“Gần 50 năm qua, tôi vẫn luôn day dứt vì không hoàn thành lời hứa với đồng đội trước lúc ngã xuống trong một trận đánh lớn diễn ra trên đất bạn...”. Sau lời tâm sự ấy, Đại tá, cựu chiến binh (CCB) Lê Anh Bút, nguyên cán bộ nghiên cứu Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự (Bộ Quốc phòng), đã kể lại trận chiến phá tuyến phòng thủ Nam Tra mà ông từng tham gia.
“Rồng xanh 312”
Đầu năm 1972, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 được Mặt trận 31 giao nhiệm vụ đánh chiếm tuyến phòng thủ Nam Tra, phía đông nam thủ phủ Long Chẹng của quân phỉ Vàng Pao thuộc huyện Xaisomboun, tỉnh Xiengkhouang (Lào). Tuyến phòng thủ Nam Tra gồm 3 cao điểm, độ cao trung bình 2.100m so với mực nước biển. Địa hình phức tạp, hiểm trở, dốc cao, vực sâu, đá tai mèo, khó khăn tiếp cận lực lượng và phương tiện chiến đấu.
Tuyến phòng thủ Nam Tra được ví là “hành lang nhà trời”, tướng phỉ Vàng Pao từng tuyên bố: “Nam Tra bất khả xâm phạm, cộng sản vào không có đường ra”. Tại đây, địch xây dựng hệ thống phòng thủ liên hoàn, có công sự, giao thông hào kiên cố, với một tiểu đoàn bộ binh khoảng 500 tên, một trận địa sơn pháo 4 khẩu, trạm quan sát hàng không, mặt đất. Các trận địa pháo từ Long Chẹng, máy bay các sân bay ở Viêng Chăn, ở Thái Lan sẵn sàng chi viện khi bị ta tiến công. Tuyến phòng thủ Nam Tra như “cánh cửa thép” của thủ phủ Long Chẹng, khống chế cả khu vực rộng lớn Sảm Thông, Cánh Đồng Chum-Xiengkhouang.
Sau khi trinh sát thực địa và chuẩn bị lực lượng chu đáo, Trung đoàn 165 sử dụng trung đội luồn sâu gồm 20 cán bộ, chiến sĩ do Trung đội trưởng Trương Mạnh Quyền chỉ huy, bí mật tiếp cận mục tiêu sở chỉ huy địch đánh từ trong ra, đồng thời tổ chức hai tiểu đoàn bộ binh với sự chi viện của pháo binh mặt trận đánh từ ngoài vào nhằm tiêu diệt toàn bộ lực lượng ở cao điểm 1 và 2. Một đại đội bộ binh kết hợp với hỏa lực trung đoàn khống chế, bao vây cao điểm 3, không cho địch ra ứng cứu hoặc chạy vào Long Chẹng. Giờ G ấn định cùng đồng loạt nổ súng tấn công là 1 giờ ngày 19-2-1972.
Di ảnh liệt sĩ Trương Mạnh Quyền.
30 phút nữa mới đến giờ nổ súng. Tại khu vực gần sở chỉ huy địch, trung đội luồn sâu đang tiếp cận mục tiêu, bộ đội ta và địch bắn nhau dữ dội. Trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông nhận định: Trung đội luồn sâu đã bị lộ, địch đang bao vây trong cứ điểm. Ông ra lệnh qua máy bộ đàm cho các hướng, các mũi tấn công theo hiệp đồng. Bộ đội ta đồng loạt tấn công. Địch chống trả quyết liệt. Pháo địch từ Long Chẹng bắn ra, máy bay phản lực quần thảo, thả bom, bắn phá các khu vực quân ta tiếp cận. Đại tá Lê Anh Bút bồi hồi kể: “Sau gần 30 phút cơ động, tấn công, chúng tôi làm chủ được một phần sở chỉ huy địch, nhưng trung đội luồn sâu hy sinh gần hết. Thi thể của Trung đội trưởng Trương Mạnh Quyền bị bọn phỉ xâm phạm. Những người lính chúng tôi đã từng chứng kiến bao sự hy sinh của đồng đội nhưng chưa bao giờ thấy sự dã man như thế. Chính trị viên các đơn vị kêu gọi, động viên cán bộ, chiến sĩ hãy bình tĩnh, mưu trí, anh dũng chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, trả thù cho đồng đội”.
Thế rồi, Khẩu đội trưởng ĐKZ Phan Tiến Giáo một mình vác nòng ĐKZ82 nặng hơn 70kg vượt đồi lên tận hàng rào để đồng đội bắn tung hỏa điểm, công sự địch; Khẩu đội trưởng cối 82mm Đặng Văn Tùng cùng hai chiến sĩ Lê Tiến Nhật, Vũ Thuần Nho lấy đạn pháo của địch bắn vào khu vực địch co cụm. Rồi xạ thủ Bùi Phan Hùng, sau khi bắn 8 quả đạn B41, không còn đủ sức cơ động, đồng đội đến lau những giọt máu rỉ ra từ tai và mũi của anh. Các điểm hỏa lực địch bị quân ta tiêu diệt, số sống sót co cụm lại góc đồi chống trả. Lực lượng bộ binh ta từ các hướng bao vây. Trong công sự, dưới giao thông hào, lính Vàng Pao gọi ra: “Lục nhom tha! Lục nhom tha!” (Con xin hàng! Con xin hàng!). Bộ đội ta vừa bắn vừa hô to: “Nhom bô tai! Nhom bô tai!” (Giơ tay lên! Giơ tay lên!). Gần 50 lính Vàng Pao bỏ súng, giơ tay đầu hàng.
Sau gần hai giờ chiến đấu ác liệt, Trung đoàn 165 đã làm chủ hoàn toàn tuyến phòng thủ Nam Tra. Tiểu đoàn bộ binh địch bị tiêu diệt, ta bắt sống gần 100 tù binh, trong đó có tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng. Tối cùng ngày, đài BBC bình luận: “Rạng sáng nay, “con rồng xanh 312” đã phun lửa thiêu trụi tuyến phòng thủ Nam Tra của tướng phỉ Vàng Pao”.
Lời hứa không thực hiện được
18 giờ ngày 18-2-1972, trước giờ vào đánh chiếm sở chỉ huy Nam Tra, Trung đội trưởng Trương Mạnh Quyền cầm đôi dép tông sang hầm trú ẩn của Lê Anh Bút, nói: “Bút ơi! Nếu sống về được, nhờ mi đưa đôi dép cho mẹ tau đi nhé!”. Lê Anh Bút cầm đôi dép gói lại gọn gàng rồi bỏ vào ba lô. “Quê yên tâm! Nếu còn được trở về, tau nhất định sẽ đến nhà mẹ mi. Vào hang cọp, mi phải mưu trí và quyết đoán. Chúc quê bình an trở về!”. Hai người bạn chung chiến hào hút chung điếu thuốc lào rồi chia tay nhau.
Đại tá, cựu chiến binh Lê Anh Bút bên tấm ảnh đồng đội, liệt sĩ Trương Mạnh Quyền. Ảnh: CHÍ HÒA
Trương Mạnh Quyền quê gốc ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh; bên kia bờ sông Ngàn Phố là nhà Lê Anh Bút. Hai người học cùng lớp ở Trường Đại học Giao thông đường thủy (nay là Trường Đại học Hàng hải Việt Nam). Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ác liệt, cả Quyền và Bút viết đơn xin nhập ngũ ra trận và cùng được biên chế vào Trung đoàn 165. Đại tá Lê Anh Bút bảo rằng, bố đẻ của Quyền là liệt sĩ chống Pháp nên Quyền thuộc diện được miễn nhập ngũ, nhưng anh vẫn tình nguyện xếp bút nghiên ra trận. Trương Mạnh Quyền là một người thông minh, nhanh nhẹn, đa năng và rất lì lợm. “Sau khi Quyền chỉ huy trung đội luồn sâu vào sở chỉ huy địch, tôi cùng đơn vị tiềm nhập áp sát hàng rào chờ thời gian nổ súng theo hiệp đồng tác chiến. Rừng Lào âm u, mây núi như một biển sương mù. Pháo địch bắn cầm canh như xé toang sự u ám, giá lạnh của rừng già Long Chẹng. Đến rạng sáng, nghe thông báo Quyền đã hy sinh, thi thể không còn nguyên vẹn, lòng tôi quặn thắt. Ngoài 25 tuổi nhưng Quyền chưa một lần nắm tay bạn gái!...”. Phút trải lòng của Đại tá Lê Anh Bút khiến chúng tôi không khỏi xúc động.
Khi chúng tôi hỏi về đôi dép tông, ông Bút tiếp mạch chuyện: “Một đêm tháng 6-1972, đơn vị vượt sông Ba Lòng vào bảo vệ làng Như Lệ, Tích Tường, phía tây nam Thành cổ Quảng Trị. Tôi để túi phao bơi ở bờ nam sông, trở lại bờ bắc đón số đồng đội chưa sang được. Một loạt pháo từ Cửa Việt bắn vào trúng túi phao bơi, trong đó có ba lô, đôi dép tông của Quyền gửi, kỷ vật thiêng liêng của người bạn ủy thác. Tôi đã không thực hiện được lời hứa! Cuối năm 1975, tôi được về phép thăm quê hương mới biết gia đình Quyền đã chuyển sang xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ngôi nhà tranh của gia đình anh đã có chủ mới. Họ cho biết, sau khi nhận được tin Quyền hy sinh, bà cụ lâm bệnh rồi từ trần. Người chị gái và hai con nhỏ đã theo chồng về quê ở miền Nam”.
Gần 50 năm nay, ông Bút đã đi nhiều nơi để tìm mộ đồng đội nhưng chưa tìm thấy. Bức ảnh năm xưa của liệt sĩ Trương Mạnh Quyền, ông Bút vẫn giữ bên mình. Ông dự định phóng to bức ảnh và lập bàn thờ để tưởng nhớ đồng đội như người thân trong nhà. Trước khi chia tay chúng tôi, Đại tá, CCB Lê Anh Bút mong muốn qua bài viết này, ai biết chị gái của liệt sĩ Trương Mạnh Quyền là Trương Thị Anh Đào (khoảng 75 tuổi), hoặc có thông tin về phần mộ của liệt sĩ Trương Mạnh Quyền ở đâu, xin báo cho ông theo số điện thoại: 0977.500.141.
CHÍ PHAN