Sáng nay tôi gặp một người phụ nữ trưởng giả và hợm hĩnh. Cô ta ngồi trên chiếc xe Cadillac bồng một con khỉ trên tay. Tài xế của cô ta dừng xe lại và cô ta hỏi tôi, “Có phải ông là Fellini không?” Vẫn với thứ giọng kim này, cô ta hỏi tiếp, “Thế nào mà trong các phim của ông chẳng có ma nào là người bình thường hết vậy?”
– Federico Fellini
Gửi Antonio và Petruchio
Vì tất cả biệt tài làm đại lý, nấu nướng và đi lại
LẦN ĐẦU TIÊN CÁI HỘP KIM LOẠI KIA PHÁT RA TÊN BÀ ẤY, Amor biết chuyện đó đã xảy ra. Em đã chìm trong tâm trạng căng thẳng, đầu óc nhức mỏi suốt cả ngày, gần như em mơ thấy một lời cảnh báo nhưng không tài nào nhớ nổi nó là gì. Một dấu hiệu hay hình ảnh nào đó, ngay dưới bề mặt. Chìm sâu nữa là rắc rối. Dưới cùng là lửa cháy.
Nhưng khi nghe những từ ấy được nói ra thành lời, em không muốn tin. Em nhắm mắt lại, lắc lắc đầu. Không, không. Những gì bác em đã nói ấy không thể là sự thật được. Chẳng ai chết cả. Nó chỉ là một từ ngữ, thế thôi. Em ngắm nhìn cái từ ấy, nó nằm đó trên mặt bàn như một con côn trùng đang nằm ngửa, không lời giải thích.
Em ngồi trong văn phòng của cô Starkey, nơi giọng nói vang lên qua loa truyền thanh nhắc em ra về. Amor đã đợi hoài, đợi mãi cái khoảnh khắc này rồi, em đã hình dung ra nó không biết bao nhiêu lần, đến nỗi nó gần như trở thành sự thật. Nhưng giờ khi khoảnh khắc ấy thực sự đến, em lại cảm thấy nó như xa xôi và không thực. Nó không hề xảy ra, không phải là sự thật. Và đặc biệt không phải là với Mẹ, người sẽ luôn luôn, luôn luôn sống.
Cô rất tiếc, cô Starkey nhắc lại, giấu đi hàm răng to sau làn môi mỏng, mím chặt. Các cô bé khác trong trường đồn rằng cô Starkey là người đồng tính, nhưng thật khó tưởng tượng cô ấy làm bất kỳ hành động khêu gợi nào với bất kỳ ai khác. Hoặc có thể cô ấy đã từng như thế một lần duy nhất, và vẫn còn cảm thấy ghê tởm kể từ ngày đó. Đó là nỗi buồn mà ai trong chúng ta cũng phải chịu đựng, cô nói thêm bằng giọng nghiêm túc, trong khi bác Marina run rẩy đưa khăn tay lên chấm lệ, mặc dù bà ấy luôn xem thường Mẹ và chẳng buồn quan tâm chút nào nếu Mẹ có chết, ngay cả nếu Mẹ không chết.
Bà bác cùng em xuống nhà rồi đợi ở ngoài trong khi Amor quay về kí túc xá gói ghém quần áo. Em đã sống ở đây suốt bảy tháng qua, đợi chờ một chuyện tới giờ vẫn chưa xảy đến, chưa có một giây nào trong quãng thời gian đó em thôi căm ghét những căn phòng dài và lạnh lẽo với sàn nhà bằng vải sơn lót ấy, nhưng giờ khi phải rời đi em lại không nỡ. Tất cả những gì em muốn là ngả lưng xuống giường rồi ngủ thiếp đi và không bao giờ, không bao giờ dậy nữa. Như Mẹ ư? Không, không giống Mẹ, vì Mẹ không ngủ.
Em chậm rãi cho quần áo vào va li rồi xách xuống mặt tiền tòa nhà chính của trường học, nơi bác của em đang đứng, nhìn ra một hồ cá. Con kia to quá kìa, bà bác nói, chỉ tay xuống đáy hồ, con đã bao giờ thấy con cá vàng nào to đến vậy chưa? Amor đáp rằng em chưa từng thấy, dù em không thể nhìn thấy con cá tay bà bác đang chỉ, mà dù sao đi nữa thì đâu có chuyện nào trong số này là thật.
Khi em trèo vào chiếc Cressida, nó cũng chẳng có thực nốt, và khi họ bồng bềnh trôi xuống lối xe vào trường lộng gió, khung cảnh nhìn từ cửa kính xe trông như thể một giấc mơ. Tất cả các bông lan dạ hương đều bừng nở và các bông hoa tím sáng màu trông lòe loẹt và lạ lùng. Giọng của chính em nghe vang vang, như thể ai đó khác đang nói, khi xe họ tiến ra cổng chính rồi rẽ phải thay vì rẽ trái, và em nghe thấy chính mình hỏi họ đang đi đâu.
Về nhà ta, bác em nói. Để đón bác Ockie. Đêm qua ta đã lao bổ ra ngoài khi chuyện đó, cháu biết đấy, chuyện đó xảy ra.
(Chuyện đó đã không xảy ra.)
Bác Marina liếc sang bên bằng đôi mắt chuốt nhẹ mascara, nhưng vẫn không có phản ứng nào từ phía con bé. Nỗi thất vọng của người đàn bà lớn tuổi gần như có thể sờ thấy được, như một phát trung tiện kín đáo. Bà có thể sai Lexington đến đón Amor tại trường học, nhưng thay vào đó bà lại đích thân đến vì muốn tỏ ra mình hữu ích trong cơn khủng hoảng, ai cũng biết thế. Ẩn giấu sau gương mặt tròn với lớp trang điểm theo kiểu của một diễn viên kịch Kabuki của bà là sự thèm khát những sự nhiễu nhương, và những lời đồn thổi, và những màn kịch rẻ tiền. Cảnh tắm máu và lừa dối trên ti vi là một chuyện, nhưng ngay cả cuộc đời thực ở đây cũng mang lại cho bà ta một cơ hội thực tế, gay cấn. Tin tức khủng khiếp, được tuyên bố công khai, ngay trước mặt bà hiệu trưởng! Nhưng cháu gái bà ta, cái con bé chậm chạp mập mạp vô dụng, chẳng hé môi nói câu nào. Thực sự có chuyện không ổn với con bé này, Marina đã để ý từ trước. Bà đổ lỗi cho tia chớp. Trời ạ, sau vụ đó con bé không còn như xưa nữa.
À có bánh quy, bà gắt gỏng nói. Ở ghế sau đấy.
Nhưng Amor không muốn ăn bánh quy. Em không thấy thèm ăn. Bác Marina lúc nào cũng nướng bánh và cố gắng mời mọi người ăn. Chị gái em, Astrid, đã nói rằng đó là vì bà ta không muốn bị tăng cân một mình, và đúng là bác em đã xuất bản hai cuốn sách dạy nấu các món ăn được sử dụng trong những bữa tiệc trà chiều nổi tiếng của một nhóm phụ nữ da trắng lớn tuổi nhất định – một nhóm người rất dễ thấy vào những ngày này.
Chà, bà Marina suy ngẫm, ít nhất đứa trẻ này còn dễ nói chuyện. Nó không ngắt lời hoặc tranh cãi, và tạo ấn tượng rằng nó đang chú ý nghe, chỉ cần có thế thôi. Từ trường đến nơi gia đình Laubscher sinh sống tại Menlo Park không quá xa, nhưng hôm nay thời gian cảm tưởng như kéo dài ra và bà Marina nói chuyện bằng một thứ tiếng Nam Phi đầy xúc cảm suốt quãng đường, giọng bà thấp và như tâm tình, đầy các hậu tố, ngay cả cho dù động cơ của bà ta chằng tử tế gì. Vẫn là chủ đề quen thuộc, về chuyện Mẹ đã phản bội cả gia đình bằng cách cải đạo như thế nào. Cải đạo, bằng cách trở về với tôn giáo cũ của mình. Quay trở lại làm một người Do Thái! Nửa năm qua bác của em đã lên tiếng rất hăng về chủ đề này, kể từ khi Mẹ ngã bệnh, nhưng Amor còn có thể làm được gì? Em chỉ là một đứa bé, không có quyền lực, mà dù sao quay trở về với tôn giáo cũ của mình nếu bạn muốn thì cũng có gì là sai đâu?
Em cố không lắng nghe bằng cách tập trung vào thứ khác. Bà bác đeo đôi găng tay đánh gôn màu trắng nhỏ nhắn khi lái xe, một món quà chả hiểu ai tặng cho, hay có thể chỉ vì bà ấy sợ vi khuẩn, Amor tập trung nhìn những hình dáng nhợt nhạt của hai bàn tay đang chuyển động trên vô lăng. Nếu em có thể tập trung nhìn ngắm hai bàn tay, hình dáng của chúng, với các ngón ngắn và thô đó thì em sẽ không phải lắng nghe cái miệng phía trên đang thao thao bất tuyệt, và rồi nó sẽ trở nên không thật. Thứ duy nhất có thật là đôi bàn tay, và mình đang nhìn vào chúng.
… Sự thật là mẹ cháu đã từ bỏ tôn giáo Cải Cách Hà Lan và quay về với cái thứ Do Thái ấy để chọc tức đứa em trai bé bỏng của ta… Chính vì thế nên cô ta sẽ không được chôn cất trong trang trại, bên cạnh chồng mình, đó là lý do thực sự… Có con đường đúng và con đường sai nhưng ta rất tiếc phải nói mẹ cháu đã chọn đường sai… Dù sao, bà Marina thở dài khi họ tới ngôi nhà, hãy cùng hy vọng Chúa tha thứ cho cô ta và giờ thì cô ta có thể yên nghỉ.
Họ dừng xe trên lối xe vào nhà dưới tấm vải bạt, với các sọc màu tím, xanh dương và cam đẹp đẽ. Xa hơn là bức tượng một người Nam Phi da trắng, căn nhà gỗ một tầng vùng ngoại ô, mái thiếc, gạch ốp lát có màu hung đỏ, bao quanh là khu vườn đã bạc màu trông như một con hào. Một cái khung leo núi cho trẻ em đứng cô lẻ giữa bãi cỏ nâu rộng rãi. Một cái bồn nhỏ cho chim tắm bằng bê tông, một cái chòi nhỏ cho trẻ con chơi đùa và một cái xích đu chế từ một nửa chiếc lốp xe tải. Có lẽ cũng là nơi bạn lớn lên. Là nơi mọi chuyện bắt đầu.
Amor đi theo sau bà bác, không hoàn toàn bước trên mặt đất, mà là lơ lửng cách vài phân, một khoảng cách nhỏ làm choáng váng giữa em với mọi thứ, khi em thẳng tiến đến cửa nhà bếp. Bên trong, bác Ockie đang tự tay trộn rượu brandy với Coke, ly rượu thứ hai của ông vào buổi sáng. Trước ông làm kỹ sư vẽ thiết kế cho Cơ quan Tài nguyên Nước của chính phủ nhưng hiện mới nghỉ hưu, nên những ngày tháng của ông chẳng có việc gì để làm. Ông lập tức tỏ thái độ ân cần tội lỗi lúc bị vợ bắt gặp, khi bà hít hà bộ râu quai nón còn vương mùi nicotin của ông. Dù đã có tới hàng giờ đồng hồ để cố ăn vận sao cho tươm tất nhưng ông vẫn đang mặc chiếc quần rộng, áo thun đánh gôn kèm đôi dép lê. Người đàn ông cục mịch với mái tóc thưa vuốt keo hai bên da đầu. Ông ta tặng cho Amor cái ôm nhớp mồ hôi, khiến cả hai cùng ngượng ngùng.
Bác rất tiếc về mẹ cháu, ông nói.
Ồ không sao ạ, Amor đáp và ngay lập tức bắt đầu khóc. Phải chăng mọi người sẽ cảm thấy thương tiếc cho em suốt cả ngày vì mẹ em đã biến thành cái từ đó? Em cảm thấy mình xấu xí khi khóc, như một quả cà chua bị tách toang ra, và nghĩ rằng mình phải trốn đi, bỏ trốn khỏi căn phòng bé nhỏ khủng khiếp này với sàn nhà bằng gỗ ván và con chó xù giống Maltese đang sủa, trốn khỏi đôi mắt của bà bác và ông chồng dán chặt vào em như những móng vuốt.
Em nhanh chóng lao qua bể cá u ám của bác Ockie, dọc theo hành lang với các bức tường phủ một lớp thạch cao gồ ghề thịnh hành ở nhiều nơi vào thời gian này, tới phòng tắm. Chẳng cần tập trung miêu tả cảnh em rửa mặt lau khô lệ làm gì, chỉ cần nhắc tới thôi. Ngay cả khi em vẫn tiếp tục sụt sùi, Amor mở cửa tủ bếp ra nhìn vào bên trong, một việc em hay làm ở mọi căn nhà mình ghé thăm. Thi thoảng bạn tìm thấy một thứ rất thú vị, tuy nhiên các giá này chất đầy những thứ đáng quên như keo dán răng giả và kem bôi trĩ Anusol. Cảm thấy tội lỗi vì đã săm soi và để tự tha thứ cho mình, em tự ép mình đếm các đồ vật trên từng giá rồi xếp chúng lại theo trật tự thuận mắt hơn. Rồi em lại nghĩ bà bác chắc sẽ nhận ra nên lại để lộn xộn như cũ.
Đang quay xuống lối đi, Amor dừng chân cạnh cánh cửa phòng ngủ mở toang của cậu em họ Wessel, đứa trẻ nhất đồng thời cũng to xác nhất trong gia đình bác Marina, và là đứa duy nhất vẫn còn đang ở nhà. Nó đã hai mươi tư tuổi rồi nhưng kể từ khi giải ngũ nó chẳng chịu làm gì sất ngoài việc ru rú trong nhà, mê mải với thú chơi tem. Rõ ràng nó gặp phải vấn đề gì đó với việc đi ra ngoài thế giới. Theo lời Bố nó thì nó bị trầm cảm, còn mẹ nó bảo rằng nó đang tìm kiếm lối đi riêng. Tuy nhiên, bố đã cho rằng thằng cháu trai này của ông là đồ chúa lười hư đốn và phải ép nó làm việc.
Amor không ưa thằng em họ này, đặc biệt là vào lúc này, với đôi bàn tay to bè, dính mực và mái tóc cắt mái bát úp của nó, cộng thêm cái cách đáng ngờ mà nó phát âm chữ S. Nó chả bao giờ chịu tiếp xúc bằng mắt, nhưng ngay bây giờ nó không để ý đến em, vì cuốn album tem của nó đang mở trên lòng, nó đang ngắm một trong các con tem yêu thích trong bộ sưu tập của mình qua kính lúp, bộ ba chiếc tem tưởng niệm Tiến sĩ Verwoerd, phát hành vài tháng sau khi người đàn ông vĩ đại này bị ám sát.
Chị đang làm gì ở đây thế?
Mẹ em đã tới đón chị ở trường học. Sau đó bà đến đón bố em và đến cửa hàng tạp hóa.
Ồ và giờ chị sắp về nhà đúng không? Ừ.
Em rất tiếc về chuyện mẹ chị, nó nói, cuối cùng cũng liếc nhìn em. Không thể kiềm chế được nữa, em lại bắt đầu khóc, phải lấy ống tay áo lau khô nước mắt. Nhưng rồi thằng bé lại chú mục vào đống tem.
Chị buồn lắm phải không? Nó lơ đãng hỏi, vẫn không nhìn em.
Em lắc đầu. Vào lúc này thì đúng, em chẳng cảm thấy gì, chỉ thấy trống rỗng.
Chị có yêu bà ấy không?
Tất nhiên, em đáp. Nhưng ngay cả việc đáp lại câu hỏi này cũng chẳng khuấy động được điều gì bên trong em. Khiến em phải tự hỏi mình có đang nói thật không.
Nửa tiếng sau, em ngồi trên ghế sau chiếc Valiant cũ của Ockie. Ông bác của em đã thay sang bộ đồ đi lễ, quần dài màu nâu, áo sơ mi vàng và đôi giày bóng loáng, ngồi trên ghế lái trước mặt em, đôi tai vểnh lên như quai ấm, làn khói từ điếu thuốc của ông bay vơ vẩn qua kính chắn gió. Ngồi cạnh ông là bà vợ, đã tắm rửa và xịt loại nước hoa Je Taime, tay xách theo cái túi đựng đồ nướng bánh từ trong bếp. Lúc này họ đang đi qua nghĩa trang ở rìa phía tây thành phố, nơi một đám đông nhỏ đứng xung quanh một cái hố dưới đất, gần đó là nghĩa trang Do Thái nơi mà chỉ lát nữa thôi, nhưng không, đừng nghĩ về chuyện đó, và đừng ngắm nhìn những nấm mồ, cho dù bạn không thể không nhìn thấy tấm biển đề Nghĩa trang Mảnh đất Anh hùng, nhưng các anh hùng là những ai thì chưa từng có ai giải thích, Mẹ có phải anh hùng không, cũng đừng nghĩ tới chuyện ấy, sau đó bạn sẽ đắm chìm vào cái vùng khủng khiếp của xi măng, nước rửa xe và những tòa chung cư bẩn thỉu phía bên kia. Nếu bạn chỉ đi trên con đường quen thuộc bạn sẽ nhanh chóng bỏ lại thành phố sau lưng, nhưng hôm nay bạn không thể đi trên con đường ấy vì nó sẽ đi qua Atteridgeville và trong thị trấn đang có rắc rối. Rắc rối tại mọi thị trấn, nó đang được thì thầm khắp mọi nơi, ngay cả khi lệnh ban bố Tình Trạng Khẩn Cấp đang treo lơ lửng trên mảnh đất này như đám mây đen, tin tức bị kiểm duyệt và tâm trạng khắp nơi có hơi khiếp đảm, hơi hoảng hốt, cũng không đủ sức làm câm lặng những giọng kể chuyện ngấm ngầm, giống như những âm thanh tĩnh điện rất nhỏ. Nhưng những giọng nói ấy là của ai, tại sao giờ đây ta không thể nghe thấy chúng nữa? Suỵt, bạn sẽ nghe thấy chúng, nếu chú ý, nếu bạn chỉ lắng nghe mà thôi.
… Chúng ta là tiền đồn cuối cùng trên lục địa này… Nếu Nam Phi gục ngã, Moscow sẽ uống sâm panh ăn mừng.
Ockie tắt đài. Ông không có tâm trạng nghe mấy bài diễn văn chính trị, ngắm nhìn quang cảnh còn thú vị hơn nhiều. Ông tự hình dung mình như một trong các tổ tiên người Voortrekker của ông, chậm rãi tiến vào nội địa trên một chiếc xe bò. Phải, có những người luôn mơ mộng theo cách rất dễ đoán. Ockie, nhà tiên phong quả cảm, đang trôi bồng bềnh trên bình nguyên. Vùng nông thôn trong sắc nâu và vàng lao vun vút ngoài cửa kính, khô rang ngoại trừ nơi có con sông chảy qua, dưới bầu trời Highveld bao la. Trang trại, theo cách họ gọi như thế, cho dù nó không hề là một trang trại đúng nghĩa, với một con ngựa cùng mấy con bò, vài con gà và cừu, ở ngoài đó giữa mấy quả đồi thấp và thung lũng, nằm giữa con đường đến Đập nước Hartbeespoort.
Qua hàng rào bên kia đường, ông có thể trông thấy một nhóm đàn ông cầm theo một máy dò kim loại, đứng nhìn mấy thanh niên bản xứ đào mấy cái hố trên mặt đất. Cả thung lũng này từng thuộc về Paul Kruger và có nhiều lời đồn dai dẳng cho rằng có một kho vàng trị giá hai triệu bảng từ Chiến tranh Boer được chôn xuống đâu đó dưới những tảng đá này. Thế nên đào ở đây, đào ở kia, săn tìm kho báu của quá khứ. Đó là lòng tham, nhưng ngay cả điều này cũng khiến ông cảm thấy ấm áp trong hoài niệm. Người dân của tôi là những anh hùng, bền bỉ, sống lâu hơn cả người Anh và họ cũng sẽ sống lâu hơn cả bọn Phi đen nữa. Người dân Nam Phi là một dân tộc tách biệt, ông thực sự tin tưởng điều ấy. Ông không hiểu nổi tại sao Manie lại phải kết hôn với Rachel. Nước giếng không phạm nước sông. Bạn có thể nhìn thấy điều đó ở con cái họ, mẹ kiếp, chúng mới đông làm sao.
Ít nhất, theo quan điểm này thì ông ta cùng bà vợ có điểm chung. Marina không bao giờ ưa thích đứa em dâu của mình. Mọi thứ trong kế hoạch đều sai. Tại sao em trai bà ta không thể cưới một người cùng đẳng cấp với mình? Em đã phạm một sai lầm, nó nói, và người ta sẽ phải trả giá cho những sai lầm của mình. Manie luôn là một kẻ cứng đầu ngu ngốc. Đi ngược lại ước muốn của cả gia đình mình vì một người như thế, vô dụng và ngạo mạn, người đến cuối cùng đã bỏ rơi nó. Vì tình dục. Vì nó không thể kiềm chế nổi bản thân. Một hoạt động mà bản thân Marina không bao giờ quan tâm nhiều, ngoại trừ một lần tại Sun City với một gã thợ máy, nhưng thôi nào, im lặng, giờ đừng khơi chuyện đó ra. Em trai tôi lúc nào cũng suy sụp, kể từ khi bắt đầu cạo râu nó đã tự biến mình thành một con dê nhỏ, thích tìm vui và gây rắc rối, cho tới khi nó phạm sai lầm và rồi mọi thứ thay đổi. Sai lầm ấy đang ở đâu đó ngoài kia, đang hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Sáng nay họ đã gửi tin nhắn cho cậu ta, phải ngày mai cậu ta mới về nhà.
Anton sẽ chỉ ở nhà được ngày mai thôi, bà nói với Amor, rồi tiếp tục cắm cúi chỉnh lại lớp son môi trên gương chiếu hậu.
Họ đi sai hướng đến con đường nhánh nên Amor phải xuống xe để mở cổng rồi đóng lại sau khi xe đi qua. Tiếp theo chiếc xe lảo đảo đi trên con đường rải sỏi lổn nhổn, những hòn đá nhô lên ở khắp nơi, ma sát với lớp kim loại dưới gầm xe. Tiếng ồn có vẻ quá sức chịu đựng đối với Amor, cứa sâu vào trong em. Cơn nhức đầu của em tồi tệ thêm. Khi xe đi trên đường nhựa, em có vẻ giả vờ mình chẳng ở đâu cả, phiêu dạt bồng bềnh không mục đích. Nhưng giờ toàn bộ các giác quan của em đang cho em biết rằng họ sắp tới nơi. Em không muốn về đến nhà mình, bởi nếu làm thế thì rõ ràng đã xảy ra chuyện gì đó, chính chuyện đó đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời em và không bao giờ trở lại như xưa nữa. Em không muốn con đường kia làm cái việc nó hay làm, đi dưới các đường dây điện cao thế thẳng tiến về phía ngọn đồi nhỏ, em không muốn nó đi lên con dốc, không muốn thấy ngôi nhà dưới chân dốc phía bên kia. Nhưng nó kia rồi, em thấy nó rồi.
Em chẳng hề thích nó. Một nơi nhỏ bé lạ lùng, ngay cả khi ông nội em là người đầu tiên mua nó, ai lại xây nhà theo phong cách đó ở ngoài này, giữa những bụi cây, cơ chứ? Nhưng rồi khi ông bị chết đuối ở đập nước và Bố được thừa kế nơi này ông đã xây thêm các phòng và mấy căn nhà ngoài chẳng hề có phong cách chút nào, cho dù ông gọi chúng là phong cách bản địa. Các bản vẽ của ông chẳng logic gì cả, nhưng theo Mẹ đó là vì ông muốn che đi lớp trang trí nghệ thuật ban đầu, thứ mà ông nghĩ là ủy mị và không mạnh mẽ. Ôi, đúng là rác rưởi, Bố nói, cách tiếp cận của bố thực tế hơn. Phải là một trang trại, chứ không phải một ảo tưởng. Nhưng giờ nhìn xem đến cuối cùng nó thành cái gì. Một mớ tạp nham to đùng, hai mươi tư cánh cửa ở bên ngoài mà đêm nào cũng phải khóa kín, phong cách này chồng chéo lên phong cách kia. Nằm ngay giữa thảo nguyên, như một thằng say với mặc một mớ quần áo lạ lùng vá víu vào nhau.
Dẫu vậy nó vẫn là của chúng ta, bà Marina nghĩ. Đừng nhìn vào ngôi nhà, hãy suy nghĩ về mảnh đất này. Mảnh đất vô dụng, đầy đá lổn nhổn, chẳng làm gì được với nó. Nhưng nó thuộc về gia đình ta, chứ không phải gia đình nào khác, và ẩn bên trong điều ấy là sức mạnh.
Và ít nhất, bà ta nói lớn với Ockie, cuối cùng con vợ cũng biến mất.
Thế rồi, lạy Chúa, nên nhớ con bé ngồi ở ghế sau kìa. Bà cứ liệu cái mồm đấy, Marina, đặc biệt là trong hai ngày tới, cho đến khi đám tang này xong xuôi. Nói bằng tiếng Anh đi, như thế bà sẽ cẩn thận.
Đừng hiểu nhầm ta nhé, bà ta nói với Amor. Ta tôn trọng mẹ con mà.
(Không, bà không hề). Nhưng Amor không nói suy nghĩ của mình ra thành lời. Em ngồi im như tượng đá phía sau xe, cuối cùng nó cũng xuống tới điểm dừng. Ockie phải đỗ cách xa đường xe vào nhà một chút vì có quá nhiều xe đang đỗ phía trước nhà, hầu hết đều trông không quen, họ đang làm cái gì ở đây thế? Đã có rất nhiều người và sự kiện bị hút vào phía trong, bị hút về phía cái huyệt làm theo hình dáng của Mẹ ở trung tâm. Khi xuống xe, đóng cửa xe lại thịch một cái, Amor thấy một chiếc xe đặc biệt, dài và tối màu, thế giới này ngày càng như trĩu xuống. Ai lái chiếc xe đó vậy, tại sao ông ta lại đỗ xe bên ngoài nhà cháu?
Ta đã dặn dò đám người Do Thái chưa mang cô ấy đi vội, bác Marina tuyên bố. Để cháu có thể nói lời vĩnh biệt với mẹ cháu.
Ban đầu Amor không hiểu. Lớp sỏi lạo xạo, lạo xạo dưới chân. Đi qua các ô cửa sổ mặt tiền em có thể trông thấy một đám người trong phòng nghỉ, đứng ken đặc, ở giữa là cha em, đang gục đầu trên một cái ghế. Ông ấy đang khóc, em nghĩ, rồi ý nghĩ khác chợt đến, Không phải, ông ấy đang cầu nguyện. Vào những ngày thế này, rất khó phân biệt rõ được Bố đang khóc hay đang nguyện cầu.
Thế rồi em hiểu ra và nghĩ, Mình không thể vào trong. Người lái chiếc xe tối om kia đang đợi bên trong để mình có thể nói lời vĩnh biệt với mẹ mình, nhưng mình không thể bước qua cửa. Nếu mình bước qua cửa thì điều ấy sẽ thành sự thật và cuộc đời mình sẽ không bao giờ còn như xưa nữa. Thế nên em cứ nấn ná ở ngoài, trong khi Marina khua guốc lọc cọc đi phía trước ra vẻ mình quan trọng với mấy cái túi đựng nguyên liệu nấu ăn, Ockie lê bước theo sau bà ta, sau đó bà ta đặt va li xuống các bậc thềm rồi lượn quanh phía bên nhà, đi qua cột thu lôi và các bình gas nằm trong hốc tường bê tông, lượn qua sân trong phía sau nơi con chó béc giê Đức Tojo đang nằm ngủ phơi nắng, qua bãi cỏ, lượn qua bồn tắm chim và cái cây bông gòn, lượn qua những tòa nhà vững chắc và mấy cái lán của đám lao động phía sau, chạy về phía ngọn đồi nhỏ.
Con bé đâu?
Nó ngay sau lưng chúng ta mà.
Marina không thể tin nổi việc mà con bé ngu ngốc chết tiệt ấy đã làm.
Vâng, Ockie xác nhận và rồi, nôn nóng muốn dự phần, ông lặp lại, Vâng!
Trời ạ con bé sẽ quay lại. Marina không có tâm trạng để xá tội. Giờ hãy để những người này mang cô em tội nghiệp ấy đi đi. Đứa bé ấy đã tự bỏ lỡ cơ hội của mình rồi.
Tài xế của chiếc xe dài, Mervyn Glass, đã ngồi trong nhà bếp hơn hai tiếng rồi, trên đầu ông đội chiếc mũ chỏm, đợi chờ ở đây theo chỉ dẫn của người đàn bà hách dịch, chị gái của người quá cố, và lúc này bà ta đang giục ông ta lên đường. Đúng là một gia đình rắc rối, ông không tài nào hiểu nổi chuyện gì đang diễn ra, nhưng không bận tâm. Đợi chờ trong sự im lặng tôn kính là một phần căn bản của công việc này và ông đã hình thành năng lực giả vờ mình vô cùng bình thản trong khi không hề cảm thấy thế. Tận trong sâu thẳm, Mervyn Glass là một kẻ cuồng loạn.
Giờ ông đứng vụt dậy. Cùng người trợ lý, ông bắt tay vào đưa thi thể của người quá cố từ phòng ngủ trên gác đi. Việc này cần tới một cái cáng, một túi đựng xác và màn thể hiện nỗi đau đớn cuối cùng của người chồng, ông ấy ôm ghì lấy người vợ đã chết van nài cô ấy đừng bỏ đi, như thể cô ấy đang tự mình rời khỏi và có thể bị thuyết phục đổi ý. Chuyện này cũng không phải hiếm, Mervyn sẽ nói thế nếu bạn hỏi ông ta. Ông ta đã chứng kiến tất cả bao lần rồi, bao gồm sức hút lạ lùng tỏa ra từ xác chết, lôi kéo mọi người về phía nó. Nhưng ngày mai tất cả chuyện này sẽ thay đổi, cái xác sẽ biến mất mãi mãi và sự vắng mặt lâu dài ấy sẽ phủ bóng lên các kế hoạch, những sắp xếp, những hồi tưởng và thời gian. Phải, sẽ thay đổi. Sự biến mất ấy bắt đầu ngay lập tức, và theo một nghĩa nhất định, sẽ không bao giờ chấm dứt.
Nhưng trong khoảng thời gian khi cái xác nằm đó, sự thật trần trụi khủng khiếp của nó vẫn đang hiển hiện, sự thật nhắc nhở tất cả mọi người, ngay cả những ai không quan tâm tới người đàn bà đã chết, và luôn luôn có vài người như vậy, rằng ngày nào đấy họ cũng sẽ nằm đó, hệt như cô ấy, rũ bỏ hết cả mọi thứ, chỉ còn lại hình hài, thậm chí còn không thể tự nhìn thấy chính mình. Tâm trí co ngót lại, không còn bận tâm về việc chính mình không còn suy nghĩ nữa, khoảng trống lạnh lẽo nhất trong mọi khoảng trống.
May mắn sao cô ta không nặng mấy, căn bệnh đã đục rỗng thể xác của người đàn bà này. Rất dễ dàng để đưa cô ta xuống nhà vòng quanh góc khó đi dưới chân cầu thang, qua lối đi tới nhà bếp. Ra phía sau nhà, bà chị gái hống hách lại ra lệnh cho họ khiêng xác qua lối khác, không được đi qua trước mặt khách khứa. Nếu người viếng đám ma có nhận ra chuyến khởi hành cuối cùng này, thì họ chỉ biết khi nghe tiếng chiếc xe dài khởi động ngoài sân, để ý tiếng rung yếu dần của động cơ trong không khí.
Vậy là Rachel đi rồi, đi thật rồi. Hai mươi năm trước cô ấy đã tới đây như một nàng dâu mang thai và chưa hề rời đi kể từ đó, nhưng giờ cô ấy sẽ không thể nào quay bước vào căn nhà này qua cửa trước được nữa.
Trong căn nhà táng, ý tôi là căn nhà này, một nỗi sợ hãi không lời đang phủ xuống, ngay cả khi mọi người không chắc chắn là tại sao và nỗi sợ ấy không hề được thốt ra thành lời. Thực ra, gần như mọi lúc, chính những lời nói giúp xua tan nỗi sợ hãi. Chị rót cho chú cốc trà nữa nhé? Chú có muốn ăn mấy cái bánh quy của chị không?
Marina đang nói, tất nhiên, bà ta rất giỏi cái trò đổ thêm dầu vào những hố sâu hỗn loạn như chỉ chực trào ra. Trong khi tay bà ta vặn xoắn chuỗi hạt.
Không, em không đói.
Và đó là Manie, cậu em trai trẻ hơn nhiều của bà ta, cậu em trai trong mắt bà ta chẳng khác gì một con cú, một con cú con mà bà ta nhặt được và nuôi dưỡng như một đứa trẻ.
Thôi nào, ít nhất hãy uống chút trà đi. Người cậu đã cạn khô nước vì khóc nhiều còn gì.
Ôi làm ơn, làm ơn, làm ơn đi, ông nói với sự mãnh liệt đến nỗi nghe như giận dữ, cho dù có thể ông đang không nói với bà ta.
Đã xảy ra chuyện gì với con cú này nhỉ? Một chuyện rất tệ, có vẻ như bà nhớ nhưng bà không thể hoàn toàn xác định được rõ ràng.
Em sẽ không bao giờ uống trà nữa, ông nói.
Ôi, không, bà ta giận dữ nói, đừng nói năng vớ vẩn thế.
Bà không hiểu nổi tại sao nó lại xem cái chết của vợ nghiêm trọng đến thế, người đàn bà ấy đã hấp hối nửa năm nay rồi, nó không thiếu thời gian để chuẩn bị tâm lý cho ngày hôm nay. Nhưng Manie đang rối bời, chẳng khác gì phần đuôi chiếc áo nịt len mà ông đang mặc, bà để ý thấy cậu em mình đang giật mạnh sợi chỉ ra.
Dừng lại, bà nói. Cởi nó ra đưa tôi sửa lại cho.
Ông làm theo một cách ngốc nghếch. Bà mang nó đi rồi tìm kiếm kim chỉ. Nếu Rachel cất mấy cái thứ này. Đã cất. Cái việc chỉnh sửa âm thầm từ đó trong đầu nghe mới thỏa làm sao, như một cái khớp cứng ngắc trở về đúng chỗ. Giờ thì Rachel sẽ luôn luôn ở thì quá khứ.
Manie run rẩy vì không có chiếc áo nịt, cho dù trời khá ấm áp vào mùa xuân. Liệu ông ấy còn cảm thấy ấm áp một lần nữa không? Khi Rachel còn sống ông chưa bao giờ cần cô ấy một cách mạnh mẽ như bây giờ, sự vắng mặt của cô ấy giống như cái lạnh tím tái từ sâu thẳm bên trong. Cô ấy biết làm thế nào để chạm tới phần sâu kín nhất trong tôi, để rồi thọc những lưỡi dao nhỏ của mình vào đó. Không thể phân biệt được sự khác nhau giữa ghét và yêu, chúng tôi gần gũi đến mức ấy đấy. Hai cái cây xoắn xuýt vào nhau, hai bộ rễ cây ghì siết vào nhau như định mệnh. Ai lại không muốn thoát ra? Nhưng chỉ có Chúa mới có thể phán xét tôi, chỉ có Người biết! Xin Chúa, ý tôi là Rachel, hãy tha thứ cho tôi, xác thịt của tôi yếu hơn tất cả.
Lại khóc. Marina nhìn ông từ phía bên kia phòng. Cuối cùng bà đã phát hiện ra bộ kim chỉ trong một ngăn kéo và tự mình ngồi trong góc nhà, từ nơi này bà ta có thể quan sát mọi người đi lại trong căn nhà trong khi tỏ ra hữu ích một cách công khai. Khâu vá và nướng bánh, bà ta sở hữu đôi bàn tay thực dụng. Nhưng vì mải để ý hình ảnh ông chồng đi ngang qua, trên tay là chai đồ uống mới tinh, nên bà bị kim đâm vào ngón tay.
Đúng lúc này, chẳng hiểu từ đâu ra, bà nhớ lại chuyện đã xảy ra với con cú. Ôi, thật xấu hổ. Những chùm lông trắng muốt thấm máu.
Này, tôi đang nhìn ông đấy nhé, bà nói với Ockie.
Nhưng ông ta vẫn đi tiếp, hàng ria mép có vị brandy, tự nghĩ trong lòng rằng, Câm mồm đi, bà là ai chứ? Lúc này ông ta đã quên béng lý do tại sao mình lại ở đây và nói với người đàn ông ngồi trong phòng nghỉ, Ông vui chứ?
Cái gì cơ? Người đàn ông nói.
Nhưng Ockie đã trấn tĩnh lại và khẽ lắc lư trên hai chân. Ông biết đấy, trong những hoàn cảnh phức tạp kiểu này, ông ta nói.
Người đàn ông mà ông ta đang nói chuyện cùng là một giáo sĩ thực tập theo Giáo hội Cải cách Hà Lan. Cao lớn và căng thẳng, với cục yết hầu gồ lên, tay giáo sĩ thực tập này, hơn một năm qua, chẳng được ai biết đến, đã gần như đánh mất hoàn toàn đức tin. Anh ta cảm thấy mình đang loạng choạng bước đi trong chốn hoang dã gai góc cho nên anh ta cười rất nhiều. Vào lúc Ockie bắt chuyện, anh ta đang tự cười với mình khi nghiền ngẫm đúng vấn đề này, về việc không còn tin tưởng vào bất kỳ điều gì nữa, nên đã giật bắn mình khi có người bắt chuyện Amor có thể trông thấy hai người họ, ông bác của em và tay mục sư đầy hồ nghi kia, qua cánh cửa ra vào bằng kính của phòng nghỉ. Từ trên đỉnh ngọn đồi nhỏ em có thể thấy toàn bộ mặt tiền ngôi nhà, toàn bộ các ô cửa sổ, đó là lý do tại sao em thích ngồi ở đây, cho dù em không được phép lên đây một mình. Dưới tầng trệt, khung cảnh chưa bao giờ nhộn nhịp như thế, rất nhiều bóng người đang di chuyển xung quanh như các nhân vật đồ chơi trong một tòa nhà đồ chơi. Tuy nhiên em không chú ý đến họ. Em chỉ đang nhìn vào một cửa sổ, trên gác, ô cửa sổ thứ ba từ bên trái và suy nghĩ. Bà ấy ở trong căn phòng đó. Nếu mình chạy xuống đồi rồi chạy lên gác, bà ấy sẽ ở trong phòng mình, chờ sẵn. Như luôn luôn thế.
Và em có thể thấy ai đó đang di chuyển xung quanh phòng. Một cái bóng phụ nữ, đang hối hả đi lại. Nếu khép hờ đôi mắt, Amor có thể hình dung bóng hình ấy thực sự là mẹ mình, cơ thể bà lại một lần nữa mạnh mẽ và khỏe khoắn, đang dọn hết thuốc khỏi cái tủ cạnh giường. Chẳng cần thuốc nữa. Mẹ khỏe lại rồi, thời gian đã quay ngược lại rồi, thế giới này phục hồi rồi. Dễ dàng như thế.
Nhưng em biết mình chỉ đang giả vờ và người trong phòng kia không phải Mẹ. Mà là Salome, tất nhiên, người đã sống ở đây trên trang trại này mãi mãi, hoặc cảm xúc về bà ấy là thế. Ông nội em luôn nói chuyện về bà ấy như thế. Ôi, Salome, tôi đã sắm được bà ấy cùng với mảnh đất này.
Ngừng lại một lúc để quan sát, khi bà ấy dọn tấm ga trải giường. Một người đàn bà mập mạp, rắn chắc mặc chiếc áo cũ, do Mẹ tặng bà ấy nhiều năm trước. Chiếc khăn trùm đầu buộc trên mái tóc. Bà ấy đi chân trần, hai lòng bàn chân nứt nẻ và bẩn thỉu. Đôi bàn tay cũng xuất hiện những vết chai sần, vết trầy da và các vết sẹo từ vô số lần va chạm không nhớ nổi. Độ cùng tuổi với Mẹ, bốn mươi tuổi, cho dù trông bà ấy già hơn nhiều. Rất khó đoán được chính xác tuổi của bà ấy. Gương mặt của bà không thể hiện quá nhiều, trông như thể bà ấy đang đeo mặt nạ, như một bức phù điêu.
Nhưng có vài điều bạn biết, vì chính mắt bạn trông thấy chúng. Chính với phong cách dửng dưng này, Salome đã lau dọn, giữ vệ sinh cho ngôi nhà và giặt giũ quần áo cho mọi người sống trong ngôi nhà ấy, bà chăm sóc Mẹ suốt quãng thời gian đau yếu cuối đời, thay quần áo cho Mẹ, giúp Mẹ tắm rửa với một xô nước nóng và một chiếc khăn mặt, đỡ Mẹ đi vệ sinh, phải, thậm chí còn vệ sinh cho Mẹ sau khi mẹ đi ngoài vào bô, đánh vật với một đống máu, phân, mủ và nước tiểu, tất cả những kiểu công việc mà không ai trong gia đình mẹ muốn làm, quá bẩn thỉu hay quá gần gũi. Cứ để Salome làm đi, bà ta được trả lương để làm thế mà, không đúng sao? Bà đã ở bên cạnh Mẹ khi Mẹ mất, ngồi ngay bên cạnh giường, cho dù có vẻ như không ai trông thấy bà, bà như thể vô hình. Và bất kể điều gì khiến Salome cảm thấy mình cũng vô hình nốt. Bà đã được dặn dò như thế, Dọn sạch ở đây, giặt giũ tấm ga trải giường và bà tuân lệnh, dọn dẹp và giặt giũ tấm ga trải giường.
Nhưng Amor có thể nhìn thấy bà ấy qua ô cửa sổ, thế nên rốt cuộc bà ấy không vô hình. Nghĩ đến một hồi ức, không thể hiểu nổi cho đến tận bây giờ, về một buổi chiều mới hai tuần trước, cũng trong căn phòng ấy, với Mẹ và Bố. Họ đã quên mất mình cũng có mặt ở đó, đứng trong góc phòng. Họ không trông thấy mình. Mình giống như người đàn bà da màu đối với họ.
(Anh hứa với em chứ, Manie?
Ôm chầm lấy người ông, đôi bàn tay xương xẩu nắm chặt, như trong phim kinh dị.
Được, anh sẽ làm thế.
Vì em thực sự muốn bà ấy được cái gì đó. Sau tất cả những gì bà ấy đã làm.
Anh hiểu mà, ông nói.
Hứa với em anh sẽ làm thế đi. Nói em nghe đi. Anh hứa, Bố nói, nghe như bị nghẹn.)
Em nhìn thấy bức tranh tĩnh tại, bố mẹ em quấn vào nhau như Jesus và mẹ của Người, một nút thắt buồn khủng khiếp của ghì siết và than khóc. Âm thanh ở nơi nào đó khác, cao lên nữa và tách nhau ra, những từ ngữ cho đến bây giờ không đến được chỗ em. Nhưng cuối cùng em hiểu họ đang nói về ai. Tất nhiên. Rõ ràng. Ai mà không biết.
Em đang ngồi tại chỗ mình thích, giữa những tảng đá, dưới gốc một cái cây cháy khô. Nơi mình từng ngồi khi bị sét đánh, nơi mình đã suýt chết. Bùm, ngọn lửa trắng đánh xuống từ trên trời. Như thể Chúa đã chỉ tay vào bạn, Bố nói, nhưng làm sao bố biết, bố không có mặt ở đây khi chuyện đó xảy ra. Cơn giận của Thượng đế giống như một ngọn lửa hận thù. Nhưng mình không bị cháy, không như cái cây kia. Ngoại trừ đôi bàn chân của mình.
Hai tháng nằm viện, phục hồi. Vẫn cảm thấy sự mềm mại ở hai bàn chân, và một ngón nhỏ bị mất. Giờ em chạm vào nó, mân mê vết sẹo. Một ngày, em sẽ nói thành lời điều đó. Một ngày mình sẽ nói. Nhưng cái ý nghĩ này đã bị gián đoạn, và những điều mà em định làm cứ thế bị treo lửng lơ mãi ở đó.
Chuyện đang xảy ra bây giờ đó là ai đấy nữa đang trèo lên đồi từ phía bên kia. Một bóng người đang tới gần, chậm rãi hiện rõ ra, dần khoác lên mình các dấu hiệu của tuổi tác, giới tính và chủng tộc như các món quần áo, cho đến khi em nhận ra mình đang nhìn vào một thằng nhóc da đen, cũng mười ba tuổi, mặc một chiếc quần đùi rách rưới và áo thun, đôi giày vải đế cao su há mõm dưới chân.
Những giọt mồ hôi dính dấp vào da. Có thể kéo chúng ra bằng những ngón tay.
Chào Lukas, em nói. Chào, Amor.
Trước tiên cần thiết phải lấy gậy đập xuống đất. Sau đó thằng bé ngồi xuống một tảng đá. Dễ nói chuyện với nhau. Không phải lần đầu tiên chúng gặp nhau tại đây. Vẫn còn là trẻ con, đang trên ngưỡng cửa trưởng thành.
Tớ rất tiếc vì chuyện mẹ cậu, thằng nhóc nói.
Em lại suýt khóc, nhưng lần này không khóc. Thằng nhóc nói thế không sao, vì cha của Lukas cũng mất rồi, tại một mỏ vàng gần Johannesburg, khi nó hẵng còn nhỏ. Một điều kết nối chúng lại với nhau. Chuyện em vừa nhớ ra tràn ra ngoài, em muốn kể cho thằng nhóc nghe chuyện đó.
Căn nhà là của cậu rồi đấy, em nói.
Thằng nhóc nhìn em, không hiểu.
Mẹ tớ nói với bố tớ tặng lại nó cho mẹ cậu. Một người theo đạo Cơ đốc không phản lại lời nói của mình.
Thằng nhóc nhìn xuống quả đồi sang phía bên kia, nơi nó sống, trong căn nhà nhỏ xiêu vẹo ấy. Nhà Lombard. Đó là cách mọi người gọi nó, ngay cả cho dù bà Lombard đã mất lâu rồi, trước khi ông nội Amor mua nó nhằm không cho phép gia đình Ấn Độ ấy dọn vào, thay vào đó ông cho Salome sống ở đó. Vài cái tên quen thuộc, vài cái tên thì không.
Nhà của bọn tớ ư?
Giờ nó sẽ là nhà của cậu.
Thằng nhóc chớp mắt, vẫn bối rối. Nơi ấy đã luôn là nhà của nó. Nó sinh ra ở đó, ngủ ở đó, cái con bé da trắng này đang nói gì thế? Thấy chán nản, thằng nhóc khạc nhổ rồi đứng dậy. Em nhận thấy đôi chân thằng nhóc đã dài và mạnh mẽ hơn, mấy sợi lông cứng và thô đang mọc trên hai đùi. Em còn có thể ngửi thấy thằng nhóc nữa, mùi mồ hôi chua lòm. Tất cả những điều này thật mới mẻ, hoặc có thể giờ em mới để ý, và em thấy ngượng ngùng, ngay cả trước khi nhận thức được thằng nhóc đang nhìn mình.
Gì thế? Em nói, cúi người xuống, tay đặt trên đầu gối. Không có gì.
Thằng nhóc nhảy tới tảng đá em ngồi, cúi xuống bên cạnh em. Cái chân trần của nó sát cạnh chân của em, em có thể ngửi thấy hơi ấm và cảm giác như kim chân, em chợt rụt gối lại.
Eo ơi, em nói. Cậu phải đi tắm đi.
Thằng nhóc đứng phắt dậy nhảy lại về tảng đá kia. Giờ em thấy hối tiếc vì đã xua đuổi nó, nhưng không biết phải nói gì. Thằng nhóc nhặt cây gậy lên rồi lại đập xuống đất.
Được rồi, nó nói. Được mà.
Thằng bé quay xuống đồi theo con đường nó đã đi lên, tay vung vẩy cây gậy trên những ngọn cỏ trắng phau, đè chúng xuống các tổ mối. Để cả thế giới biết rằng nó đã ở đó.
Em ngắm nhìn thằng nhóc tới khi nó biến mất, giờ đã cảm thấy nhẹ nhõm hơn vì chiếc xe to màu đen ấy đã đi rồi, và cả các sắc đen đang ngồi trên em cũng theo đó mà biến mất. Sau đó em lang thang xuống phía bên kia ngọn đồi nhỏ, thi thoảng dừng lại ngắm nhìn một tảng đá hay một chiếc lá, đến căn nhà của mình, hoặc căn nhà mà em nghĩ nó là của riêng em. Vào lúc em vào nhà qua cánh cửa sau, một trăm ba mươi ba phút và hai mươi hai giây đã trôi qua kể từ khi em chạy trốn. Bốn chiếc xe, gồm cả chiếc xe dài, đã rời đi, một chiếc xe mới vừa đến. Điện thoại đã reo chuông mười tám lần, chuông cửa reo hai lần, nhân dịp gì đấy có người gửi hoa tới bày ra khắp nơi ngoài này. Hai mươi hai chén trà, sáu cốc cà phê, ba ly rượu và sáu ly brandy pha Coke đã dùng hết. Ba nhà vệ sinh dưới tầng, vốn không bao giờ năng suất tới mức này, mỗi phòng giật nước hai mươi bảy lần, rửa trôi sạch sẽ chín phẩy tám tấn nước tiểu, năm phẩy hai tấn phân, đống đồ ăn nôn mửa do đầy bụng và năm mililit tinh trùng. Những con số cứ thế xuất hiện, nhưng toán học thì giúp được gì chứ? Trong cuộc đời con người, bất cứ ai, chỉ có một con số duy nhất cho tất cả mà thôi.
Khi lẻn vào trong bếp em có thể nghe thấy những giọng nói xa xôi, cho dù phía này của ngôi nhà luôn tĩnh lặng. Em đi lên cầu thang tới tầng hai. Tiến lên lối đi dẫn về phòng mình. Trên đường đi em phải qua phòng của Mẹ, giờ đã trống trơn, Salome đã mang chăn đệm đi giặt, ngay cả khi em biết chuyện không xảy ra đã không xảy ra ở đây, em vẫn phải, buộc phải, bước vào trong.
Cô gái bé nhỏ đang ngắm nhìn những đồ đạc của mẹ mình. Em đã thuộc hết những thứ này, thuộc hết số bước chân tính từ cửa phòng ngủ tới giường, nhớ cái công tắc đèn nằm đâu, nhớ hoa văn màu cam xoáy tròn trên tấm thảm – một công tắc để khơi dậy cơn nhức đầu, vân vân và vân vân. Từ khóe mắt em nghĩ mình trông thấy gương mặt Mẹ xuất hiện trong gương, nhưng khi nhìn thẳng vào gương thì nó biến mất. Thay vào đó em có thể ngửi thấy mẹ mình, hoặc sự pha trộn của những mùi hương mà em nghĩ như mùi hương của mẹ, nhưng thực ra chỉ là những gì còn sót lại của các sự kiện gần đây, liên quan tới nôn mửa, hương trầm, máu me, thuốc thang, nước hoa và một lời gợi nhắc đen tối còn vương vấn, có lẽ là mùi của chính căn bệnh đó. Phả ra từ các bức tường, vẩn vơ trong không khí.
Mẹ không ở đây đâu.
Chị gái em, Astrid, đang nói, làm sao đó chị ấy đã nhận ra em và bám theo.
Người ta mang bà đi rồi.
Chị biết thế. Chị đã thấy.
Mọi thứ nằm trên giường đã bị lột sạch, tấm đệm trần trụi hoen ố bởi một thứ không thể định nghĩa. Cả hai chị em nhìn vào đường nét u ám căng thẳng ấy như thể nhìn vào bản đồ của một lục địa mới, hấp dẫn và đáng sợ.
Chị đã ở bên mẹ khi bà chết, cuối cùng Astrid lên tiếng, giọng run run vì đang nói dối. Cô đã không ở bên mẹ mình khi bà mất. Lúc đó, cô đang ở phía sau mấy cái chuồng ngựa, đang nói chuyện với Dean de Wet, chàng trai thi thoảng đến từ Rustenburg để giúp việc trên cánh đồng, cọ rửa các chuồng ngựa. Cha của Dean cũng đã qua đời vài năm trước, và anh đã ở bên an ủi Astrid suốt thời gian mẹ cô hấp hối. Anh là một chàng trai giản dị, chân thành, và cô thích được anh chú ý, một phần sự nhận thức của đàn ông lớn tuổi hơn mà gần đây cô rất hào hứng đón nhận. Thế nên những người duy nhất ở bên cạnh Rachel Swart trong giờ phút cuối cùng là chồng của bà, tức là Bố hoặc Manie, và người phụ nữ da đen, tên bà ta là gì nhỉ, Salome, người rõ ràng không được tính.
Lẽ ra cô nên có mặt tại đó. Astrid nghĩ vậy, rằng việc tán tỉnh Dean chỉ càng làm tăng thêm cảm giác tội lỗi giằng xé trong lòng cô. Cô tin, một cách sai lầm, rằng em gái mình biết sự thật về mình. Không chỉ sự thật này, mà còn cả những sự thật khác nữa. Chẳng hạn như việc cô đã nôn ra bữa trưa nửa tiếng trước đó, cô thường xuyên làm như vậy để giữ dáng. Cô ấy dễ mắc chứng sợ hãi hoang tưởng như thế này, thi thoảng nghi ngờ rằng những người khác xung quanh có thể bí mật đọc được tâm trí mình, hoặc cuộc sống là một màn diễn phức tạp mà trong đó tất cả mọi người khác đều đang diễn còn mình cô thì không. Astrid là người luôn sợ hãi. Ngoài những thứ khác, cô ấy còn sợ bóng tối, sợ nghèo đói, sợ sấm sét, bão tố, sợ béo, sợ động đất, sợ sóng thủy triều, cá sấu, những người da đen, tương lai, những kết cấu trật tự của xã hội đang bị sụp đổ. Sợ không được yêu thương. Sợ mình luôn luôn bị đối xử theo cách đó.
Nhưng giờ Amor lại khóc, vì Astrid đã nói ra cái từ ấy như thể nó là sự thật, nhưng nó không đúng, không đúng, ngay cả cho dù căn nhà này đang chứa đầy những người không nên có mặt ở đó, bình thường không có mặt ở đó, hoặc có nhưng không phải vào cùng một lúc.
Chị em mình nên bắt đầu chuẩn bị đi, Astrid sốt ruột nói. Em cần thay bộ đồng phục đó ra.
Sẵn sàng cho cái gì cơ?
Astrid không đáp, càng khiến em bực mình.
Em đã đi đâu thế? Tất cả bọn chị đều đi tìm em. Em trèo lên ngọn đồi nhỏ.
Em biết mình không được phép lên đó một mình mà. Thế em đang làm gì ở đây? Trong phòng ngủ của mẹ?
Em chỉ nhìn thôi. Nhìn cái gì?
Em không biết.
Đây là sự thật, em không biết, em chỉ nhìn thôi, thế thôi.
Đi thay đồ đi, Astrid ra lệnh cho em, cố gắng lấy giọng người lớn, một vị thế mà lúc này đã bị khuyết.
Chị không thể ra lệnh cho em như thế, Amor nói, nhưng em vẫn đi, chỉ để thoát khỏi Astrid, người mà vào lúc này chỉ còn lại một mình trong phòng, nhặt lên cái vòng xuyến mà cô thấy nó đang nằm trên bàn cạnh giường ngủ, một cái vòng nhỏ xinh đẹp màu xanh với những viên ngọc trắng. Cô đã từng thấy mẹ mình đeo nó, cô đã từng thử đeo nó. Giờ cô lại luồn nó vào cổ tay mình, cảm thấy nó như đang cuộn lấy mạch đập của mình. Cô quyết định rằng cái vòng vốn đã luôn thuộc về cô.
Mình không xinh đẹp. Amor nghĩ vậy, không phải lần đầu tiên, khi em ngắm mình trong tấm gương đằng sau cánh cửa tủ chè trong phòng mình. Em đang mặc đồ lót, gồm một chiếc nịt ngực nhỏ, gần đây em mới sắm, cảm nhận về da thịt mới nảy nở vẫn còn lạ lẫm và bối rối. Hai hông của em đã rộng ra, tròn đầy, dường như khiến em thấy nặng nề, lộ liễu, khiêu gợi. Em không hề thích phần bụng, bắp đùi và đôi vai xuôi của mình. Em không thích toàn bộ cơ thể mình, nhiều người trong số các bạn cũng thế thôi, nhưng với sức phát triển đặc biệt của tuổi thiếu niên, dường như ngày hôm nay những nét ấy lại hiện hữu hơn bao giờ hết, nặng nề hơn, rõ nét đến mãnh liệt.
Vào những thời điểm tụ tập trong nhà như thế này, bầu không khí xung quanh em đậm đặc những điềm báo. Gần đây chuyện này xảy ra một vài lần đến nỗi em có thể đoán trước, chỉ sớm hơn một phần nghìn giây, rằng một bức tranh sẽ rớt khỏi tường, một ô cửa sổ sẽ mở tung ra, một chiếc bút chì sẽ lăn ngang mặt bàn. Hôm nay khi nhìn hình mình phản chiếu trong gương, em cảm thấy chắc chắn rằng cái mai rùa đã cháy đen được đặt trên mặt tủ đầu giường của em sẽ bay lên không trung. Em nhìn thấy nó bay lên. Như thể em đang nhấc nó lên bằng ánh mắt, em quan sát nó di chuyển một cách bình thản ra giữa phòng. Rồi em bỏ mặc nó rơi xuống, hay có lẽ là ném nó đi, vì nó đập rất mạnh xuống sàn rồi vỡ tan.
Cái mai rùa ấy là, hoặc đã từng là, một trong số vài thứ bà đã sưu tầm, tất cả đều kiếm được trên thảo nguyên ngoài kia. Một viên đá có hình dáng rất lạ, một hộp sọ bé xíu của cầy mongoose, một sợi lông vũ dài màu trắng. Ngoài ra căn phòng không có bất kỳ dấu hiệu thông thường nào, mà chỉ có cái giường với một cái chăn, bàn cạnh giường ngủ và một ngọn đèn, tủ đựng ly tách và tủ ngăn kéo, mặt sàn bằng gỗ không có thảm hay vải lót sàn. Các bức tường cũng trần trụi. Khi cô bé không còn ở đây nữa, căn phòng này giống như một trang giấy trắng, gần như không có dấu hiệu hoặc đầu mối nào cho biết bất kỳ điều gì về cô, hay có lẽ chính sự trống trải đó đã phần nào nói lên con người cô bé.
Em đang cầm trong tay một mảnh mai rùa khi xuống cầu thang một lát sau đó. Mọi người vẫn còn đang đi lại xung quanh, em giữ mắt nhìn thẳng đầu ngẩng cao bước đến hình bóng của bố mình, vẫn đang phủ phục trên ghế.
Con đã ở đâu thế? Bố nói. Mọi người đã rất lo lắng. Con đi lên quả đồi nhỏ.
Amor. Con biết con không được phép một mình lên quả đồi đó cơ mà. Sao lúc nào con cũng quay lại đó?
Con không muốn nhìn thấy mẹ. Con đã chạy trốn. Con cầm cái gì trong tay kia?
Em đưa lại mảnh mai rùa nham nhở, trong trạng thái sửng sốt, em hoàn toàn không thể nhớ nổi, nó là cái gì hay nó đến từ đâu. Trông nó như một cái móng chân cũ kỹ khổng lồ, thật ghê tởm làm sao, em gái. Thứ gì đó bà đã nhặt được ngoài đó. Lúc nào cũng đi nhặt nhạnh những thứ đầu thừa đuôi thẹo từ thế giới tự nhiên. Ông suýt nữa ném nó đi nhưng cơn bốc đồng đã trôi qua và ông cầm nó trong tay giống như em đã cầm, hờ hững.
Tới đây nào.
Giờ thì ông vô cùng dịu dàng đối với em, vừa sâu sắc vừa tình cảm. Một linh hồn giản dị, và mong manh. Ôi con tôi, đứa con bé bỏng của tôi. Kéo em vào gần mình, bỗng cả hai cha con chợt cùng nhớ về khoảnh khắc tương tự bảy năm về trước, trong khoảnh khắc chói lòa sắc trắng ngay sau khi ánh chớp đánh xuống, trạng thái nửa thức nửa ngủ đầy mộng mị sau chấn động từ biến cố. Bế Amor xuống ngọn đồi nhỏ. Hãy cứu con bé. Cứu con bé, lạy Chúa, và con sẽ mãi mãi thuộc về Người. Đối với Manie, như khi Moses leo xuống từ trên núi, chính buổi chiều hôm ấy Đức Thánh Linh đã chạm vào ông, và cuộc đời ông thay đổi mãi mãi. Amor thì lại nhớ khác, như cái mùi nồng nặc của thịt cháy trong không khí, giống như món thịt nướng, cái mùi khó chịu của lễ hiến tế ở trung tâm thế giới.
Quả đồi nhỏ. Lukas. Cuộc nói chuyện. Chính vì muốn nói chuyện này mà em đi xuống nhà, em đẩy mình tránh xa không bị ép vào cái áo sơ mi của ông, cái mùi của mồ hôi, của nỗi đau khổ và chất khử mùi Brut.
Bố sẽ giữ lời hứa của mình, em nói. Cả hai đều không tài nào hiểu nổi đây là lời tuyên bố hay là một câu hỏi.
Lời hứa gì cơ?
Bố biết mà. Chuyện mà Mẹ đề nghị bố làm ấy.
Ông đã kiệt sức, gần như rã ra thành dạng hạt, quỹ thời gian của ông có lẽ đang sắp hết. Ừ, ông mơ hồ nói, nếu bố đã hứa thì bố sẽ làm.
Bố sẽ làm chứ?
Bố đã nói là bố sẽ làm. Ông rút ra chiếc khăn mùi soa từ trong túi áo jacket rồi xì mũi vào trong đó, nhìn vào cái khăn tay để xem mình đã xì ra cái gì. Rồi ông lại cất đi. Mà thực ra bố con mình đang nói về chuyện gì? Ông hỏi.
(Ngôi nhà của Salome). Nhưng Amor không còn sức lực nữa, em lại ngã gục vào ngực ông. Khi em lên tiếng ông không thể nghe thấy em.
Con nói gì cơ?
Con không muốn quay về ký túc xá nữa. Con ghét phải ở đó.
Ông suy nghĩ về chuyện này. Con không cần phải quay lại đó đâu, ông nói.
Chỉ là tạm thời thôi, trong khi Mẹ… khi Mẹ bị ốm.
Thế là con sẽ không phải quay lại nữa? Không.
Mãi mãi chứ ạ?
Không bao giờ. Bố hứa.
Lúc này em cảm thấy như chìm xuống và xa cách, như thể đang ở trong một hang động dưới lòng đất, nóng bỏng, câm lặng. Trái tim là thứ dễ thay đổi nhất. Buổi chiều đang trôi dần về cái kết vàng vọt lê thê của nó. Mẹ đã mất sáng hôm nay. Không lâu nữa ngày mai sẽ đến.
Manie mệt mỏi vì em đeo bám không ngừng, ông buộc phải dập tắt cơn thôi thúc muốn đẩy con bé ra một cách thô lỗ. Ông luôn lo lắng, cho dù chẳng có bằng chứng rõ ràng, rằng Amor liệu có thực sự là con mình hay không. Đứa trẻ chào đời cuối cùng, ngoài kế hoạch, con bé được thụ thai trong quãng thời gian cuộc hôn nhân của ông đang có rắc rối, giữa lúc hai vợ chồng ông ngủ riêng. Giữa hai vợ chồng không còn tình yêu nữa, thế nhưng đó là lúc Amor xuất hiện.
Nhưng không cần biết con bé đến từ đâu, không nghi ngờ gì nữa nó là một phần trong kế hoạch của Chúa. Chắc chắn con bé chính là lý do cho bước chuyển đổi của ông, khi Chúa suýt nữa đã cướp con bé khỏi tay họ và Manie cuối cùng đã tự mở lòng mình với Đức Thánh Linh. Không lâu sau đó, trong một khoảnh khắc cầu nguyện thành tâm, ông chợt hiểu rằng mình phải làm gì đó để tự thanh lọc bản thân. Ông, Herman Albertus Swart, phải thú nhận những thất bại của mình với vợ và cầu xin bà tha thứ, và thế là ông đã kể cho Rachel nghe mọi chuyện, bao gồm cả chuyện cờ bạc và những ả gái điếm, ông đã tự bộc lộ, tự phơi bày chính bản thân mình, nhưng thay vì khiến bản thân mình trong sạch thì cuộc hôn nhân của ông lại rơi vào bóng tối, thay vì được tha thứ thì bà lại phán xét ông và cho rằng ông chẳng tốt đẹp gì, thay vì bước theo ông vào quầng ánh sáng ấy bà lại rẽ ngoặt theo một hướng khác, quay về với đồng loại của riêng bà. Hành động của Chúa sẽ chẳng bao giờ chúng ta hiểu nổi!
Ông xoay người lại trên chiếc ghế, hai bàn tay ông ôm lấy gương mặt Amor, kéo về phía mình, ngắm nhìn những đường nét của con bé, tìm kiếm dấu hiệu nào đấy chỉ có thể thừa hưởng từ cơ thể ông, những tế bào của ông. Không phải lần đầu tiên ông làm thế. Từ chòm sao xa xôi tăm tối của mình, con bé nhìn chằm chằm lại về phía ông, khiếp đảm.
Có thể ông đã định nói gì đó với con bé, nhưng may thay, đã kịp ghìm lại khi ngài Mục sư Simmers tới gần. Vị giáo sĩ tốt bụng đã có mặt ở đây suốt cả ngày, gửi tới những lời nguyện cầu và bàn bạc với một thành viên quan trọng trong giáo đoàn của mình. Suốt bao nhiêu năm điều tra và tìm kiếm kể từ khi Manie được trui rèn qua ngọn lửa của Chúa và cuối cùng cũng quay về với sự thật, Alwyn Simmers đã là người khuyên bảo và dẫn dắt ông. Lối sống khắc khổ trong Giáo hội của ông ta chính là những thanh rầm và gậy chống đỡ tôi đứng thẳng.
Tôi e rằng đã đến lúc mình phải về rồi, tay giáo sĩ nói. Nhưng ngày mai tôi sẽ lại đến.
Trong mắt ông, Manie chỉ giống như một mảng mờ mờ phức tạp, bởi vị mục sư đang mất dần thị lực, đôi mắt bị che giấu đằng sau cặp kính dày cộp, đen ngòm, và cần có một người ở bên cạnh để dựa vào mỗi khi đi bất cứ đâu. Nói thẳng ra, trong những hoàn cảnh như thế này thì Jesus chỉ là một phép ẩn dụ. Sự hiện diện của một giáo sĩ được đào tạo ở đây, người đã từng đánh mất đức tin, người giờ đây đang cố gắng thể hiện vai trò mục sư để cuộc nói chuyện diễn ra mạch lạc.
Rốt cuộc Manie đã có lý do để gạt cô con gái sang một bên, thận trọng, như món đồ nội thất mong manh dễ vỡ, và lãng quên con bé ngay lập tức. Để con dẫn cha tới chỗ đỗ xe, ông nói. Khi ông đi trước dẫn đường, hai người chậm rãi bước ra cửa trước, đi qua bức ảnh viền khung của chính ông trên tấm ván trượt, được chụp hai mươi năm trước tại thành phố Scaly, công viên bò sát của ông, không lâu sau khi nó khai trương. Chụp nó ngay ngày đầu tiên, bạn có thể thấy điều đó qua nụ cười tươi rói của chàng thanh niên trẻ trung trong bức ảnh. Manie hai mươi bảy tuổi. Manie có thể được coi như một anh chàng hấp dẫn vào thời đó. Rất vui tính, luôn giả ngốc, vẻ ngoài điển trai, nếu không tin bạn cứ xem ảnh đi là biết. Tóc mái dài, mảnh mai, nụ cười nhăn răng, xấc xược. Có chút hơi hướm trai hư. Mỗi tay cậu ta đều đang cầm một con rắn hung dữ, nguy hiểm, một con rắn độc màu đen trên tay trái, một con màu xanh trên tay phải, vẻ đẹp thanh xuân, sức trẻ mạnh mẽ và sự kiên định của anh chàng đó làm bừng sáng cả khung ảnh. Kính đen, tất nhiên rồi, với gọng kính to sáng bóng, những sợi tóc mai màu đồng rậm rạp, đồng màu với đám lông đang đâm tua tủa ra trên bộ ngực trần của cậu. To khỏe, phát triển tự nhiên, ai ai cũng muốn được lại gần cậu ta, không ngạc nhiên khi Rachel từ bỏ tất cả vì cậu ta. Nhưng rồi lại đổi ý khi cậu ta cũng thay đổi.
Bên ngoài, vị mục sư vụng về ôm ghì lấy Manie, thở hổn hển nhưng kiên cường. Hãy tiếp nhận sức mạnh của Chúa, ông ta nói vào tai ông. Một lời nói vô nghĩa, nếu bạn suy nghĩ về nó, nhưng Manie nói rằng ông sẽ làm theo, ông sẽ tiếp nhận sức mạnh của Chúa. Ông đã làm thế từ rất lâu trước đây rồi. Ngày mai cha sẽ quay lại chứ? Ông lo âu hỏi, không chắc liệu một mình Chúa đã đủ hay chưa, và vị mục sư đáp rằng mình sẽ tới.
Sau đó họ lái xe rời khỏi căn nhà trang trại, nói đúng hơn thì vị mục sư học việc kia là người cầm lái, còn người già hơn ngồi bên cạnh anh ta. Hai người không nói gì với nhau trên con đường mấp mô ra cửa trước, cho dù cục yết hầu của người lái cứ đưa lên rồi lại hạ xuống như cái phao trên sợi dây câu, như thể anh ta có điều gì muốn nói.
Chỉ sau khi họ phóng xe qua cổng và đi trên con đường nhựa thì Alwyn Simmers mới khuấy động không khí.
Một gia đình tuyệt vời, ông ta nhận xét. Và người đàn ông ấy sẽ không suy sụp.
Người lái xe lắng nghe, mỉm cười đầy ghen tị với chính mình. Không suy sụp! Điều này chắc chắn có thể sao? Không phải với mình. Không phải tối nay. Ngay cả việc tin rằng mình có thể đi mãi con đường này, với hai bàn tay trơn trượt này, cũng đòi hỏi quá nhiều đức tin rồi.
Vị giáo sĩ già là người có vóc dáng to lớn, phong thái nhẹ nhàng, với mái tóc màu nâu quăn lên ở hai bên như gợn sóng. Tuy nhiên phần nhiều con người ông toát lên vẻ nhàu nhĩ, vì em gái ông Laetitia, người phụ trách chăm sóc ông ở nhà, không sở hữu được bàn tay tinh tế khi là quần áo. Và làn da trên hai bàn tay, trên cổ và trên mặt ông ta, tất cả đều khắc họa rõ nét, yếu đuối và nhăn nheo, và thực sự bạn sẽ không muốn phải ngắm nghía phần còn lại, sau lớp quần áo.
Vốn là người bẩm sinh không mấy khéo léo, nhưng trong buổi chiều hôm nay, ông đã thể hiện một cách đặc biệt vụng về, vì cái chết của Rachel, một phụ nữ đã giơ tay lên phản đối ông ta ngay từ đầu, phải, một mụ đàn bà kiêu hãnh, bướng bỉnh luôn quay lưng lại với Chúa, người đã mang ông tới rất gần một thứ mà ông hằng thèm muốn. Không phải cho chính ông ta, không, tất nhiên là không! Mà chỉ dành cho Giáo hội, và đẩy mạnh hơn nữa công việc của Chúa. Tôi chỉ đơn thuần là một công cụ. Nhưng công cụ này có thể cảm nhận con đường rõ ràng trước mắt cuối cùng đã được dọn quang, và ông ta có thể sớm sở hữu được một miếng đất ngon lành.
Chiều mai đón tôi vào lúc bốn giờ nhé, ông ta quyết định. Chúng ta sẽ quay lại với… với những người đó à?
Đúng vậy, chúng ta sẽ quay lại gia đình Swart. Tôi vẫn chưa xong việc ở đó.
Vào lúc mặt trời lặn, khung cảnh ngoài này đặc biệt sống động, tất cả khách khứa đã ra về hết chỉ còn lại người trong gia đình. Bác Ockie lúc này đang nói điều gì đấy cực kỳ đúng đắn, có lẽ được đánh giá bằng nụ cười lệch miệng của bác ấy, như bị trói buộc ở khóe miệng bên kia. Bác ấy cùng Bố đang ngồi trong phòng nghỉ, xem tin tức trên ti vi, một chương trình chuyên phát về những chiều hướng tồi tệ trên khắp đất nước. Loại mìn hải quân đặt dưới đáy tàu tại Johannesburg, quân đội tại các thị trấn. Thi thoảng Bố lại gục xuống khóc nức nở một lúc, như thể tình hình tại Nam Phi khiến ông xúc động. Bác Ockie thì chỉ nhấp rượu và mỉm cười.
Trong bếp, Marina giám sát con bé da đen, nó đang phải rửa cả một chồng chén đĩa. Cái cách bà ta lê bước đi khắp nơi, béo ú và chậm chạp, bạn sẽ nghĩ chính bà ta mới đang bị mất người thân. Không thể tha thứ khi người đàn bà đó lại tỏ ra lười nhác vào một ngày trọng đại như hôm nay, bà ta nên bị đá văng đi như một viên đá cuội, thật mệt mỏi khi lúc nào cũng phải ra lệnh. Cáu kỉnh, Marina làm một vòng lượn cuối cùng quanh nhà, tìm kiếm thức ăn thừa. Trong phòng ăn bà chạm trán Amor, con ranh mà bà còn chưa có cơ hội trừng phạt. Mày đã chạy đi đâu thế hả? Bà gặng hỏi, tức giận hơn cả bà tưởng tượng, thấy mình đang siết chặt cẳng tay trên của đứa cháu gái, trên các móng tay của bà ánh lên sắc tàn bạo đích thực.
Á, Amor kêu lên, nhưng không hề trả lời câu hỏi, Marina dằn mạnh chân bước lên tầng hai với vẻ bất mãn. Bà bước vào phòng của Rachel ngập ngừng một lúc trước khi đóng hết các cửa sổ và kéo rèm xuống. Dường như với bà căn phòng vẫn còn vương nhẹ một thứ mùi khó chịu trong không khí. Bên ngoài đang là đêm.
Đêm rồi, vẫn là đêm như thế, nhưng sau đó các vì sao đã bỏ đi. Chỉ còn lại một vầng trăng khuyết, hắt thứ ánh sáng như kim loại yếu ớt xuống khung cảnh toàn những phiến đá với ngọn đồi lởm chởm, khiến chúng trông gần giống như một thứ chất lỏng gì đó, một biển thủy ngân. Hình dáng mặt đường nhựa thi thoảng chậm rãi co lại dưới những ngọn đèn pha của một chiếc xe, đang chở các chuyến hàng là mạng sống con người, từ đâu đó tới đâu đó.
Căn nhà chìm trong bóng tối, ngoại trừ những ngọn đèn pha ở phía trước và sau để chiếu sáng con đường nhỏ lái xe vào nhà và bãi cỏ, cùng một ngọn đèn duy nhất ở phía sau, trong phòng nghỉ. Trong rất nhiều phòng dưới nhà mọi thứ hầu như bị đình trệ, ngoại trừ lũ côn trùng chốc chốc lại bay vút qua, hoặc một loài gặm nhấm, và sự giãn nở và co lại ở biên độ siêu nhỏ của những món đồ nội thất. Lộp độp, lộp độp, cót két, cót két.
Nhưng trên gác, trong các phòng ngủ, ánh sáng vẫn còn le lói. Tấm đệm giường của Bố là một cái bè, đang dập dềnh trong dòng ác mộng khó chịu. Ông đã uống thuốc giảm đau do Bác sĩ Raaff kê đơn, khiến ông cảm thấy đầu mình như thể đang lềnh bềnh ngay dưới mặt nước, ngắm nhìn những hình ảnh được khúc xạ phía trên. Trong rất nhiều hình ảnh ấy có vợ ông, nhưng không biết làm sao đấy nó lại thay đổi, hơi tiều tụy. Một người khác mang những nét của bà ấy, một người mà ông không biết. Sao có thể thế được? Ông kêu lên với cô ta. Em chết rồi mà. Nói câu ấy ra là không thể tha thứ được, Manie, cô ta nói với ông. Em tổn thương lắm đấy. Trái tim ông bị bóp nghẹt như miếng giẻ cũ.
Anh xin lỗi. Anh xin lỗi.
Qua bức tường bên cạnh ông, chỉ cách một cánh tay, Astrid đang chập chờn trong giấc ngủ. Gần đây cô đã mất sự trong trắng của mình vào tay một cậu trai cô gặp trên sân trượt băng, ham muốn xác thịt chảy tràn qua cô như một cơn gió bằng vàng. Cô đã quên hết cơn đau đớn, cho dù nó là một phần trong ánh sáng lung linh xung quanh gương mặt những chàng trai trẻ, với chòm râu lởm chởm của họ, và trong giấc mơ này đặc biệt là xung quanh gương mặt của Dean de Wet, với cái miệng có màu hồng khác hẳn với ngoài đời, khiến tận thẳm sâu trong cô rùng mình, lan xuống tận nơi mọi thứ giao nhau.
Trong phòng ngủ dành cho khách, bà Marina cứ ngủ lơ mơ rồi giật mình, ngủ lơ mơ rồi lại giật mình. Đó chỉ là sự khởi đầu của một giấc mơ, mà trong đó bà đang đi picnic với P. W. Botha tại một pháo đài cổ ở đâu đó, ông ta đang bón cho bà mấy quả dâu bằng những ngón tay chuối mắn màu trắng, trước khi bà bị đánh thức bằng một cú đá. Ở nhà tại Công viên Menlo, bà không phải ngủ chung giường với Ockie, người đang nằm co quắp bên cạnh bà như một nạn nhân trong vụ đâm xe rồi bỏ chạy, đang chờ trợ giúp y tế. Ý nghĩ mới kinh khủng làm sao, Marina, mày thật tồi tệ, nhưng mày không thể ngăn được suy nghĩ của mình, cũng chỉ là người mà thôi, và điều tồi tệ hơn đã lướt qua tâm trí mày, phải, đúng thế đấy. Đôi bàn chân của chồng bà chạm vào hai bàn chân bà, bà đá văng chúng đi. Khiếp đảm khi phải quay lưng lại với những gì mày đã từng, nói ngắn gọn, yêu thương, hoặc nghĩ rằng mày đã từng yêu thương, hoặc mày muốn mày nghĩ thế. Nhưng bất chấp điều ấy, chúng mãi mãi là những xiềng xích trói chặt mày cả đời.
Phía đầu kia sợi xích, Ockie giật mạnh như một con gấu đang nhảy nhót. Ông ta không mơ, không hẳn là mơ, trừ phi những suy tưởng nông cạn lướt vun vút qua tâm trí ông ta cũng được coi là một kiểu giấc mơ, nhưng chẳng hề có chuyện gì xảy ra, chỉ duy có một câu hỏi về sắc màu không ngừng thay đổi. Một bong bóng trồi lên từ dưới đáy biển, trở thành một cơn gió thốc mạnh vào một bên sườn vợ ông, bà ta co cứng người lại, hai lỗ mũi phập phồng phản đối.
Và trong phòng ngủ của mình phía cuối hành lang, Amor nằm thức trắng, trằn trọc suốt hàng giờ liền. Không phải là điều khác thường đối với em, tin tôi đi, mỗi đêm trước khi thiếp đi tâm trí em đều di chuyển khỏi cái giường, nơi cơ thể em đang nằm ngửa, bò ra ngoài và chạm vào những đồ vật nhất định tại những nơi đặc biệt, theo một trật tự cụ thể. Chỉ khi nào xong việc thì em mới có thể thư giãn để ngủ thiếp đi. Nhưng đêm nay chiêu ấy không hiệu quả, những hình ảnh khác từ ban ngày quá mạnh mẽ, chúng chen lấn xông vào, đôi môi mím chặt của cô Starkey, cây gậy của Lukas đập xuống đất, cái cảm giác đau nhức trên cánh tay chỗ bà bác của em cấu vào, quá nhiều cơn thịnh nộ trong những ngón tay của bà ta, truyền đi xung động bé xíu của nỗi đau ra ngoài vũ trụ, hãy để ý đến tôi, tôi đang ở đây này, Amor Swart, sinh năm 1986. Nguyện cầu cho ngày mai đừng bao giờ đến.
Ai đó từng nói rằng, có lẽ tất cả những giấc mơ có thể hòa trộn vào nhau, tạo thành một giấc mơ duy nhất, to lớn hơn, một giấc mơ của cả gia đình, nhưng một ai đó vắng mặt. Vào đúng lúc này anh ấy đang bước xuống khỏi chiếc Buffel trong một doanh trại quân sự phía nam Johannesburg, mặc bộ quân phục màu nâu, vai khoác khẩu súng trường. Sáng hôm qua anh ấy đã dùng khẩu súng trường đó để bắn chết một phụ nữ tại Katlehong, một hành động anh ấy chưa bao giờ nghĩ mình sẽ phạm phải trong đời, và tâm trí anh ấy chẳng chịu làm gì khác ngoài việc trở đi trở lại khoảnh khắc ấy trong kinh ngạc và tuyệt vọng.
Swart.
Vâng, thưa Hạ sĩ?
Cha tuyên úy muốn gặp cậu. Cha tuyên úy ư?
Anh chưa bao giờ nói chuyện với cha tuyên úy. Anh nghĩ chỉ có thể là người này biết chuyện anh đã làm nên muốn nói chuyện với anh về nó. Tội lỗi của anh bằng cách nào đó đã tự chuyển hóa, anh đã tước đoạt một mạng sống, và anh phải trả giá. Nhưng tôi không cố ý mà.
Nhưng anh đã làm điều đó.
Cô ta đang ném một hòn đá, cô ta cúi xuống nhặt nó lên, một thoáng giận dữ truyền khắp người anh, cùng lúc với cô ta. Anh chẳng suy nghĩ gì cả, anh căm ghét cô ta, anh xóa sổ cô ta luôn. Tất cả chỉ diễn ra trong vài giây, một tích tắc, kết thúc và xong xuôi. Chưa bao giờ kết thúc, chưa bao giờ xong xuôi.
Thế nên ngay cả sau khi được báo tin đó, anh vẫn không tin mình phải chịu trách nhiệm. Mẹ tôi chết rồi, tôi đã giết bà ấy.
Tôi đã bắn chết bà ấy sáng hôm qua.
Chúng tôi đang cố gắng liên hệ với cậu, cha tuyên úy nói. Chúng tôi đã gửi tin nhắn truyền thanh. Chúng tôi nghĩ cậu đã nhận được rồi.
Anh đang ngồi trong văn phòng cha tuyên úy, ngồi phía trước bàn ông ấy. Có một tấm poster hình Thiên Chúa dán bằng keo Prestik, Ta là Đường đi và là Sự sống, nhưng ngoài thứ đó ra căn phòng này chán ngắt và tầm thường, quá tầm thường không thể chứa đựng nổi những cảm xúc đang muốn vùng thoát trong anh.
Ta đã ở Kalehong, anh ta nói. Có một tình huống.
Vâng, vâng, tất nhiên. Cha tuyên úy có dáng người nhỏ nhắn và kiểu cách, mái tóc mọc trùm kín cả hai tai. Ông ta mang hàm đại tá, nhưng ngay lúc này chỉ mặc bộ đồ thể thao, gương mặt lờ đờ vì thiếu ngủ. Đảm nhận nhiệm vụ khó khăn này xong, ông ta sẽ quay về ngủ, đồng hồ mới chỉ điểm ba giờ sáng.
Đây là giấy xác nhận nghỉ phép bảy ngày, ông ta nói với cậu lính nghĩa vụ. Ta rất tiếc về chuyện mẹ cậu, nhưng ta chắc chắn bà ấy sẽ được yên nghỉ.
Chàng trai trẻ dường như đang không lắng nghe ông ta nói. Anh đang nhìn trừng trừng ra ngoài cửa sổ, nhìn vào bóng tối. Chúng ta phải kiểm soát được mọi thứ, anh chậm rãi nói.
Vâng, tất nhiên, đó là lý do tại sao cậu ở đây. Đó là lý do chúng ta có quân đội. Cha tuyên úy không bao giờ tranh đấu trong linh hồn mình với những câu hỏi dạng này, những câu trả lời luôn luôn hiện rõ. Ông ta mơ hồ tự hỏi phải chăng chàng trai này có tính nổi loạn. Cậu có muốn được nghỉ phép lâu hơn không? Mười ngày nhé?
Ồ, chàng thanh niên nói. Không, con không nghĩ thế. Vậy được rồi.
Mẹ con đã cải sang đạo Do Thái, cha biết đấy, hay đúng hơn là trở về với nó, và họ muốn chôn người chết thật nhanh. Cùng ngày, nếu có thể. Nhưng họ sẽ đợi con về nhà rồi mai mới chôn.
Ta hiểu.
Kế hoạch là như thế. Bà ấy đã hấp hối suốt mấy tháng rồi. Ai cũng chỉ muốn chuyện này kết thúc.
Vậy được rồi, cha tuyên úy khó chịu nhắc lại.
Chàng thanh niên cuối cùng cũng đứng dậy. Bố mẹ con lẽ ra không bao giờ nên cưới nhau, anh nói. Họ chẳng giống nhau chút nào.
Anh lang thang quay về lều của mình qua những ngả đường tối tăm của trại lính. Dưới tấm vải bạt, hàng trăm người khác giống như anh, túm tụm vào nhau thành hàng. Mẹ tớ mất rồi. Những cánh cửa mà qua đó mình đã bước vào thế giới này. Không còn đường lui nữa, ý mình không phải là đã từng có đường lui như thế. Mình đã bắn chết bà ấy ngày hôm qua. Nhưng mình không cố ý làm thế. Nhưng cậu đã không làm thế, cậu không giết chết mẹ cậu. Mà là cậu đã giết chết mẹ của ai đó. Thế nên mẹ của mình phải chết.
Anh rất mệt mỏi, anh đã không ngủ suốt bốn mươi tiếng đồng hồ và không có hy vọng gì sẽ được ngủ, cho đến khi anh về nhà cũng không. Lách tách và bùng cháy. Cầu chì sáng lóe lên. Một thứ mùi không ngừng phả vào mũi anh, mùi của cao su đang cháy, phát ra từ đâu đó bên trong anh. Anh về tới lều của mình, nơi cái giường đợi chờ anh, nhưng anh vẫn bước tiếp, tận hưởng âm thanh đôi ủng của anh tạo ra trên đường. Ngủ đi nào, những người lính bé nhỏ, trong khi quái vật Minotaur dậm chân bước qua. Nó lừ đừ bước về phía Bethlehem ở vùng Free State.
Ở phía ngoài rìa xa nhất của trại, một người lính đang đứng gác. Một người lịch thiệp giống như anh. Cậu muốn gì? Anh ta hỏi, nghe có vẻ sợ hãi.
Tôi muốn vàng và phụ nữ, Anton đáp. Vì lý do nào đó anh nói tiếng Nam Phi, cho dù anh có thể nghe thấy anh bạn kia nói tiếng Anh. Tiếng mẹ đẻ của cha tôi nghe cứ như tiếng ngoại quốc ấy. Không, tôi đổi ý rồi, tôi đến chẳng có việc gì nghiêm trọng đâu. Dẫn tôi đến gặp chỉ huy của cậu đi.
Cậu không được phép tới đây.
Tôi biết. Tôi biết thế ngay từ ngày tôi sinh ra. Anh móc các ngón tay mình vào tấm lưới để giữ thân mình treo lơ lửng. Những ngọn đèn pha màu vàng hắt những cái bóng lạ lùng khắp mặt đường nhựa. Phía bên kia hàng rào là một khoảnh đất đỗ đầy các xe quân sự, nhiều xe Buffel trong số này giống chiếc anh đã ngồi khi xảy ra chuyện đó. Ngày hôm qua, cái ngày hôm qua duy nhất ấy. Còn một quãng đời rất dài nữa anh mới có thể vượt qua điều ấy.
Tôi đã mất mẹ rồi, anh nói. Bà ấy à?
Tôi đã bắn bà ấy bằng khẩu súng trường, để bảo vệ đất nước này.
Cậu đã bắn mẹ mình ư? Tên cậu là gì?
Payne.
Ồ tuyệt vời. Anh chuyển sang tiếng Anh. Chúng ta từng gặp nhau rồi. Có phải cậu chỉ là một biểu tượng không? Cậu có thật không? Cậu có họ không?
Họ của tôi ấy hả? Cậu muốn biết điều đó làm gì? Anh giơ hai tay lên. Tôi đầu hàng, Binh nhì Payne. Cậu không sao đấy chứ?
Cậu nhìn xem tôi có ổn không? Không, tôi không ổn đâu. Mẹ tôi mất rồi. Cảm ơn vì tôi có cậu làm bạn, Payne. Sẽ gặp cậu sau nhé.
Anh lảo đảo quay về theo hướng mình vừa đến, và cuộc đối thoại, như hầu hết các cuộc nói chuyện khác, tan biến vào thinh không, hoặc vào đất, chìm nghỉm hoặc nổi lên và sẽ không bao giờ trở lại nữa. Bốn tiếng đồng hồ sau, Anh chàng Súng trường Anton Swart, mười chín tuổi, đứng bên lề đường gần Alberton trong khu vực đưa đón quân sự, hy vọng bắt được xe đi nhờ về nhà. Trông anh hốc hác, phờ phạc, nhợt nhạt. Một chàng thanh niên điển trai, đôi mắt nâu và tóc nâu, có một điều gì đó trên gương mặt anh không bao giờ được thư giãn.
Anh gọi về trang trại từ một bốt điện thoại ở Pretoria. Tám rưỡi sáng. Bố anh trả lời, giọng ngái ngủ. Ông không nhận ra giọng Anton. Ai đấy?
Là con, con trai và là người thừa kế của bố đây. Bố có thể cử Lexington đến được không?
Anh đang lang thang bên ngoài State Theatre, gần bức tượng Strijdfom, cho đến khi xe tới nơi. Anh đến cứ như diễu hành chiến thắng ấy, anh nói khi vào xe, một trò đùa cũ rích của anh, ám chỉ tới hình dáng của chiếc xe, chiếc duy nhất mà Lexington được phép lái, cho dù tuần nào gia đình cũng sai anh ta đi vào thị trấn rất nhiều lần. Lexington, đến cửa hàng. Đi lấy mấy cái rèm cửa cho tôi. Gửi món này tới nhà bà Marina. Lexington, đón Anton tại Pretoria đi.
Tôi rất tiếc về chuyện Phu nhân Rachel.
Cảm ơn anh, Lexington. Anh nhìn chằm chằm những đám đông người da trắng trên vỉa hè ngoài cửa xe. Một thành phố của những hàng ria mép và đồng phục, những bức tượng Boer và các quảng trường xi măng rộng lớn.
Một lúc sau, anh hỏi, Mẹ anh còn sống không? Còn, còn, bà ấy đang ở Soweto.
Còn bố anh?
Ông ấy làm việc tại một khu mỏ ở Cullinan.
Những phận đời bí ẩn. Bản thân Lexington cũng là một mật mã, trong chiếc mũ tài xế và chiếc áo jacket. Anh ta phải mặc thế, Bố nói vậy, để cảnh sát có thể hiểu rằng anh ta không phải là tội phạm, anh ta là tài xế của bố. Và cũng chính vì lý do ấy mà Anton phải ngồi ở ghế sau, để sự khác biệt được rõ ràng.
Sao anh lại đi đường này, Lexington?
Bởi vì trong thị trấn đang có rắc rối. Bố cậu bảo tôi phải đi đường dài.
Tôi bảo anh không đi đường này nữa. Lexington ngần ngừ không biết phải nghe ai.
Nghe này, anh nói, nhổm lên để nhìn cho rõ, tôi có súng trường. Anh đặt nó ngang lòng mình. Ngang lòng mình trong bộ quân phục.
Điều anh không nói đó là, Súng trường của tôi không có đạn. Không có đạn, khẩu súng trường của tôi chẳng là gì cả, một cái vỏ. Mục đích tồn tại duy nhất của nó là để bắn ra những viên đạn, như viên đạn tôi đã găm vào người đàn bà ấy mà không suy nghĩ ngày hôm qua, đúng khoảnh khắc bà ấy bắt đầu gục xuống như một vết nứt xuyên suốt đời tôi.
Cậu muốn tôi quay lại không? Có, Lexington, làm ơn.
Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra. Và anh quá mệt mỏi để có thể chịu được việc phải đi một quãng đường vòng vèo và xa hơn. Không còn chặng đường dài nào nữa đối với tôi. Ngay cả con đường trực tiếp cũng khiến anh uể oải, vẻ quen thuộc của nó, những khóm cỏ vàng giữa những tảng đá nâu. Tôi mới căm ghét nó làm sao, cái đất nước nghiệt ngã, xấu xí này. Mình không thể đợi đến lúc được ra đi. Vào lúc họ tới được lối ngoặt Atteridgeville, cuối cùng anh đã bắt đầu thiếp đi, lần đầu tiên được ngủ trong suốt hai ngày. Đám đông nhỏ bé bên đường trông như hình ảnh từ một giấc mơ. Có phải họ đang chờ xe buýt không? Không, họ đang chạy, đang la hét, chuyện gì đó đang xảy ra ở đâu đó, thế nhưng tất cả đều không trọng lượng.
Thứ có trọng lượng duy nhất là hòn đá bất ngờ bay về phía anh, ném tới từ bàn tay của một người đàn ông đang hiện ra nổi bật lên trên hoàn cảnh đó, đôi mắt vằn đỏ nhìn chú mục vào anh. Thế giới này trở nên rất thật vào đúng khoảnh khắc ấy. Khung cửa sổ bên vỡ toang, tác động xóa sổ anh trong thoáng chốc, khi tỉnh giấc anh thấy mình đang lao đi vun vút trên đường, Lexington đang tăng tốc.
Thật xấu hổ, Cậu chủ Anton, trời ạ.
(Đừng bao giờ gọi tôi là cậu chủ.) Lái đi, Lexington, cứ lái đi.
Một dòng chất lỏng chảy vào mắt anh, hóa thành màu đỏ khi anh chạm vào nó. Chỉ bây giờ anh mới bắt đầu chắp nối mọi thứ lại với nhau để hiểu được chuyện gì vừa xảy ra. Và chỉ bây giờ anh mới cảm nhận được nó, cảm giác đau đớn thuần khiết lan khắp người từ ngóc ngách của mọi thứ.
Lạy Chúa tôi.
Cậu muốn tôi đưa cậu đến gặp bác sĩ không?
Bác sĩ ư? Anh bắt đầu phá lên cười, âm thanh nhanh chóng rung lên bần bật. Không biết anh đang cười vì cái gì, chẳng có chuyện gì vui vẻ hết, có thể đó là câu chuyện đùa. Anh thường xuyên khóc khi cười, vừa vui vẻ vừa nức nở gần như cùng lúc. Lau khô nước mắt, anh nói, Không, cảm ơn, Lexington, làm ơn đưa tôi về nhà đi.
Bố anh cùng vợ chồng bà bác đang trong một kiểu họp kín trong phòng nghỉ. Họ nhảy dựng lên khi anh bước vào, vì máu, thứ mà anh đã quên béng đi, cho dù nó vẫn tiếp tục chảy trên mặt và thấm vào bộ quân phục của anh, cũng như khẩu súng trường, khẩu súng vô dụng, trống trơn.
Không sao đâu, anh nói, một hòn đá thôi. Con không bị thương nặng đâu.
Bác sẽ gọi cho Bác sĩ Raaff, bác Marina nói. Cháu cần phải khâu vết thương.
Làm ơn đừng có nhặng lên thế.
Chết tiệt, bố đã bảo anh ta chọn đường dài mà đi cơ mà, Bố nói. Tại sao anh ta không làm theo?
Con bảo anh ta làm thế đấy.
Tại sao? Tại sao con lúc nào cũng muốn làm trái lời bố vậy? Con nghĩ như thế sẽ an toàn, Anton đáp, lại cười. Nhưng ngay cả ở đây người bản xứ cũng đang chiến đấu không ngừng với những kẻ đang áp bức họ.
Trời ạ, đừng nói mấy chuyện rác rưởi thế nữa đi, Ockie nói, câu này khiến đứa cháu trai của ông còn cười dữ hơn.
Cuối cùng thì bác sĩ Raaff cũng xuất hiện. Ông không nhắc gì đến lý do mình tới đây, chỉ là hỗn loạn và náo động. Có lẽ đã ông đã chọn đi con đường dài hơn. Marina đã đúng, Anton cần phải khâu vết thương, và việc này được thực hiện trong bếp, khuất tầm nhìn của đám người sợ cảnh máu me. Và trên người anh còn có một số mảnh thủy tinh bé xíu từ kính xe bị vỡ cần được gắp ra bằng nhíp.
Bác sĩ Raaff vận dụng mấy cái nhíp với sự khéo léo hơn thường lệ, ông ta và công cụ của ông ta như hòa làm một. Các cử động của ông ta chuẩn xác và dứt khoát, quần áo của ông ta sạch sẽ đến từng ly. Sự khó tính đó khiến bệnh nhân của ông ta vui lòng, nhưng nếu họ biết về những giấc mơ ngày của Bác sĩ Wally Raaff, sẽ chỉ còn vài người chấp nhận để ông ta khám thôi.
Ông ta nói, không thể không khiến người ta thích thú. Thấp xuống hai inch1 nữa thì chúng có thể đã ghim vào mắt cậu đấy.
1 Đơn vị đo chiều dài của Anh, tương đương với 2,54 xăng-ti-mét
Anton nói, Chúng tôi đã chuyển sang dùng hệ mét từ năm 1971.
Bác sĩ Raaff trừng trừng nhìn anh lạnh lùng, môi mỏng và mím chặt, giống một trong các đường khâu của ông. Dạo này ông ta đã quá gần gũi với gia đình Swart đến nỗi sẽ chẳng ngại ngần gì mà không hòa tan chàng trai đặc biệt này vào trong dung dịch axit sulfuric. Nhưng trước đám đông ông ta phải tuân thủ phép cư xử đúng đắn, tiếc thật.
Chỉ sau khi chiếc xe của ông bác sĩ tốt bụng biến mất dưới đường, bầu không khí tĩnh lặng mới trở lại. Lúc này đã là cuối buổi sáng và ngày xuân thường nóng trái mùa, một đàn côn trùng bay vo vo lượn quanh căn nhà.
Bác đã nướng một ít bánh tạc sữa, bác Marina nói với đứa cháu trai. Cháu muốn ăn một chút không? Tay bà véo vào phần da trên eo lưng anh và điệu đàng nói thêm, cháu gầy lắm rồi đấy.
Để sau ạ.
Bây giờ chúng ta phải tới nhà tang lễ Do Thái, để phân loại vài thứ. Cháu muốn đi cùng không?
Cháu cần ngủ, Anton đáp. Cháu phải ngủ.
Anh phải ngủ. Khép kín trong một nơi như đường hầm trắng xóa, những giọng nói vẳng đến tai anh yếu ớt từ phía ngoài, anh trèo lên cầu thang về phòng mình. Chậm rãi cởi quần áo, quẳng từng thứ lên ghế, như quẳng từng mảnh của chính mình. Anh đi tắm, gột rửa hết những bẩn thỉu suốt hai ngày qua, nhưng không tài nào đứng thẳng được nữa. Tứ chi của anh bò lên chiếc giường vẫn còn ẩm và anh gần như thiếp đi ngay lập tức, tắt phụt như một ngọn đèn.
Chỉ là bây giờ, đã quá muộn, khi tất cả mọi người đã thức giấc, thì anh mới góp giấc mơ của mình vào trong cơn mơ tập thể hỗn độn kia. Cạn kiệt thời gian, lạc lối, các sợi tua của nó tủa ra từ trên đầu anh, phác thảo trong làn khói. Anh đang nằm trên chiếc giường không khác mấy so với giường của anh, trong căn phòng dài có rất nhiều giường giống như thế, và từ ngưỡng cửa phía xa, mẹ anh bỗng nhiên xuất hiện. Bà chậm rãi tiến về phía anh, len lỏi qua những chiếc giường và khi đến nơi bà cúi xuống và đặt lên trán anh một nụ hôn mát lạnh. Trong những giấc mơ, đó là cách người chết trở về với bạn.
Linh hồn của Rachel Swart, tên thời con gái là Cohn, vất vưởng khắp nhà trong trạng thái hoang mang. Vào những lúc nhất định, người ta gần như có thể nhìn thấy bà, khi ánh sáng hoặc tâm trạng đúng điệu, nhưng chỉ là với những ai sẵn sàng muốn thấy, và chỉ là một hình ảnh chênh chếch, ngoài rìa mọi thứ. Không lâu trước đó, bà đã nhìn Amor từ phía bên kia tấm gương, cho dù thứ bà thực sự đang nhìn chằm chằm là lối ra cuối cùng của bà, một sự thật mà với bà rất khó chấp nhận. Người chết thường không thể chấp nhận tình trạng của mình, về điểm này họ tương đồng đối với người còn sống, nhưng họ đã quên mất mình luyến tiếc điều gì, phần nhiều là lạc lối khi đi về thế giới bên kia, và khi gặp bạn, họ không biết bạn là ai.
Tojo, con chó chăn cừu Đức quan sát bà đến rồi đi một cách dễ dàng, bởi vì nó không biết được rằng điều này là không thể.
Bà nâng tấm rèm cửa bếp lên để hé nhìn Salome, chỉ trong một giây, một ánh sáng lung linh bên ngoài.
Astrid nghĩ mình nghe thấy tiếng mẹ gọi từ căn phòng dưới hành lang, một lần nữa đang cần được giúp, luôn vào những lúc tồi tệ nhất có thể, nhưng tất nhiên chỉ là tiếng kẽo kẹt trong gió của một cánh cửa sổ với bản lề lỏng lẻo.
Bà lúc lắc mớ tiền lẻ ít ỏi trong ví, theo cách bà hay làm, nhưng khi Manie gọi từ trong phòng tắm bà không đáp lại.
Áp làn môi lạnh toát của mình lên trán Anton khi anh ngủ. Cuối cùng, sau khi đã mệt mỏi với ngôi nhà, bà hiện hình rõ mồn một trên các con phố ở Pretoria, tại những nơi bà từng thích ghé thăm. Bà chèo thuyền trên hồ nước tại Magnolia Dell, thưởng trà tại một quán cà phê tại Barclay Square. Ngó qua hàng rào của Viện Bảo tồn Chim Austin Roberts ngắm nghía con sếu màu xanh u buồn, đang mổ mổ cái gì đấy sáng bóng trên mặt đất.
Bạn hiểu điều đó chứ. Bà chạm tới những nơi linh hồn bà đã từng dày dặn, nhưng bà không còn là vật chất, không còn là một người phụ nữ sống động được thế giới vẽ lên với những mảng màu sặc sỡ. Trong đám đông bà cũng chỉ là một khuôn mặt khác, không quá rõ nét. Bà băng qua những khoảng cách lớn như thể đi từ phòng này sang phòng kia, tìm kiếm cái gì đó mình đã đánh mất. Trong những lần hiện hình này bà mặc nhiều kiểu quần áo khác nhau từ tủ đồ của bà, váy ngủ buổi tối, một chiếc váy hè mỏng manh, thậm chí là một chiếc khăn choàng bà từng thuê từ Truworths rồi đem trả vào ngày hôm sau. Trông bà rất thật, phải nói là trông như bình thường. Làm sao bạn biết bà ấy là một hồn ma? Rất nhiều người còn sống cũng mơ hồ và bồng bềnh như thế, đó không phải là một đặc trưng chỉ thuộc về người đã khuất.
Cuối cùng bà ghé vào một nơi mà bà chắc chắn rằng mình chưa từng đến, ngoại trừ việc bà đã từng ở đó, hoàn toàn lõa thể, nằm trên chiếc bàn kim loại có gờ nổi, hình ảnh trông cực kỳ giống bà, nhưng xám xịt và lạnh buốt, như một người chết.
Bà là người chết. Bà ngắm nhìn mình đang nằm trên bàn và bắt đầu hiểu ra.
Một nữ tình nguyện viên già chăm sóc thi thể của bà hai tiếng rồi. Có giới hạn đối với những gì có thể làm, căn cứ theo lệnh cấm sử dụng hóa chất, tuy nhiên vệ sinh sạch sẽ thi thể là điều quan trọng nhất. Tiếp theo là dội nước, để rửa sạch phần thịt, sau đó là sấy khô. Khâu này là bắt buộc, cả về mặt nghi lễ lẫn vệ sinh. Ngoài ra phải bày tỏ sự tôn trọng và thận trọng vô cùng khi phụ trách công việc này, để bà già này, với tên căn cứ theo bảng tên đeo trên ve áo, Sara, được thanh thản lương tâm. Rồi ngày nào đó sớm thôi, ai đó cũng sẽ làm như thế với tôi.
Mộc mạc, sạch sẽ và đơn giản, đó là cách bà ta giải quyết công việc này. Cơ thể người, co ngót lại chỉ còn chừng đó. Bà ta đã mặc cho xác chết chiếc áo lót tang lễ, bọc xung quanh bên ngoài là tấm khăn choàng, nhưng đến khâu thắt nút bà ta lại thắt nút sai. Lẽ ra nó phải có hình dạng của chữ cái thứ hai mươi mốt của người Do Thái là Shin, có nghĩa là một trong những tên gọi của Chúa, nhưng các ngón tay của bà ta hôm nay lại mặc chứng viêm khớp đặc biệt. Kệ nó, hoặc thở dài rồi làm lại. Phần lớn cuộc đời chỉ toàn thở dài rồi làm lại, đặc biệt là với Sara. Một người chối bỏ thế giới vật chất. Kiên nhẫn là một dạng của thiền định. Bà từng tình nguyện gia nhập tổ chức Chevra Kadisha, chăm sóc cho người chết chuẩn bị đem chôn, vì người chồng của bà ta đã qua đời hai mươi hai năm trước. Phụng sự nghĩa là thờ phụng.
Ngoài ra việc này giúp giết thời gian. Thêm nữa bạn sẽ được gặp gỡ những con người mới.
Và bà đã quyết định mặc kệ. Tên của Chúa có hơi sai một chút, thì sao? Sẽ chẳng ai thấy đâu, tất cả mọi thứ được giấu kín trong áo lót tang lễ. Dù sao thì nó cũng chỉ mang ý nghĩa biểu tượng. Tệ đến đâu được chứ? Bà ta còn những mối lo khác quan trọng hơn, như bước vệ sinh gương mặt. Bà ta không thích sử dụng mỹ phẩm, làm thế khi người ta chết còn dối trá hơn cả khi người ta còn sống, nhưng tình trạng của thi thể này đúng là rất tệ. Bà ấy đã mắc bệnh quá lâu rồi, linh hồn tội nghiệp, những chỗ lở loét trên hai cánh tay, đầu gần như rụng hết tóc, các nướu răng đen sì, trông rất hốc hác. Có vẻ như sự bất kính đã ảnh hưởng tới bà ấy, bạn có thể thấy trong bức ảnh chụp lấy ngay mà bạn xin thề rằng bà ấy từng rất xinh đẹp. Trọn một đời người giống như cỏ nằm trên đất.
Trong cuộc đời khác, cuộc đời công khai của bà ta, Sara không bao giờ trang điểm, thi thoảng mới dùng đồ trang sức và thích thoa chút phấn hồng lên má. Rất lâu trước đây, trước khi về già, bà ấy từng rất hấp dẫn. Đàn ông để ý đến tôi đấy, vâng, họ để ý. Thi thoảng bà ta chìm trong tâm trạng hoài niệm rồi lại lấy hộp trang điểm ra, tút tát lại một chút dấu hiệu của tuổi tác. Đấy, mỹ nhân trẻ đẹp của ta, đúng rồi. Một chút sáp môi, tẹo phấn hồng phớt nhẹ. Không muốn trang điểm gì thêm nữa, sự thật mới quan trọng và trong trường hợp của bà ta sự thật là nỗi đau. Cuối cùng cũng kết thúc rồi. Một lời chúc phúc. Tạm biệt, người yêu dấu của em. Giờ hãy yên nghỉ đi.
Cuối cùng bà chải mái tóc thưa trên da đầu người đàn bà. Khẽ khàng và nhịp nhàng, một phần của nghi lễ bà ta thường ưa thích, nhưng hôm nay vài cọng tóc rụng ra. Mềm mại, gần như không còn sức sống, như thứ gì đó vốn không tồn tại ở đó. Bà ta nhặt hết chúng vào tay, sau đó cất vào một cái hộp tráp nhỏ. Cái gì cũng quan trọng hết, từng giọt, từng sợi.
Rốt cuộc dung nhan bị tàn phá đã dịu dàng trở lại, trở nên hiền từ hơn, dễ chấp nhận hơn. Ngay cả hồn ma của Rachel cũng bị bản sao của chính mình thu hút, bà đứng bên cạnh xác chết trên bàn, nhìn chằm chằm kinh ngạc vào gương mặt mà nó mang, cố gắng ghi nhớ nó. Bà cẩn thận không gây cản trở, cho dù bà được xem như điểm mù trong tầm nhìn của Sara, như hằng hà sa số những chấm nhỏ. Có thể chỉ giống như đoạn mào đầu của cơn đau tiền đình. Bà ta thiên về những khả năng này, khi lớp thịt bà ta xoa bóp đặc biệt cứng. Xem bà đã làm gì này, bà thầm nhủ với người đàn bà nằm trên bàn, trong câm lặng. Bà khiến tôi thấy chán ghét công việc của mình, tìm kiếm sự thật. Sự thật, Rachel trả lời, cũng im lặng như thế, đó là bà ấy là ai? Tôi nghĩ mình đã biết bà ấy ở đâu đó.
Phải, nhất định là đau tiền đình, Sara đứng thẳng người lại, tháo đôi găng cao su, lần mò tìm mấy viên thuốc đạn của bà ta. Thi thoảng chúng có ích nếu bạn nhét chúng vào kịp thời. Không cần mãi đắm chìm vào hình ảnh một bà già với cái quần chẽn gối tụt xuống tận mắt cá chân và ngón tay đặt trên hậu môn, vào những lúc như thế bà ta cảm thấy mình cách Chúa rất xa.
Trong căn phòng kế bên, chỉ cách đó hai viên gạch, một người giám hộ ngồi đợi trên chiếc ghế cứng. Cuốn Thánh Thi cầm trong tay.
Người đàn ông cao, gầy với vẻ ngoài vô tính, đầu đội mũ chỏm và khoác khăn choàng trắng cầu nguyện ngoài bộ quần áo không vừa được cắt may theo phong cách kín đáo. Không lâu nữa, ông ta sẽ bắt đầu phải thực hiện những bổn phận của mình, nhưng vào lúc này ông ta đang trong giai đoạn chuẩn bị dễ chịu, cố gắng giữ tâm trí trống rỗng là phần việc bận rộn nhất trong tất cả.
Và trong căn phòng cách xa ông ta, thân quyến của người đàn bà quá cố đang tiếp nhận những lời tư vấn từ Rabbi Katz, người sẽ cử hành nghi lễ tang ma ngày mai. Ông sẽ là người hướng dẫn linh hồn của Rachel về với đồng tộc của mình nên họ cần phải làm quen một chút. Đây là lần đầu tiên ông ta thực sự gặp gỡ người chồng và bà chị gái không phải dân Do Thái, mặc dù Rachel đã nói chuyện về họ rất nhiều, và ông ta buộc phải nói rằng, xin lỗi vì đã không khoan dung, nhưng ông ta thực sự kinh ngạc vì hai người này hóa ra lại chậm hiểu đến thế.
Lúc đầu thì rất ổn. Manie được chị gái của Rachel là Ruth, người đã bay về từ Durban sáng hôm nay, chào đón nồng nhiệt. Chào Manie, chị ấy nói. Cậu còn nhớ Clint không.
Tiếc là ông còn nhớ. Clint là anh chàng to béo, từng chơi rugby cho đội Western Province và giờ sở hữu một quán bít tết ở Umhlanga Rocks. Xin chào, Mannie, ông nói, bắt tay thật chặt một cách không cần thiết. Trông anh ổn đấy.
Manie, vợ ông chỉnh lại cho ông, bằng giọng mệt mỏi của người đã phải chỉnh sửa quá nhiều. Rất vui được gặp anh.
Vâng, tôi cũng vậy.
Và điều này không phải không đúng. Trong cả gia đình của Rachel, Ruth là người dễ tính nhất, chị ấy cũng đã kết hôn không phải vì đức tin và phải sống tha hương một thời gian. Cho dù có vẻ như gần đây đã trở về với gia đình.
Tuy nhiên, một người chị gái khác của Rachel là Marcia và chồng cô ta là Ben cũng ở đây, và mọi chuyện với họ căng thẳng hơn nhiều. Sự phản đối từ cả hai bên gia đình, ý thức về vết thương cũ, những chi tiết đã bị lãng quên nhưng tổn thương thì không. Ockie có nói Chúc mừng thay vì Chia buồn khi đâm sầm vào họ trên phố cũng chẳng giúp được gì, và kể từ đó Manie cứ không ngừng oán trách họ vì vợ ông đã trở về với tôn giáo cũ.
Nghe này, giáo trưởng đã khuyên họ hai lần rồi, chỉ trong vòng nửa tiếng gần đây, rõ ràng đó không phải là lỗi của Levis. Mà đó là điều cô ta muốn. Đó là điều Rachel đã đề nghị.
Ý chị là điều mà cô ấy đã bị tẩy não để tin tưởng à, Manie nói.
Bình tĩnh nào, bà chị gái phi-Do-Thái nói với ông. Hãy nhớ những gì Bác sĩ Raaff đã nói.
Tôi không tẩy não bất kỳ ai hết, Giáo trưởng Katz nói. Cô ấy đã đến gặp tôi, theo ý muốn của chính cô ấy.
Bởi vì những kẻ này, Manie khăng khăng, tay chỉ vào Marcia và Ben, hai người cựa quậy khó chịu trên ghế của mình. Lần đầu tiên tất cả họ cùng ngồi chung một phòng sau rất nhiều năm. Họ là những người đã sắp xếp cuộc gặp này, mục đích nhằm xóa tan căng thẳng trước lễ mai táng ngày mai, nhưng hãy xem mọi chuyện diễn ra như thế nào.
Không cần phải nói chuyện kiểu đó, anh bạn, Ben nói mà không nhìn vào Manie.
Nói thật nhé, Marcia nói, chúng ta đang làm cái gì ở đây vậy? Tôi cứ tưởng tất cả chúng ta đang nỗ lực, hay là tôi sai?
Levis là một phần trong giáo đoàn của chúng tôi, Rabbi Katz chen vào. Họ tiếp xúc với tôi cũng là tự nhiên thôi.
Đặt tay lên trái tim, Marcia nói, tôi có thể nói cho anh biết rằng tất cả đều bắt nguồn từ Rachel. Nó đã đến gặp tôi hoàn toàn bất ngờ. Tôi đã không nói chuyện với nó suốt mười năm...
Vì anh đấy, anh bạn. Thế nên hãy tử tế đi.
Anh có biết, Marcia nói, chúng tôi đã dành tuần này tự khóc than cho mất mát. Chỉ có tại căn nhà riêng của nó, nhà của Rachel, thì những tấm gương mới phải che đi và những ngọn nến mới được đốt lên...
Chúng tôi khóc than rất nhiều, Manie nói với cô ta. Nhưng chúng tôi than khóc theo cách riêng của mình, không giống những kẻ ngoại đạo. Rồi giọng ông dịu hẳn lại, như một căn lều không có gậy chống. Ông biết rằng họ nói đúng, Rachel đã tự tìm đường tới với họ, chứ họ không đến kiếm cô ấy. Và Marina đã lên lớp cho ông suốt chặng đường tới đây về điều quan trọng là đừng có nổi nóng khi gặp nhà Levis, và ông đồng ý với bà. Ông vẫn làm thế. Lỗi không phải của họ.
Vị giáo trưởng hơi gầy còm cũng không phải chịu trách nhiệm, nhưng Manie vẫn muốn làm gì đó với ông ta. Cõi lòng ông đang xáo động vì sự bất công của tất cả chuyện này, nhưng sáng hôm nay là đặc biệt hơn cả, bên cái hòm bằng gỗ thông đơn sơ mà những kẻ này sẽ đặt vợ ông vào cô ấy xứng đáng nhiều hơn thế, sau bao nhiêu năm ông đã trả tiền cho một gói bảo hiểm tang lễ mà hóa ra cô ấy không cần.
Xin hiểu cho, Marina nói chẳng nhắm tới ai cụ thể, bằng cái giọng dịu dàng nhất của bà ta. Chuyện này rất khó cho em trai tôi.
Vâng, tôi chắc chắn là thế, Marcia nói. Cũng khó cho cả chúng tôi nữa, dù bà có tin hay không. Bà tưởng chúng tôi thích ở đây lắm à?
Marcia, chồng cô ta cảnh cáo.
Tất cả những gì tôi muốn, Manie thì thầm, là cô ấy được yên nghỉ cạnh tôi trong khu lăng mộ gia đình. Còn cách nào khác chúng ta có thể thu xếp không? Nếu tôi quyên tiền...
Giáo trưởng ngồi thẳng dậy. Tôi e là không. Nếu bà ấy muốn một đám tang Do Thái, vậy thì điều ấy là không thể. Ông không thể mua được truyền thống của chúng tôi, ông Swart.
Cô ấy không hẳn là người Do Thái, Manie nói. Trong trái tim cô ấy thì không.
À ông biết điều đó mà, đúng không?
Phải, thực sự tôi biết. Vợ tôi đã tìm ra rất nhiều cách để tra tấn tôi, đó là tài năng của cô ấy.
Có thể nếu ông đối xử với em ấy tốt hơn thì em ấy hẳn sẽ không quay lưng lại với ông, Marcia nói, lấy cái ví ra khỏi túi xách chẳng vì lý do gì đặc biệt rồi lại cất đi.
Marcia, Ben nói.
Không, thực sự là không.
Chúng ta đang chẳng đi tới đâu hết, giáo trưởng nói, cảm thấy sắp khóc đến nơi. Ý thức công bằng của ông chưa từng bị thử thách xa đến thế này kể từ khi dính líu về mặt đạo đức với vấn đề Israel.
Manie, đi thôi, chị gái ông nói. Cậu đang tự làm khổ mình mà chẳng vì cái gì.
Vâng, đi thôi, biến. Đến giờ đã rõ ràng với tất cả bọn họ cuộc gặp này chỉ tổ phí thời gian. Rachel sẽ được người của cô ấy chôn cất và ngày nào đó Manie sẽ được người của ông mai táng. Tốt hơn là nhà Swart nên quay về trang trại và sẵn sàng cho ngày mai.
Và khi họ lái xe đi, thi thể của Rachel đã được chuyển vào cái hòm cuối cùng và nắp thùng được đóng xuống. Mãi mãi. Tay bảo vệ nằm trong số người chăm sóc và khi các trợ lý khác đã bỏ đi, ông vẫn tiếp tục ngồi trên chiếc ghế, cô độc tựa vào tường, lầm rầm lời Thánh Thi. Đối với người chết phải đồng hành với họ suốt quãng đường đến cùng. Các bài Thánh Thi đại diện cho toàn bộ người dân Do Thái, từ ngữ diệu kỳ theo cách đó, nhưng ông chỉ là một đại diện con người bình thường đảm nhận công việc của mình một cách nghiêm túc, như bất kỳ vị đại sứ tốt bụng nào khác.
Thi thoảng ông có thể phát hiện ra sự hiện diện của người đã chết, như tiếng xào xạc và nài nỉ ngoài rìa các giác quan của ông. Lúc đó ông cố gắng nguyện cầu trực tiếp cho họ, những lời xuất phát từ trái tim ông gửi đến họ. Nhưng hôm nay, cho dù toàn bộ tâm trí ông có căng ra, cũng không thể thu được bất kỳ tín hiệu nào khác. Ông cảm thấy căn phòng như trống rỗng. Một lần nữa ông tiếp tục nguyện cầu, và ai mà biết những lời nói này sẽ chu du tới những đâu.
Nhìn thấy những từ ngữ bay lên, qua cánh cửa căn phòng, xuống lối đi, bay ra ngoài cửa sổ. Ngắm nhìn chúng cất cánh bay quanh thành phố theo bầy nhỏ dưới dạng những lời Thánh thi tới trang trại, trong cuộc tìm kiếm người đàn bà mà vì bà ấy chúng được đọc lên. Chúng lượn vòng qua ngọn đồi nhỏ rồi đâm thẳng xuống bãi cỏ, chúng bay vào căn nhà qua cửa sau rồi bước qua bếp bằng những bước chân thiếu tự nhiên, như sự thay đổi trong ánh sáng.
Anton ngước mắt lên từ nơi anh đang ngồi tại bàn. Cái gì đấy? Anh nói.
Hả? Salome đang ngồi ở chỗ quen thuộc, phía trước bồn rửa, hình ảnh phản chiếu của bà nhìn lại anh trong mặt kính cửa sổ.
Không có gì. Con tưởng... Anh vẫn còn ngái ngủ, đang uống một cốc cà phê đắng và ăn một lát bánh tạc sữa của bác Marina. Sớm thôi đường sẽ khiến anh tỉnh táo. Anh chạm tay vào những vết khâu trên trán, bực mình với vẻ lạ lẫm của chúng, với nhịp cơn đau mà chúng tạo ra.
Sự im lặng giữa hai người họ thật dễ chịu, yên bình. Bà đã chứng kiến anh trưởng thành, từ một đứa trẻ sơ sinh đứng không vững, tới khi trở thành một cậu nhóc bảnh bao, và cuối cùng là giờ phút này, bất kể bây giờ trông anh có ra sao, bà vẫn chăm sóc cho anh từng tí một. Hồi anh còn nhỏ anh từng gọi bà là Mẹ và cố bú sữa từ bà, một sự nhầm lẫn phổ biến của người Nam Phi. Giữa hai người không có bí mật.
Một cơn giận dữ bất ngờ xâm chiếm anh, anh đưa tay gạt mạnh đĩa thức ăn, trên đó còn vương lại một ít bánh tạc sữa.
(Hôm qua con đã giết chết một phụ nữ giống hệt bác.) Khi nào xuất ngũ con sẽ bỏ đi khỏi đất nước này.
Hả?
Con sẽ phủi sạch mọi dấu tích của nơi này và không bao giờ quay về nữa.
Gì? Tiếng lanh canh của dao kéo. Con sẽ đi đâu?
Ồ, anh nói, anh chưa chắc chắn về phần này. Khắp mọi nơi. Hả?
Con sẽ học văn học Anh. Không phải ở đây, đâu đó ở nước ngoài cơ. Sau đó tham vọng chính của con là sáng tác một cuốn tiểu thuyết. Con có thể học luật sau, hoặc có thể chỉ cần kiếm thật nhiều tiền, nhưng trước tiên con muốn đi du lịch khắp thế giới. Bác không muốn ngắm nhìn thế giới sao, Salome?
Ta ư? Ta sẽ làm như thế nào đây? Bà thở dài rồi bắt đầu lau khô đĩa thức ăn bằng miếng vải to. Có đúng là, bà hỏi, ta sẽ được cái căn nhà ấy không?
Dạ?
Hôm qua Lukas đã gặp Amor trên quả đồi nhỏ. Và con bé bảo nó rằng cha cậu sẽ tặng căn nhà cho ta.
Con chẳng biết chút gì về chuyện đó.
Được rồi, bà nói. Rõ ràng bình thản, cho dù bà chằng nghĩ về chuyện gì khác nữa kể từ khi nói ra những lời đó. Ngoài chuyện có được căn nhà của riêng mình, ngoài việc nắm được các giấy tờ trong tay!
Tốt hơn nên hỏi bố con ấy, anh nói. Được rồi.
Anh ngắm nhìn cái lưng khó dò của bà, cái lưng đã từng địu anh từ khi còn là bé sơ sinh không biết bao nhiêu lần, khi nó di chuyển tới lui cạnh quầy bếp, mang các chồng đĩa xếp lên giá.
Vâng, anh nói, lơ đãng. Tốt hơn nên hỏi ông ấy.
Câu hỏi về căn nhà đã chuyển từ mẹ anh sang em gái anh sang Lukas tới Salome và giờ cắm rễ trong anh, một hạt giống nhỏ tối màu vừa bắt đầu tái nảy mầm. Nó quay lại với anh hai tiếng đồng hồ sau đó, trong một căn phòng khác phía xa thành phố, vào một khoảnh khắc gần như tùy hứng, khi anh đang cài cúc áo sơ mi.
Em biết em gái bé nhỏ của anh nói gì với Salome không? Salome nào cơ?
Người đàn bà mà… Hầu gái của chúng ta ấy.
Cuộc đối thoại diễn ra trong phòng ngủ tầng trên cùng của căn nhà lớn tại vùng ngoại ô nhiều cây lá. Anh đang nói chuyện với một cô gái tóc vàng ngực nở, vẫn đang trong năm cuối trung học, với người mà anh vừa mây mưa cùng một cách đầy thú tính và dữ dội. Mớ ga giường nhàu nhĩ, cơ thể bán khỏa thân và sắc ửng hồng đầy thỏa mãn nơi hạ thân.
Em gái anh đã nói gì với bà ấy?
Rằng cha anh đã hứa tặng bà ấy căn nhà. Đúng thế không?
Cái gì? Hứa đấy.
Anh không biết, Anton đáp, đứng trước tấm gương trên bàn trang điểm và bắt đầu chỉnh trang lại để xóa đi mọi dấu hiệu có thể lật tẩy hành động vừa rồi của họ, khóa kéo còn để mở, chiếc áo chưa được sơ vin gọn ghẽ, tất cả những đầu mối có thể bị phát hiện bởi đôi mắt soi mói của mẹ Desirée, sẽ quay về từ chỗ tiệm hớt tóc bất kỳ lúc nào. Anh rướn người để kiềm tra các vết khâu, một lần nữa anh ấn tượng vì cái vết thương này. Giờ trông mình cứ như một chiến binh ấy.
Đừng để ông ấy tặng căn nhà cho người hầu, Desirée nói, phẫn nộ. Bà ta sẽ chỉ phá hỏng nó thôi.
Anh nghĩ nó đã hỏng sẵn rồi. Nhưng đó không phải là vấn đề.
Từ bên ngoài, âm thanh không thể nhầm lẫn phát ra từ chiếc Jaguar của bà già kêu vo vo trên lối xe vào nhà, đang tiến vào phía dưới kia làm bắn tung lớp sỏi. May thay, họ đang ở trên tầng hai, vì các rèm cửa đều đang mở và bà ta có thể nhìn thấy bằng cách khác con gái mình đang tức tốc mặc lại cái áo blouse trong khi thằng bạn trai thì kéo khóa quần. Không thể nhầm lẫn trong hoàn cảnh ấy.
Nhanh lên, bà ấy về rồi.
Anh tới nói chuyện với bà ấy đi! Bảo là em đang trong phòng tắm.
Được rồi.
Anh kéo lại mấy tấm ga giường cho thẳng thớm, quay lại nhìn cô nhưng chỉ còn thấy cái bóng tóc vàng mờ mờ, đang đóng lại cửa phòng tắm. Không giống lắm hình ảnh anh đã ôm ấp trong tim khi ở những nơi cô độc suốt mấy tháng qua. Anh trai của Desirée, Leon, là một người bạn của Anton hồi còn trung học và cô ta vẫn đóng mãi vai diễn một cô em gái trẻ con, hay hờn dỗi vài năm qua trước khi những thay đổi ở các tuyến hormone trong cơ thể kéo theo sự thay đổi trong nhận thức. Nhu cầu được làm tình như những con tinh tinh đang lên tới mức cực điểm vào những ngày này, và anh chắc chắn hôm nay mình đến đây chẳng vì lý do cao quý gì. Chỉ một điều chiếm lấy tâm trí tôi kể từ nghe nói về Mẹ, thật khôi hài là nó hiệu quả làm sao, thần Ái Tình chiến đấu với Thanatos, ngoại trừ việc bạn không nghĩ về tình dục, bạn chịu đựng nó. Một điều cẩu thả, đói khát đang diễn ra trong nhà vệ sinh. Nỗi khổ của kẻ bị nguyền rủa, ngọn lửa không bao giờ tắt. Nhưng dẫu vậy, bất chấp những khát khao thể xác, anh cảm thấy mình đang theo đuổi thứ cảm xúc gì đó anh không thể đặt tên. Thậm chí có thể là tình yêu, cho dù điều ấy khiến anh ngạc nhiên. Hôm nay cô đã khiến anh thỏa mãn, chắc chắn là thế. Phải, được vui thú thật lâu giữa những đường cong mũm mĩm của cô ấy sẽ thật thanh bình.
Thay vào đó anh bước nhẹ, hoảng hốt và nửa cương cứng, qua các hành lang được phủ đệm tầng trên cùng, liếc nhìn vào các phòng ngủ và phòng tắm khác cả hai bên. Tiếp theo là phòng làm việc, mép bàn làm việc lộ ra, một tấm thảm Ba Tư, một ngọn đèn bàn. Tại sao đồ nội thất lúc nào trông cũng vô tội không cần biết chuyện gì xảy ra phía trên chúng nhỉ?
Anh không được phép lên trên này, quá riêng tư theo nhiều cách. Anh đã mất đi đời trai tân với Desirée, cô ấy sẽ luôn luôn có trách nhiệm đặc biệt đối với anh, nhưng cô không phải là thứ duy nhất khiến anh thấy phấn khích trong những lần viếng thăm. Cha của Desirée là một bộ trưởng nội các quan trọng, một nhân vật đáng ghét cả về mặt thể chất lẫn đạo đức với bàn tay nhuốm máu những người vô tội, và Anton muốn căm ghét ông ta một cách rõ ràng, nhưng anh thấy thâm tâm anh bị khuấy động bởi cái bẫy vật chất của quyền lực. Những lính gác trông có vẻ tầm thường đứng trong buồng cạnh lối vào, những bức tượng và các bức họa sơn dầu các tên tội phạm thời thuộc địa từ lịch sử mang tính chọn lọc cao, lời nhắc nhở vô tình về những cái tên nổi tiếng, gieo rắc nỗi sợ hãi, tất cả đều khủng khiếp nhưng ly kỳ, và tiếng sấm động đáng nhớ nhất của cơn cực khoái diễn ra trên cái ghế nơi cặp mông của ngài Bộ trưởng Tư pháp chỉ mới vừa đặt xuống.
Bà vợ của người đàn ông tinh tế và khủng khiếp này, mẹ của Desirée, lại khiến anh bực tức theo cách hoàn toàn khác. Như một con búp bê quý tộc, nhưng già hơn, xinh đẹp nhưng khó chiều, toàn bộ vẻ ngoài của bà ta đều được tẩy rửa, thoa phấn, phết keo và chỉnh sửa, thế nên bạn không thể ngừng ham muốn được xiên thủng cái mã ngoài mong manh ấy. Anh lao xuống cầu thang đi vào bếp ngay trước khi bà ta kịp tới, tựa người vào quầy bếp khi bà ta tiến vào qua cửa sau, đôi guốc cao sáng lóe trên sàn đá.
Đúng là ngạc nhiên! Ta đã nghĩ cái xe be bé xinh xinh ngoài kia là của cháu. Bà ta để mặc cậu gửi một cái hôn lạnh lùng lên má. Nhưng trán cháu làm sao thế kia?
Những vết thương chiến tranh. Chỉ là một hòn đá, không nghiêm trọng đâu ạ.
Vậy là cháu đang nghỉ ốm à?
Không ạ. Hôm qua mẹ cháu mới mất.
Ôi, Anton! Cuối cùng nó cũng xảy ra… Ta rất tiếc. Bà ta cho phép lớp men sứ nứt ra một chút, vừa đủ để giả tạo một cảm xúc chân thành, kiểu tóc rung lên vì căng thẳng. Ít nhất nỗi đau khổ của bà ta cũng đã chấm dứt.
Phải, ít nhất là thế.
Bà đưa một tay lên má anh và anh gần như, thực sự, nức nở. Cái khe hở yếu đuối này đến từ đâu? May mắn, sai lầm của anh được cứu vớt nhờ sự trở lại của Desirée, với chiếc váy bó chẽn mới, nước hoa ngào ngạt, son môi đã thoa lại.
Mẹ!/Anh yêu! Hôn hôn nào! Kể từ chuyến đi châu Âu gần đây hai người họ bị ảnh hưởng các phong cách ăn nói của nước ngoài. Họ cũng là những sinh vật như thế, Anton nhớ lại một đêm đi chơi tại Johannesburg năm ngoái, hai người họ bón cho nhau những thìa kem, run rẩy và dí dủm thủ thỉ như đôi bồ câu trên tường nhà.
Về phần mình, tối nay bà mẹ rất yêu thích Anton, hoặc ít nhất cảm thấy tiếc cho anh. Bà sẽ không phiền được mát xoa đôi bờ vai của anh, nhưng thay vào đó bà thúc giục anh. Cháu có muốn dùng Valium không, nó tốt cho thần kinh của cháu đấy? Ta có một ít trong tủ đấy. Và ta vừa khui một chai vang. Ta biết hôm nay là một ngày buồn đối với cháu, nên ta chắc chắn cháu sẽ không…
Thực ra, anh nói, cháu rất thích uống một ly.
Lẽ ra anh nên có mặt ở trang trại. Anh không nói cho bất kỳ ai biết mình sẽ đi đâu và lấy luôn chiếc Triumph mà không xin phép dù anh biết cha sẽ rất tức giận, càng thêm lý do để khỏi vội vã về nhà, mà ở lại uống viên Valium và thưởng thức một ly rượu, hoặc có thể là hai.
Còn tại trang trại, vào đúng lúc này, công đoạn nướng thịt vừa mới bắt đầu. Trên đường quay về từ cuộc gặp với những kẻ sáng nay, Bố cảm thấy cần phải xẻ thịt con vật sống nào đó. Giờ đây một chiếc bàn đã được dọn ra ngoài bãi cỏ, trong khi ánh mặt trời khát máu sà xuống vùng thảo nguyên, thật giống mấy tảng thịt đang được ướp trong những cái bát. Ngồi bên đống lửa, Ockie chăm sóc những hòn than của ông. Đây là đóng góp của ông! Thịt nằm trên vỉ nướng, cốc bia trong tay, thế là người đàn ông có thể sảng khoái. Các món salad là công việc của phái nữ và nếu dỏng tai lên bạn sẽ nghe thấy giọng của Marina đang ra lệnh trong bếp, Rửa cái này đi, cắt lát cái kia đi. Ai đã trao cho bà ấy cái quyền sai bảo cả thế giới này nhỉ?
Cũng tại đây ai đó vừa khui một chai rượu đỏ và gần như toàn bộ người lớn đều có phần. Một cảnh gây hiếu kỳ, cảnh tiệc tùng kém sôi nổi này diễn ra chỉ một ngày sau khi Mẹ mất, nhưng nói cách khác mọi người đều phải ăn, cuộc sống vẫn tiếp tục. Họ cũng sẽ uống rượu và cợt nhả một cách tục tĩu ngay sau khi bạn chết.
Không chỉ có gia đình tham dự. Ở đó vẫn còn một số khách mời nán lại, bao gồm cả Đức cha Simmers cùng người trợ lý. Ông mục sư đang có tâm trạng thoải mái và thích nói chuyện phiếm, tươi cười một cách lơ đãng và tung những lời nói dí dỏm nhẹ nhàng ra mọi hướng. Ai ai cũng yêu thích ý kiến cá nhân. Rắc rối là gần như chẳng ai ưa Alwyn Simmers, ngoài Bố và bác Marina. Ông ta ngồi đó giữa hai người bọn họ khi cuộc nướng thịt đang diễn ra, đôi mắt giấu phía sau cặp mắt kính chống đạn, dưới bóng cây bông gòn trong ánh hoàng hôn, tiếng xèo xèo và mùi thịt cháy bảng lảng trong không trung.
Phía bên kia bàn, Amor ngắm nhìn và lắng nghe, nhưng nói rất ít. Em vẫn còn bị nhức đầu, hai ngày nữa, như thể em đang đội một cái mũ đen nào đó, quá chật đối với mái đầu của em. Ngồi kế bên em, Astrid vừa nghịch móng tay vừa vung vẩy một bên chân vẫn còn xỏ một chiếc dép xăng đan .
Cách đó không xa, Bố đang ngắm nhìn hai chị em, hai cô con gái của ông. Nhưng còn một đứa trẻ nữa đâu? Đứa đầu tiên, thằng nhóc, thực sự ông không thể nhớ ra tên nó ngay. Tất cả bọn chúng lẽ ra phải có mặt ở đây, những đứa con đẻ của ông, ngồi thành một hàng, những con chim đang đậu trên dây. Tất cả tên của bọn chúng đều bắt đầu bằng chữ A, ông và Rachel đã nghĩ gì thế nhỉ? Chúng tôi chỉ đơn giản là thích cái âm thanh đó, vợ ông luôn nói với mọi người như thế, cho dù lúc này, chính âm thanh đó là điều khiến ông xấu hổ nhất. Giá mà tên đứa con đầu khác đi…
Anton đang ở đâu nhỉ? Ông gặng hỏi, bỗng thấy khó chịu. Astrid nhìn thấy một cơ hội để gây rắc rối. Anh ấy lẻn đi bằng chiếc Triumph rồi ạ. Con đã trông thấy anh ấy.
Đi đâu thế?
Cô nhún vai đầy ngụ ý, nhưng vừa nhắc đến Tào Tháo, ánh đèn pha xanh xao, vàng vọt kia rồi, đang chiếu tới trên luống đất. Cho dù lúc này đã là tối muộn, vì ai ai cũng đã có đồ ăn trên đĩa, có thể nhìn thấy rõ ràng khi ánh đèn pha chậm rãi chiếu xuống phía mặt tiền nhà rồi soi sáng bừng đám khách mời bàn ăn. Chùm sáng tắt ngóm, động cơ tắt, cửa xe mở ra rồi đóng lại, Anton thận trọng, nhẹ nhàng bước về phía họ qua bãi cỏ. Hai đầu gối của anh không duỗi thẳng hoàn toàn, trên môi anh là nụ cười tươi mệt mỏi.
Cảnh đó khiến vài vị khách khó chịu. Tự lấy cho mình ít thịt đi, Ockie gọi anh, quá to tiếng. Đến chung vui với những kẻ tội đồ khác nào! Bác Marina vỗ vỗ tay xuống chiếc ghế bên cạnh bà. Đây! Bà có thể thấy đứa cháu trai điên rồ của bà, sai lầm của tạo hóa, giờ đây đang sắp tạo ra các sai lầm của chính nó và tối nay có thể nó cần một bàn tay dẫn dắt.
Ánh mắt chằm chằm của Manie không hề dịu đi khi nhìn thấy Anton. Ông gật đầu với vẻ cay nghiệt, nhận ra con người sa đọa của mình trước kia. Tốt đấy. Vâng. Rất tốt.
Giờ sao đây? Anh ném chùm chìa khóa xe xuống mặt bàn. Mẹ con hôm qua mới mất, nhưng con vẫn còn thời gian để phung phí cho rượu và lũ đàn bà hư hỏng. Tốt.
Lũ đàn bà hư hỏng ư? Ockie nói đầy hy vọng, nhìn ngang nhìn ngửa, kinh ngạc. Mục sư Simmers lẩm bầm điều gì đó nghe có vẻ giống như lời nguyện còn Anton lướt vào chỗ ngồi, khẽ run rẩy vì cười.
Vâng, cứ chế nhạo đi. Cứ cười ta đi. Từng tội lỗi được viết vào sổ cái để rồi ngày cuối cùng…
Cả tội của người nữa đấy, thưa Bố. Rượu và đàn bà.
Những ngày ấy đã qua rồi. Và trái tim ta giờ trống rỗng rồi, ta đã cầu xin sự tha thứ, và đã sống tiếp. Nhưng nhìn con kìa!
Phía bên kia bàn, Mục sư Simmers thốt ra một tiếng thở dài kín đáo không ai nhận thấy. Ông đang chuyện trò với Manie ngay trước khi thằng con trời đánh này quay về, cuộc nói chuyện đang diễn ra êm đẹp. Chỉ thêm một lúc nữa là ông sẽ nhẹ nhàng lái chủ đề xoay quanh câu hỏi quan trọng, ông có thể cảm thấy tâm trạng đang tốt, nhưng giờ ông đã bị chen ngang. Có điều gì đó ở thằng nhóc này, ông không tài nào nhớ được tên nó, Andre, Albert, điều gì đó ở thằng nhóc này khang khác.
Hôm nay cha cậu đang rất buồn, ông gợi ý muốn tỏ ra hữu ích. Tất cả chỉ là vì cái đám tang kiểu Do Thái đó.
Cháu nên tận mắt thấy cái quan tài đó, thực sự rẻ tiền, Bác Marina nói. Tay cầm lại còn bằng gỗ nữa chứ!
Sau khi cậu ấy còn phải trả tiền cho hợp đồng nữa chứ, Ockie hưng phấn nói. Đã hai mươi năm trời rồi đấy!
Điều tôi muốn, Manie rên rỉ, điều duy nhất tôi muốn là được mãi mãi yên nghỉ bên cạnh vợ tôi thôi. Đòi hỏi thế là quá đáng lắm à?
Thế mà giờ cô ấy sẽ nằm trong nghĩa trang Do Thái, Marina nói.
Rất không công bằng, mục sư nhận xét. Tại sao lại không công bằng ạ?
Điều cha cháu đang nói, là ông ấy muốn người mẹ yêu dấu của cháu được chôn cất ở đây tại trang trại này. Với phần còn lại của gia đình, bên cạnh ông ấy. Nơi bà ấy thuộc về.
Nơi là nhà của bà ấy, Bố nói thêm. Bởi một giáo sĩ thực sự.
Nghĩa là cha đấy, Anton nói.
Sự im lặng nứt ra, bị phá vỡ bởi tiếng xèo xèo của mỡ nhỏ xuống ngọn lửa.
Đó là điều cha cháu sẽ muốn…
Nhưng đó không phải là điều bà ấy muốn.
Người chết chẳng muốn cái gì hết! Bố nói, hoặc rên lên, vì trong một lúc ông đã mất vẻ nghiêm trang. Không khí im lặng bao trùm khi không ai nói chuyện nữa, tiếng nhai nhờ thế vang lên đầy khó chịu. Có cảm giác xấu hổ nhẹ nhàng trong đám khách mời, không có trọng tâm rõ ràng, phải mất một lúc lâu cuộc đối thoại mới lại tiếp tục.
Manie không tiếp tục đẩy cuộc thảo luận đi xa thêm nữa. Ông ngồi thụp xuống, rõ ràng không chút đức tin nào, cho dù nên nhớ rằng chiều nay chính ông đã xuống kho thóc và sát hại con cừu mà lúc này họ đang ăn. Phải, ông ấy đã cắt cổ họng nó, một sự bùng phát bạo lực nhẹ nhàng trong làn sương mù của nỗi bất lực, ôi ông cảm thấy thật sảng khoái. Thế nên con người sẽ chỉ biết ngồi đó tự thương thân, chìm đắm trong nỗi buồn về những gì họ đã đánh mất, mà không hề biết mình sắp gây ra những mất mát khác. Nỗi đau khổ của con cừu mẹ, đó là gì?
Thế nhưng nó in dấu giữa không trung như nỗi đau khổ của con người, không thể nào gột rửa đi được.
Amor bỏ dĩa xuống.
Em định sẽ không ăn miếng thịt đấy à? Astrid muốn biết. Em lắc đầu, cảm thấy mình có thể nôn mửa. Suốt hai ngày qua em đã cảm thấy nhức đầu và buồn nôn, trên bờ vực cuộc nổi loạn nào đó không thể định nghĩa được. Em không ngừng nhớ lại một chuyện mình đã thấy tại khu bảo tồn thằn lằn của bố em dạo gần đây. Giờ cho ăn tại khu nuôi cá sấu, em đã cố gắng nhưng không thể xua đi hình ảnh ấy, một ông chú già nua nhân hậu mặc đồ đi săn, đang ném mấy nắm chuột trắng xuống những dáng hình nguyên thủy đang trôi nổi dập dềnh dưới nước. Tiếng đớp hỗn xược. Những cái đuôi lơ lửng bên ngoài cái miệng há to như những sợi chỉ nha khoa vậy. Chúng ta là gì, mà chúng ta phải ăn thịt những xác chết khác để tiếp tục sống? Với sự ghê tởm, em ngắm nhìn Astrid vươn tay về phía đĩa đồ ăn của em, tọng từng miếng thịt và mỡ cho vào cái miệng đang há ra, nhờn mỡ của mình.
Đó là vòng tay của Mẹ, chị ấy nói. Không, không phải. Nó là của em. Lúc nào mà Mẹ chẳng đeo nó.
Ý chị là em nói dối à?
Anton bỏ đĩa đồ ăn xuống thận trọng lau những ngón tay vào khăn giấy.
À mà này, anh nói, con nghe nói bố định tặng cho Salome căn nhà Lombard đấy à.
Cái gì? Bố nói, cho dù nó chỉ khuấy động lên tiếng chuông nhỏ nhất.
Ah! Bác Marina sịt mũi. Đừng có mơ.
Anton quay sang nhìn Amor, người cựa quậy trên ghế. Bố đã nói…
Bố đã nói gì?
Bố đã nói bố sẽ tặng cho bà ấy căn nhà. Bố đã hứa. Cha em choáng váng trước tin tức này. Mình đã nói thế bao giờ nhỉ?
Người phụ nữ đó sẽ không có được căn nhà, bác Marina nói. Không, không, không. Ta xin lỗi. Ngay bây giờ cháu có thể quên câu chuyện ấy đi. Bà tự làm mình bận rộn với chuyện dọn dẹp chén đĩa, cho dù không phải tất cả đều đã ăn xong, tiếng leng keng của dao dĩa như tiếng nghiến răng.
Bố cố giải thích. Bố đang phải trang trải tiền học phí cho con bà ấy đấy… Chẳng nhẽ việc gì bố cũng phải làm cho bà ấy hay sao?
Amor nản chí trong bối rối, trong khi anh trai cô bé cứ mỉm cười liên tục. Bỗng anh rướn người sang phía Alwyn Simmers. Con với cha nói chuyện riêng một lát nhé?
Vị giáo sĩ mở rộng hai bàn tay. Tất nhiên, Alan, ông nói. Làm ơn nói đi.
Mẹ con khiếp sợ cái chết và không thể chấp nhận rằng nó đang xảy ra. Nhưng ngay cả thế, bà ấy lại hiểu rất rõ mình muốn gì. Dù không nhiều. Chỉ vài thứ thôi. Một trong số đó là quay về với tôn giáo của mình và được chôn cất bên cạnh gia đình mình. Bà ấy đã nói rõ điều đó.
Thật thà là một đức tính rất quan trọng, vị giáo sĩ nói, giọng ông khàn khàn.
Bố bỗng nổi điên. Có chuyện chó gì với mày thế hả? Lúc nào con cũng hỏi chính mình câu ấy.
Chẳng nhẽ mày không bao giờ lo lắng ngày nào đấy mày có thể bị thiêu cháy dưới địa ngục à?
Đây là khả năng tồi tệ nhất ông ấy có thể nghĩ đến, nhưng Anton phản ứng, như anh thường xuyên làm thế một cách vui vẻ. Con đã tới đó rồi mà, anh nói, gạt đi những giọt nước mắt của niềm vui. Chẳng nhẽ bố không ngửi thấy mùi thịt nướng sao?
Tao là chồng bà ấy! Tao hiểu bà ấy rõ hơn mày nhiều. Tao biết vợ mình tin tưởng vào điều gì.
Thế sao? Con thì gần như chẳng bao giờ biết mình tin tường vào điều gì nữa. Tất cả những gì con muốn nói, không phải là cãi nhau, mà chỉ là cố gắng đơn giản hóa mọi chuyện. Bố nên làm theo điều bà ấy muốn. Tất cả. Gồm cả việc tặng cho Salome căn nhà, nếu đó là điều bố đã hứa.
Tao chưa bao giờ hứa, Bố nói. Bố mày chưa bao giờ hứa bất kỳ cái gì cả!
Amor chớp mắt nhìn ông, thực sự giật mình. Nhưng Bố đã hứa, em nói với ông. Con nghe thấy rồi.
Có chuyện chó gì với chúng mày thế hả? Bố quát lên, rồi đứng dậy, vì lý do nào đó ông hơi khó khăn khi làm thế, rồi bỏ đi trên đôi chân tê cứng tới khu vườn, hét lớn một cách không rõ ràng. Bác Marina nắm chặt lấy chuỗi hạt trên cổ cho đến khi giọng bà nghe như bị nghẹt. Ông ấy đang khóc, bà nói. Chúng mày hài lòng chưa?
Hài lòng ư? Anton nói, cân nhắc cái từ này. Không, cháu sẽ không nói thế. Nhưng tất cả chúng ta có thể đến gần hơn với điều ấy nếu cháu nói chúc ngủ ngon.
Khi bỏ đi, để lại sau lưng một đám người bỗng dưng chìm vào rối loạn, mọi người quay ngang quay ngửa nhìn sang nhau và nhỏ giọng tranh cãi. Thường đó là những gì còn lại trong tâm trí anh khi dậy muộn. Lui về phòng mình, một không gian chật ních những sách và giấy tờ, các bức tường được trang trí bằng những câu trích và ghi chú cho bản thân. Từ đây, qua ô cửa sổ, trên gờ tường, rồi bằng những mánh khéo léo anh leo lên mái nhà. Nơi mà anh thích ngồi là ở trên đỉnh cao, một cơn gió mang hơi ấm thổi đến chỗ anh, phóng mắt nhìn ra vùng đất tối, đâu đó lốm đốm những ánh đèn.
Dưới một viên ngói lỏng lẻo anh có nhét một cái túi nhựa, mà lúc này anh rút ra từ đó một mẩu cần sa và bật lửa. Anh châm lửa, hút ngấu nghiến rồi dụi tắt, tâm trí như giãn ra. À phải rồi. Tạ ơn Chúa. Mình cứ như một người nào đó khác vậy.
Anton, đứa trẻ sinh ra đầu tiên, đứa con trai duy nhất. Anh được xức dầu, để làm gì anh cũng chẳng biết, nhưng tương lai là của anh. Con muốn gì? Muốn du lịch, muốn học hỏi, muốn viết ra những vần thơ và dẫn dắt các dân tộc, anh muốn hiểu rõ được mọi thứ, tất cả đều có thể, anh muốn ăn cả thế gian này. Nhưng cảm giác chua chát mơ hồ nơi cuống họng anh dường như luôn luôn ngụ ở đó, cho dù cuộc đời anh thuần khiết và nhẹ nhàng như sữa. Nó từ đâu đến? Có một lời nói dối ẩn sâu nơi tâm can của mọi thứ và mình vừa phát hiện ra nó nằm trong chính mình. Nhổ toẹt nó ra. Chuyện gì không ổn thế anh bạn? Chẳng có gì không ổn cả. Mọi thứ đều không ổn với tôi.
Dưới kia quanh ngọn lửa, anh vẫn có thể trông thấy những cái bóng đang khua tay múa chân và nói chuyện. Chút gợn sóng lăn tăn cuối cùng từ cuộc náo động anh đã gợi lên, vẫn chưa kịp lắng xuống. Bạn loạng choạng như thế nào, chới với ra sao, khi đang cố gắng đứng vững.
Sau cơn chấn động vì mâu thuẫn gia đình, Alwyn Simmers đánh mất cặp kính khi ông cố gắng đứng dậy, khắp xung quanh ông chấn động, giờ đây trong cơn hốt hoảng ông nghe thấy tiếng rắc dưới gót giày mình, như tiếng xương gãy. Ông mù dở như con giun đất khi không có kính, hình dáng của mọi thứ mờ mịt như sương.
Siebritz, ông kêu lên. Siebritz!
Ông đang gọi cậu trợ lý của mình, người mà ông ghét cay ghét đắng, nhưng Siebritz sẽ không trả lời. Bực mình trước khung cảnh diễn ra tại bàn thịt nướng, nơi nhắc anh nhớ đến cuộc đời mình, vì trong cơn khủng hoảng cũng như trong sự hài hòa mọi thứ đều liên quan với nhau, vào lúc này anh đã đi được nửa đường quay về thị trấn bằng xe mình. Anh đã xong việc với cái gia đình đó rồi, anh đã xong việc với Giáo hội, và đặc biệt nhất, anh đã xong việc với ông mục sư rồi. Chẳng còn việc gì nữa!
Siebritz! Siebritz!
Sao Người lại bỏ rơi con vào lúc con cần Người nhất, Alwyn, giờ đây đấng sinh thành của tôi đâu rồi? Chỉ có người công chính mới chịu được thử thách, nhớ không! Trợ giúp sẽ đến nếu bạn biết đợi chờ.
Giá như ông có thể gọi em ra, có một bóng hình đang ngồi im như đá gần đó. Amor. Em không hề rời khỏi chỗ ngồi tại bàn, cho dù tất cả mọi người khác đã rời đi. Thực ra, em không cựa quậy một ngón chân hay nhướng một chiếc lông mày, suốt mấy phút vừa qua, quá đắm chìm trong suy nghĩ, hay điều gì đó khác. Em đang suy nghĩ về anh trai mình, Anton, người đang quan sát lại em từ trên mái nhà. Tuy nhiên các suy ngẫm của em đều giấu kín. Kinh ngạc, theo cách nào đó. Rằng anh ấy có thể ăn nói như thế. Có thể nói về những gì mình đã làm. Làm đàn ông chắc phải tuyệt vời lắm! Em cảm thấy ham muốn đến lạ lùng được nắm tay anh ấy. Chẳng phải vì muốn dẫn anh ấy tới đâu cả, chỉ là để nắm lấy. Hoặc có thể là để được dẫn đi.
Em đã quen với việc bị đối xử như một cái bóng, một vết mờ bên rìa tầm mắt của tất cả mọi người. Quá trẻ con, quá ngốc ngếch, không thể được xem là nghiêm túc. Và lạ lùng nữa, một đứa trẻ lạ lùng. Bất thường và có thể là đáng thương, rất dễ bị bỏ qua. Nhưng tối nay anh trai em, từ nơi cao vút kia, dường như đã để ý đến em.
Gần đó, Alwyn Simmers cuối cùng đã được bác Marina giải cứu, đan cánh tay nung núc thịt của mình vào tay ông và mời ông đĩa salad khoai tây mình làm. Không, cảm ơn, tài xế của tôi đâu rồi? Cậu ta dường như đã biến mất. Vị mục sư, đầy hơi và thất vọng giờ chỉ muốn đi về với căn nhà nhỏ ông ở chung với em gái. Ông tha thiết muốn được làm như vậy đến nỗi đã giậm một chân thật mạnh xuống bãi cỏ.
Không lâu sau Siebritz được xác nhận là đã bỏ đi. Lexington có thể đưa cha về, Marina nói, vỗ hai tay, để các vòng tay của bà vang lên ầm ĩ. Lexington! Lexington! Lexington nhanh chóng quay lại từ phía sau nhà, đội mũ lên đầu. Vâng, thưa bà Marina? Đưa giáo sĩ quay về nhà ông ấy. Vì mục sư rời đi với phong thái của một người chiến thắng, và ngay sau đó họ đã lao xuống con đường cao tốc dẫn tới những ánh đèn vàng le lói của Pretoria, mà chỉ người lái xe mới nhìn thấy.
Nói tôi nghe, vị giáo sĩ hỏi ông ta, cậu làm việc cho những người này được bao lâu rồi?
Hai mươi năm, thưa ngài.
Cậu nghĩ sao về họ, về cái gia đình này?
Lexington ngần ngừ, miệng cười rộng ngoác vì căng thằng, nhưng không hiệu quả. Họ rất tốt với tôi, thưa ngài.
Họ rất tốt với cậu, phải, phải. Nhưng cậu nghĩ sao về họ?
Không, tôi chẳng nghĩ gì về họ cả, thưa ngài. Tôi chỉ làm việc thôi, không suy nghĩ.
Lời tuyên bố này không đúng, nhưng Lexington không thể nói thật. Ông cảm nhận được rằng vị giáo sĩ muốn điều gì đó, nhưng việc thỏa mãn nhu cầu đó của ông ta sẽ có thể khiến ông đánh mất vị trí của mình. Không phải lúc nào cũng có thể làm hài lòng hai người da trắng cùng lúc.
À, tôi nghĩ rất nhiều chuyện về họ, vị giáo sĩ trả lời. Mặc dù tôi sẽ không nói thế, nhưng tôi nghĩ về nhiều chuyện. Đặc biệt là về đứa con trai, không cần biết nó tên là gì, Adam à.
Vâng, thưa ngài, Lexington nói, vô cùng thoải mái với việc thuận theo đối phương.
Có gì đó không ổn ở cậu ta. Hãy ghi nhớ những lời của ta đấy. Thằng nhóc đó đúng là một con lừa hoang. Nó chống lại mọi người và mọi người chống lại nó.
Tối nay, Giáo sĩ Simmers thấy rất bực bội, ông có một vết xước trong tâm hồn, vốn luôn luôn làm bật ra những vần Kinh Thánh có sẵn trong lòng ông. Sáng tạo của Chúa như càng mạnh mẽ thêm khi bạn sử dụng thứ ngôn ngữ cao siêu ấy để mô tả nó.
Đất nước này! Ông thốt lên. Ông không chắc tại làm sao đất nước này lại có lỗi, nhưng ông vẫn nhắc lại nó. Đất nước này! Vâng, thưa ngài, Lexington đáp, và trong một lúc hai người họ thực sự hòa hợp. Nam Phi khiến cả hai đều thấy phiền muộn, cho dù vì những lý do khác nhau. Alwyn Simmers cảm thấy có mối liên kết về mặt cảm xúc với những người đồng bào da đen của ông ta, có vẻ đối với ông ta họ đều bình đẳng như nhau trước con mắt của Chúa, cho dù họ nên luôn luôn ngồi trên những cái ghế khác nhau trong xe. Chúa đã định ra như thế, hệt như Người đã định rõ rằng Rachel phải chết vào thời điểm bà ấy chết và rằng căn nhà của bà ấy nên chật chội với những người đến khóc than cho bà ấy, Người cũng mong muốn rằng trong các căn phòng khác, những đứa con trai và con gái của Ham nên làm việc quần quật thay mặt cho những ông chủ và bà chủ của mình, đốn củi, lấy nước và nói chung là khiến cuộc sống trở nên đáng sống với những ai phải vác cái gánh nặng của người lãnh đạo. Một gánh nặng mà vài người có thể muốn được từ chối mang. Hãy xin cho chén này qua khỏi con, nhưng nếu chén này là của bạn thì bạn sẽ phải uống nó, không được cãi lại ý của Thiên Chúa, không cần biết cặn của nó đắng đến bao nhiêu.
Laetitia có giữ một cặp kính sơ cua cho anh trai ở nhà, phòng những trường hợp khẩn cấp như thế này, và vào sáng hôm sau, thị lực của ông đã trở lại bình thường; vừa ngồi khuấy tách cà phê, Alwyn Simmers vừa cảm thấy nhìn chung tâm trạng đang tốt hơn nhiều. Càng suy nghĩ về các sự kiện của tối hôm qua, ông ta càng thấy triển vọng của mình có vẻ sáng sủa hơn. Sự hỗn loạn đã mang lại cho ông lợi thế, có lẽ Chúa đã muốn như thế, vì Manie giờ đây bị lũ con cái vô ơn của ông ta ghẻ lạnh và có thể ngày càng có xu hướng chứng tỏ sự hào phóng ở đâu đó khác. Nhưng điều quan trọng là phải có động thái sớm, trước khi tình thế thay đổi. Hôm nay luôn, nếu có thể! Ngoại trừ việc hôm nay bà vợ của Manie sẽ được mai táng. Nghĩ đến chuyện đó, mấy giờ rồi nhỉ, thậm chí lúc này nó đang diễn ra rồi, khi chúng ta nói chuyện.
Phải, không phủ nhận là nó đang diễn ra. Căn phòng bé nhỏ trần trụi và đơn giản như quan tài của bà ấy và chật ních người. Rachel là một người quảng giao, bà ấy có rất nhiều bạn bè, nhưng trên các ghế dài hầu hết vẫn là những thành viên Do Thái trong gia đình. Về điểm này họ giống những người Nam Phi, máu mủ chính là chất keo gắn bó nhất trong tất cả. Đã nhiều năm bà ấy không gặp gỡ hay nói chuyện với hầu hết bọn họ, thế nên họ dường như vô hình. Nhưng hôm nay thì họ có mặt ở đây, những đám đông các gương mặt bạn chưa từng thấy mấy năm qua, vài người vẫn còn mang những cái tên, những bà cô dì, chú bác và anh chị em họ, cùng con cái và người thân của họ. Mẹ của Rachel, kẻ thù không đội trời chung của ông, quay ngoắt đi ngay lập tức khi bà ta trông thấy ông, không khoan nhượng, cả bây giờ vẫn thế.
Manie khum hai vai lại trước tất cả bọn họ. Quá nhiều chuyện đã xảy ra đến nỗi không thể giả vờ là chẳng có chuyện gì. Đêm qua ông đã cầu nguyện rất lâu và rất thành tâm và ông tin rằng Thượng đế muốn ông phải có mặt ở đây, thể hiện thái độ lịch thiệp và tạo một tấm gương cho người theo đạo Cơ Đốc. Đức tin nghĩa là bạn phải đánh vật với chính mình, không được phép hài lòng với việc chỉ đơn thuần là căm ghét họ. Nhưng quá khó cho ông, khó hơn nhiều so với ông tưởng tượng, khi ngồi giữa những kẻ này, những kẻ đã cướp cô ấy khỏi tôi, với những phong tục lạ lùng của họ. Tại sao họ lại phải xé quần xé áo của nhau và bắt tôi phải đeo dải băng đen trên trái tim và đội chiếc mũ tròn nhỏ không vành trên đầu? Tại sao họ cứ liên tục chúc mình được sống lâu? Ông không muốn sống thật lâu, không phải hôm nay. ông muốn một cuộc sống ngắn hơn, ông đã sống quá đủ rồi. Đặc biệt, ông sẽ hạnh phúc lắm khi trút bớt đi vài tiếng đồng hồ ngay tiếp tới đây trong quỹ thời gian mà mình được hưởng, sử dụng chúng đi, giữ lấy chúng đi, tôi không muốn nữa.
Phía thân bằng quyến thuộc của riêng ông là một nhóm nhỏ hơn nhiều. Có đồng nghiệp tại chỗ làm của ông, Bruce Geldenhuys, hai người bạn khác từ giáo hội. Cộng thêm gia đình, rõ ràng, cho dù Manie đã cố tình để Marina đứng giữa ông và bọn trẻ, giữ khoảng cách với con trai mình. Thậm chí ông còn không thể nhìn Anton. Chuyện xảy ra tối qua tại tiệc thịt nướng vẫn còn hằn rõ trong tâm trí Manie, vẫn khiến ông thấy thật phiền muộn, ruột gan cồn cào. Vài giờ cầu nguyện bằng tiếng Hebrew vang lên và giờ là giáo trưởng Katz đang đọc điếu văn. Ông ta đã quyết định chọn một chủ đề mở rộng cho bài điếu văn của mình, một nỗ lực hàn gắn lại những chia rẽ trong gia đình. Ông nói với họ, Rachel đã đến với tôi sáu tháng trước, khi bà ấy biết mình sắp chết. Bà đã xa lánh đồng bào của mình, đức tin của mình trong thời gian quá lâu. Đã nhiều năm. Và bà không nghĩ mình sẽ quay về. Nhưng sự đời vận hành theo cách chẳng ai ngờ trước được. Và đôi lúc chỉ khi bạn biết mạng sống của mình sắp chấm dứt bạn mới có thể ngộ ra ý nghĩa của nó. Với Rachel thì đúng là như vậy. Tôi tin rằng chính vì điều ấy cho nên Rachel hẳn sẽ an lòng khi được chứng kiến tất cả mọi người ở đây hôm nay, cả hai bên gia đình, Do Thái và không Do Thái, bên nói tiếng Anh và bên nói tiếng Nam Phi. Bà sẽ cảm thấy thật đúng đắn khi tất cả mọi người cùng tề tựu bên nhau vì mình. Thế giới này không hoàn hảo, đúng, tuy nhiên vào những khoảnh khắc như thế này thế giới có thể kết nối thành một khối… vân vân và vân vân. Bạn hiểu quan điểm của ông ta không, cách Rachel đưa ra những lựa chọn thiển cận, khiến bà ấy không thỏa mãn, nhưng đến cuối cùng bà ấy đã có hành trình trở về nơi mình bắt đầu, và nhờ đó khép lại một đường tròn. Vị giáo trưởng yêu thích toán học, đặc biệt là các dạng hình tròn, vậy nên đối với ông ta đường tròn rõ ràng là hoàn hảo tới mức tất cả mọi chia rẽ sẽ đều lu mờ trước nó.
Khi ông ta nói, đôi bàn tay mập mạp của ông ta đưa đi đưa lại, nhưng giọng ông ta thì thật khiến người nghe cảm thấy vững dạ, với thanh điệu bình thản, đều đều, như giọng của các nha sĩ hoặc tiếp viên hàng không, vẽ nên một khung cảnh cho phép các thính giả mơ mộng. Tâm trí của phần nhiều những người viếng tề tựu trước mặt ông ta đã phiêu dạt sang một nơi nào đó, trôi đi xa khỏi những gì ông ta đang nói. Nhằm chống lại chủ nghĩa ngoại giáo đang có mặt xung quanh mình, bác Marina lặng lẽ nhẩm lại lời kinh cầu của Thượng đế trong hơi thở. Bà cảm thấy đức tin của mình đang lớn phồng lên bên trong gần như bằng với thể xác của bà vậy, như thể một khối u. Ôi trời, ghê quá. Đó là khối u đã giết chết Rachel, Ockie thường xuyên nghĩ về chuyện đó, rằng trông nó sẽ như thế nào, nếu bạn đưa nó lên xem xét dưới ánh đèn? Một cục bằng cao su và máu, giống cái thứ dưới đáy bồn rửa, hoặc tinh tế hơn chẳng hạn? Một vật thể lạ xâm nhập vào cơ thể bạn, hồi ức về nó gần đây khuấy động từng tế bào của bạn, và Astrid cựa quậy trên chiếc ghế dài cứng, cảm thấy ẩm ướt và bồn chồn. Hôm qua cô đã làm tình với Dean de Wet ở một trong các ngăn trong chuồng ngựa, và điều ấy thật tuyệt, bất chấp mùi phân còn mới. Con ngựa ở ngăn bên cạnh giậm chân và tỏ ra khó chịu, dùng bộ móng guốc của nó để bới tung cả đám cỏ lên. Chết tiệt, nó đây rồi, Anton nghĩ, tất cả những điều vớ vẩn này, tất cả mọi điều lão đang nói, chẳng lời nào là thật hết. Mình đã giết chết bà ấy. Mình đã bắn và giết chết bà ấy tại Katlehong, không phải Chúa đã bắt bà ấy đi, trước thời hạn mà đáng lẽ ra bà có thể sống. Nhưng bạn nghĩ có một mệnh lệnh, bạn nghĩ các hành động của mình là quan trọng, rằng chúng sẽ được cân nhắc và phán xét trong sự thức tỉnh cuối cùng nào đó. Nhưng chẳng có sự thức tỉnh nào hết. Với mỗi người chúng ta, cái chết là ngày cuối cùng.
Và thế, giáo trưởng kết luận, đối với Rachel, biết rằng mình sắp chết chính là sự khởi đầu của một sự sống mới.
Hàng cuối cùng, bị ép giữa anh trai và chị gái, Amor cô độc. Em cảm thấy như thế. Giữa một rừng người như thế này nhưng chưa bao giờ em cô đơn đến thế. Chẳng có gì xung quanh em hết, chẳng có gì và chẳng có ai ngoại trừ một cái hòm bằng gỗ, và bên trong nó, nhưng đừng nghĩ về nó, đừng nghĩ về cái thứ bên trong. Cái hòm trống rỗng và nó có bốn mặt, không, sáu mặt, không, nhiều hơn, nhưng nào có quan trọng gì khi nó sẽ được chôn xuống đất?
Sự thật đó là mẹ mình chết rồi và bà ấy nằm trong cái hòm kia. Khi em nghĩ đến nó, cái cụm từ rắn chắc ấy như tan ra, bắt đầu hóa lỏng. Em cảm thấy nó trôi đi. Người em co lại, khép chặt hai đùi vào nhau. Bắt nó dừng lại.
Giờ tất cả mọi người đứng dậy để hát. Nhưng Amor chìm sâu xuống chiếc ghế dài, yếu ớt như muốn ngất đi. Ban đầu em ngả người sang phía Anton, rồi đột ngột ngả sang bên cạnh, phía chị gái. Giật giật cánh tay Astrid, kéo chị ấy xuống.
Chuyện gì thế?
Lần đầu tiên em cố gắng nói, các âm thanh thì thào nghe như tiếng xì của chiếc lốp xe bị thủng.
Cái gì hả? Astrid rít lên, mặt cau lại. Em nghĩ mình có thể…
Cái gì?
Chị biết mà. Chảy máu. Dưới này này.
Astrid chậm rãi chớp mắt. Ồi, em không thể nghiêm túc vậy chứ. Không mang cái gì theo hết à? Cô trừng trừng nhìn đứa em gái bé bỏng, rồi ngả sang phía khác kéo bà bác xuống cái tình cảnh đang diễn ra. Thì thầm vào tai bà. Cái gì? Bác Marina nói.
Suỵt.
Astrid ngần ngừ, rồi cố gắng nói lại lần nữa. Lần này cô rít lên hơi to một chút, đến nỗi một người phụ nữ đằng sau họ, một người quen của Rachel từ thời còn đi học, bị cắt đứt khỏi cơn mơ màng hồi tưởng.
Tâm trí Marina phải mất một lúc mới hiểu được con bé đang nói cái gì. Kỳ kinh nguyệt cuối cùng của bà ta đã thành quá vãng lâu lắc rồi, không lâu sau khi sinh đứa con út, và bây giờ thì thật khó chịu khi hình dung một chuyện như thế lại có thể xảy ra. Nhưng rõ ràng là thế, nó đang xảy ra ngay lúc này, vào cái khoảnh khắc có thể được xem là tồi tệ nhất.
Ta phải nói, bà tức tối thì thầm, con bé thế này đúng là ích kỷ. Chẳng nhẽ nó không có….
Astrid nhún vai. Nó không phải là đứa giữ đồ cho em gái! Lúc này tất cả mọi người đang bắt đầu nhốn nháo và ho khan, và những người hộ tang sắp tiến lên phía trước để di quan.
Có vẻ như lễ tang đã kết thúc và có một đám rước bên ngoài lo phần việc chôn cất. Marina biết mình phải giúp đứa cháu gái của bà, nhưng bỏ đi bây giờ thì quả là rất tồi tệ, giống như khi Ockie xóa nhầm tập ai-giết-JR của phim Dallas khỏi đầu phát băng VHS khi bà chưa kịp xem. Thay vào đó bà túm chặt lấy khuỷu tay Astrid rồi thì thầm vào tai con bé.
Đưa con bé ra ngoài rồi trông chừng nó. Xong việc này chúng ta sẽ giải quyết.
Cháu ư? Sao cháu phải làm chứ? Vì con bé là em gái cháu.
Astrid kinh ngạc. Cô chưa bao giờ nghĩ Amor lại có một ngày có thể trưởng thành, có ngực, có kinh nguyệt và có quan điểm riêng, và chắc chắn không ai có quyền trục xuất cô ra khỏi đám tang của mẹ mình và khiến cô xấu hổ trong khi sự việc xảy ra như thế. Thế nhưng giờ họ ở đây, trong khi tất cả mọi người đang chậm rãi di chuyển theo một hướng, thì hai chị em rẽ sang hướng khác. Ra đến bên ngoài, cô quay sang em gái mình.
Sao mày có thể làm thế được hả? Cô hỏi.
Em không thể ngừng nó lại được, Amor đáp, vào lúc này em đang cảm thấy một cơn đau quặn thắt, cơn đau thúc phía bụng dưới khiến em tê liệt tới tận xương tủy. Giống như lần em giẫm phải cái đinh, khi đang chạy trên bãi cỏ. Em đã gào khóc như thế nào. Mẹ, Mẹ, cứu con với!
Với gương mặt tức tối, Astrid nhìn quanh. Chẳng làm gì được cả, cô quyết định. Ngồi xuống đó chờ chuyện này kết thúc.
Cô định ngồi xuống chiếc ghế dài cạnh lối vào mặt tiền, nhưng Amor phát hiện một phòng giữ hành lý gần đó bèn đi tới, bước vào một không gian xanh lục có mùi khó ngửi, và tìm thấy một phòng ngủ nhỏ nên lánh vào. Tiếng nước chảy róc rách và nhỏ giọt vang lên khắp nơi, có thể một đường ống đã bị vỡ. Một cảm giác tê liệt khác lại trỗi dậy từ sâu bên trong em. Khung cảnh nhấp nháy xung quanh em, như một cuộn phim đen trắng. Em không thể tin nổi chuyện này đang xảy ra, rằng mình đang tựa trán vào bề mặt gạch lát mát lạnh trong nhà vệ sinh công cộng thay vì tháp tùng quan tài của Mẹ với những bước chân cuối cùng, đi qua những bụi cây của các bia mộ. Một ngày xuân đẹp tuyệt, ánh mặt trời đang rải những tia nắng vàng xuống những cái cây sum suê lộc biếc. Đoàn người chậm rãi bước, ngừng lại trích lời kinh Thánh Thi 91, nấn ná lâu thêm chút nữa trước khi tiếp tục lê bước. Có tiếng vo vo của bầy ong, tiếng những bông lan dạ hương bị giẫm bẹp nhóp nhép dưới chân mộ cách ngớ ngẩn. Cứ đi thêm được một đoạn ngắn là tất cả lại dừng bước, lại hát lên một đoạn Thánh Thi nữa, có vẻ như đây là cách mọi chuyện diễn ra, trên từng chặng tiến tới nấm mồ, nhưng Amor không ở đó để chứng kiến tất cả. Em đang gập người lại, suy nghĩ, Mình cần một viên thuốc giảm đau. Mình phải uống thuốc giảm đau. Nhưng thứ gì sẽ giúp quên đi được nỗi đau của việc không có mặt ở đó trong khi quan tài đang được hạ huyệt? Hay đây là cơn đau vì không phải là một trong những người lúc này đang bước lên phía trước với xẻng trong tay để xúc một nhúm đất xuống quan tài?
Bộp! Tiếng nắm đất rơi xuống chạm bề mặt gỗ là âm thanh cuối cùng, như tiếng cánh cửa to đùng đóng sầm lại.
Nhưng Amor đâu? Astrid đâu?
Anton quay người lại hoang mang, không biết nên trao cái xẻng cho ai.
Chúng nó phải tới một nơi khác, bác Marina rít lên. Đưa xẻng cho bác của cháu đi.
Chúng nó phải đi đâu cơ? Câu hỏi này không ngừng quấy rầy anh, trong khi hàng người chậm chạp bước qua, mỗi người ném một nắm đất của mình xuống huyệt. Từng chút một, chiếc quan tài biến mất, như thể mặt đất đang gặm nhấm dần chiếc quan tài. Không khác mấy so với phong cách của chúng tôi. Bộp, tạm biệt, sự giải thoát.
Astrid đứng nhìn từ xa và khi bài kinh cầu Kaddish cuối cùng cũng đọc xong và đám đông nhỏ bắt đầu tản ra, cô đấm mạnh lên cửa nhà vệ sinh quát đứa em gái mau bước ra ngoài. Amor loạng choạng bước tới, siết chặt hai đùi lại, thầm biết vì ơn mình đang mặc đồ đen. Khi gia đình kéo tới gần hơn, những câu hỏi cũng sẽ kéo tới gần hơn, Cháu đã đi đâu thế, Có chuyện gì với cháu vậy, và dường như chẳng có sẵn câu trả lời nào cả.
Tuy nhiên, cuối cùng, bác Marina đã trông thấy và hiểu tất cả, chắc chắn bà ta đã tới đây nhanh hơn bất kỳ người đàn ông nào. Đừng lo, bác sẽ giải quyết chuyện này. Bà ta có biệt tài được tôi luyện từ lâu, truyền sự tự tin và những hướng dẫn, thì thầm vào những đôi tai của những kẻ quy phục, trong trường hợp này là chồng/con trai/em trai, sau đó Ockie và Wessel kéo Manie ra về còn bà dẫn hai đứa cháu gái quay ra xe của mình và siết chặt hai nắm tay trong đôi găng tay chơi golf trắng toát nhỏ nhắn. Ta không ngại nói cho hai đứa biết, ta rất mừng vì chuyện này đã kết thúc.
Cho dù thực ra nó chưa kết thúc, vì tất cả mọi người được mời đến nhà Levis dự bữa tiệc cảm ơn sau tang lễ, hoặc bất kỳ cái gì mà người ta có thể gọi. Marcia đỡ được Manie trong một khoảnh khắc lảo đảo ngay sau khi mai táng, gương mặt bà kích động và có chủ tâm, nhưng ông vẫn không thể tin nổi mình nói đồng ý. Bà cũng vậy, điều đó rõ ràng. Bởi bà cứ nghĩ rằng ông đã mang sẵn mối ác cảm. Chà, chúng tôi vẫn ở nguyên chỗ cũ. Tôi chắc là ông sẽ biết tìm chúng tôi ở đâu. Tất nhiên, ông ước gì mình có thể quên đi. Nhưng chúng ta sẽ không ở lại lâu đâu, ông nói với Ockie khi họ trèo vào xe. Chỉ xuất hiện ở đó một lúc thôi, cho xong nhiệm vụ.
Nhưng Astrid với Amor đâu rồi? Anton vẫn hoang mang, đặc biệt là khi bị ép sát vào người đứa em họ khó chịu của anh, Wessel, cái thằng nhóc toát ra mùi hôi quá lâu chưa tắm. Manie sẽ rất mệt mỏi nếu còn phải trả lời thêm bất kỳ câu hỏi nào từ con trai mình nữa, thế nên anh chỉ còn biết đề nghị bác Ockie giải thích. Chúng nó đi xe cùng bác Marina, ông đáp, nhưng chẳng nói thêm gì nữa. Một bí ẩn! Tại sao mọi người lại phải đổi xe? Chuyện gì khiến hai con bé phải tránh xa đám tang của mẹ chúng, đúng vào giây phút quan trọng?
Chúng đang đi cùng Bác Marina tới điểm đến tương tự, nhưng phải đi đường vòng một chút. Họ tìm thấy một khu mua sắm cách vài khu phố, những hàng xe sáng lấp lánh vui mắt dưới ánh mặt trời. Cứ đậu cạnh một xe khác đi, chúng tôi sẽ không đi lâu đâu. Bà đếm số tiền trong ví móc ra đưa cho Astrid. Bác sẽ đợi ở đây. Cháu có thể mang cho bác tiền thừa. Có một hàng người đang chờ tại lối vào siêu thị, túi xách của tất cả mọi người đang được đưa qua máy phát hiện kim loại phòng trường hợp có bom, rồi đi bộ cả một đoạn dài tới quầy dược phẩm phía đầu kia. Amor phải dừng lại hai lần dọc đường đi đợi những cơn tê liệt qua đi, tựa người vào tường. Sau đó em cùng chị gái đứng vào hàng người tại quầy dược phẩm, giữa các giá hàng đang võng xuống dưới sức nặng của hàng tấn sản phẩm hỗ trợ người dân tăng cường các chức năng cơ thể, ổn định cái này, xoa dịu cái kia, vệ sinh cái khác, trong khi em sợ hãi xoay xoay cái gói mềm trong tay mình. Astrid đút tiền vào tay em, Đây, mày trả tiền đi, mua cho mày mà, đúng không? Không phải đợi chờ lâu, chỉ một hoặc hai phút, nhưng các cơn đau quặn thắt lúc này trào lên rất đều, như những đợt sóng. Suốt quãng thời gian này mình nghĩ mình phát ốm vì Mẹ. Bà nhìn xuống đôi bàn chân con bé, cho phép chúng trở thành tất cả những gì quan trọng trong mắt bà lúc này, cho đến khi bà đứng ở quầy và người phụ nữ mặc áo choàng trắng dành cho con bé ánh mắt cảm thông.
Và họ thực sự nên làm việc đó ở ngoài siêu thị, nhưng em không thể chịu nổi phải ngồi trong nhà vệ sinh công cộng lần nữa trong ngày, nên đi tiếp đi, cứ đi tiếp đi. Chúng ta đến nơi rồi hẵng làm việc đó. Marcia và Ben sống tại Waterkloof, trong căn nhà hai tầng rộng rãi nằm giữa khu rừng cây rộng hai mẫu Anh. Họ đã quen với hoạt động giải trí, mặc dù hôm nay đây không hoàn toàn là một từ đúng, và họ đã thuê những người chuyên phục vụ những bữa tiệc của họ tới. Cưới xin, ma chay, sao cũng được, ai cũng đều phải ăn. Hai chiếc bàn dài được xếp trên sân trong sau nhà, trà, cà phê cùng một ít đồ ăn nhẹ được bày ra. Tất cả rất giản dị và trang nhã. Marcia chứng tỏ mình là nữ chủ nhân quảng giao và hiểu mọi thứ phải được vận hành ra sao.
Một lần nữa ở đây, ngay sau khi bước qua cửa trước, Bác Marina cúi thấp đầu xuống một cách bí ẩn thì thầm vào tai Marcia, trong khi Astrid và Amor tiến tới hành lang bên thật nhanh. Có những ngọn nến đang cháy khắp ngôi nhà và thậm chí trong phòng tắm dành cho khách còn lắp kín cả gương, tạo ra cảm giác rợn người như đang bị ai đó theo dõi. Như thể Amor cần phải tự ý thức hơn vậy!
Được rồi, chị sẽ đợi ở ngoài, Astrid nói. Đã bao năm trời kể từ khi nhìn thấy nhau trong lúc không một mảnh vải trên mình nên ngay cả nghĩ về chuyện ấy cũng đủ thấy khủng khiếp.
Giúp em, Amor thì thầm.
Không, không. Đứa em gái bé bỏng của cô chưa bao giờ xinh đẹp cả, không, không giống mình, và Astrid không muốn chứng kiến con bé đang làm cái việc nó phải làm. Không đời nào, cô nói. Đừng có trẻ con nữa đi, chỉ cần dán nó vào trong quần lót của mày, nó là băng vệ sinh mà, thậm chí mày có thể tự tìm cách, chỉ việc xem hướng dẫn thôi! Chị sẽ đợi mày ở ngoài.
Cô bước ra, đóng cánh cửa phía sau lưng lại, bỏ lại Amor một mình trong phòng tắm. Cô độc trong thế giới này. Mẹ đâu rồi? Lẽ ra bà ấy nên có mặt ở đây, ngay bây giờ, vào đúng lúc này, để giúp em. Nhưng bà đã bỏ đi rồi, trong lúc mình bỏ đi.
Từng bề mặt trong căn nhà này đều được làm bằng thứ nguyên liệu đắt tiền, thép, đá cẩm thạch hoặc kính, và nếu một mảnh gỗ ở đâu đó có màu cát thì nó sẽ được phủ véc ni đến sáng bóng và mềm mại, và nếu Astrid muốn, cô chỉ muốn cả thế giới này có những bề mặt mịn màng, được điêu khắc như thế này. Nó khiến cho bạn nhận ra mọi thứ ở nhà mình mới gồ ghề làm sao, mới đầy những góc cạnh và sắc nhọn như thế nào. Chân thực, Bố sẽ nói thế, nhưng ai mà cần chủ nghĩa thực tế làm gì? Thế này tốt hơn nhiều.
Astrid lần những đầu ngón tay theo giấy dán tường, cảm nhận những gợn sóng theo đường nét hoa văn của nó.
Một người đàn ông bước xuống hành lang và ngập ngừng dừng chân gần đó. Trong này có người ư?
Vâng, em gái tôi đang ở trong.
Ông ta cứ lảng vảng ở đó, đôi mắt soi khắp hình dáng cơ thể Astrid, đặc biệt là bộ ngực và cặp giò của cô. Ông ta khá già, ít nhất cũng bốn mươi tuổi, không hấp dẫn, hói đầu với làn da xấu, nhưng cô không thể không đáp lại cái nhìn chằm chằm của ông ta. Dịch chuyển từ hông bên này sang hông bên kia, vén một lọn tóc ra sau tai. Hài hước làm sao cách bạn có thể luôn nhận ra sự chú ý của đàn ông, đặc biệt khi nó được che giấu, và cô nghĩ rằng lão già này muốn nói gì đó với mình, ông ta có một từ ngữ thô tục nào đó muốn nói ra thật to, và một phần trong cô cũng muốn nghe thấy nó.
Một lát sau cô đưa tay lên gõ cửa. Nhanh lên!
Ông ta tiếp tục nhìn cô chằm chằm, không nói lời nào, nhưng đúng lúc này Amor xuất hiện. Em đã làm xong việc em phải làm và có thể cảm thấy sự thay đổi, như một sức ép nhẹ ở phần giữa cơ thể mình. Một cảm giác lạ lùng ở bên trong, xung quanh nơi mà phần còn lại của em được tạo thành.
Xong chưa? Astrid nói, hơi lớn giọng. Giờ đi được chưa? Tao hy vọng chẳng còn chuyện gì quan trọng tao phải bỏ lỡ chỉ vì mày nữa. Cô bỏ đi trước Amor, lắc nhẹ phần hông.
Phòng nghỉ ken đặc người là người, lao xao như một tổ ong. Astrid lao ngay vào trong, trong khi em gái cô dừng lại. Tốt hơn là nên đứng ở ngưỡng cửa thôi. Ngưỡng cửa có vẻ như là nơi tốt nhất để nấn ná, không ở đây không ở đó, không thứ này không thứ kia.
Anton nhìn thấy cô từ bên kia phòng. Anh đã đứng đó được một lúc rồi, quan sát khung cảnh khua tay múa chân đang diễn ra, như ngắm những gì đang diễn ra trong một cái bể cá. Có các họ hàng của tôi, họ gần lẫn họ xa, đến để bày tỏ lòng tôn kính với mẹ tôi. Có cha tôi, người ngoảnh đầu đi khi ông trông thấy tôi, và có đứa em gái bé nhỏ của tôi đứng ở ngưỡng cửa, nhưng điều gì đó ở con bé khang khác. Anh có thể nhận ra nó ngay lập tức.
Em mới đổi kiểu tóc à? Không.
Em thay áo mới à? Không.
Anton lại nhìn khắp người em gái một lượt nữa. Anh biết mình đúng và có thể thấy con bé biết rằng anh biết. Em vặn vẹo người trong sự khó chịu, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra bình tĩnh. Em đã học được cách làm thế, che giấu những gì quan trọng.
Thứ gì đó của em đã thay đổi, anh nói.
Chuyện này là sau đó, bên ngoài căn nhà, trong khi Bố đã bỏ đi tìm Lexington, ông ta đỗ xe đâu dó quanh khu phố. Astrid cũng ở đó, nhưng cô đang nói chuyện với bác Marina, bỏ lại Amor và Anton với nhau. Tất cả những lời chia ly đã nói, các nghi lễ đã xong xuôi, mẹ chúng tôi đã nằm dưới ba thước đất.
Em đã đi đâu thế?
Lúc nào ạ?
Ở đám tang ấy. Em với Astrid. Hai đứa đã bỏ đi đâu thế? Lại vặn vẹo. Đã xảy ra chuyện gì đó. Anh không hiểu, hoặc chỉ hiểu một nửa, hoặc chỉ muốn hiểu một nửa. Tốt hơn là không nên biết! Hoặc nên biết bằng bất kỳ cách nào.
Trong bất kỳ trường hợp nào, cuối cùng thì xe cũng đến, Lexington ngồi sau tay lái, Bố đang nhìn trừng trừng từ bên cạnh ông ta. Ông rướn người sang sốt ruột bấm còi và tất cả bọn họ đều lên xe ngồi vào ghế sau, hai đứa trẻ lớn hơn ngồi hai bên, Amor ngồi giữa, cúi mình về phía trước trên một thảm những hòn than nóng bỏng em đang nắm giữ trong cơ thể mình, và rồi họ đi trong câm lặng, những người còn lại trong gia đình Swart, mỗi người đều mệt mỏi, đau khổ và thấy phức tạp theo cách riêng của mình, quay về với trang trại và nơi mà họ gọi là nhà.
Vào lúc này căn nhà trống rỗng. Nó đã bị bỏ hoang trong vài giờ đồng hồ, nhìn bên ngoài có vẻ như một vật thể đứng trơ trơ nhưng đang có những thay đổi bé xíu, ánh mặt trời đang chiếu xuyên qua các căn phòng, gió khiến những cánh cửa ra vào rung bần bật, mở toang chỗ này, đóng chặt chỗ kia, tạo ra những tiếng bộp, tiếng ken két và tiếng ợ nhỏ, như bất kỳ cơ thể già nua nào khác. Nó có vẻ sống động, một ảo ảnh nói chung với rất nhiều tòa nhà, hoặc có lẽ ở cách mọi người nhìn nhận chúng, đầy tâm trạng và biểu cảm, những ô cửa sổ như những đôi mắt. Nhưng chẳng ai có mặt ở đây mà chứng kiến, chẳng có thứ gì chuyển động, ngoại trừ con chó trên lối xe vào nhà, đang sung sướng liếm láp bộ phận sinh sản của nó.
Ngay cả Salome cũng chẳng thấy đâu, không như mọi khi. Bạn có thể mong chờ được thấy bà ấy tại đám tang, nhưng Bác Marina đã dặn bà ấy bằng những câu úp mở rằng bà ấy sẽ không được phép đến tham dự. Tại sao không? Ôi trời, đừng ngu ngốc thế. Thế nên thay vào đó Salome phải quay về căn nhà của riêng mình, ôi xin lỗi, quay về căn nhà Lombard, và thay sang bộ quần áo đi lễ nhà thờ, mà bà hẳn sẽ mặc đi dự đám tang, một bộ váy tối màu, vá chằng vá đụp, một khăn quàng cổ màu đen và đôi giày còn tốt duy nhất của bà, một cái túi xách và một chiếc mũ, và cứ thế bà ấy ngồi ngay ngoài cửa căn nhà của mình, xin lỗi, căn nhà Lombard, trên chiếc ghế bành cũ kỹ mà lớp vải bọc đã bục ra, và đọc kinh nguyện cầu cho Rachel.
Ôi lạy Chúa, con hy vọng Người có thể nghe thấy con. Là con, Salome đây. Làm ơn hãy đón chào bà chủ ở nơi Người hằng ở và hãy quan tâm, chăm sóc bà ấy thật cẩn thận, vì con ước mong ngày nào đó được gặp lại bà ấy trên Thiên đường. Con đã quen biết bà ấy từ rất lâu rồi, thậm chí từ trước khi bà ấy trở thành bà chủ, từ khi cả bà ấy và con hẵng còn là những thiếu nữ, và suốt những ngày qua đôi khi chúng con như thể chỉ là một người. Con chắc chắn Người hiểu bởi vì chính Người đã mang nỗi đau to lớn này đến với bà ấy, để con có thể chăm sóc cho bà ấy. Vì điều đó nên bà ấy đã hứa tặng lại căn nhà này cho con và vì thế con xin đội ơn Người. Amen.
Có lẽ bà ấy không cầu nguyện bằng những lời này, hoặc bằng bất kỳ lời nào khác, nhiều lời cầu nguyện được thốt ra mà không cần ngôn ngữ và chúng bay lên như tất cả những phần còn lại. Hoặc có lẽ bà ấy nguyện cầu cho những điều khác, vì những lời nguyện cầu đến cuối cùng vẫn là bí mật, và không phải lời nguyện cầu nào cũng chỉ dành cho cùng một vị Chúa. Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, sau một khoảng thời gian trôi qua, mà điều này chắc chắn đúng, hãy xem cái bóng của tổ kiến đã di chuyển như thế nào, vì mặt trời không còn nằm ở góc cao nhất nữa, bà ấy đứng dậy chậm rãi và cứng nhắc khỏi cái ghế và quay vào trong nhà. Khi bà ấy trở ra, sau một quãng thời gian không đo đếm được khác, bà ấy lại mặc bộ quần áo thường ngày, bộ váy rách rưới và đôi dép tông, một miếng vải buộc túm trên đầu, và bà lại bắt đầu đi trên con đường mòn xung quanh quả đồi nhỏ.
Đó có thể là bất kỳ ngày nào. Bà ấy bước đi trên con đường này mỗi sáng rồi quay về khi trời tối, và thường là có thêm vài lần giữa hai thời điểm đó. Bất kể sáng tối bất kể nắng mưa. Rất khó để nói rằng chuyến đi lần này khác với chuyến đi lần trước. Khi bước tới cửa sau bà ấy bỏ lại đôi dép tông ở bên ngoài rồi đi tiếp bằng chân trần. Đồng phục của bà ấy treo trong phòng bếp, cái váy màu xanh lam và trắng cùng cái tạp dề cũng màu trắng, và bà ấy được phép sử dụng phòng tắm hai phút để thay đồ. Sau đó treo quần áo của mình lên ở nơi khuất tầm nhìn, một góc nào đó quanh phòng bếp.
Chỉ bây giờ bà ấy mới có thể đi vào sâu hơn, vào những phần xa hơn của căn nhà. Gia đình đã quay về, hoặc có thể họ chưa bao giờ rời đi, họ tỏa ra bầu không khí của sự ăn sâu bén rễ, của sự chôn vùi.
Có thể cho rằng họ đang ngồi xung quanh bàn trong phòng ăn. Hoặc đang đứng ở các góc khác nhau trong phòng nghỉ. Hoặc trên hiên trước nhà, một nhóm trên lối xe vào nhà và một nhóm khác ở vị trí chỉ huy phía trên. Chẳng quan trọng. Màn đối thoại sau đó diễn ra giữa Manie và đứa con trai cả của ông ta, ở đâu đó.
Bố đã suy nghĩ về những lời con nói tối qua, ông nói, và bố rất tức giận.
Vào những lúc như thế này ông thích mô phỏng giọng điệu của Chúa trong Kinh Cựu Ước, và do đó ông hy vọng con trai ông sẽ nghe lời mình.
Vâng?
Không phải vì cá nhân bố, mà vì những người khác. Chuyện con thô lỗ với bố chẳng phải điều gì mới mẻ. Bố có thể đoán trước được. Nhưng cách con nói chuyện với vị giáo sĩ! Một con người thiêng liêng, một nhà thuyết giáo.
Anton khịt khịt mũi rồi cười khẩy. Một tên ngốc và là kẻ bịp bợm.
Đủ rồi! Sự bất kính ấy chấm dứt từ hôm nay. Giờ thì nghe tao cho kỹ đây. Nếu mày không xin lỗi ông ấy, mày sẽ phải rời khỏi cái gia đình này. Tao sẽ không bao giờ nói chuyện với mày nữa.
Vì Manie đã nghiền ngẫm về các sự kiện của buổi tối hôm trước, như con gà mái ấp ủ một quả trứng đen khổng lồ. Mày đã xúc phạm cuộc hôn nhân và tín ngưỡng của tao, và giờ mày sẽ phải trả giá.
Bố phải biết rằng con không bao giờ có thể làm thế.
Không thể giúp mày được. Từ mày cho đến cái lương tâm của mày.
Con sẽ không nói xin lỗi người đàn ông đó. Vì cái gì chứ? Con chỉ nói sự thật thôi.
Sự thật? Manie lại bùng lên cơn giận mới, thậm chí những sợi lông cứng trên cằm ông cũng nhô ra ngoài như những mũi giáo nhỏ. Về vợ tao à? Về những lời hứa tao không nói à? Hãy chọn phe đi, lựa chọn là của mày. Nhưng nếu bản thân mày không khiêm nhường, hãy cút ra đồng hoang mà sống đi.
Chỉ khi bố của họ đi rồi, đi ra một cách ồn ào và chính đáng, thì đứa em gái của anh mới xuất hiện, ló mặt ra từ phía sau một chậu cây như nhân vật trong một vở hài kịch. Anton, anh Anton. Em đã nghe những gì ông ấy nói.
Chuyện gì, Amor?
Anh cáu kỉnh đáp, vì con bé đang làm hỏng những gì có thể được coi là một khoảnh khắc quan trọng và rõ ràng đối với anh. Để bị loại khỏi cái gia đình này, để được thoát khỏi tất cả những chuyện này!
Em đã nghe thấy Bố nói với anh những gì và điều đó không đúng.
Cái gì không đúng?
Bố đã hứa. Em có nghe thấy. Ông ấy đã hứa với Mẹ là sẽ tặng căn nhà cho Salome.
Gương mặt bé nhỏ của em bừng sáng từ bên trong nhờ sự chắc chắn ấy.
Amor, anh nhẹ nhàng nói. Vâng?
Salome không thể sở hữu căn nhà được. Ngay cả nếu Bố có muốn, Bố cũng không thể tặng nó cho bà ấy.
Tại sao không? Em nói, với vẻ bối rối. Bởi vì, anh nói. Như thế là trái luật. Luật ư? Tại sao?
Em không nghiêm túc gì cả. Nhưng rồi anh nhìn em và hiểu em đang nghiêm túc thế nào. Ôi trời ạ, anh nói. Em không biết mình đang sống trong một đất nước như thế nào à?
Không, em không biết. Amor mới mười ba tuổi, lịch sử vẫn là điều gì đó xa lạ với em. Em không biết cái quốc gia mà em đang sống là gì. Em đã chứng kiến người da đen chạy trốn khỏi cảnh sát vì họ không mang theo những cuốn sổ tiết kiệm và nghe người lớn nói chuyện bằng giọng thấp, gấp gáp về các cuộc nổi loạn tại nhiều thị trấn và chỉ vừa mới tuần trước tại trường họ đã phải học bài diễn tập trốn dưới gầm bàn trong trường hợp bị tấn công, dẫu vậy em vẫn không biết cái đất nước mình đang sống là cái gì. Có Tình Trạng Khẩn Cấp và người dân bị bắt bớ và giam giữ mà không cần xét xử và có những tin đồn dấy lên khắp nơi nhưng không có bằng chứng xác thực vì chúng bị xóa sạch trên các bảng tin, chỉ còn những câu chuyện hạnh phúc, không có thật mới được đăng lên, nhưng em hầu như tin vào những câu chuyện ấy. Em đã thấy mái đầu anh trai mình chảy máu ngày hôm qua vì một viên đá, nhưng dù thế, thậm chí cho đến bây giờ, em vẫn không biết kẻ nào đã ném đá và tại sao. Đổ lỗi cho tia sét. Em đã luôn là đứa trẻ chậm chạp.
Tuy nhiên, còn một chuyện khiến em lo âu.
Nhưng tại sao? Em nói. Tại sao anh đòi Bố phải tặng căn nhà cho Salome nếu anh biết ông không thể làm thế?
Anh nhún vai. Bởi vì, anh nói. Anh thấy thích thế.
Và đúng lúc này, theo một cách nhỏ nhoi nhất, thậm chí ngay đến chính em còn không biết, nhưng em bắt đầu hiểu cái đất nước em đang sống này là gì.
Ngày hôm sau em gói ghém đồ đạc, mang va li quay lại ký túc xá. Chỉ vài tháng nữa thôi, Bố nói với em khi em cố gắng phản đối. Cho đến khi mọi chuyện lắng xuống. Em hiểu tốt hơn hết không nên tranh luận, từ giọng của ông em có thể hiểu tranh cãi là vô ích. Kể cả cho dù ông đã hứa, và một tín đồ đạo Cơ đốc không bao giờ làm trái lời nói của mình, những nhu cầu của em chỉ là một điều nhỏ nhoi, em thì chẳng là gì. Thế nên Lexington lái xe đưa em đến trường rồi thả em xuống cạnh hồ cá, em phải chậm rãi đi lên cầu thang hẹp dẫn tới ký túc xá, với những sàn nhà bằng vải sơn lót lạnh buốt, giường ngủ thì xếp hàng theo quy tắc cứng nhắc, giống hệt nhau, giường của em nằm trong góc, không thay đổi.
Anh trai em rời nhà vào sáng hôm sau, hoặc vào sáng hôm sau nữa, tất cả đều đi vào sáng sớm trong ngày xuân. Anh mang theo cái túi quân sự cùng khẩu súng trường và mặc bộ quân phục, đã được Salome là ủi, cho dù chính tay anh đánh bóng đôi giày. Chẳng ai có mặt để tiễn anh đi. Astrid thì ngủ còn Bố đã tới khu bảo tồn thằn lằn để làm việc. Lexington lái chiếc Triumph tới tận các bậc thềm mặt tiền rồi Anton chất hành lý vào cốp xe. Mang theo khẩu súng trường, để tạo vẻ ngoài, để đề phòng.
Tạm biệt, ngôi nhà. Tạm biệt, Bố, cho dù bố sẽ không trả lời. Bình minh đang đỏ ửng dần lên như một vết thương khi xe họ lao xuống con đường mòn. Anton xuống xe mở cổng rồi đóng cổng lại và sau đó họ rời đi, bỏ đi xa khỏi thành phố này, trên những nẻo đường cô độc.
Có một điểm, một chốt gác của quân đội gần Johannesburg, từ đây anh có thể đi con đường của mình. Thêm hai lính cảnh vệ nữa đã ở sẵn đó, chờ đón người để đưa đi. Anh lấy túi quân sự ra khỏi cốp xe rồi rướn người qua cửa kính xe ghế hành khách. Chào nhé, Alex, quay về xe đi. Tạm biệt, cậu Anton. Hẹn gặp lại cậu sau.
Gần trưa, anh về tới doanh trại quân đội nơi anh đóng quân. Chuyến xe đi nhờ cuối cùng thả anh cách đó nửa cây số và anh phải đi bộ trên con phố dài ở ngoại ô tới cổng trước. Đi qua một hàng rào cao có chăng dây thép gai anh có thể trông thấy hình dáng những chiếc lều và các căn nhà gỗ một tầng đúc sẵn, từng hàng từng hàng, các thanh niên khác như anh đang di chuyển giữa chúng, giặt giũ quần áo, hút thuốc và tán chuyện.
Một trong những cái bóng ấy tự tách ra, rồi tiến tới chỗ hàng rào.
Này, anh ta gọi. Cậu đấy à!
Anton chỉ mất một giây để nhớ ra. Tối muộn, những cái bóng trên mặt đường nhựa. Payne! Tớ đã bảo cậu là bọn mình sẽ gặp lại nhau mà.
Cậu đã ở đâu thế?
Về nhà, dự đám tang mẹ tớ. Vẫn còn đùa về chuyện đó à?
Vì Payne nghĩ đến cuộc chạm trán kỳ quái vài tối trước, khi anh ta đang có ca gác, và khẳng định rằng vị khách của anh ta không nghiêm chỉnh. Dưới ánh sáng của ban ngày, ngăn cách giữa họ là cái hàng rào, vị khách hiện rõ là một thanh niên bình thường, có khi là tầm thường. Chắc chắn chả việc gì phải sợ.
Anton một tay bám vào hàng rào, liếc nhìn theo chiều dài của nó tới cánh cổng trước và hai lính gác anh có thể nhận ra. Vào đúng lúc này rõ ràng là anh không thể quay vào trong qua cánh cổng đó nữa, không thể tham gia lại vào khung cảnh bên trong. Không thể làm thế. Và anh không thể nói là tại sao. Có một số chuyện vừa xảy ra, đó là tất cả những gì anh ấy có thể nói với bạn, nếu anh được hỏi. Một vài chuyện vừa xảy ra với tôi.
Cậu là chứng nhân của một khoảnh khắc tuyệt vời, anh nói với Payne.
Hả?
Cậu đang chứng kiến cuộc đời tớ rẽ ngoặt từ lối này sang lối kia. Cậu đang chứng kiến sự một thay đổi to lớn diễn ra.
Chuyện gì thế?
Chữ Không to đùng. Phải đi mất bao nhiêu là thời gian để tới được đây, nhưng với tớ thế là quá đủ. Cuối cùng tớ từ chối.
Từ chối cái gì?
Tất cả. Tớ đang nói là, đến đây thôi, không đi thêm nữa. Không, không, không! Anh nghĩ về chuyện đó rồi nói thêm, Tất nhiên là cậu có thể đi cùng tớ.
Đi cùng cậu tới đâu cơ? Tớ còn chẳng biết cậu. Chuyện đó sẽ sớm thay đổi thôi.
Cậu điên rồi, Payne nói, phá lên cười. Thằng cha này đúng là thích đùa. Đầu tiên cậu ta giết chết mẹ mình, tiếp theo cậu ta vắng mặt không xin phép vào lúc cậu ta quay về trại! Ha ha ha! Cậu ta biết chắc chắn anh chàng Swart sẽ tiếp tục bước tới cánh cổng như bất kỳ người nào khác và họ sẽ đụng phải nhau vào một lúc nào đó sau này, có khả năng là trong đống hỗn loạn.
Nhưng đó không phải là việc anh làm. Này! Cậu sẽ đi đâu thế?
Quay về hướng mà anh ta vừa đến, rõ ràng. Payne phải chạy dọc hàng rào để bắt kịp.
Cậu đúng là thằng thích đùa. Họ sẽ bắt được cậu. Họ sẽ tống cậu vào trại cải tạo! Này! Có chuyện gì vậy! Chuyện này không vui đâu. Cậu không sao chứ? Chờ đã. Đừng làm thế này. Chẳng nhẽ cậu không biết đang có chiến tranh à? Cậu không quan tâm tới đất nước của mình hay sao?
Anton không trả lời vì anh không hề lắng nghe. Anh bị đẩy từ phía sau, như thể bằng một bàn tay khổng lồ, bởi một tham vọng đơn giản, mù quáng, tham vọng được bỏ trốn.
Trong nỗ lực này, bộ quân phục vừa là sự nguy hiểm vừa là sự giúp đỡ tuyệt vời. Bắt xe đi nhờ quá dễ dàng nếu bạn đang trong quân ngũ, nhưng bạn cũng trở thành mục tiêu của cảnh sát quân sự, những người sẽ muốn kiểm tra giấy tờ của bạn. Tốt nhất nên thay đồ thật sớm, và vài tiếng sau, tại một cửa hàng phục vụ 24/24h gần đường cao tốc về phía nam, anh mua một cái mũ lưỡi trai để che đầu. Nam Phi Ngập Nắng, đó là dòng chữ trên mũ. Trông anh thật ngu ngốc, nhưng chắc chắn nó sẽ che đi mái tóc và một chút những vết khâu trên trán. Trong nhà vệ sinh của một nhà hàng Wimpy bên cạnh, anh thay sang đồ thường phục, quần jeans áo thun và đôi giày Jersey bình thường. Ngắm nhìn mình trong gương, anh nghĩ mình trông cũng chấp nhận được, một thanh niên đang trên đường đi đâu đó.
Nam Phi Ngập Nắng. Anh bỗng nảy ra một ý tưởng. Lóe lên trong những suy nghĩ của anh kể từ lúc bước ra khỏi trại lính sáng hôm nay là hình ảnh của một bờ biển trắng nguyên sơ, những con bò đang đứng xung quanh trên cát trắng, nhai và rống lên. Không gian nền là các vách núi mù sương nhô lên cao hơn cả tấm thảm cây xanh ngắt. Không một nơi nào trên thế giới này mà anh chưa từng tới, nhưng có một lần anh nghe mấy anh chàng lớn tuổi hơn ở trường nói chuyện về Transkei, về chuyện sống thô sơ trong rừng, bắt cá, lướt sóng và hút cần, anh cho rằng mình có thể sống như thế một thời gian. Anh gần như không có tiền, không có kế hoạch và chẳng quen biết một ai, nhưng tất cả những điều đó là một phần khiến anh bị thu hút và tin rằng đó sẽ là một nơi để anh có thể biến mất nếu anh thực sự thích.
Trước hết, Anton, cậu phải tới được đó! Giờ thì muộn rồi, gần nửa đêm rồi, trên đường không còn nhiều xe nữa. Xa những ánh đèn thành phố, bóng tối chiếm thế thượng phong, mang đến sự trống rỗng và đe dọa đến nghẹt thở. Phía sau nhà để xe kế bên là một cánh đồng lầy lội, một con mương đầy cỏ dại chạy dọc theo bờ. Anh ném khẩu súng trường xuống con mương, tiếp theo là cái túi đựng bộ quân phục bên trong. Anh chỉ giữ lại mấy cái áo sơ mi và quần dài, những thứ anh mang theo mình, anh nhét vào trong một cái túi nhựa. Việc mình vừa làm là một tội ác, anh nghĩ, thế nhưng anh lại cảm thấy nhẹ tênh.
Anh dằn xuống cơn sợ hãi thoáng chốc, cảm thấy thế giới này mới rộng lớn làm sao, rồi chậm chạp lê bước tới một điểm thích hợp nằm gần con đường tắt vào đường cao tốc. Anh bước vào quầng sáng đèn huỳnh quang sáng rực, ngón tay cái giơ lên đầy hy vọng. Phải có niềm tin! Có thể sẽ phải mất một thời gian, nhưng chỉ là sớm muộn thôi, nếu bạn không ngừng cố gắng, ai đó sẽ dừng lại vì bạn.