• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Lời nguyền của người cá
  3. Trang 56

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 55
  • 56
  • 57
  • More pages
  • 69
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 55
  • 56
  • 57
  • More pages
  • 69
  • Sau

Chương 53

B

ên ngoài, mặt trời tỏa sáng rạng rỡ trong ngày cuối cùng của tháng chín tươi đẹp. Sebastian có thể nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa, í ới gọi nhau khi anh đi vào thư viện và đặt cuốn hải trình đã mất từ lâu của tàu Harmony lên bàn làm việc. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, anh chợt thấy mình do dự. Rồi anh mở cuốn sổ bìa bằng da đã cháy thành than ra và bước trở lại một quãng thời gian đen tối, khủng khiếp.

Những tuần đầu tiên trong hành trình rời Ấn Độ đã tràn ngập sự kiện và anh lướt qua rất nhanh. Một số thuyền trưởng viết những cuốn nhật ký hải trình rất chi tiết và khá lan man. Nhưng Bellamy không như vậy. Những ghi chép của ông đều ngắn gọn, súc tích và không nhiều kiên nhẫn - chúng đều là những dòng chữ được viết vội vàng từ bàn tay người đàn ông giữ cuốn nhật ký chỉ để làm hài lòng chủ tàu hơn chính bản thân ông ta. Thuyền trưởng Bellamy chỉ liệt kê vắn tắt tên hành khách, nhân viên và thủy thủ đoàn. Sebastian lướt qua những cái tên, nhưng không có bất ngờ nào. Có hai mươi mốt thành viên thủy thủ đoàn. Ở đó, gần cuối danh sách, Sebastian nhận thấy tên Jack Parker nhưng anh không nhận ra ai khác nữa.

Anh giở lướt qua các ngày tháng, thời gian nghỉ khá lâu tại Cape Town, việc khởi hành thuận lợi khi họ hướng tới bờ biển phía tây châu Phi. Và rồi, vào ngày mồng năm tháng ba, Bellamy viết:

2 giờ sáng: Bão mạnh, biển sóng lớn. Cuốn buồm lại và kéo lên.

6 giờ sáng: Bão mạnh tiếp tục đến theo hướng Tây - Tây Nam. Làm bay mất cột buồm cao và đỉnh cột buồm phía lái.

3 giờ chiều: Biển động rất mạnh, cuốn đi xuồng cứu hộ và hai thành viên thủy thủ đoàn.

Chỉ có một ghi chép nguệch ngoạc cho ngày hôm sau, mồng sáu tháng ba.

10 giờ sáng: Cơn bão vẫn tiếp diễn. Không biết vị trí trên biển. Việc ước lượng khoảng cách trong cơn bão là bất khả thi.

Hai ngày sau, Bellamy viết:

Ngày 8 tháng Ba 7 giờ chiều: Biển động mạnh, cuốn trôi chiếc xuồng dài, tay bánh lái. Đã tháo đuôi lái. Cậu giúp việc, Gideon, bị gãy tay. Thiếu niên can trường.

Mọi việc diễn biến theo chiều hướng xấu, vào ngày chín tháng ba, càng trở nên tệ hơn.

11 giờ sáng: Bơm hút không đủ sức ngăn nước dâng lên. Thủy thủ đoàn tỏ ra ngang bướng. Các kiện hàng bị vứt xuống biển, nhưng tàu vẫn nằm sâu trong nước và nghiêng hẳn sang mạn phải.

2 giờ chiều: Tàu đột nhiên không tròng trành nữa dù đã ngập đầy nước. Biển động dữ dội khiến mọi thứ trên đó đảo lộn hết. Chúng tôi hoàn toàn mất phương hướng.

5 giờ chiều: Bão yếu dần, chuyển thành những trận gió mạnh. Dồn thời gian và công sức để cứu số lượng thực phẩm có thể bằng cách lùng sục mũi trái. Cứu được gần 10kg bánh mì, gần 5kg pho mát, một ít rượu rum và bột mì, trữ trong đài cột buồm chính.

Ngày 10/3, 6 giờ sáng: Issac Potter trượt chân xuống khoang tàu và bị chết đuối trước khi chúng tôi có thể kéo cậu ấy ra. Gửi gắm thân thể cậu ấy về với lòng biển sâu.

10 giờ sáng: Thủy thủ đoàn vẫn ngang bướng. Rõ ràng nếu chúng tôi không sớm tìm được một con tàu, Harmony chắc chắn phải bị bỏ lại. Tuy nhiên, khi không có xuồng hoặc thuyền dài, không thể cứu tất cả mọi người.

Ngày 11/3, 2 giờ chiều: Thủy thủ đoàn nổi dậy, rời bỏ tàu, đem theo phần lớn lương thực còn lại và nước. Nhân viên và hành khách bị bỏ lại trên tàu. Chúa cứu rỗi linh hồn chúng tôi.

Ngày 13/3, 5 giờ chiều: Đuôi tàu bị thủng. Tôi không biết chúng tôi vẫn nổi bằng cách nào. Dựng lều từ chỗ buồm dự trữ trong trên boong ở mũi tàu. Có thể cứu được một ít gạo và bột mì nhiều hơn chút từ phía dưới. Chia nhau nửa gin20nước mỗi ngày, nhưng ngay cả với lượng nước chia nhỏ như vậy, vẫn không trụ được lâu.

20 1 gill (gin) = 0,141 lít.

Ngày 14/3, 7 giờ sáng: Bắt được một con cá mập nhỏ bằng gút thắt dây thừng. Ngài Humphrey chế tạo từ một ấm trà, một chiếc vòi dài và một tấm vải buồm thành một dạng thiết bị chưng cất. Nhưng nó chỉ cung cấp một ly nước mỗi ngày, không đủ để duy trì sự sống. Gideon có dấu hiệu sốt.

Ngày 16/3, 10 giờ sáng: Ngài Humphrey vừa cải tiến quy trình chưng cất. Giờ chúng tôi có được gần hai ly nước mỗi ngày. Thu lượm hà từ hai bên mạn tàu và ăn sống, nhưng cũng không duy trì được lâu.

Ngày 23/3: Cơn đói hành hạ dữ dội hơn. Gideon vẫn kiên cường bám trụ, dù tôi không biết cậu ấy làm thế nào. Không được ăn uống tử tế đã bảy ngày.

Ngày 24/3, 2 giờ sáng: Nhìn thấy một con tàu theo hướng gió. Làm đủ mọi cách ra dấu cầu cứu, nhưng con tàu lạ cứ thế đi khuất.

Ngày 25/3, 7 giờ sáng: Tôi không thích những tiếng thì thầm của hành khách. Họ đang chờ đợi cái chết của cậu giúp việc Gideon, với ý định mở tiệc trên thi thể cậu ấy. Nhưng cậu bé vẫn chưa chết và giờ người ta bàn chuyện giết cậu.

5 giờ sáng: Một ngày đen tối với tất cả chúng tôi. Trước sự phản đối của tôi và David Jarvis, những hành khách và nhân viên tàu đều nhất trí đẩy nhanh cái chết của Gideon. Jarvis tìm cách bảo vệ cậu bé, nhưng những người khác lao về phía anh ấy và trong cuộc cãi vã, một lưỡi gươm ngắn thọc vào bên sườn Jarvis. Tôi đã thoáng nghĩ rằng Gideon sẽ được cứu vì bọn họ sẽ biến Jarvis thành bữa ăn. Nhưng, mặc dù bị thương, chàng trai trẻ đáp trả rất kiên cường và bọn họ lại trở về với lựa chọn là Gideon.

Đức cha Thornton thực hiện những nghi lễ cuối cùng trong khi Nam tước Stanton ghì chặt Gideon xuống và Ngài Humphrey Carmichael chấm dứt mạng sống của cậu để kéo dài mạng sống cho những người trên tàu. Ngay cả những người như ông Fairfax và bà Dunlop, vốn phản đối việc giết cậu bé, cũng đã nhập cuộc một khi chuyện nhẫn tâm đó đã xong. Chỉ có David Jarvis, mặc dù bị thương, vẫn từ chối tham gia bữa tiệc. “Tại sao tôi lại trao linh hồn mình cho quỷ dữ,” cậu ấy nói với mấy người kia, “chỉ để sống thêm một hay hai ngày nữa? Tôi biết rõ các người sẽ biến chất thành kẻ thế nào một khi đối xử tàn nhẫn đến vậy với cậu bé tội nghiệp này.” Bản thân tôi nhận ra tôi không có lòng dạ nào làm như vậy với cậu bé tội nghiệp kia. Nhưng cuối cùng, xin Chúa cứu rỗi, tôi cũng đã làm giống họ.

Chỉ có David Jarvis, mặc dù bị thương, vẫn từ chối tham gia bữa tiệc. “Tại sao tôi lại trao linh hồn mình cho quỷ dữ,” cậu ấy nói với mấy người kia, “chỉ để sống thêm một hay hai ngày nữa? Tôi biết rõ các người sẽ biến chất thành kẻ thế nào một khi đã chén sạch xương cốt cậu bé tội nghiệp này.”

Bản thân tôi nhận ra tôi không có lòng dạ nào mà ăn thịt cậu bé tội nghiệp kia. Nhưng khi họ chuyển cho tôi một cốc máu của cậu ấy, xin Chúa cứu rỗi, tôi đã uống cạn.

Đẩy ghế đứng lên, Sebastian rót cho mình một ly rượu mạnh. Nhưng vị rượu đắng ngắt trên lưỡi, anh để nó sang một bên.

Qua khung cửa sổ trông ra phố, Sebastian nhìn xuống chiếc xe ngựa của một quý cô đang lao rất nhanh trên đường. Một cậu bé chạy đuổi theo chiếc vòng lăn trên hè phố, ngước nhìn lên và hét điều gì đó, ánh mặt trời vàng rực dịu dàng ôm ấp mái tóc màu mật óng và đôi má bầu bĩnh của cậu.

Thật dễ dàng để kết tội những hành khách và nhân viên trên tàu Harmony, Sebastian nhận ra, dễ dàng để ngồi trong sự an toàn, thoải mái và tự trấn an bản thân về lòng can đảm và lý tưởng làm việc thiện, việc nghĩa bất chấp mọi hoàn cảnh. Nhưng không ai có thể thực sự biết mình sẽ hành động ra sao cho tới khi phải đối mặt với một lựa chọn khốc liệt như vậy: kiên định với niềm tin đó của mình và đón nhận cái chết, hoặc giết người và được sống?

Lại nhấc ly rượu lên, Sebastian uống cạn. Rồi anh trở lại ghế ngồi và tiếp tục đọc.

Ngày 26/3, 8 giờ sáng: Tàu khu trục của Anh nhấp nhô trong tầm mắt. Kéo cờ hiệu xuống và chiếc tàu đã theo hướng gió đi về phía chúng tôi. Phần còn lại của xác cậu giúp việc bị ném xuống biển. Jarvis vẫn còn sống nhưng cậu ấy đang mất dần ý thức khi tàu Sovereign xuất hiện và tôi nghi ngờ việc cậu ấy có thể sống để thấy một bình minh nữa.

Chỉ còn một dòng cuối cùng, viết bằng những con chữ nghuệch ngoạc, run rẩy, sau đó chẳng còn gì.

10 giờ sáng: Gửi gắm thân thể cậu ấy về với lòng biển sâu.