Kỳ khi đang phải lo đối phó với các cuộc nổi dậy ở Tây Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ. Một mặt, hắn viết thư sang Lào khiển trách, đe doạ vua Lào Lan Kham Đêng; mặt khác, hắn phái đô đốc Chu Quảng dẫn ba nghìn tinh binh vào Tây Đô hỗ trợ Mã Kỳ với mệnh lệnh: "Giải quyết dứt điểm loạn Lam Sơn".
Mã Kỳ nhận được quân tăng viện, liền cùng đô đốc Chu Quảng, tri phủ Lương Nhữ Hốt và tri châu La Thông dẫn quân rời Tây Đô tiến về hữu ngạn sông Chu; chia thành ba mũi đánh ập vào căn cứ.
Nhưng, nghĩa quân đã rời khỏi Lam Sơn từ mấy hôm trước.
Mã Kỳ cho quân hạ trại trên doanh trại cũ của Lam Sơn; vồ hụt con mồi, Kỳ giận dữ cho đập phá lung tung.
Lương Nhữ Hốt biết ái thông thuộc địa bàn Đông Sơn - Thường Xuân nên sai người chọn một con ngựa tốt, giao cho hắn đi thám thính. ái cải trang thành một người dân tộc thiểu số rồi lên ngựa đi do thám tung tích nghĩa quân.
Nửa ngày sau, ái phi ngựa trở về bẩm:
- Bọn giặc biết đại quân đến vội bỏ Chí Linh lẻn sang Mường Một mang theo hết lương thảo, voi ngựa.
Lương Nhữ Hốt hướng về phía Mã Kỳ hỏi:
- Ngài có ngờ chúng chạy trốn lên vùng rừng núi Quỳ Châu không?
Mã Kỳ không trả lời ý ấy mà tỏ rõ quyết tâm:
- Chạy đâu thoát được lưới Trời.
Hắn đốc quân sĩ ăn nhanh, lên đường đuổi ngay. Quân chia thành ba đội rầm rộ rời Lam Sơn, qua bến đò ngã ba - nơi sông Dằng chảy sang sông Chu, tiến vào lưu vực hai con sông: sông Dằng và sông Dật.
Chu Quảng, La Thông sóng ngựa chỉ huy tiền đội hành quân trên đường mòn tới rừng già. Nhìn xuống đoạn đường lách qua hai dãy núi đất um tùm cây cối, Chu Quảng co cương lệnh cho quân tiên phong ngừng bước. Hắn giơ roi chỉ con đường có thể tiềm ẩn mối hiểm nguy, nói với La Thông:
- Ở đây dễ có phục binh!
La Thông cũng nhận thấy mối đe doạ đó, hắn chưa kịp đưa ra lời kiến nghị thì Chu Quảng đã chỉ roi ngựa vào ngực kỵ mã đứng bên, giao nhiệm vụ phi ngựa quay lại trung quân báo cho Mã Kỳ biết. Kỳ phóng ngựa lên quan sát. Kỳ gõ roi ngựa vào lòng bàn tay có chiều suy tính. Đó là địa thế lý tưởng để tổ chức phục binh, một người nấp trong đó có thể hạ mười người dưới đường.
- Quân Việt hay dùng phục binh, không được khinh tiến.
Kỳ ra lệnh cho một đội kỵ mã tinh nhuệ phi xuống thám thính. Toán kỵ mã phi rầm rập qua con đường hẻm núi, vừa tiến vừa hò reo thách thức. Phi tới cuối đoạn đường nguy hiểm, toán kỵ mã dừng lại phi ngược lên sườn núi rồi phi xuống chúng vẫy gươm múa giáo tỏ ý "Không có phục binh".
Mã Kỳ vững tin ở chân lý mạnh thì thắng:
- Giặc đang chạy trốn! Đuổi nhanh kẻo mất dấu vết!
Quân Minh lục tục tiến sâu và khu rừng thấp nhiều cây lớn xen lẫn những trảng rộng um tùm lau lách, trên con đường rừng êm ả... rải rác rất nhiều đồ dùng cá nhân và khí cụ còn có thể dùng được. Một hiện tượng không bình thường, Chu Quảng sai lính báo về trung quân:
- Rất nhiều đồ đạc chăn chiếu vứt dọc đường.
Mã Kỳ nhổm người trên mình ngựa thét lớn:
- Giặc muốn thoát nhanh. Vậy thì chúng sợ rồi. Đuổi mau!
Quân Minh hăm hở đi vào con đường men theo bìa rừng, phía bên là đầm lầy.
Mùa xuân chưa đi hẳn, nhưng mùa hạ đã lấp ló gần bên. Quân Minh vác ngược giáo, trật mũ ung dung truy đuổi quân bỏ chạy. Tiếng cười nói, bỡn cợt râm ran, tiếng ngựa hí rền rĩ. La Thông giơ roi ngựa chỉ rặng cây im ắng bên đường rồi ngoái cổ chỉ đoạn đường hiểm trở nằm giữa khe hai núi vừa khuất phía sau nói với Chu Quảng.
- Địa thế Thường Xuân là lời thách đố trí thông minh và lòng dũng cảm. Nếu dũng cảm, ta dám vượt qua con đường lọt giữa hai khe núi, nếu thông minh, ta...
Lời viên tri châu chưa dứt, tiếng pháo lệnh đã nổ vang. Từ khu rừng bên đường, hàng ngàn mũi tên, lao phóng ra như tấm lưới trùm lên kéo đổ đạo tiền quân Minh. Bọn bị chết nằm chồng đống trên đường, bọn bị thương té chạy cả xuống đầm lầy... Bọn sống sót trong đó có La Thông, Chu Quảng, lúng túng chưa biết nên đối phó thế nào thì nghĩa quân từ bìa rừng nhất loạt nhảy ra đâm chém. Chu Quảng, La Thông quay ngựa tháo chạy, bỏ mặc quân lính ở lại chịu chết.
Mã Kỳ đưa trung quân lên tiếp ứng. Lập tức, nghĩa quân như từ dưới đất chui lên, các tướng Lý Sát, Nguyễn Xí, Phạm Vấn, Bùi Dị, Lê Thạch... dẫn đầu xông ra tấn công. Đội hình chiến đấu của quân Minh vỡ, bị giết từng mảng. Mã Kỳ, Chu Quảng, Lương Nhữ Hốt, La Thông hò hét quân sĩ dồn thành hàng ngũ chiến đấu; nhưng chẳng mấy tên lính chịu nghe, chúng đang phải lo né tránh chống đỡ những cú đâm, nhát chém chí tử của đối phương.
Mã Kỳ không dám cố cưỡng, hắn nhổm người trên mình ngựa thét:
- Thoái!
Quân Minh bị tiêu diệt quá nửa. Mã Kỳ sợ bị đối phương nhân đà thắng tổ chức tập kích, vội hạ lệnh rút thẳng về Tây Đô.
*
Trong cuộc họp Hội đồng mưu lược, Bình Định Vương nói với các tướng lĩnh:
- Chúng ta phất cờ khởi nghĩa đã lâu ngày mà quân thế vẫn chẳng mạnh lên mấy, lương thảo thường xuyên thiếu thốn... ấy là do chưa được nhân dân các châu quận hưởng ứng. Muốn người theo phải gây được lòng tin, lòng tin có được là nhờ vào việc tạo nên sự tích đáng khích lệ. Sự tích mà chúng ta cần biểu dương là chiến thắng quân sự.
Thời gian qua, quân ta làm nên vài chiến thắng, nhưng đó chỉ là thụ động "địch đánh ta đỡ", chưa tỏ được ý chí tìm địch mà đánh. Chúng ta chưa đủ sức động tới Tây Đô hoặc Diễn Châu, nhưng có thể làm nên chiến thắng đối với đồn ải nhỏ của giặc. Chư tướng nghĩ sao?
Lý Sát đứng dậy chắp tay trước ngực thưa:
- Chúa thượng suy xét thật tường lòng người và hiểu lẽ trời. Thần biết khá rõ một mục tiêu có thể gây tiếng vang. Đó là đồn Nga Lạc nằm bên đường thượng đạo, trên bờ bắc sông Chu. Nga Lạc có một ngàn quân trấn thủ do Nguỵ quan Nguyễn Sao chỉ huy; doanh trại làm bằng gỗ lá, bảo vệ bằng hệ thống rào tre và hào sâu; cổng chính kề mặt đường, cửa phụ liền với khu rừng phía sau, cửa phụ chỉ dùng cho bọn lính dẫn ngựa đi chăn hoặc cắt cỏ. Ta tấn công bằng cách: Đạo chính binh có voi trợ chiến phá cổng chính xông vào, đạo kỳ binh bí mật đột nhập theo cổng sau. Ngoài ra, ta cho nhiều toán nghi binh bố trí phía ngoài bắn tên lửa và hò reo trợ chiến. Bị ba mũi giáp công, bọn giặc tất bị thua.
Bình Định Vương tán thưởng kế hoạch.
- Hay lắm! Cần bao nhiêu quân cho trận này?
Lý Sát khảng khái nói:
- Bẩm Chúa thượng! Đánh đêm không cần đông quân. Năm trăm tấn công cửa chính, một trăm cho cửa phụ. Thần xin Chúa thượng giao cho chỉ huy trận này.
Trần Lựu hăng hái tiếp lời:
- Thần nguyện theo giúp quan tư đồ một tay.
Bình Định Vương gật đầu, giơ cánh tay phải, hạ lệnh:
- Ta chấp thuận - Vương nhìn bao quát chư tướng nói tiếp - Tướng quân Nguyễn Chưởng, thiếu uý Bùi Dị, thiếu uý Phạm Vấn mỗi người dẫn một trăm quân làm nhiệm vụ trợ chiến. Thiếu uý Ngô Từ lo liệu khao quân chiến thắng trở về.
Hội nghỉ giải tán. Các tướng trở về bản doanh chuẩn bị cho trận tập kích. Buổi chiều, quân tham chiến rời căn cứ, luồn rừng đến địa điểm tập kết cách đồn Nga Lạc chừng bảy, tám dặm. Đêm khuya, các phân đội áp sát đồn giặc chiếm lĩnh trận địa. Quá nửa đêm, phân đội chính binh bắt sống lính canh, mở cổng lặng lẽ tiến sâu vào sân đồn địch, dàn thành trận thế mới hò reo tiến đánh.
Quân giặc cuống cuồng ngỏm dậy, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Đâu đó vang lên tiếng thét "giết" và tiếng kim khí đập vào vật cứng. "Có biến". Một tiếng kêu, cả lũ nhốn nháo trong đêm tìm vũ khí. Chủ tướng Nguyễn Sao cũng bị bất ngờ như quân lính, hắn xỏ vội chân vào ủng, với thanh đại đao nhào ra cửa, hắn lớn tiếng gọi quân ra chiến đấu.
Lý Sát dẫn đầu phân đội chính binh đánh tràn tới dãy nhà ngang, đánh lấn vào khu trung tâm.
Khu trung tâm cũng đang xảy ra chiến sự. Phân đội kỳ binh do Trần Lựu chỉ huy dùng thang vượt hàng rào cổng sau ùa vào hậu doanh địch, nhưng đêm tối lại chưa quen đường ngang lối tắt mặt sau, chỉ hướng vào nơi có tiếng hò reo mà phát triển nên khi đến sân trung tâm thì Nguyễn Sao đã tập hợp được quân chuẩn bị đối phó với tình thế bị đột kích bất ngờ.
Trần Lựu cầm ngược thanh côn sắt xộc tới, trông thấy tên tướng địch cầm đại đao đứng trước hàng quân, đoán là Nguyễn Sao liền vung gậy sắt quật liền.
Nguyễn Sao là viên nguỵ tướng có sức mạnh, võ nghệ cao nên được Lý Bân giao cho trấn thủ đồn Nga Lạc. Hắn vốn tự phụ thuộc hàng thượng tướng nhưng vì là người Việt nên không được nhà Minh tin dùng, muốn tìm dịp lập công lấy lòng chủ. Hắn xin về trấn thủ trên ngã ba đất nghịch này là có ý ấy. Không ngờ, chưa kịp tiến công đã bị tập kích lâm vào thế bị động.
Nguyễn Sao ỷ vào sức mình chỉ hất đao lên đỡ định sẽ tiện thế chém quặt lại. Ai dè, cú phạt chéo của Trần Lựu quá mạnh khiến Nguyễn Sao lạng người, cây đao suýt tuột khỏi tay. Sao chưa kịp lấy lại thế đã bị luôn một gậy nữa, ngã dúi xuống đất. Trần Lựu huy động gậy sắt đánh vào đội ngũ hình chữ nhật của giặc, nghĩa quân vung mã tấu sấn vào theo. Phân đội chính binh do Lý Sát dẫn đầu hừng hực xô tới. Phía ngoài hàng rào, nhiều đống lửa bốc cháy, tiếng hò reo trợ chiến ầm vang.
Hàng ngũ đông nghịt của giặc tự loạn. Mấy viên phó tướng nắm được mấy phân đội nhỏ cố chống đỡ rồi lợi dụng trời tối trèo rào, vượt hào trốn vào rừng.
Nghĩa quân thắng lớn giết tại trận hơn ba trăm giặc, bắt sống tướng trấn thủ Nguyễn Sao và chiêu hàng nhiều tên khác. Lý Sát cho quân thu chiến lợi phẩm: lương thực, bò, ngựa, vũ khí... nổi lửa thiêu trụi doanh trại rồi trở về căn cứ.
*
Tin Mường Một hao quân, Nga Lạc thiệt tướng tới tấp bay về Đông Quan. Tổng binh mời văn quan võ tướng đến dinh tổng binh bàn kế sách đối phó.
Lý Bân hỏi Hoàng Phúc:
- Ngài có cao kiến gì?
Viên quan chuộng lối cai trị bằng thủ đoạn vỗ về đã cảm thấy biện pháp mềm dẻo không phù hợp với tình thế chủ khách "lưỡng sư tranh châu" dễ dẫn đến tai biến khó lường. Hắn biết chủ tướng sẽ dùng biện pháp mạnh nên thong thả đáp:
- Hạ quan sẵn sàng nghe lệnh chủ tướng!
Lý Bân nhìn các tướng văn võ: Thái giám Sơn Thọ, Hữu tham chính Lục Quảng Bình, An bình bá Lý An, Đô ti Phương Chính, Đô đốc Mã Anh, tham chinh Hồng Bích Lương, giám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu hỏi:
- Chư vị có kế gì hay?
Sơn Thọ - một sủng thần của vua Minh chắp tay về hướng Bắc làm lễ rồi quay sang phía Lý Bân nói:
- Khi phái hạ quan sang Giao Chỉ, đức Minh Thành Tổ có chỉ dụ: "Trẫm không muốn thiên hạ chê trẫm không có lượng bao dung với bọn dân đen ngoài biên cảnh. Hiềm nỗi bọn man di quen thói ngỗ ngược nên việc vỗ yên mãi vẫn chưa xong". Hạ quan trộm nghĩ: Hoàng thượng muốn rảnh yên phương Nam để chuyên lo chống dư đảng của nhà Nguyên ở phương Bắc. Biện pháp nào giải quyết nhanh thì áp dụng biện pháp ấy.
Lục Quảng Bình phân tích:
- Thoạt tính ai cũng cho rằng dùng biện pháp dụ hàng thì nhanh và không tốn kém. Nhưng kế này dùng với bọn cường ngạnh, thì lợi bất cập hại. Kết quả việc tảo thanh "đảng giặc áo đỏ" ở Tây Bắc Giao Chỉ và Tây Nam Vân Nam khiến chúng ta phải xem xét lại kế hoạch hành binh. Bọn giặc là người bản địa, quen thuộc rừng núi, chúng có thể dựa vào rừng núi mà đánh hoặc tránh; khi quân ta rút đi, chúng lại kéo ra phá phách; đánh như vậy thì chục năm thậm chí trăm năm cũng không dứt được nạn can qua. Hạ quan trộm nghĩ, đối với bọn giặc Lam Sơn cần phải tập trung lực lượng đánh một trận cho xong.
Tham tướng Mã Anh ủng hộ kế hoạch "dứt điểm" của Hữu tham chính Lục Quảng Bình, hắn thêm:
- Trừ giặc phải bắt tướng trước. Chuyến xuất quân này không diệt được Lê Lợi thì không lui quân. Dồn đại bộ binh mã đến trấn áp, chúng lẩn vào rừng thì bao vây triệt lương. Khu vực bọn phiến loạn Lam Sơn chiếm giữ hẹp nên tổ chức vây hãm không khó. Bọn giặc mạnh nhất bị diệt, lũ giặc ở nơi khác không đánh cũng phải tan.
Các tướng văn võ ủng hộ mưu kế của Lục Quảng Bình và Mã Anh. Ai cũng công nhận kế hoạch tấn công và vây hãm là hay nhất.
Lý Bân không còn sự lựa chọn nào khác tốt hơn, hắn ra lệnh:
- Ra quân chuyến này phải lấy đầu Lê Lợi bằng được. Bản chức giao quyền chỉ huy cuộc hành quân cho các tướng: Nội quan thái giám Mã Kỳ, Đô đốc chỉ huy sứ Phương Chính, Hữu tham chính Lục Quảng Bình, Đô đốc Chu Quảng và đô chỉ huy Hoàng Thành; điều thêm một vạn quân của Đông Quan, năm ngàn quân của Diễn Châu phối hợp với năm vạn quân của Tây Đô - Hắn hướng về phía Chu Kỳ Hậu nói tiếp: - Ngài giám sát ngự sử thảo lệnh văn buộc vua Ai Lao điều quân phong toả biên giới ngăn không cho tàn binh địch trốn sang đó và khi cần thiết phải phái quân sang ứng cứu.
Mã Kỳ nhận lệnh, rời Đông Quan, về Tây Đô. Tướng và quân từ các nơi bổ sung cho mặt trận Lam Sơn tục tục kéo đến đông đủ. Sau vài cuộc tập kích qui mô vừa vào rừng kết quả không đáng kể, Mã Kỳ chuyển hướng chiến đấu theo lệnh: bao vây cắt lương thực là chính, các cuộc tập kích nếu có cũng chỉ nhằm giữ nhịp cuộc chiến gây hưng phấn lòng quân. Hắn cho lập đồn trại chặn các ngả đường vào căn cứ Chí Linh, bất kể ai mang lương thực đi qua đều bị bắt giữ, nghi là tiếp tế cho nghĩa quân thì chém đầu ngay. Giặc loan tin ai nộp đầu Lê Lợi được nhận chức thượng tướng quân và năm vạn lượng kim ngân.
*
Nhiều thám báo đi thăm dò đường về đều có chung một nhận định tình thế: "địch tổ chức bao vây lớp trong, lớp ngoài rất chặt; trại lính đóng san sát trên các ngả đường lối đi Lỗi Giang, Thường Xuân, Ngọc Lạc, Lam Sơn... các lối mòn trong rừng cũng có lính án ngữ".
Nghĩa quân lâm vào thế tiến thoái đều khó, đã "hơn mười ngày chỉ ăn củ nâu và mật ong, người ngựa đều khốn đốn". Lê Văn Linh bị ốm, chủ yếu do kiệt sức vì đói. Bình Định Vương lo lắm nhưng chưa nghĩ ra được kế thoát hiểm, ông cảm thán:
- Chẳng lẽ trời bắt ta phụ lòng tin của các ngươi! Chẳng lẽ trời bắt ta và các ngươi đắc tội với giang sơn đất nước!
Vương đến gặp Lê Văn Linh nói:
- Giặc ra quân lần này khác trước. Chúng dùng tới bảy vạn lính bao vây phong toả Chí Linh, mọi ngả đường đều bị bịt kín. Ta nghĩ mãi mà không tìm ra kế thoát hiểm.
Lê Văn Linh cố gượng ngồi dậy, thưa:
- Mệnh trời đã trao cho người đức độ, hợp đạo thì thắng, hẳn không thể khác, có chăng tạo hoá bày đặt thêm nỗi gian truân thăng trầm để rèn chí luyện gan, xin Vương thượng bình tâm, sông có khúc người có lúc, sớm muộn thì cũng tìm được kế chu toàn.
Vương bước lại đỡ Lê Văn Linh nằm xuống. Vương ngắm thân hình hao gầy của người cận thần tin cậy, lựa lời an ủi:
- Ta mong tiên sinh mau bình phục. Điều mà tiên sinh giúp ta tốt nhất lúc này là tiên sinh sớm bình phục.
Lê Văn Linh biết Bình Định Vương là bậc hào kiệt của thời loạn lạc, vị minh quân của sự nghiệp dựng nước. Nhưng, dẫu sao thì mọi việc ở đời đều phải có vận hội, thời cơ. Ông thưa:
- Vương thượng dạy vậy, lũ thần càng thêm đắc tội. Thần nghĩ rằng, dù trải qua muôn ngàn gian nguy thành bại thì việc trời đã định ắt không thể khác được; điều cốt yếu là ở những người được giao thiên mệnh có bền gan vững chí không.
Bình Định Vương hài lòng về tính kiên định của viên mưu sĩ. Ông dặt dặt tay trong không khí ra hiệu yên nghỉ rồi lui ra ngoài. Vương gọi Thăng Khánh lại, bảo:
- Lê tiên sinh yếu lắm, ngươi vào rừng, cố kiếm lấy bọng mật ong cho tiên sinh dùng tạm!
Thăng Khánh vâng dạ đi ngay. Rừng Chí Linh hầu như bị nghĩa quân xới tung lên để kiếm thứ ăn. Nghĩa quân tự túc, quan đốc lương Ngô Từ phái nhiều đội vào rừng sâu - khai thác thêm, nhưng hiệu quả nghèo nàn.
Hôm nay, Ngô Từ cũng ra suối kiếm cá. Ngang đường, gặp Thăng Khánh, thấy Khánh có vẻ thiếu tự tin, ông hất đầu hỏi:
- Không tìm được thứ gì à?
Khánh uể oải đáp:
- Mật ít ruồi nhiều, rừng vàng biển bạc mà cứ như lạc trong hoang mạc. Tôi không thạo nghề sơn tràng.
Ngô Từ nghẹo đầu tỏ ý không tin. Trong hoạn nạn mới biết ai là người tri kỷ. Khánh có cái gì đó khá khó hiểu, tựa như cả thèm chóng chán, hăng hái ngay đấy mà cũng thờ ơ ngay đấy. Người có đức hạnh nói lời ngay thẳng kẻ nói điều tốt chưa chắc đã là người đức hạnh. Ông cho Khánh là kẻ thớ lợ, nhưng không chỉ trích, mà nói:
- Đừng giấu tài! Hôm qua ông kiếm được bọng mật ong kia mà! ở rừng phải thạo lắm mới có thể lấy được mật ong.
Khánh gượng cười mặt tê dại vì ngượng. Ban ngày làm việc trái lương tâm, nửa đêm sợ ma gõ cửa. Hôm qua, Khánh vào rừng kiếm cái ăn. Một nghĩa quân xách bọng mật ong về trại, gặp Khánh và biết Khánh đang đi tìm thức ăn cho Bình Định Vương, anh nghĩa quân liền nhường bọng mật cho Khánh. Anh ta bảo: "Quân sĩ có cái ăn mà để Vương thượng đói lòng thì thực đáng xấu hổ". Khánh cũng nghĩ vậy, nhưng trên đường về lại nghĩ khác. Rút cục, bọng mật ong ngọt ngào tới tay Bình Định Vương chỉ còn ít cặn lẫn với xác ong. Bình Định Vương không hiểu điều ẩn khuất đó, Vương sai Khánh mang sang cho Lê Văn Linh. Linh đói nhưng cảm động về tấm lòng đôn hậu của Bình Định Vương nên cũng không ăn, định bụng mang biếu Vương thượng.
Khánh nghĩ vừa thẹn vừa sợ, vua nghi ngờ thì bề tôi nguy hiểm. Hắn muốn tìm lời nói đánh trống lấp chuyện tệ hại ấy. Nhưng lại nghĩ chớ vội vạch áo cho người xem lưng, đành đường ai nấy đi, việc ai nấy lo. Hắn cười xúy xoá rồi bước thẳng.
Ngô Từ rẽ ra suối và đưa mắt tìm chỗ lội xuống nước. Chợt ông trông thấy một người vận võ phục, chít khăn chữ nhân, tay ấn đốc kiếm đứng trên tảng đá lớn bên bờ suối đăm đăm ngắm dòng nước chảy. Ông nhận ra Bình Định Vương và nghĩ bụng: Vương thượng ra đây làm gì? Ngài đang tìm kế phá vây hay cũng đi bắt cá? "Để vua phải lo, bề tôi có tội". Ông bước về phía Bình Định Vương, thầm định mời Vương về nghỉ, còn ông sẽ lần mò khắp suối, sục sạo suốt rừng tìm bằng được thức ăn về dâng nhà vua. Ông bước lại gần, chắp tay:
- Thưa...!
Người đứng bên bờ suối lay kiếm, quay phắt lại khiến lời nói của vị quan trông coi lương thực bị chặt ngang. Ngô Từ ngớ người, định thần nhìn kỹ rồi vỗ tay tỏ vẻ ngạc nhiên. Đấy không phải là Bình Định Vương Lê Lợi mà là quan tư không Lê Lai. Hai vị này vốn có ngoại hình giống nhau, khuôn mặt cũng hao hao.
- Quan tư không trông giống Vương thượng quá!
Lê Lai không hưởng ứng sự so sánh ấy, ông hỏi:
- Quan giám(1) đã tìm ra cách gì chưa?
(1) Giám quan: Chức quan coi việc cung cấp.
Ngô Từ xoè cả hai bàn tay đáp:
- Đệ cử năm đội lẻn ra ngoài tìm lương đều bị đánh bật trở lại. Nhờ rừng, nhưng rừng không cung đốn nổi cho số người ngựa quá đông.
Lê Lai xoay người phẩy tay ra phía trước vừa bước vừa nói:
- Nguy cơ đang chờ sẵn. Chúng ta về thỉnh cầu Vương thượng họp tướng lĩnh tìm kế giải nguy.
Hội nghị tướng lĩnh theo sáng kiến của Lê Lai được nhóm họp nhanh chóng.
Ai cũng muốn thoát khỏi cảnh ngộ bế tắc.
Bình Định Vương nói:
- Tình hình tuy nguy cấp nhưng chưa tới mức vô vọng. Dù vậy, nếu không có kế hay thì quân Minh sẽ ung dung vào nhặt các xác đói lả.
Nguyễn Xí đứng bật dậy lên tiếng:
- Nguy hiểm thử gan, gian nan luyện chí. Chim đại bàng bay trên đỉnh núi cao thì không thể rã cánh trong hẻm núi hẹp. Bẩm Vương thượng! Dù sống gian khổ, tinh thần hổ tướng dũng binh vẫn bền. Thần xin dẫn quân thiết đột ra tử chiến mở vòng vây.
Thăng Khánh gợi ý:
- Kẻ địch ráo riết ban ngày ắt chểnh mảng về đêm, có thể lợi dụng sơ hở ấy.
Ngô Từ bác luôn:
- Quân tôi đã từng làm thế nhưng đều bị đánh bật trở lại.
Đinh Liệt tiếp lời:
- Thần trộm nghĩ quân ta lập thành nhiều đội cảm tử cùng xông ra có thể phá vỡ được vòng vây của giặc.
Phạm Văn Xảo không ủng hộ kế hoạch mạo hiểm, ông lên tiếng:
- Việc phá vây là cần thiết nhưng phải có kế vạn toàn. Nếu chỉ lấy lòng quả cảm đương đầu với địch thì vòng vây giặc chưa vỡ mà nghĩa quân ta đã bị tiêu hao nặng; tiếp đó địch sẽ truy kích ráo riết còn ta thì không có chỗ đứng vững chân; hoạ diệt vong có thể tính ra. Phá vây mà vậy thì phá vây phỏng có ích gì?
Lê Văn An hiến kế:
- Việc chiến trận không nên gượng gạo cầu may. Theo những tin tức tôi nhận được thì mục tiêu ra quân lần này của giặc là đoạt lá cờ đầu. Chúng không che giấu ý đồ đó qua việc chúng công bố thưởng rất hậu cho người có công. Ngọn cờ đã hạ ngày hội ắt tàn. Đánh lừa được thằng giặc như thế thì vòng vây của chúng khắc tan. Kế vẹn toàn nhất lúc này đưa nước vào nồi không bằng rút củi khỏi bếp.
Bình Định Vương giơ chếch bàn tay như muốn ngăn không cho lời nói hay tan đi.
- Diệu kế! Thực là diệu kế! Quả là hết đường lui mới nảy kế hay - Vương liếc mắt nhìn Lê Lai vừa đưa tay lia nhẹ về phía các quan văn tướng võ ân cần hỏi: "Bây giờ ai có thể làm như Kỷ Tín(1) ngày xưa để ta ẩn náu trong rừng núi, mưu tính cử sự mai sau?"
(1) Lưu Bang bị Hạng Võ vây chặt, không thể thoát thân, Kỷ Tín đóng giả Bang để lừa Sở. Tín bị bắt Bang chạy thoát.
Ngô Từ đứng phắt lên, nói lớn:
- Người sống một đời, cỏ cây sống một mùa thực là ngắn ngủi. Biết sống biết chết là cách xử thế của người quân tử. Thần nguyện noi gương Kỷ Tín.
Lê Văn An xua xua tay gạt đi:
- Tấm lòng của Ngô quân thực cao cả. Nhưng hoàn cảnh xưa và nay khác nhau. Kế vạn toàn lúc này là phải có một người hao hao giống Chúa thượng.
Lê Lai nhìn lướt mọi người, chợt nhớ cuộc gặp Ngô Từ bên bờ suối, ông đứng dậy, khảng khái lên tiếng:
- Đại trượng phu nên chết vì danh nghĩa. Trong số người ngồi đây chỉ có thần là thích hợp nhất. Thần nguyện đổi áo bào. Ngày sau đại vương thành nghiệp đế, có được thiên hạ, nhớ đến công thần mà cho con cháu muôn đời của thần chịu ơn nước. Đó là điều thần mong ước.
Bình Định Vương quay người nhìn Lê Lai; Vương vòng tay hướng thiên ngưỡng địa rồi quan sát khắp lượt quần thần, trịnh trọng tuyên thệ:
- Lê Lai có công đổi áo, sau này ta cùng con cháu ta và các tướng tá công thần cùng con cháu họ, nếu không nhớ đến công ấy thì gươm thần này hoá ra dao thường. Thảo điện nọ hoá thành rừng núi, ấn báu kia hoá ra cục đồng, sự nghiệp hiển hách cũng biến thành mây khói.
Nhiều tướng tá lên tiếng ca ngợi sự hi sinh vì nghĩa cả và thề thuỷ chung với lời nguyền của chủ tướng. Bình Định Vương nhìn Lê Lai hỏi:
- Hiền đệ cần bao quân!
Lê Lai đáp:
- Quân ít giặc sinh nghi, quân nhiều khó vận động. Ba trăm quân thiết đột đủ bày nghi vệ là vừa.
Bình Định Vương nói với Ngô Từ:
- Giết ngựa đủ cho ba trăm dũng sĩ ăn uống no nê trước khi xuất trận.
Sáng hôm sau, Lê Lai mặc chiến bào vàng, đội khăn vàng, đi hài vàng, tay cầm bảo kiếm ngồi trên bành voi; hai mươi lực sĩ to cao, hùng tráng đóng vai tuỳ tướng cưỡi ngựa cầm giáo dài, xách đao sắc sóng hàng hai bên. Ba trăm kỵ sĩ cầm kiếm dóng hàng năm bảy trận trước cửa rừng, cờ vàng bay phấp phới, chiêng chống khua vang, nghi vệ trang nghiêm, khí thế tưng bừng.
Lều trại giặc dựng san sát trên mặt đường, hệ thống ngăn chặn phía trước là những lớp rào tre. Tiếng trống báo động vang lên dồn dập. Cửa lều chỉ huy mở rộng, bốn năm người giáp trụ vọt ra, ngửa cổ lớn tiếng gọi. Các viên chỉ huy cưỡi ngựa băm kiệu tới. Lính trong lều trại xách vũ khí ùa ra chen đẩy nhau xếp hàng trên mặt đường.
Tướng chỉ huy tuyến bao vây tiền duyên Dương Tá Anh cưỡi ngựa, cầm đại đao đứng trước đám kỵ mã, nhướn người trên lưng ngựa quan sát thấy nghi vệ xung quanh tướng ngồi trên bành voi toàn màu vàng liền phái người đi phi báo cho các nơi biết "Lê Lợi phá vây".
Nghĩa quân Lam Sơn giơ gươm chĩa giáo lừng lững xung trận.
Viên tướng cưỡi ngựa đứng bên Dương Tá Anh từng nhiều lần giáp chiến với quân Lam Sơn nên biết mặt Lê Lợi, hắn chỉ người mặc phẩm phục màu vàng, cầm kiếm đứng trên bành voi quát lớn:
- Đích thực tên giặc Lợi kia rồi!
Dương Tá Anh hô quân hành tiến phản công; để chắc chắn ngoi lên hàng thượng tướng, hắn dùng số đông áp đảo đối phương. Số đông là quan trọng nhưng lòng quả cảm và quyết tâm chiến đấu mới là yếu tố quyết định thế thượng phong.
Quân Việt đánh lăn sả, không đếm xỉa sự sống chết, thớt voi chiến dữ dằn, hai chục chiến mã hăm hở, ba trăm dũng sĩ can trường đánh tràn lướt, phá vỡ từng mảng đội hình giặc. Dương Tá Anh giơ ngược đại đao vỗ ngựa tới ngăn. Hắn chưa kịp chém ai đã bị Lê Lai phóng lao trúng ngực. Nhân lúc quân địch hoang mang vì mất chủ tướng, Lê Lai rút cây cờ vàng cắm sau bành voi phất đi phất lại, kiếm chỉ phía trước, miệng hô lớn:
- Phá vây! Thẳng tiến!
Quân Minh án ngữ mặt này không ngăn nổi mũi đột kích của đội kỵ mã can trường vội phi báo về đại bản doanh của Mã Kỳ đóng bên bờ sông Chu.
Mã Kỳ chắc tin "con thú rời hang con thú phải chết", hắn ra lệnh:
- Phái thêm quân đuổi theo.
Hữu tham chính Lục Quảng Bình hiến kế:
- Lê Lợi phá vây, không thể để nó cao chạy xa bay. Chủ tướng nên điều quân ở các cánh về chặn đường mà tiêu diệt. Giết được Lê Lợi, dư đảng có còn đứa nào cũng phải bỏ cuộc, loạn Lam Sơn dẹp xong.
Mã Kỳ nghe theo, viễn cảnh tiêu diệt cuộc nổi dậy khó đối phó nhất hiện ra trước mắt... Hắn sai lính đi truyền lệnh cho các tướng Chu Quảng, Hoàng Thành... giải vây Chí Linh dẫn quân vòng sang chặn đánh quân Lam Sơn đang tháo chạy. Hắn đích thân dẫn một ngàn kỵ binh, do tên ái dẫn lối, đi tắt rừng chặn đầu.
Quân Lê Lai đánh cướp đường chạy tới thượng nguồn hợp nguồn sông Chu thì gặp quân kỵ do Mã Kỳ chỉ huy đứng hàng ngang chặn đường.
Quân Việt chỉ còn giải pháp quyết chiến. Dù các cuộc chiến đấu lẻ tẻ dọc đường đã khiến lực lượng nghĩa quân hao hụt, nhưng không vì thế mà họ nhụt chí. Lê Lai thúc voi xông vào hàng ngũ kỵ binh của giặc, kỵ binh ùa lên theo. Kỵ binh giặc toả ra thành hai cánh rồi đánh quặp lại. Quân Chu Quảng, Hoàng Thanh cũng vừa kéo tới.
Lê Lai cùng các chiến sĩ tuỳ tùng tả xung hữu đột; nhưng voi bị ngựa địch làm quẩn chân, ngựa bị ngựa địch vây kín, Lê Lai dùng hết lao, ông giương cung tên nhằm tướng giặc mà bắn. Một viên tướng cưỡi ngựa đứng bên Mã Kỳ bị trúng tên giữa ngực, ngã vật xuống đất. Một viên tướng sóng ngựa đứng liền đó nổi giận lấy cung tên bắn liên tiếp ba phát: Người anh hùng đã làm tròn sứ mệnh. Ông ngửa mặt ngắm trời cao, tay nắm chụm ba đuôi tên ấn mạnh, thà chết không chịu lọt vào bàn tay bẩn thỉu của giặc.
Chủ tướng tử trận, nghĩa quân tiếp tục kháng cự, nhưng khí đã cạn, lực đã tàn, đa số trả xong nợ nước, một số chạy thoát vào rừng, một số thất thế buộc phải hạ khí giới.
Mã Kỳ sai chặt đầu Lê Lai cho vào hòm. Hắn bảo chư tướng:
- Lê Lợi bị giết, quân tướng tan nát cả. Còn tên nào thì cũng chỉ là rắn không đầu.
Hắn hạ lệnh thu quân về Lam Sơn nghỉ ngơi vài ngày.
Quân tướng hò reo khải hoàn. Dân Lam Sơn phải lánh đi nơi khác bỏ lại nhà và đất cho quân Minh dựng lều trại.
Hữu tham chính Lục Quảng Bình phủ dụ:
- Quan quân chỉ tảo phạt giặc cỏ. Lê Lợi làm phản phải đền tội. Người xưa dạy: "Cho vàng bạc dùng sẽ hết, cho lời khuyên hay thì theo mãi càng hay". Ta có lời khuyên: "An phận làm ăn cả đời bình yên, tham điều bạo ngược thân chuốc tai hoạ".
Một lão nông bưng mặt phục xuống đất, trong lòng dấy lên niềm ai oán:
"Trời hại dân ta rồi".
Mã Kỳ chưa hiểu ra ý nghĩa trong hành vi của người già ôm mối thất vọng thì tri phủ La Thông xin vào gặp.
Đả Trung - tướng trấn thủ Tây Đô không được điều động đi đánh Lam Sơn nên tâm trạng lo lắng bị thất sủng. Hắn vớt vát bằng cách sai La Thông dẫn một đoàn người ngựa gánh rượu, thồ lâm hải sản quý và giong hai trăm trâu bò đến Lam Sơn cho Mã Kỳ dùng vào việc quân.
Ngang đường, Thông biết tin quân Minh đã giết được Lê Lợi mừng hết chỗ nói. Nỗi lo của Tây Đô là Lê Lợi, nỗi lo của La Thông cũng là Lê Lợi... Lê Lợi chết, thế là thoát khỏi một hiểm hoạ. Thông đến quân doanh tiền tuyến với vẻ mặt hân hoan không giấu giếm, làm như chính hắn vừa lập nên một kỳ tích.
Mã Kỳ vốn là một gã kiêu ngạo, khó tính, rất tàn bạo... hắn sẵn sàng tỏ thái độ gay gắt kể cả với cấp trên nếu hắn có lý, Nhưng, viên tướng háo thắng này vừa thắng lớn, lòng dạ xởi lởi, tính tình cũng vui vẻ nên thấy La Thông nhơn nhơn tự đắc cũng không ngỏ lời trách cứ. Hắn xem bản kê các vật phẩm đưa tới, cười bảo:
- Đả tướng quân biết mình ngồi nhà hưởng thái bình, nên sai ngươi mang vật phẩm đến khao quân, thực cũng bõ cái công khó nhọc của tướng sĩ.
Nghỉ ngơi ăn uống ba ngày. Mã Kỳ cho quân Đông Đô, Diễn Châu về trước, còn hắn cùng quân bản bộ kéo về thành Tây Đô.
Đả Trung, Lương Nhữ Hốt cho giết hàng ngàn trâu bò hàng vạn gà để khao quân. Mã Kỳ được bốc lên tận mây xanh.
Lương Nhữ Hốt mở hòm đựng thủ cấp Lê Lợi ra xem. Hắn chắp tay xá vong linh người đã khuất, lời nói đượm niềm cảm thán nhưng vẫn không giấu vẻ hả hê:
- Cũng oanh liệt một thời, giờ thì chẳng còn phong độ như xưa! - Hắn nhẹ nhàng đậy nắp hòm rồi vươn thẳng lưng, xoa tay nói tiếp: - Từ nay Hốt này có thể gối cao ngủ yên.
*
Từ ngày Trương Phụ rút quân về nước, Lý Bân được Minh Thành Tổ giao trọng nhậm Tổng binh quận Giao Chỉ. ở nơi xa kinh đô Kim Lăng hàng vạn dặm, Bân trở thành "vua của một nước phên dậu". Bân chiếm Hoàng Cung của triều Trần ở Thăng Long làm đại bản doanh.
Bân đi đi lại lại trong điện Thị Triều - nơi xưa kia vua tôi Đại Việt thiết triều nghị bàn việc nước. Hắn mặc phẩm phục quan văn nhưng vẫn không có tư thế uyển chuyển tao nhã; cử chỉ dứt khoát mạnh mẽ chứng tỏ hắn là một viên tướng quen sống trên lưng ngựa.
Các quan văn võ ngồi trên hai hàng ghế kế hai bên điện, thì thào trao đổi.
Cái triều đình nhỏ này đang đứng trước nhiều nguy cơ. Nổi dậy, binh biến, bạo loạn... đủ loại hình thức khởi nghĩa lan tràn ở tất cả các địa phương: thượng du, trung du, đồng bằng, miền biển. Lại thêm Lương Nhữ Hốt, Đả Trung vừa mới sai người về bẩm: "Người bị Mã Kỳ giết không phải là Lê Lợi mà là Lê Lai".
Phương Chính vung mạnh tay, nói như mắng ai:
- Vậy là ta đã bị lừa! Không thể coi thường tên giặc xảo quyệt ấy. Nó nguy hiểm hơn tất cả bọn khác. Mạt tướng xin được cầm quân vào đó.
Lý Bân lặng im nghe các quan bàn bạc, cân nhắc sự lợi hại của các nguy cơ. Mặc dù Lê Lợi là kẻ lợi hại hơn tất cả bọn khác, nhưng, hắn vừa đại bại, còn sống thì cũng chỉ là đứa ốm nặng, chui lủi trong rừng rậm Thanh Hoá. Trong khi đó, ở ngoài này, bọn phiến loạn nổi lên như cỏ dại gặp mưa xuân.
Trịnh Công Chứng chỉ huy chừng hơn một vạn quân ngang dọc ở vùng đất Hải Dương, Thái Bình... cướp phá các huyện và ty tuần kiểm ở cửa sông, lấn xuống tận Đồ Sơn có khả năng liên kết với cuộc nổi dậy của Phạm Ngọc ở Hải Phòng, nhiều lần chúng đánh phá cầu phà trên sông Nhị Hà gần Đông Quan.
Phạm Ngọc dùng căn cứ Đồ Sơn làm đại bản doanh tự xưng là La Bình Vương, quân dưới trướng có hàng vạn. Nhiều thủ lĩnh các vùng xung quanh mang quân bản bộ đến quy phục, thảy đều được Phạm Ngọc trọng dụng. Bọn Ngọc hoạt động khắp vùng Hải Phòng, ảnh hưởng tới các vùng Đông Triều, Hải Dương - nơi có đám phiến quân Trịnh Công Chứng và bọn giặc cỏ Đào Cường đang hoạt động mạnh.
Lê Ngà - một gia nô của Trần Thiên Lự thuộc dòng dõi nhà Trần - đổi tên là Dương Cung, mạo nhận là cháu ba đời Trần Duệ Tông, mượn gió bẻ măng, dựng cờ dấy binh khôi phục cơ nghiệp nhà Trần. Hắn chiếm vùng rừng núi giáp giới Lạng Sơn- Quảng Ninh làm căn cứ, xưng là Thiên Thượng hoàng đế, đặt niên hiệu Vĩnh Thiên, phong chức tước cho các tướng tá, đúc tiền để sử dụng trong lãnh địa của mình. Bọn Ngà liên tiếp tấn công thành luỹ quân Minh: đốt phá thành Xương Giang, tập kích đồn Bình Than, chặn cướp các đoàn hộ tống cống phẩm...
Tri phủ Nghệ An Phan Liêu uất ức vì bị quan lại tướng tá nhà Minh coi thường, sai khiến như dùng đày tớ, hàng năm phải lóc cóc sang tận Kim Lăng làm lễ triều cận... nên đã liên kết với một số quan lại khác làm binh biến, nổi dậy chiếm huyện Nghi Xuân, giết quan lại người Minh, bao vây tấn công thành Nghệ An. Sau rút lên châu Ngọc Ma. Tri châu Ngọc Ma - Cẩm Trách vứt bỏ chức quan, đem quân bản bộ về với Phan Liêu, giúp Liêu lập căn cứ trên thượng lưu sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu, họ dựa vào rừng núi, liên kết với tù trưởng Lào làm chủ miền thượng du Tây Nam phủ Nghệ An, uy hiếp thành Nghệ An. Lý Bân từng phái Lò Văn Luật - chỉ huy vệ quân Nghệ An đi đánh dẹp. Luật bỏ quân trốn về quê ở Thạch Thất. Bân không bắt được Luật liền bắt mẹ, vợ con Luật. Luật nổi giận chiêu tập nghĩa quân đánh phá Thạch Thất. Quân Minh đến đàn áp, Luật chống không nổi dẫn tàn binh chạy sang Ai Lao. Quân Minh dồn hàng trăm người vào hang Phật Tích thuộc núi An - Sầu rồi thiêu chết. Quân Minh rút đi, quân Luật lại kéo về hoạt động.
Bân xếp đặt lệnh tiễn, tín bài ấn dấu trên án thư, đứng dậy dõng dạc nói:
- Trước mắt ta có nhiều việc phải làm, nhưng không thể vừa leo núi vừa xuống sông. Các tướng nghe lệnh! Đô đốc Phương Chính dẫn năm ngàn quân, một ngàn ngựa đi Đồng Lợi bắt bọn Trịnh Công Chứng, hạn kỳ là hai tháng, ông về sớm để cùng ta lo việc khác. Đô đốc tham tướng Mã Anh chỉ huy một vạn binh mã thuỷ bộ xuống Đồ Sơn lấy đầu bọn Phạm Ngọc, dẹp xong giặc Ngọc thì đưa quân sang Thạch Thất tiến đánh Lò Văn Luật. An bình bá Lý An điều khiển năm ngàn binh mã lên Lạng Sơn dẹp loạn Lê Ngà. Đô chỉ huy Tiết Tụ và Đô chỉ huy Sư Hựu mỗi tướng cầm ba ngàn quân vào Nghệ An phối hợp với Thái Phúc tiêu diệt lũ khốn Phan Liêu.
Các cánh quân đang trên đường ra mặt trận thì sứ giả triều Minh tới Đông Quan truyền đạt chỉ dụ của vua Minh.
Sứ giả nói:
- Hoàng đế bận tâm về cuộc nổi loạn của Lê Ngà, có ý trách phạt ngài. Nhưng nhờ có các đại thần Dương Sĩ Kỳ, Dương Vinh biện luận lẽ hơn thua, nhà vua mới nguôi.
Lý Bân giật mình. Dương Cung chính là cái tên giả của Lê Ngà, do đâu mà vua Minh biết được nội tình ấy? Chẳng lẽ tổng binh Quảng Tây - Cố Hưng Tổ ngầm tâu về triều? Việc Giao Chỉ nhiễu loạn, Bân đều có bản tường trình, tại sao Minh Thành Tổ chỉ quan tâm tới loạn Lê Ngà? Do Lê Ngà xưng đế hiệu hay do muốn bảo vệ hành lang Kim Lăng - Đông Quan? Bân nhân việc "đội lốt mượn danh" của Lê Ngà, nghĩ ra kế tòng quyền của mình:
- Loạn Lê Ngà đã dẹp yên, chỉ còn vài đám lẩn trốn trong rừng, quan quân đang truy bắt. Hiện đã bắt được Ngà. Tôi sẽ cho đóng cũi theo sau xe ngài về triều.
Lý Bân thu tiếp sứ giả nồng hậu, các tặng vật trao tay sứ giả nhiều chẳng kém cống vật dâng về triều. Sứ giả hài lòng; thấy Lý Bân đã có tuổi mà vẫn lao tâm khổ tứ ở ngoài biên ải càng thông cảm hơn. Sứ giả gặng hỏi:
- Tổng binh có muốn dặn ngoài điều gì không?
Lý Bân chắp hai tay một cách trân trọng đáp:
- Bân này làm tướng nơi viễn xứ, có nhiều công việc nhưng không thể vừa chăng lưới vừa giương cung lòng thực lo sợ. Quan thượng thư ngày ngày chầu bên cửa khuyết, được bái yết thiên nhan, mong ngài chiếu cố tướng ngoài quan ải mà tâu giùm. Những điều tâu xin của Giao Chỉ, Bân đều ghi trong bản sớ - Ông ta ngừng lời giây lát để suy ngẫm, rồi nói tiếp: - Quận Giao Chỉ phải động binh luôn, người ngựa và lương thảo hao hụt nhanh mà bổ sung lại chậm. Bân muốn mở thêm đồn điền trồng cây lương thực, cho bọn nguỵ quan phạm tội được nộp thóc chuộc tội và bắt dân bản địa cứ hai suất đinh nộp một người vào lính... - Ông ta lại ngừng lời để đắn đo, cuối cùng không đề cập tới việc cầu viện binh từ chính quốc sang mà chuyển ý khác: - Bân xin triều đình cho rộng quyền đối với bọn Ai Lao.
Sứ giả nhận lời, mang bản tâu và giải Lê Ngà về Kim Lăng, Minh Thành Tổ sai chém Lê Ngà bêu đầu ngoài cổng thành làm gương - không phải răn đe dân Giao Chỉ mà nhằm khủng bố tinh thần các hào kiệt miền Hoa Nam Trung Quốc đang dựng cờ "thế thiên hành đạo".
Nhà Minh mới giành được đất nước từ tay Nguyên Mông, hậu duệ nhà Nguyên lập nước Thát Đát để lo khôi phục lại vị thế ở Trung Quốc. Mấy triều đại nhà Minh vừa phải chống đỡ nạn ngoại xâm vừa phải lo đối phó với thảm cảnh “cốt nhục tương tàn” vì tranh giành chỗ ngồi trong chiếc ngai vàng. Thời Minh Thành Tổ cũng vậy, lực lượng bị thu hút vào đó, các vụ việc khác xử lý tạm thời theo tình huống, nhà vua không chọn được giải pháp phù hợp với vấn đề Giao Chỉ. Nhưng dù gì đi nữa thì bản chất của một đường lối chính trị bành trướng vẫn chi phối mọi chủ trương chính sách của nhà Minh. Thành Tổ muốn yên bề vùng cực Nam để lo chống Bắc Khấu xâm lược nên điều quân từ Vân Nam, Tứ Xuyên sang tăng viện cho Giao Chỉ và cử Vĩnh Xương bá Trần Trí làm Tả tham tướng đến Đông Quan giúp Lý Bân. Nhà vua ra chỉ dụ:
- Phải tìm mọi phương lược để chóng được thành công!
*
Chu Quảng và Hoàng Thanh tuân theo mệnh lệnh kiềm chế của Lý Bân không chủ động mở các cuộc tấn công nhưng vẫn luân phiên dẫn quân đi tuần tiễu các con sông, đường huyết mạch dẫn vào căn cứ Lam Sơn, thị uy là chính. Nhưng, chó thường cậy thế chủ mà hung hăng hơn chủ. Tuần kiểm Lương Hướng hay dẫn quân đi sục sạo tìm dịp lập công, nhiều lần hắn mon men, dò dẫm vào căn cứ khá sâu. Nghĩa quân án binh nên hắn càng đắc ý.
Bình Định Vương tranh thủ thời cơ để chiêu mộ nghĩa quân, tích trữ lương thảo, huấn luyện tướng sĩ mua sắm khí giới, voi ngựa. Quân thế lại lên.
Một buổi chầu, Bình Định Vương nói với chư tướng:
- Hai tên Quảng, Thanh thực hiện bao vây kiềm chế là tuân theo âm mưu nước chảy đá mòn của Lý Bân. Ta ngồi chờ là mắc mưu Bân. Thằng Hướng vào sâu mà không bị chặn đánh, ắt sinh chủ quan, bước đầu hãy trừng trị tên giặc ấy!
Quan hầu cận Thăng Khánh thưa:
- Thần trộm nghĩ: Lúc này chỉ nên tích luỹ lực lượng không nên khiêu khích địch.
Lê Văn Linh bàn:
- Việc quân cẩn trọng là cần thiết, nhưng quá cẩn thận sẽ mất thời cơ. Con chim ra ràng không chịu mạo hiểm rời cành tập bay thì chẳng khi nào biết bay.
Nguyễn Xí đứng dậy, vằng mạnh tay thưa:
- Bẩm Vương thượng! Tướng sĩ thao luyện mười tám ban võ nghệ đã lâu ngày, khí thế đang hăng, nếu được ra trận hẳn một địch được mười.
Vương bằng lòng, bảo:
- Không thể dùng dằng chờ quân đông lương nhiều. Ta đánh vỡ nhuệ khí giặc để kích thích tinh thần tướng sĩ và báo cho xa gần biết Lam Sơn vẫn đánh giặc. Lam Sơn còn tức là cờ tụ nghĩa vẫn bay.
Vương nghiêng đầu nhìn chếch về phía khoảng trời cao không bị ngọn cây um tùm che kín, nói tiếp:
- Địch thường hành quân trên đường qua Mường Một, hẳn muốn ngăn không cho quân ta phát triển sang Quỳ Châu. Chặn đánh chúng ở đấy! - Vương chỉ Nguyễn Xí, Trần Lựu, Lý Sát ra lệnh: - Xí dẫn hai trăm quân thiết đột khiêu chiến, Lựu chỉ huy hai trăm quân phục kích, Sát chỉ huy ba trăm quân sẵn sàng ứng chiến.
Các tướng lĩnh mệnh, điểm quân đi ngay.
Nguyễn Xí và hai trăm dũng sĩ nghênh ngang đi qua Mường Một, gặp tuần kiểm Thường Xuân chỉ huy một trăm ngụy binh đi tuần, Xí hô quân xô vào đánh. Cuộc chiến đang lúc quyết liệt thì tuần kiểm Lương Hướng dẫn ba trăm quân tới tiếp ứng. Quân Xí vừa đành vừa lùi... Nguỵ quân ráo riết đuổi theo. Địch truy đuổi đang hăng thì bất chợt nghĩa quân phục hai bên đường ào ra chém giết, quân bị truy đuổi cũng biến hậu quân thành tiền quân đánh quặt lại. Tuần kiểm Thường Xuân bị Trần Lựu đâm chết ngay từ phút đầu. Thấy Lương Hướng mùa gươm hò hét chỉ huy, Nguyễn Xí sấn tới giơ đại đao chém bể lưng con chó săn nhiễu sự. Phần lớn quân giặc bị tiêu diệt tại trận hoặc đầu hàng, chỉ vài chục tên nhân lúc nhốn nháo lẻn vào rừng là thoát.
Chu Quảng, Hoàng Thanh mang quân tới cứu nguy. Nghĩa quân vòng theo lối tắt phục kích đón đầu đánh tiêu hao giặc rồi rút.
Chu Quảng không dám chủ động mở cuộc tiến công nên phi báo về Đông Quan.
Lý Bân sai viết thư lệnh cho bọn Chu Quảng:
- Ngăn chặn là chính, không khinh động; đợi dẹp xong các cuộc bạo loạn ở ngoài Bắc sẽ tính đến Lam Sơn.
Chu Quảng nhận được lệnh liền cho tu bổ, sửa sang thành Khả Lam, thành Nga Lạc, thành Quan Du dùng chúng làm căn cứ ngăn chặn kiềm chế đối phương. Bình Định Vương mở cuộc tấn công vào thành Khả Lam nhưng không phá nổi toà thành xây dựng kiên cố. Một cái gai gây tức mắt, một tảng đá chặn ngang đường không sao hất đi được. Lê Văn Linh tâu riêng với Bình Định Vương:
- Lúc này tiêu hao quân vào việc đánh thành là việc không nên. Quân ta tuy đã mạnh cũng chỉ nên tổ chức các trận đột kích, phục kích vừa sức. Nếu không có phương lược phù hợp thì chính ta đưa ta đến chỗ lâm nguy. Thần mong Vương thượng sáng suốt soi xét.
Vương cho là đúng nên họp Hội đồng tướng lĩnh nêu vấn đề:
- Giặc dùng kế cầm quân ta ở đây, đợi rảnh tay ở các nơi khác sẽ dồn lực lượng tới tấn công. Ngồi đợi giặc mạnh là thất sách. Ta muốn đưa quân lên vùng Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ... Đặt đại bản doanh trên đất Mường Kiệt thuộc thượng lưu Lỗi Giang; từ Mường Kiệt phát triển sang Mường Thôi. Các nơi đó tuy người không đông, lương thực không dồi dào nhưng vẫn có thể tuyển quân, bổ sung lương; ngoài ra, ở đó gần đường biên giới có thể liên hệ với các tù trưởng Ai Lao. Các tướng nghĩ sao?
Phạm Văn Xảo thưa:
- Nhìn nhận tình thế trước mắt thì ý định ấy của Vương thượng là vô cùng sáng suốt. Thần trộm nghĩ, Lô Sơn là vùng núi có thể gây dựng thành căn cứ dự phòng. Muốn tiến sang vùng Quan Hoá, Bá Thước, Cẩm Thuỷ... trước hết phải làm chủ vùng Mường Thôi, Lô Sơn, Mường Kiệt.
Phương lược chuyển địa bàn hoạt động được hội đồng tướng lĩnh nhất trí ủng hộ. Nghĩa quân xuyên qua rừng rậm đầm lầy vượt huyện Lỗi Giang tiến vào rặng núi Lô Sơn hoang vu, hiểm trở nằm bên tả ngạn sông Luông. Tới đây, Vương phái quân đi phủ dụ Mường Thôi, xây dựng Mường Thôi thành căn cứ kháng chiến.
Nghĩa quân đang chuẩn bị doanh trại thì có một tốp người Lào dắt theo ba con voi thồ nặng lương thực và hai mươi con ngựa khoẻ mạnh tới. Gặp Nguyễn Xí dắt chó đi bên bìa rừng Mường Thôi, ba người to lớn ăn vận trang phục Lào vừa bước lại vừa gọi:
- Xí! Thiếu uý Xí!
Nguyễn Xí quay lại, ngỡ ai hoá ra Trịnh Khả, Trịnh Đồ, Trương Lôi. Nguyễn Xí chưa kịp hỏi Trịnh Khả đã lên tiếng:
- Bọn mình định về Lam Sơn, nhưng tới Thường Xuân thì biết tin quân ta đã di chuyển. Dò hỏi, tìm hiểu mất mươi ngày mới thấy dấu vết... Thôi, dẫn bọn mình về gặp Vương thượng.
Bình Định Vương tiếp các phái viên với sự ân cần chân thành đủ thoả lòng những người từng trải qua bao phen khó nhọc gian lao vì sự nghiệp chung.
Trịnh Khả thông báo cho Vương biết vua Lào nhận lời ủng hộ công cuộc chống ngoại xâm của Lam Sơn.
Vương khen:
- Vậy thì thực là tốt! Công của ba người rất lớn! Từ nay, ta giao cho Trịnh Đồ, Trương Lôi đảm nhiệm giữ quan hệ với nước Ai Lao; Trịnh Khả ở lại để giúp ta lo việc quân.
Từ ngày mở rộng địa bàn hoạt động, nghĩa quân Lam Sơn lớn mạnh dần, người đến xin gia nhập nghĩa binh ngày một đông, lương thảo cũng tích luỹ ngày một nhiều.
Đại bản doanh của nghĩa quân đóng ở Mường Thôi nhưng vùng ảnh hưởng toả ra khắp Quan Hoá, Bá Thước và Cẩm Thuỷ.
Nhưng thời gian hoà bình để chuẩn bị lực lượng của nghĩa quân không còn nữa.
*
Ảnh hưởng to lớn của các cuộc nổi dậy trên khắp cõi Đại Việt đã khiến thượng thư Trần Hiệp không yên tâm. Hắn mật tấu về triều đình về sự táo tợn của dân bản xứ và sự trì trệ lười biếng của quân chiếm đóng.
Minh Thành Tổ nổi giận, đổ hết mọi tội lỗi lên đầu Lý Bân. Dương Sĩ Kỳ và Dương Vinh hết sức can ngăn, giảng giải về những khó khăn muôn thuở do dân bản địa gây nên và quân chiếm đóng vấp phải. Thành Tổ mới nguôi, nhà vua ra khẩu dụ sai binh bộ thượng thư gửi mệnh lệnh sang Đông Quan cho Lý Bân:
"Giặc phản là bọn Phan Liêu, Lê Lợi, Xa Tam, Nông Văn Lịch... đến nay chưa bắt được thì binh bao giờ mới được nghỉ, dân bao giờ mới được yên. Phải dùng mọi phương lược để chóng dẹp yên".
Lý Bân nhận được mệnh lệnh đốc chiến khi các cuộc đánh dẹp ở Bắc Hà vẫn chưa xong. Quan quân đến đánh, quân khởi nghĩa đánh lại, nếu thua họ rút vào rừng, hoặc lẩn quất trong dân, quan quân kéo đi, họ lại trở về tiếp tục hoạt động... Tuy vậy, các cuộc khởi nghĩa này đã bị tổn thất nặng, việc hoạt động trở lại cũng chỉ như nhúm lửa lom dom. Vấn đề đáng ngại nhất lúc này là Lam Sơn. Khi quan quân bận đánh dẹp các nơi thì Lam Sơn ung dung tích luỹ lực lượng. Lý Bân quyết định điều mười vạn binh mã đi đánh dẹp Lam Sơn, gọi Phương Chính mang quân về phối hợp và sai người vào Quỳ Châu giục tri châu Cầm Lạn mang quân đến hỗ công.
*
Trung tuần tháng 11 năm 1420, quân Minh rầm rộ lên đường. Lý Bân nắm trung quân, Phương Chính chỉ huy tiền quân.
Phương Chính, Cầm Lạn cưỡi ngựa sóng hàng thủng thẳng bước giữa hàng quân rồng rắn.
Phương Chính gõ nhẹ roi ngựa vào lòng bàn tay với vẻ vừa lòng:
- Mùa thu đi qua, mùa đông chợt tới... Trời dành thời tiết này cho những cuộc hành quân xa - Hắn chỉ đoạn đường um tùm cây cối sát bờ sông nói tiếp: - Qua đoạn đường ấy sẽ nghỉ ăn trưa. Chiều nay đi qua Thi Lang, tối hạ trại ở Mường Kiệt; chiều mai có thể tới Mường Thôi. Chuyến này đạo Cham bị một phen bất ngờ vỡ mật.
Quân Minh đi vào đoạn đường hẹp, một bên là sông, một bên là núi. Phương Chính, Cầm Lãn dừng ngựa đứng tránh ra bên, nhường đường cho lính đi. Chính giơ roi chỉ Đông chỉ Tây, rừng nhấp nhô bạt ngàn xanh thẳm một màu nhận xét:
- Bao la bí hiểm quá!
Cầm Lãn chỉ roi ngựa về phía xa nữa, mạn Mường Thôi giới thiệu:
- Miệt nớ núi rừng, sông suối, cây cối hùng vĩ hơn nhiều.
Chính chỉ kịp gật đầu, chưa kịp nói, tiếng pháo đã nổ vang tiếp đến là tiếng hò hét, kêu la kéo dài suốt đoạn đường hẹp. Quân lính trên đường sững lại, nhớn nhác nhìn chủ tướng.
Cầm Lãn giật nhẹ cương ngựa, nghiêng mình về phía Phương Chính hỏi:
- Gặp phục binh?
Phương Chính gõ roi ngựa vào vai một kỵ mã đứng bên bảo:
- Phi lên xem sao?
Một lúc sau kỵ mã phi ngựa trở lại báo:
- Quân ta thiệt hại ba trăm người, quân Việt đã luồn rừng bỏ đi.
Phương Chính quật mạnh roi xuống đầu ngựa khiến con ngựa tung bổng vó hí rầm rĩ. Chính vừa ghìm ngựa vừa hầm hè. Hắn hạ lệnh cho một bộ phận ở lại thu dọn chiến trường, còn đại quân tiếp tục tiến cho kịp cung đường.
Lý Bân ở trung quân được tin "tiền quân gặp đối phương" liền cùng hai tuỳ tướng phi ngựa lên xem xét.
Phương Chính hằn học thông báo:
- Bọn rợ cút cả rồi!
Lý Bân nhấp nhổm trên lưng ngựa, tỏ vẻ nôn nóng:
- Chúng chưa kịp chạy xa! Phải kíp đuổi theo, đừng để chúng lẩn mất.
Quân Minh được lệnh khẩn trương nấu cơm ăn và khẩn trương đuổi theo. Lý Bân, Phương Chính cùng các tướng thân đi đôn đốc quân lính.
Sau khi ăn uống no nê, quân Minh trương cờ, vác ngược giáo hăm hở hành quân. Đường đi nơi rộng nơi hẹp, chỗ lên chỗ xuống, cây cối chìa cành um tùm ra lề đường, ngựa xe đi đều khó. Quân Minh chỉ có thể sóng hàng ba mà tiến, đoàn quân kéo dài tới mươi dặm.
Đi qua một vùng núi trùng trùng điệp điệp, nhìn lên không thấy trời, nhìn xuống chỉ thấy cây lớn, cây nhỏ chằng chịt, sông Mã được nước sông Lỗi Giang, sông Luông cùng dồn vào gầm réo ầm ầm... Lý Bân chỉ roi hỏi nguỵ quan Cầm Lãn:
- Đây là đâu?
Viên quan hướng đạo đáp:
- Bẩm, đây là Thi Lang!
Lý Bân cảm thấy không yên lòng. Nơi này mà gặp phục binh thì nguy. Hắn biết, quân trong tay hắn rất đông, ở nơi bình địa có thể phá vỡ một thành luỹ kiên cố mà không gặp mấy khó khăn, nhưng ở đây hành quân trên con đường độc đạo, đội hình dàn mỏng kéo dài, khó tiến công lại dễ bị đánh chia cắt. Hắn toan tham khảo ý kiến Phương Chính về cách ứng biến thì tiếng pháo và tù và xung trận đã vang lên.
Sau trận mưa tên, lao tiêu diệt hàng trăm giặc là bộ binh sử dụng trường kiếm, đoản đao, giáo dài xung trận. Quân Việt đông không biết bao nhiêu mà kể từ nơi ẩn náu bên bìa rừng nhất loạt ào ra chia quân Minh thành nhiều mảng mà tiêu diệt. Các tướng nghĩa quân cứ nhằm tướng tá giặc mà xông tới. Bị bất ngờ, quân Minh vẫn chống đỡ quyết liệt nhưng thất thế, lần lượt bị giết quang từng mảng. Hàng ngàn xác giặc phơi trên mặt đường, hàng trăm ngựa bị lùa đi!
ở phía ngoài, Lý Bân vỗ ngựa hô quân xông vào tiếp ứng. Phương Chính lật đật nắm cương ngựa của chủ tướng kìm lại. Hắn khẩn khoản can ngăn:
- Địa hình hiểm trở, nhiều bất trắc, khó lường hết an nguy. Nếu phải chết hãy để bọn tướng lĩnh chúng tôi làm phận sự của mình. Nhưng xem ra bọn Việt mạnh lắm, không thể coi thường. Quân tổng binh mệnh hệ nào thì toàn cõi Giao Châu sẽ rung động. Theo thiển nghĩ của tôi thì nên lui quân.
Lý Bân nghe ra, quay đầu ngựa chạy về. Phương Chính và kỵ mã tuỳ tùng phi ngựa theo sau.
Tướng chạy quân tất loạn. Mệnh lệnh "Rút lui" truyền ra lại như bị nạn nước lũ gặp thêm cơn triều cường. Quân Minh xô đẩy nhau lấy đường tháo chạy.
"Nghĩa quân thừa thắng đuổi theo sáu ngày đêm mới thôi".
*
Bình Định Vương thu quân thắng lợi về trại, họp chư tướng nói:
- Quân ta đã mạnh, nhân đà thắng ta tiến sang Lỗi Giang, tính việc giải phóng Tây Đô, dùng Tây Đô làm bàn đạp thu hồi Thanh Hoá, dùng Thanh Hoá làm bàn đạp tiến ra giải phóng Đông Đô. Chứ cứ ru rú ngồi đây thì việc lớn bao giờ mới xong.
Chư tướng đều ủng hộ.
Tháng 12 năm 1420, Bình Định Vương chuyển Đại bản doanh về Lỗi Giang, lập ải Ba Lẫm thành căn cứ uy hiếp Tây Đô và quan sát vùng Ninh Bình, Hoà Bình. ..
Lê Văn Linh thưa:
- Quân thế đang mạnh, thần trộm nghĩ Vương thượng nên truyền hịch đi các nơi để chiêu mộ hào kiệt.
Vương nghe lời cho quan truyền hịch đi phủ dụ chiêu mộ dân chúng các xứ.
Không đâu là không hưởng ứng.
Thời gian này, một thủ lĩnh nghĩa quân dẫn đạo quân hai nghìn người ngựa đến tụ nghĩa. Đó là Nguyễn Chích - con hổ xám hùng cứ hai dãy núi Nghiêu Sơn, Hoàng Sơn, tung hoành xuôi ngược hai bờ sông Hoàng Giang, hoạt động khắp vùng Đông Sơn, Nông Cống, Tĩnh Gia, Bắc Nghệ An... từng dẫn quân đánh phá thành Nghệ An. Quân Minh kéo hàng vạn quân tới đàn áp cũng không làm gì nổi. Nguyễn Chích biết mình thân cô thế cô không thể dựng thành cơ nghiệp nên có ý nghe ngóng bốn phương tìm minh chủ. Khi được tin Bình Định Vương dựng cờ dấy nghĩa, ông phái một tướng tâm phúc đến Lam Sơn đầu quân để có cơ hội gần gũi, điều tra đức độ tài năng và chí khí của Lê Lợi. Nhận được hồi âm "Bình Định Vương là bậc anh quân được trời trao kiếm "Thuận Thiên hành đạo" nên tôn thờ". Nguyễn Chích liền đốc suất toàn bộ binh mã, lương thảo hành quân ra Lỗi Giang xin tụ nghĩa.
Bình Định Vương mừng lắm. Mừng được thêm quân nhưng mừng hơn là lá cờ Lam Sơn đã vẫy gọi được anh hùng hào kiệt tới.
Vương muốn nhổ các gai nhọn bên hông hậu phương liền sai Lý Sát, Lê Hào đi giải quyết các đồn Khả Lam, Nga Lạc.
Lý Sát mang quân đến Khả Lam khiêu chiến. Đô chỉ huy Hoàng Thanh trấn thủ đồn Khả Lam không dám ra đánh. Đêm đêm Lý Sát tập kích rất quyết liệt. Hoàng Thanh bỏ Khả Lưu, cùng tướng Tạ Phương chia quân đóng giữ các đồn Nga Lạc, Quan Du.
Lý Sát, Lê Hào tập kích Nga Lạc, đêm đánh ngày đánh khá dữ dội. Hoàng Thanh bỏ Nga Lạc dồn quân vào Quan Du.
Lý Sát, Lê Hào dồn quân tới bao vây Quan Du, sau nhiều trận khiêu khích quấy rối nghi binh. Một đêm cuối tháng 12 năm 1420, nghĩa binh tập kích đột nhập Quan Du, tiêu diệt một nghìn tên, thu nhiều quân trang, vũ khí.
Thanh và Phương nhặt tàn quân chạy vào Tây Đô - một vùng hậu phương rộng lớn nằm dưới quyền nghĩa quân.