Buổi chiều tàn thu Mậu Ngọ (538) se lạnh, mây trắng vẩn nền trời xanh, gió quẩn từng cơn lay cành lá. Đàn chim hình mũi tên nối đuôi bay ngang trời, hướng về phương Nam. Chim rời nơi giá lạnh tìm đến miền ấm áp. Loài chim sống lang bạt, phóng túng mà vẫn tìm về chốn cũ yên bình.
Chim có tổ, người có nhà, bậc hào kiệt có đất nước!
Hào trưởng Lý Bôn ngồi trên chõng tre kê dưới sân trước hè ngôi nhà năm gian, chân chống chân thõng xuống đất. ấm chè tươi hãm và cơi trầu đặt giữa chõng. Ông ngẩng mặt nhìn lên dõi theo đàn chim, dáng vẻ suy tư... Ông lo toan và chờ đợi.
Ông suy nghĩ về cơ trời vận nước và càng thêm nung nấu khát vọng: Chí kẻ trượng phu đặt ở bốn phương, con hổ chết để da, con người thác lưu lại tiếng thơm. Vì gốc đa giếng nước của tiền nhân kẻ nam nhi dám làm mọi chuyện.
Giao Châu bị phong kiến phương Bắc đô hộ từ năm Canh Ngọ (năm 11 trước Công nguyên) đến nay đã hơn năm trăm năm. Hơn năm trăm năm người Giao Châu không được làm chủ đất Giao Châu; biết bao cảnh sống cơ cực, tủi nhục diễn ra trong chuỗi thời gian u ám ấy? Những cuộc nổi dậy của các bậc tiền bối hào kiệt: Hai Bà Trưng, Chu Đạt, Lương Long, Bà Triệu... tuy chỉ khuấy động một thời, nhưng là những đốm than hồng rực rỡ, âm ỉ duy trì sức sống phản kháng trong tâm hồn các thế hệ người Giao Châu.
Có đất nước mà không được làm chủ là điều sỉ nhục, có mạng sống mà không biết bảo tồn là hạng đớn hèn!
Hào trưởng Bôn với tay nhấc ấm nước, rót đầy thứ nước vàng ánh xanh vào chiếc bát sành màu da lươn, nhưng chỉ uống một ngụm nhỏ; ông muốn thưởng thức mùi vị thơm nồng nàn tiết ra từ loài thảo mộc chuyên cần hút nhựa sống trên mảnh đất quê hương, ông muốn nuôi cảm xúc về tình yêu quê hương mà tổ tiên đã tạo dựng, về niềm tin vào ý chí phục quốc của con em Châu Giao.
Còn rừng thì lo gì không có củi đốt lò, có bầu nhiệt huyết vì đất nước thì thiếu gì cơ hội thể hiện. Bấy nay, Hào trưởng Lý Bôn và người anh trai họ là Lý Thiên Bảo vẫn trù tính triển khai kế hoạch phục quốc, chỉ còn chờ cơ hội.
Bỗng vang lên tiếng hắng giọng khá to ngoài ngõ.
Hào trưởng Bôn nhận biết giọng anh trai. Lòng ông rộn niềm vui, vậy là Thiên Bảo đi Long Biên khảo sát tình hình đã về. Nhìn quanh không thấy gia nhân nào, ông đứng dậy, thủng thẳng bước ra cổng, cúi mình nâng đòn chống khỏi cọc chốt, đẩy phên cánh cửa ken sít bằng cành tre gai, hé mở đủ lối cho Thiên Bảo lách người vào trong.
Hào trưởng Bôn vừa chăm chú nhìn người anh trai tháo vát, vừa từ từ hạ đòn chống phên cửa, tra vào cọc chốt.
Một lúc sau, hai anh em họ Lý đã ngồi xếp bằng tròn trên chõng tre, giữa họ là bộ ấm bát và cơi trầu.
Không đợi mời, Thiên Bảo cầm ấm nước rót thêm vào bát nước của Lý Bôn dù nó vẫn đầy rồi mới rót nước vào bát của mình.
Hào trưởng không lên tiếng nhưng ánh mắt ông nhìn anh trai chứa đựng nhiều câu hỏi khẩn thiết cần được giải đáp ngay. Ông đang rất mong đợi những tin tức do người anh thông minh và những chiến hữu tháo vát của anh ta thu thập được.
Thiên Bảo nâng bát nhấp một ngụm nước, chép chép môi; nhấp một ngụm nữa, chép chép môi; lại nhấp tiếp một ngụm nữa, khà một tiếng khoan khoái rồi uống một hơi cạn cả bát.
Thấy anh đang thú vị, Hào trưởng Bôn rất muốn biết tin tức, nhưng đoán Thiên Bảo vừa trải qua một đợt đi xa gian khó cần được nghỉ xả hơi, nên sốt sắng cầm ấm rót tiếp nước vào bát, vừa cười bảo:
- Huynh vất vả quá!
Thiên Bảo không uống nữa, cũng không hưởng ứng lời khen khéo của người em hào kiệt, chuyện cần không thể lần chần:
- Đúng như chú suy nghĩ, tình hình phương Bắc vẫn rối loạn, hiện đang hình thành thế tranh giành cát cứ của các thế lực Bắc triều và Nam triều; Bắc triều và Nam triều lại nảy nòi nhiều hoàng thân quốc thích mưu toan khôi phục lại triều đại cũ: Ngụy, Tề, Chu, Tùy... đủ mặt anh tài lập mưu đua sức nhằm tàn sát, thôn tính lẫn nhau... Tiêu Diễn diệt nhà Tề lập nhà Lương, nội bộ chưa ổn định. Thứ sử Tiêu Tư tuy là một tên đao phủ đối với dân lành nhưng lại là tên quan tham nhu nhược bất tài...
Hào trưởng Bôn ngắt lời, nhưng cũng là gợi ý anh đề cập tới vấn đề thiết thực hơn:
- Một nhân tố có thể lợi dụng, nhưng đó vẫn là cái lợi xa?
Thiên Bảo, cầm bát nước nhấp một ngụm, vừa đặt cẩn thận bát xuống chõng vừa nói:
- Thứ sử Tiêu Tư lâm bệnh trọng đã ba tháng nay, huynh dò hỏi đại phu chuyên lo thuốc thang cho Thứ sử thì biết bệnh Tiêu Tư nguy kịch, mạng sống có thể tính bằng giờ.
Hào trưởng Bôn đấm mạnh tay xuống đùi, nhìn anh bằng ánh mắt biết ơn. Thứ sử chết thì lũ bộ thuộc hắn mang từ phương Bắc sang như rắn không đầu. Một cơ hội trời cho. Ông hỏi anh:
- Khả năng ứng viện của triều đình Lương thế nào?
Thiên Bảo xua xua tay ra ý bảo không cần quan tâm.
- Nhà Lương đang bị Nam triều uy hiếp, quyền bính lại nằm trong tay bọn cường thần đã có tên nhòm ngó ngai vàng, khi biết mất Giao Châu chúng phái quân ứng viện thì ta có thể dùng lý lẽ để bảo vệ thành quả.
Hào trưởng Bôn đã có chủ ý tận dụng cơ hội, nhưng ông muốn tham khảo ý kiến người anh trai tài trí để hoàn thiện ý định khởi sự:
- Chúng ta hành động thế nào thì phù hợp với tình thế?
Thiên Bảo đáp:
- Quân không có tướng giỏi chỉ huy đã là một cơ nguy, quân không tướng thì chẳng khác gì hổ không đầu. Chúng ta khởi sự vào dịp Châu Giao chưa có Thứ sử.
Hào trưởng Lý Bôn mỉm cười hoan hỉ. Ông và anh trai đã lựa chọn phương án khởi sự giống nhau. Nhưng giải pháp dẫu hay mà không kín kẽ cũng dễ xảy ra sơ suất. Ông hỏi:
- Anh dự định đối phó với hai ngàn quân túc vệ dưới quyền Đô thống Mã Tam Liễu thế nào?
Thiên Bảo biết Lý Bôn đặc biệt quan tâm tới Mã Tam Liễu là có cớ. Mã Tam Liễu là viên tướng võ nghệ cao cường, sức mạnh hơn hổ. Đúng là không thể coi thường viên võ tướng ấy. Nhưng vỏ quýt dày có móng tay nhọn, núi ấy cao còn có núi khác cao hơn. Ông tiếp tục bộc lộ dòng suy tư của mình:
- Ngày lễ Phát dẫn(1) tướng sĩ, quan lại đi đưa đám nên không mang theo vũ khí. Chúng ta khởi sự vào thời điểm ấy thì mạnh như sấm gầm chớp thét, Lã Vọng hay Tôn Vũ tái sinh cũng không xoay chuyển nổi tình thế.
(1) Rước quan tài đi chôn.
Hào trưởng Bôn im lặng ngẫm nghĩ. Ông cảm thấy một cái gì không đàng hoàng, không thích hợp. Kế dẫu hay nhưng không hợp lòng người thì chẳng nên thực hiện.
- ý định của anh rất tài giỏi, rất lợi hại... Nhưng, được việc nước mà không được lòng dân thì có thể xem như không được gì cả. Dân ta tôn trọng đạo lý, “nghĩa tử là nghĩa tận”. Thấy đám đưa tang đến trước mặt, vua Thuấn còn phải xuống kiệu chắp tay cúi đầu đứng bên đường chờ linh cữu đi qua. Được lợi mà mất thanh danh thì quyết không làm. Huynh còn mưu kế gì vẹn toàn hơn không?
Thiên Bảo đáp:
- Chú không đồng ý “thuận tay dắt hươu” thì nên dùng mẹo “Vứt hòn gạch nhặt hòn vàng”. Nếu hiệp đồng chiến đấu nhịp nhàng, khả năng thành công là chắc chắn. Chú thấy thế nào?
Hào trưởng Bôn dẫu là người quyền mưu cũng không thể biết ý định tác chiến của Thiên Bảo, vì trong thực tế chiến đấu và đời sống người ta vận dụng mưu kế ấy qua nhiều nội dung, hình thức khác nhau. Ông thành khẩn bộc lộ:
- Huynh giải thích đi! Tôi không đoán nổi đâu!
Thiên Bảo trình bày kế hoạch:
- Sau tang lễ hẳn quân tướng Ngô(1) đều mỏi mệt và hẫng hụt. Chúng ta khởi sự vào ngày “tam ngu”(2), giặc dẫu mạnh cũng trở tay không kịp.
Hào trưởng Bôn tán thưởng mưu kế của Thiên Bảo bằng cái gật đầu. Ông cảm thấy công việc chuẩn bị lực lượng và trù liệu kế hoạch đều thuận chiều mát mái. Nhưng, một mạch vữa vênh có thể làm đổ cả bức tường. Ông bộc lộ nỗi lo lắng của mình:
- Dự định của huynh rất hay. Tuy vậy, tôi vẫn không yên tâm về Mã Tam Liễu. Hắn nổi tiếng khắp Giang Đông vì tay không bắt cọp dữ ở rừng Uất Lâm(3). Do kỳ tích ấy mà hắn được vua Lương phong tặng Đả hổ vô địch tướng quân và phái sang Giao Châu làm Đô úy đốc tướng. Không thể coi thường người này.
(1) Danh từ chung chỉ người phương Bắc đô hộ Giao Châu có từ thời Bà Triệu.
(2) Sau khi chôn cất, gia chủ tổ chức Ngu tế: Ngày tế thứ nhất gọi là Sơ ngu, tế ngày thứ hai gọi là Tái ngu, tế ngày thứ ba là Tam ngu... Ngu là yên = phách yên mồ đẹp.
(3) Quảng Tây
Thiên Bảo hào hứng vì được Hào trưởng chấp thuận đề xuất mà ông đã tốn nhiều công phu chuẩn bị. Đối với mối lo Mã Tam Liễu ông cũng đã có dự kiến nên khảng khái đáp:
- Hào trưởng đã giao việc quân sự cho huynh nên huynh phải chu toàn mọi tình huống. Huynh đang có một hiệp khách thừa tài nghệ áp chế Đả hổ tướng quân.
Hào trưởng Bôn nhìn anh trai bằng cặp mắt chứa nhiều dấu hỏi. Có người dũng mãnh hơn cả Mã Tam Liễu sao? Bầu trời này đã rộng, còn có bầu trời khác rộng hơn chăng? Vì tính tò mò và cũng vì tầm quan trọng của công việc khiến Hào trưởng Bôn không thể không hỏi:
- Ai vậy?
Thiên Bảo cầm bát nước nhấp một ngụm, khà một tiếng, khẽ khàng đặt chiếc bát xuống chõng như sợ nó sóng nước ra ngoài mới đáp:
- Người này tuổi trẻ tài cao, tên là Trương Hống, huynh mới gặp ở Trị sở Long Biên, nhưng chưa có dịp dẫn đến ra mắt Hào trưởng.
Lý Bôn ngắt lời:
- Có phải Trương Hống còn có một người em là Trương Hát không?
Lý Thiên Bảo đáp:
- Đúng!
Lý Bôn tỏ vẻ hâm mộ:
- Đó là hai trang hào kiệt!
Lý Thiên Bảo gật đầu:
- Hào trưởng quả có con mắt tinh đời. Họ được mệnh danh là “Lưỡng Long Như Nguyệt” - Ông ngừng lời chuyển giọng:
- Huynh muốn biết lực lượng của ta đã chuẩn bị tới đâu?
Hào trưởng Bôn lường thấy nhân lực cần có để phục vụ tác chiến theo kế hoạch của Thiên Bảo không cần nhiều nên thoải mái đáp:
- Tạm đủ cho huynh sử dụng. Số người có thể chiến đấu tốt khoảng ba trăm, số trung bình cũng chừng ấy. Cơ đội Vũ Ninh tám chục người, do Nữ cơ trưởng Trịnh Thị Liên chỉ huy; Cơ đội Tiên Du năm mươi sáu người, do Cơ trưởng Mai Chí Viễn điều khiển; Cơ đội Quế Võ một trăm tám nhăm người, Cơ trưởng là Vũ Niết; Cơ đội Thuận Thành của Đoàn Hồng gồm một trăm năm tư người; Cơ đội Từ Sơn của Nguyễn Thược có một trăm sáu ba người; các Cơ trưởng đều giỏi võ nghệ và tháo vát. Ngày ngày, anh em theo nghề chài lưới, săn bắn, làm ruộng... đêm đêm vào rừng thao luyện võ nghệ. - Ông ngừng lời, chuyển sang giới thiệu khả năng chiến đấu của các Cơ đội: Cơ Vũ Ninh đa phần là nữ, khéo nội công; cơ Quế Võ, Từ Sơn thạo đánh bộ; cơ Tiên Du, Thuận Thành giỏi thủy chiến.
Càng nghe vẻ hoan hỉ càng hiện rõ trong ánh mắt lóng lánh của Thiên Bảo, nhưng ông không vỗ tay reo mừng như thường tình khi người ta gặp chuyện cực kỳ đắc ý. Ông bày tỏ:
- Đúng là có Trời phù hộ, Tổ tiên run rủi nên công việc chuẩn bị của Hào trưởng mới ăn khớp với kế hoạch hành động của huynh... Tố nữ chuốc rượu, tráng sĩ ra tay... Kết quả ra sao có thể phỏng đoán được.
Hào trưởng Bôn hưởng ứng tình cảm phấn chấn của người chỉ huy quân sự có binh cường thế mạnh bằng ánh mắt rất thiện cảm. Ông động viên thêm:
- Trời định và người tính cùng một chí hướng. Chúng ta khởi sự chắc chắc nên việc. - Ông ngừng lời, bất chợt nhướng mày nhìn ra xa như vừa phát hiện ra hiện tượng lạ ở đâu đó, ông chăm chú ngắm anh như muốn phát hiện điều gì rồi bất chợt hỏi:
- Nếu Tiêu Tư không chết thì sao?
Lý Thiên Bảo đang ngạc nhiên về thái độ bất thường của Lý Bôn thì được giải thích bằng mối hoài nghi thể hiện qua câu hỏi. Ông đáp:
- Vạn nhất không có cơ hội “quân vô tướng hổ vô đầu” chúng ta vẫn khởi sự vào dịp Tiêu Tư chưa khỏi bệnh. Nhưng... - Thiên Bảo hạ giọng: - Khởi sự thành công thì dễ, bảo vệ thành quả sẽ phức tạp... Chúng ta không có khả năng bảo vệ bằng sức mạnh, chỉ có thể dùng lý để tranh biện. Giết Thứ sử đoạt quyền hành thì không thể là cái lý vững chắc có thể vin làm chỗ dựa.
Lý Bôn xua tay:
- Điều này thì huynh lầm rồi, còn lý nào đúng đắn hơn cái lý hết lòng vì gốc đa giếng nước quê hương. Chúng ta quên mình vì đất nước, chúng ta luôn luôn đúng.
Lý Thiên Bảo cũng biết vậy, nhưng con cá sấu tôn trọng cái lý trong nước, con đại bàng duy trì cái lý giữa không trung, mạnh yếu và đúng sai rất khó tách bạch rạch ròi... Chẳng lẽ ứng biến tùy cơ, ra tay tùy việc là giải pháp nên theo? Đạo lý ở đời thì sao?
Thấy Thiên Bảo băn khoăn, Lý Bôn mỉm cười trấn an. Ông biết phẩm chất hiền thuận của người anh họ, Thiên Bảo hết lòng thậm chí dám hy sinh mình vì nghĩa cả, nhưng là người câu nệ. Thiên Bảo phản đối ngoại bang đô hộ Giao Châu, nhưng tôn sùng triết lý Khổng Mạnh, lấy Trung Hiếu Tín Nghĩa làm chuẩn mực đạo đức, giết người đoạt quyền là việc không nên làm. Cái khó của tình huống này nằm trong nỗi băn khoăn của Thiên Bảo: Lực lượng của ta chưa mạnh mà đã khởi binh giết Thứ sử, nhà Lương phái đại quân sang gây sự, ta không có lý lẽ để biện hộ cũng không đủ lực để chống đỡ; cuộc khởi nghĩa trở thành cuộc nổi dậy non, chưa kịp đứng đã ngã. Tuy vậy, trước một vận hội có thể khai thác không dễ bỏ qua. Ông khích lệ anh trai:
- Đệ cũng ghét sử dụng thủ đoạn “không tàn bạo không thể thành anh hùng”. Nhưng chẳng thể phủ nhận cái lý “vì đại sự phải bỏ qua tiểu tiết”. Nhiều khi vì muốn khôi phục quốc thể người ta dám đem danh nghĩa cá nhân đặt trước miệng thế gian, có thể thế hệ mai sau mới là thế hệ biết đánh giá công bằng những hoạt động của thế hệ tiền bối. Chúng ta cứ thuận lý thừa cơ mà làm, không nên bận tâm đến sự khen chê của miệng thế đa đoan.
Lý Thiên Bảo không cố chấp nhưng là người cầu toàn, ông muốn tránh mọi sự cố có thể phát sinh di họa. Ông giải thích tư tưởng của mình:
- Chúng ta dùng mưu đoạt lại quyền làm chủ Giao Châu và dùng phép ứng biến để bảo vệ thành quả, điều đó có thể làm được. Nhưng một khi kẻ kia biết chúng ta chủ động gây chiến, chúng sẽ phái quân sang đàn áp... - Thiên Bảo ngừng lời, chuyển giọng: - Anh em ta đã ít lại ô hợp sao chống nổi đạo quân thiện chiến của nhà Lương.
Lý Bôn nhìn anh trai bằng cặp mắt nghiêm khắc:
- Huynh có quá cẩn thận không? Đã làm chủ rừng sao lại lo không có củi? Sau khi nắm quyền hành trong tay, chúng ta sẽ chiêu mộ thêm nhiều tráng đinh cùng lo giữ nước. Con gà xù lông che ổ, con chó nhe nanh trước cổng, con người xả thân vì quê hương đất nước, tráng khí ấy sao có thể xem thường!
Lý Thiên Bảo không cãi nổi cái lý của Lý Bôn đưa ra. Tuy không thoải mái về phương pháp hành động nhưng hoàn toàn ủng hộ mục đích của cuộc khởi sự.
Sau cùng, Lý Bôn bộc lộ:
- Tuy sự thể là vậy, anh em ta vẫn phải cân nhắc mọi tình huống. Nhiều củi mới chụm nên lửa; củi tốt cháy to, củi mục dễ tàn lụi. Gầy lên khó, dập tắt dễ, lại gầy lên càng khó. Điều cần thiết nên làm là chiêu mộ nhân tài móng vuốt sắc nhọn ta sẽ ra tay.
Lý Thiên Bảo hớn hở hưởng ứng sự thận trọng của em trai:
- Hào trưởng nghĩ thế là huynh yên tâm rồi!
*
Trưởng làng Mai Tiến Đạt đứng trên hè nhà hóng gió.
Sau ông là ngôi nhà năm gian mái rạ, tường trình: hai gian buồng kề liền ban gian trong, hai gian bên kê hai giường sát tường hậu; ban thờ lập ở gian giữa, trên ban bày các loại đồ thờ: bát nhang, lư hương, cây nến, đài rượu... Ban thờ bài trí cửa tiền bằng bức hoành phi sơn then chữ vàng, đôi câu đối màu cánh gián chữ đỏ, phía trước là bộ bàn ghế.
Bất chợt, Mai Tiến Đạt vươn vai hà một tiếng rõ to với dáng vẻ khoan khoái của một người dồi dào khí lực. Ông ở nhà làng vừa về.
Hôm nay, các bậc huynh trưởng tề tựu ở nhà làng bàn công việc trù bị cử hành lễ Kỳ Phúc - cầu cho dân an làng vượng và mở cửa sới vật Bãi Thánh. Ông tự khích lệ mình:
- Bãi Thánh lại tưng bừng náo nhiệt!
Mảnh đất hình tròn bên bờ sông Như Nguyệt(1) được mang tên Bãi Thánh từ thuở nào không ông bà già nào trong vùng biết rõ. Dân làng Thượng Vũ chỉ lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác sự tích: “Trận vỡ đê năm Thân, nước khoét sâu vào bãi thành một cái vực. Vực như con quỷ biết ăn đất, nó gậm ngày gậm đêm để mở rộng phạm vi cai quản của mình. Làng Thượng Vũ có nguy cơ biến thành vượng địa của loài thủy quái. Dân làng biện lễ tam sinh cầu đảo. Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung thương tình mang đất thần từ đầm Dạ Trạch về lấp, lại trồng cây đa làm dấu hiệu cảnh báo. Đất thánh sinh sôi thành bãi, dân làng tôn vinh là Bãi Đất Thánh, về sau gọi là Bãi Thánh, thủy quái không dám bén mảng quấy nhiễu nên Bãi Thánh vẫn bền vững bấy nay. Bóng cây đa thần không đủ phủ bóng râm một góc bãi nhưng lại thừa cho hàng trăm người tránh nắng. Quán nước, hàng bánh đúc, quầy hoa quả... chen nhau hai bên lề con đường nối từ Bãi Thánh ra bến đò Tiên Nữ. Từ cao nhìn xuống toàn cảnh cứ ngỡ đó là nậm rượu của ông Đùng khổng lồ bà Đoàng vĩ đại được trang trí hoa văn bằng các cảnh vật nhiều màu: màu xanh cây cỏ, màu xám mái rạ che lều và màu nâu vàng của đất.
(1) Xưa còn có tên là sông Kinh, nay là sông Cầu.
Bỗng thoáng thấy đại gia hảo tâm Lý Thiên Bảo mặc quần áo xanh, đeo tay nải nâu bước vào ngõ, Trưởng làng Mai Tiến Đạt giơ cao hai tay vừa bước rảo ra đón bạn vừa reo với niềm phấn chấn không kiềm chế, cứ như chỉ mong Bồ Tát mà được hẳn Thích Ca giáng lâm.
Lý Thiên Bảo là nhà từ thiện của làng Thượng Vũ, chính ông cung tiến một nửa phí tổn xây dựng chùa làng, chính ông tải năm trăm hộc thóc phát chẩn cho dân đang thiếu đói vì bị mất mùa liền hai vụ liên tiếp. Mai Tiến Đạt hớn hở bộc bạch:
- Mong mấy ngày vẫn bặt âm vô tín, thế mà chim khách mới mách sáng nay mà bạn quý đã tới nơi.
Lý Thiên Bảo sóng vai Mai Tiến Đạt bước vào nhà, tháo tay nải đặt xuống giường, đến đứng trước ban thờ vái ba vái rồi ngồi xuống chõng đối diện với chủ nhà. Ông vừa đỡ chén nước chủ nhà mời vừa bắt chuyện:
- Thượng Vũ sắp cử hành lễ hội, ta muốn về sớm hơn nhưng chẳng được.
Mai Tiến Đạt biết Thiên Bảo có vẻ như không chuộng những chuyện liên quan đến đánh đấm, võ thuật. Hẳn vì nguyên nhân nào đó mới có sự thay đổi này. Ông tò mò hỏi:
- Đại huynh có trù tính gì chăng?
Lý Thiên Bảo đang trên đường vận động ứng nghĩa, ông muốn tìm người tài để cùng lo việc phục quốc. Thế hệ nào cũng có hào kiệt dám xả thân vì giang sơn, chẳng lẽ thế hệ này chịu giả đui giả điếc làm ngơ. Ông về đây là nhằm dịp hội vật để chọn người tâm huyết.
- Hãy cho biết thể thức hội vật?
Mai Tiến Đạt đáp:
- Vẫn theo như thường lệ, đô vật nhà và đô vật mấy làng lân cận thi tài đoạt giải. - Ông ngừng lời, giải thích: - Giải thưởng là mười vuông lụa hồng điều, vật nhỏ nhưng giá trị tinh thần lớn, đô vật nào đoạt giải thì được cả làng trọng vọng và được xa gần kính nể.
Lý Thiên Bảo gật đầu, vươn người lên với vẻ sảng khoái như vừa được nhận sự khích lệ. Ông hiểu tấm lòng bạn nhưng vẫn ướm hỏi:
- Hiền đệ và ta giao kết mấy năm nay, có thể nói giọng đã quen, bụng đã tỏ nên vào lúc khẩn trương ta dám hỏi thẳng rằng: Chúng tôi đang trù tính việc phục quốc. Hiền đệ sẽ là con hổ dữ làm chúa tể chốn rừng xanh hay như con trâu chịu khoác ách lên vai ì ạch trên đồng ruộng?
Một người lòng lành trượng nghĩa thì không thể làm việc đốn mạt, Mai Tiến Đạt tin cái lý đó nên sốt sắng hưởng ứng:
- Ngu đệ thà chịu cảnh gian nguy chứ quyết không chịu phận kẻ đớn hèn. Mong được đại huynh chỉ bảo.
Lý Thiên Bảo mạnh dạn bộc lộ ý định:
- Một cây không làm nên rừng, một cột không dựng nên nhà, việc nước cần nhiều người chung sức. Hội vật Thượng Vũ là cơ hội tìm bè bạn. Ta muốn hiền đệ thông đạt đến các nơi, nhất là những vùng nổi tiếng thượng võ, mời các đô vật đến giật giải. Ta đặt thêm một trăm lạng bạc vào giải thưởng.
Mai Tiến Đạt nhận xét, cũng là lời khuyến cáo:
- Chim tham mồi chưa chắc đã là chim hay!
Lý Thiên Bảo công nhận cái lý ấy, nhưng ông hiểu lòng người thông thoáng hơn, thực tế hơn:
- Đúng là như vậy, nhưng không loại trừ khả năng đại bàng chao cánh trên cao nhìn xuống. Đãi cát tìm vàng mà.
*
Buổi sáng nhiều mây, mát dịu.
Bên sông Như Nguyệt náo nhiệt, tấp nập người qua lại.
Đầu Bãi Thánh, trên cột cờ cao ba trượng, lá cờ đại màu đen viền đỏ đón gió bay phần phật. Dưới chân cột cờ là chiếc lệnh và trống đều đặt trong giá, cạnh đó kê chiếc bàn, trên mặt bàn đặt mười thước lụa hồng điều và chiếc khay đựng mười nén bạc. Khán thủ là người cầm chịch, ông mặc quần áo nâu, đầu chít khăn đỏ, ngang lưng buộc thắt lưng đỏ. Tiếng trống thúc lệnh khua tưng bừng, rộn rã. Người đến dự hội vật mỗi lúc một đông, đứng hoặc ngồi thành vòng tròn trên rìa Bãi Thánh; các chú bé, cô bé là những nhân vật nhiều lời, nhanh chân hơn cả... không khí sôi động hẳn lên nhờ miệng lưỡi vô tư và đôi chân năng động của mấy cô cậu choai choai hồn nhiên ấy.
Dãy lán đón khách từ xa tới dựng gần sới vật, dưới rừng cây lá vàng lác đác rơi. Những tốp đô vật và người tùy tòng không trọ ở các nhà dân trong làng đều đến ăn ngủ trong lán.
Lý Thiên Bảo quan sát khách đến với tấm lòng hoan hỉ. Không phải vì giải thưởng hậu, cũng không vì Thượng Vũ là làng có truyền thống mến khách mà vì trời xui đất khiến thế nào đó mà anh tài nền võ thuật Giao Châu nối chân đến Bãi Thánh ngày một nhiều, đủ thứ hạng đô vật, võ sĩ các miền Sơn Nam Hạ, Tống Bình, Sơn Nam Thượng... Dĩ nhiên, không loại trừ kẻ tà tâm ác bá trong giới võ lâm tìm chốn khoe tài trưng danh.
Từ lán khách xá, các đô vật cởi trần, đóng khố bước ra sới vật, tiếng reo hò vang dậy.
Trưởng làng Mai Tiến Đạt giữ chân Trưởng trò, ông cầm loa tuyên bố luật chơi và giải thưởng. Cuối cùng ông trịnh trọng tuyên bố:
- Thay mặt làng Thượng Vũ cám ơn các đô vật, các võ sinh đã không quản ngại đường xa tới dự cuộc tranh tài đua sức này. Năm nay, giải hạng nhất còn treo thêm mười lạng bạc!...
Tiếng xôn xao rộ lên, một giọng sửng sốt, xuýt xoa cắt ngang lời Trưởng trò:
- Những mười lạng bạc!
- Tớ quyết thử vận may một phen!
Khán thủ giơ cao dùi nện ba tiếng cật lực vào mặt trống, kết thúc bằng một tiếng lệnh rồi huơ huơ chiếc dùi trống để duy trì trật tự. Thấy mọi người vẫn ồn ào, ông ta gõ mạnh dùi vào mặt lệnh, lớn tiếng:
- Im lặng! Bà con im lặng nghe ông Trưởng trò bố cáo tiếp.
Trưởng trò lại làm chủ tình thế:
- Đại ân nhân của Thượng Vũ ta, nhà hảo tâm Lý Thiên Bảo treo thêm vào giải thưởng một trăm lạng bạc...
Cả biển người ồ lên, ồn ào như phiên chợ, át cả tiếng Trưởng trò:
- Người đâu có người...
- Giới võ lâm chịu ơn nhà hảo tâm.
Khán thủ đánh ba tiếng trống rồi gõ liên hồi vào tang trống với vẻ khó chịu. Ông kiễng chân, giơ dùi trống chỉ đông chỉ tây, nhắc nhở như quát:
- Ô hay! Im lặng! Kìa! Bà con im lặng! Trưởng trò bố cáo chưa xong.
Trưởng trò chật vật lắm mới cùng khán thủ lấy lại trật tự. Ông giơ chếch loa nói tiếp:
- Nhờ lòng hảo tâm của ông Lý Thiên Bảo mà lần thi tài này có sự phóng khoáng. Các đô vật, các võ sinh tham dự thi tài đọ sức đạt các hạng từ ưu, bình, thứ và liệt đều được nhận phần thưởng tùy theo thứ hạng. - Trưởng trò chuyển sang giọng khích lệ: - Một quan tiền công không bằng một đồng tiền thưởng, các đô vật, các võ sinh hãy gắng sức giật giải. Cuộc thi bắt đầu!
Từng cặp đấu sĩ vào cuộc, hết cặp này đến cặp khác...
Tiếng trống thúc dồn dập, tiếng người tán thưởng, cổ vũ ran ran. Tới quá trưa, cuộc thi phân loại được sáu đô hạng ưu, mười hai đô hạng bình, hai nhăm đô hạng thứ, năm chục đô hạng liệt và một đô quán quân.
Ông Trưởng trò giơ loa công bố:
- Đô vật toàn thắng là Vũ Vạn Thắng!
Vũ Vạn Thắng là một đô vạm vỡ, vai vồng, bắp thịt nổi, năm vuông vải lụa màu đỏ buộc ngang lưng làm tăng thêm nước da đồng hun. Ông ta tiến về phía bàn đặt giải thưởng. Lý Thiên Bảo nhìn ngang ngó dọc, nhủ thầm: “Trương Hống sao chậm chế! Hống làm lỡ việc ta rồi”.
Đô Vạn Thắng đặt một tay lên khay bạc, dõng dạc nói lớn:
- Chư vị huynh đệ nhường thì Thắng tôi xin làng phần thưởng này!
- Hãy khoan!
Đi liền với tiếng nói khỏe mạnh là một chàng tuổi trẻ cao lớn mặc toàn đồ đen, vừa giơ hai tay gạt đám đông lấy lối vào vừa nói: “Nhờ cái, nhờ cái”. Người mặc toàn đồ đen bước vào sới, chắp tay vái chào đủ tứ phương tám hướng rồi cởi quần áo ngoài lia ra xa, chỉ còn độc một chiếc khố nâu và thắt lưng xanh chàm.
Vũ Vạn Thắng thu tay khỏi khay bạc, quay lại trân trối ngó kẻ phá ngang.
Lý Thiên Bảo hớn hở buông một câu mà ngay Trưởng trò cũng không biết dụng ý:
- Có thế chứ!
Trưởng trò Mai Tiến Đạt quan sát thấy người thách đấu tuy cũng cao lớn nhưng so với Vũ Vạn Thắng vẫn kém vài ba phân, ông có ý áy náy nhưng theo luật chơi vẫn phải lên tiếng:
- Hãy xưng danh tính!
Người mới tới đáp:
- Thưa, tôi là Trương Hống!
Vũ Vạn Thắng quen đánh giá người từ bề ngoài, nghĩ bụng: “Nghé non mà dám chọi với trâu già”.
- Đấu thế nào?
Trương Hống đáp:
- Tùy theo ý bác Thắng!
Nghe lời ấy, Vũ Vạn Thắng tức nảy đom đóm mắt. Từ trò đến thầy các lò võ khắp Sơn Nam Hạ đều phải kiêng nể đô Vạn Thắng, thằng kia là thứ hạng nào mà dám ngông cuồng? Ta không cho mi lấm lưng trắng bụng ngay keo đầu ta không còn là đô Vạn Thắng nữa.
Sau khi se đài, hai đô vật sáp trận. Vũ Vạn Thắng quả không hổ danh là đô Vạn Thắng. Ông ta lừa miếng túm được phía sau giải thắt lưng xanh của đối phương nâng bổng cả thân hình đối phương lên khỏi mặt đất. Hống không phản đòn chỉ dang tay dang chân như con ếch.
Mọi người hò reo, bàn tán về sức mạnh của đô Vạn Thắng.
- Có một không hai!
Tiếng nhắc nhở của ai đó vang lên:
- Lấm lưng trắng bụng!
Lý Thiên Bảo biết Trương Hống là người có bản lĩnh, nhưng ông chưa từng gặp thế võ “ếch phơi lưng” như thế này. Ông tự hỏi:
- Cậu ta giở trò ma mãnh gì kia chứ?
Một tiếng cảnh báo:
- Chưa lấm lưng trắng bụng chưa thắng!
Đô Vạn Thắng rất muốn vậy, nhưng không có thế lật ngửa đối phương, đặt xuống đất lại sợ mất ưu thế thậm chí bị phản đòn. Ông ta với dụng ý khá độc ác dùng sức quăng đối phương ra xa. Thật tài tình, Trương Hống bị lăng mà như con đại bàng chao cánh, khi tiếp đất anh bật dậy như chiếc lò xo và lấy luôn tư thế tấn công, hai tay vờn múa, hai chân bước chắc như voi giẫm.
Đô Vạn Thắng tức quá, chân giẫm thình thịch, hai vai gồng lên, hai tay vung ra, quyết đánh một miếng đòn quyết định.
Chỉ trong chớp mắt, hai tay Trương Hống khỏe như tay hổ chụp hai cổ tay đô Vạn Thắng vặn ngược vòng lên, miếng đòn nhanh và mạnh quá khiến đô Vạn Thắng không kịp phản ứng.
Cả sới vật ồ lên vẻ sửng sốt.
- Lấm lưng trắng bụng rồi.
- Ra đòn nhanh như tia chớp!
Lý Thiên Bảo xoa tay mỉm cười, không bình luận.
Không hổ là con nhà võ, đô Vạn Thắng bật dậy nhanh như lúc bị vặn ngã ngửa. Dù thâm tâm chưa phục lắm, nhưng đã lấm lưng trắng bụng thì không thể đánh bài bây đòi vật lại.
- Dù do sơ ý Thắng này cũng đã thua vật. - Ông ta trỏ tay về phía bàn đặt giải thưởng nói tiếp: - Nhưng làng đã ra phép, ai là quán quân mới được lĩnh giải thưởng này. Dẫu thua Thắng tôi vẫn chưa phục. Mong chư vị chức sắc, mong dân làng cho chúng tôi thử tài quyền cước.
Trong đám đông có tiếng khích lệ:
- Hay đấy!
Giọng Lý Thiên Bảo oang oang như chục người làm hơi cho một người:
- Xin làng phá lệ!
Thêm người hưởng ứng:
- Ba năm mới mở một lần hội to, năm nay hãy phá lệ!
Khán thủ gõ dùi vào mặt lệnh. Trưởng trò giơ chếch loa:
- Im lặng, xin dân làng im lặng! Kìa, lũ trẻ kia, im lặng! - Khi trong đám đông chỉ còn tiếng râm ran nhỏ, ông nói tiếp thứ giọng phục tùng pha chút ra lệnh: - Dân làng cho phá lệ. Bác Thiên Bảo cũng muốn phá lệ. ừ, phá lệ! - Ông trỏ tay về hướng chiếc bàn đặt giải thưởng nhắc: - Nó chỉ được trao cho người thắng tuyệt đối. Nào! Hai đấu thủ vào cuộc!
Vũ Vạn Thắng nuôi hận quyết trả thù. Ông ta ra những miếng đòn ác hiểm, nhăm nhăm tìm cơ hội đánh vào tử huyệt. Lý Thiên Bảo chăm chú quan sát. Ông nghĩ bụng:
- Đô Thắng muốn tử chiến chăng? Trương Hống có làm lỡ việc không?
Trương Hống lợi hại quá, cẳng chân cẳng tay anh ta không phải xương thịt, ai đấm đá vào thì như đấm đá bị bông, ai hứng đòn thì như bị quật bằng những dụng cụ cứng như sắt. Điều đáng nói Trương Hống ra đòn không ác ý; lợi dụng tình thế này, đô Thắng tung đòn mãnh liệt, tới tấp. Trương Hống đỡ đánh rất dũng mãnh, cú đấm “lôi đả hung thần” có sức nặng đập vỡ đá, ngọn cước “song phụng triều dương” thừa khả năng đá vỡ ức con cọp mạnh, nhưng anh thu ngay đòn khi vừa chạm đối thủ...
Lý Thiên Bảo đứng ngoài quan sát, biết hết, ông tự nhủ:
- Có Trương Hống thì ngại gì Mã Tam Liễu.
Bỗng, vút một cái, Trương Hống vọt nhảy qua đầu đô Thắng nhăm nhe tấn công phía sau, nhưng không tung đòn. Đô Thắng rê chân quay phắt lại, thấy đối phương nhanh đến thế mà không nhân lúc đối thủ chưa kịp phòng thủ mà ra ngay đòn độc, ông biết đô trẻ không muốn hạ đô già. Và lúc này, đô Vạn Thắng thực sự nhận thấy võ nghệ và sức lực Trương Hống hơn hẳn mình mấy bậc. Ông thu thế, vòng tay thi lễ:
- Thắng nhận thua tráng sĩ!
Trương Hống đáp lễ. Anh bước đến bàn đặt giải hai tay bưng khay bạc nâng lên cao nói:
- Làng Thượng Vũ có lòng cho các đô vật giải thưởng này, Hống tôi dám vô lễ phiền làng dùng giải thưởng soạn một bữa rượu để cả làng và anh em đô vật chúng tôi cùng vui.
Tất cả hoan nghênh.
Thế là trong chuyến vận động đặc biệt trên sới vật Thượng Vũ, Lý Thiên Bảo kén được năm chục tráng sĩ tham gia nghĩa cử.
Giữa lúc ấy, Lý Bôn cho người đến gọi gấp Lý Thiên Bảo về nhà. Lý Thiên Bảo dặn dò năm mươi tráng sĩ cứ đợi ông ở làng Thượng Vũ rồi dẫn Trương Hống cùng đi.
Gặp nhau, Lý Thiên Bảo thông báo danh tính Trương Hống và tình hình thu nạp tráng sĩ trong sới vật Thượng Vũ. Lý Bôn hớn hở nói:
- Có Trương đệ, Bôn mỗ mừng lắm. Vậy cùng nhau cân nhắc hành động sắp tới. - Ông rót nước mời anh và khách, nói tiếp bằng giọng thông báo: - Thứ sử Tiêu Tư nhờ thuốc từ Kiến Nghiệp gửi sang đã khỏi bệnh. Ta được Tòa hiệu úy cử làm Giám quân Cửu Đức. Trước tình thế này chúng ta nên như thế nào?
Lý Thiên Bảo hỏi lại:
- Ý của Hào trưởng ra sao?
Lý Bôn đáp:
- Thực lực ta còn mỏng, nếu không có biến cố tạo nên cơ hội thì lực lượng ấy chưa đủ dùng. Bọn Lương bổ nhiệm Bôn tức là tin Bôn; nhân có vỏ bọc này, ta náu mình dồn sức, đợi thời khởi nghĩa.
Trương Hống là người cẩn trọng, biết liệu việc nên hoặc chớ, anh nhận thấy ý kiến của thủ lĩnh là đúng đắn, vì thế anh không hề do dự, nói:
- Tiểu đệ như con ong ngửi thấy mùi hoa mà bay đến. Quả nhiên Hào trưởng sáng suốt hơn người.
Lý Thiên Bảo kiểm điểm lực lượng địch và tình hình ứng nghĩa của hào kiệt Giao Châu, ông cho rằng Thứ sử Tiêu Tư không chết chỉ làm chậm tiến trình, chứ không làm mất cơ hội khởi nghĩa.
- Đẻ non dễ chết, khó nuôi. Huynh cũng cho chủ trương tạm náu mình là đúng.
Lý Bôn nhắc nhở:
- Tuy vậy cũng không thể lơ là, chậm trễ, mọi việc vận động ứng nghĩa, thu nạp hào kiệt vẫn phải tiếp tục. - Ông nói với Trương Hống: - Đệ quản lý số anh em mới chiêu mộ ở Thượng Vũ, có điều kiện thì kéo nhau vào rừng sâu khai hoang trồng cấy lấy cái ăn để rèn luyện võ nghệ. - Ông nhìn Lý Thiên Bảo nói tiếp: - Trước mắt, huynh cùng Trương đệ ra sông Cầu gặp Trương Hát bàn bạc lập các đội chài lưới làm vỏ bọc cho công cuộc luyện tập thủy chiến, sau đó huynh đến các cơ đội thông báo cho họ biết sách lược “tạm náu mình, sẵn sàng lực lượng đón thời cơ”.
Hai người nhất nhất nghe theo.
Lý Bôn sai người nhà làm cơm. Ăn xong, mỗi người đi mỗi ngả lo phần việc của mình.
*
Tô Lịch là con sông quê hương của người Hà Nội.
Thôn Long Đỗ(1) là vùng đất tổ của người Hà Nội.
(1) Khu vực Hoàng thành và lân cận Hà Nội.
Đất Hà Nội thuở ấy hoang sơ, cây cối um tùm, nơi nơi đầm phá mênh mông, sông ngòi chằng chịt, muông thú đông đàn, dân cư thưa thớt. Nhìn tổng thể theo địa danh đang dùng thì huyện Gia Lâm, Đông Anh là rừng rậm bạt ngàn; huyện Thanh Trì, Từ Liêm, phần lớn quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà, Đống Đa là đầm phá xen lẫn đồng lúa, vườn rau, rừng rậm. Có câu văn vần mô tả cảnh quan Hà Nội thời đó:
Rừng báng Đình Bảng
Rừng bàng Yên Thái
Rừng mơ Hoàng Mai
Rừng lim Đông, Đoài.
Sông Tô Lịch như con rồng màu xanh ngọc bích một đầu hai thân. Đầu uống nước Hồ Tây, một thân uốn khúc mang nước qua Đống Đa, Hai Bà, Từ Liêm, Thanh Trì đến Thanh Oai mới chịu tháo ra sông Nhuệ; một thân vòng lượn tới Thụy Khuê, Phan Đình Phùng, cống chéo Hàng Lược, băng qua Hàng Đường, rẽ vào ngõ Nguyễn Văn Siêu rồi trả nước về sông Hồng bằng cửa Chợ Gạo - Hàng Buồm. Trên sông Tô, thuyền tấp nập ngược xuôi: thuyền lưới, thuyền câu, thuyền chở hàng giương buồm căng phồng, điểm vào đấy là những chiếc mảng con ghép bằng dăm đoạn luồng.
Thôn Long Đỗ nằm trên hai bờ một đoạn sông Tô Lịch bao gồm những ngôi nhà sàn lợp rạ màu xám trắng thấp thoáng ẩn hiện trong rừng cây là ngà, bưởi, ổi, na...; mặt tiền nhà sàn là những cây cau có dây trầu không bám quanh thân, chẳng khác cây nêu đón điềm lành, xua xúi quẩy. Hai nửa thôn Long Đỗ qua lại với nhau bằng cây cầu Giát(1) vắt ngang sông Tô.
(1) Khu vực Hoàng thành và lân cận Hà Nội.
Trên cầu Giát, một tráng sĩ cao lớn, mặc áo nái vàng quần đũi thâm, đầu quấn khăn vành rế màu tím, chân mang dép da trâu đi sóng đôi với một tráng sĩ búi tóc ngược, mặc áo không tay, quần chũi màu đen, chân đi dép cỏ.
Dưới sông, trên con thuyền nan, cô gái chủ thuyền dáng người thon thả, tươi như hoa đào mùa xuân vừa khoan thai đẩy mái chèo vừa nghênh đầu cất tiếng hò ghẹo khách qua cầu:
“Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu”.
Hát xong, cô cúi mặt như tự chiêm ngưỡng mình rồi nở nụ cười với vẻ đáo để.
Người tráng niên vẫn rảo bước, hát đáp:
“Biết nhà cô ở đâu đây
Hỡi trăng Tô Lịch, hỡi mây Tây Hồ?”.
Cô gái hất đầu nhìn lên, hát trả lời:
“Sông Tô nước chảy quanh co,
Cầu Đông(1) sương sớm, con đò trăng khuya”.
(1) Khoảng phố Cửa Bắc, Hà Nội.
Người thanh niên cởi trần ngó xuống sông, vẫy tay nói với cô gái lái đò:
- Miên Hằng ơi! Tiếng chim khách hót đầu hồi sáng nay, ả quên rồi sao? - Anh chỉ tay về phía người tráng sĩ, nói tiếp: - Khách quý tới thăm nhà, sắp sẵn trầu cau chưa?
Vị khách quý là Giám quân Lý Bôn. Tráng sĩ kia là Sơn Bất Mẫn, người có duyên nợ với vợ chồng Vũ Nam - Anh trai Miên Hằng.
*
Sơn Bất Mẫn đứng trên bờ hồ Vạn Xuân cạnh thôn Vĩnh Tuy, tay chống nạnh hông, chân xoạc như chạc gẩy rơm, mắt hau háu nhìn cô gái gánh rau muống từ dưới hồ lên bờ. Cô gái tên là Mơ, thường cùng chồng mang rau quả, cá thịt đến bán cho đồn binh đóng trên bờ sông Tô Lịch phía bên kia hồ Vạn Xuân. Cô là gái làng Vĩnh Tuy lấy chồng trên Long Đỗ. Hắn để ý và có vẻ như muốn bỡn cợt người con gái có thân hình chắc lẳn như cá trắm này từ lâu, nhưng chưa có dịp. Hai vợ chồng họ kè kè bên nhau, hành động không tiện; không thể làm trò ma giữa thanh thiên bạch nhật đông người qua lại. Hôm nay, nhìn quanh quẩn không thấy chồng cô gái, hắn chắc mẩm và định bụng sẽ đón lõng cô gái ở bên bụi tre là ngà trên bờ sông Tô. Bất chợt hắn nghiến răng phù một tiếng khá mạnh: “Thì ra thằng khốn nạn vẫn không rời vợ”. Hắn hằm hằm nhìn anh thanh niên từ dưới bãi bên hồ chạy gằn lên, nghiến răng nói thành tiếng:
- Tao sẽ giết mày!
Sơn Bất Mẫn là gã vạm vỡ, tóc để xù như tổ quạ, mặc áo tứ thân không tay, quần chẽn chít ống, trông hắn rất có dáng kẻ cả. Hắn là kẻ du thủ du thực, bị viên Trưởng sử Lý Tắc ghép vào hạng dân lưu tán. Mươi năm trước, hắn bị bắt đưa sang Kiến Nghiệp(1) làm lao dịch trong tư dinh của quan Tư mã Hiệu úy họ Sái. Tính trợn trạo và sức khỏe hơn người của Bất Mẫn hợp ý viên tướng lỗ mãng họ Sái. Sái Tư mã muốn dùng kẻ dũng phu này nên truyền dạy võ nghệ cho hắn rồi sung hắn vào Đội túc vệ. Nhân dịp Sái Tư mã phái Bất Mẫn đi công cán xa kinh thành, hắn liền trốn về nước.
(1) Nam Kinh Trung Quốc.
Người ta khai thác bản lĩnh để làm công việc hữu ích, lợi nhà mà không gây hại đến ai. Bất Mẫn cậy có ngón nghề hơn người, nhơn nhơn tự tung tự tác, từ việc tước đoạt tài sản, cưỡng chiếm gái lành đến giết người cướp của... muốn sao làm nấy, không từ việc gì.
Các bậc tôn trưởng trong làng những mừng thằng con trai hư đốn của làng ra nước ngoài về sẽ mang theo điều hay lẽ phải, không ngờ, hắn vẫn chứng nào tật ấy, thậm chí tiêm nhiễm thêm thói bạo ngược trắng trợn. Các cụ ôn tồn trách:
- Sang đất của Khổng - Mạnh mà không học được đạo lý sống sao?
Sơn Bất Mẫn cười nhạt, đáp:
- Đạo lý của Kiến Nghiệp là vinh thân phì gia, vua nạt quan, quan ép dân. Cá lớn cá bé, phân biệt rõ ràng.
Các cụ vẫn ôn tồn:
- Sống ở trên đời không tôn vinh được danh giá thì cũng chớ làm ô danh cha mẹ.
Các cụ có lòng chữa bệnh nhưng không chẩn đúng bệnh của người ốm nên thuốc dẫu quý cũng không dứt được bệnh. Sơn Bất Mẫn nhơn nhơn đáp:
- Lời các bậc bề trên dạy rất phải, quả không thể bỏ qua một tiếng nào. - Hắn ngừng lời, chẳng lẽ hắn chỉ tiếp thu được cách sống thớ lợ của người Kiến Nghiệp vỏn vẹn ở mức nhẫn nhịn ấy, rồi tính cách của hắn lại lộ nguyên hình, hắn nói tiếp: - Nói cho cùng, đời người được mấy nỗi, không chơi mới là khờ dại. Khôn dại, tốt xấu chi chi rồi cũng thành cát bụi.
Hắn tiếp tục sống buông thả, hùng hổ trấn lột vàng bạc, dày mặt chòng ghẹo bất cứ cô gái nào gặp ngoài đường, hễ thích là làm, không ai ngăn nổi. Bọn quan quân đô hộ lo thủ thân giữ thế, nên sống chết mặc bay; chúng còn trông ngóng chiều hướng chính trị bên chính quốc. Tiêu Diễn tiêu diệt nhà Tề lập nên nhà Lương, đang bận củng cố chính quyền, bổ dụng quan lại... chưa thể nói trước điều gì; kẻ khôn là “lấy tĩnh chế động”. Lề luật không người duy trì, kẻ xấu hoành hành là đương nhiên.
Không ai thuyết phục nổi hắn thay đổi tâm tính; ai cũng cho rằng phải trái, đúng sai, tốt xấu không còn là cái gì đối với thằng mặt sứa gan lim. Đôi khi hứng chí, cũng có thể mua chút tiếng thơm, Sơn Bất Mẫn cướp của nhà giàu chia cho người nghèo; sau dăm bảy vụ “của người phúc ta” hắn vỗ ngực tự xưng “đại hiệp”. Hắn thích danh hiệu này, hắn tự đặt ra rồi bắt người ta công nhận, ai gọi hắn là “Tô Giang(1) đại hiệp” liền được thưởng, ai gọi “bác Bất Mẫn”, “đại huynh Bất Mẫn”, dù không có ý mỉa mai ngầm, hắn vẫn quy là khinh nhờn xấc xược, thế là bị bạt tai, thậm chí đấm đá đến què lê kéo lệt, ngay đối với bọn quan lại đô hộ hắn cũng không nhường, không người nào chống nổi quả đấm thôi sơn, cú đá song phi của hắn, hắn mà dùng đến gươm giáo thì chẳng khác gì Triệu Tử Long múa giáo tung hoành giữa vòng vây.
(1) Lai Tô, Lương Bài tên xưa của sông Tô Lịch.
Một hôm, Sơn Bất Mẫn đang nghênh ngang đi dọc bờ sông Tô Lịch, hớn hở ngắm từng con thuyền đi lại trên sông thì chợt nghe có tiếng gọi:
- Thằng kia!
Liền đó, một người lực lưỡng mặc thường phục của dân tộc Hán từ quán bán hoa quả dưới rặng ổi ven sông bước ra.
Sơn Bất Mẫn cho là không kẻ nào dám hỗn láo với mình nên vẫn thản nhiên bước.
Bỗng lại vang lên tiếng gọi giật gay gắt hơn, miệt thị hơn:
- Thằng kia!
Đến nước này thì kẻ quen thói ngang tàng, nhìn đời dưới tầm mắt không làm ngơ được nữa, Sơn Bất Mẫn trợn mắt sừng sộ:
- Mày là thằng nào?
Gã đàn ông lạ phì hơi qua mũi:
- Là kẻ muốn mượn mày một cẳng chó.
Sơn Bất Mẫn chưa từng bị kẻ đối đầu nào to gan lớn mật tới vậy, hắn muốn ra tay nhưng muốn biết tính danh hơn:
- Con chó sủa càn kia, mày ở bụi nào chui ra đấy?
- Bụi này. Lý Kiện Khang không cho phép chó ghẻ cắn càn.
Liền theo câu đáp là cú đá.
Hành quân hiệu úy Lý Kiện Khang - cháu cựu Thứ sử Lý Tắc mắc lỗi bị biếm sang Giao Châu làm Giám quân. Gã đang ấm ức vì bị thất sủng, bị mất chức quan.
Hành động ngang ngược của Sơn Bất Mẫn đến tai Giám quân Lý Kiện Khang, một kẻ bất mãn đang tìm nơi trút giận. Gã tự phụ về võ nghệ và sức vật trâu của mình nên coi mọi kẻ dũng phu dưới tầm mắt. Gã tin rằng với cú đá bất ngờ, kẻ kia không mất mạng cũng khốn khổ, ít nhất “Tô Giang đại hiệp” cũng bị bẽ mặt.
Không ngờ Sơn Bất Mẫn không phải hạng dễ đối phó, ai làm gì cũng chịu lép vế; hắn chuộng võ thuật nên chuyên cần luyện tập, tìm ra nhiều thế hóa giải những đòn bất ngờ của đối phương rất độc đáo, nhất là thường xuyên duy trì tính cảnh giác cao độ của con nhà võ nên không bao giờ rơi vào tình huống bất ngờ; so sánh công phu và thể lực dù Kiện Khang là mãnh tướng thuộc hàng nhất nhì của nhà Lương, hắn vẫn là đối thủ hơn phân. Khi biết Kiện Khang ra đòn hắn khẽ tràn người lấy thế, rồi tung liền một cú “độc cước quá hải” vào bắp chân vừa tới của đối phương. Kiện Khang gặp đối thủ quá dũng cảm và nhanh nhậy, không kịp tránh cú đá phản công rất mạnh nên bị ngã lộn xuống đất, phải lăn nhanh mấy vòng mới tránh được đòn tiếp theo của đối phương và lấy lại tư thế thăng bằng.
Sơn Bất Mẫn đấu với Lý Kiện Khang một trận tơi bời, bình sinh hắn chưa từng gặp đối thủ gai góc đến thế, lại không biết đối thủ của mình là một thằng Ngô nên khi Lý Kiện Khang rơi vào thế đón đỡ bị động hắn nhảy lùi lại, phẩy tay bảo:
- Đường ai nấy đi, dũng sĩ không triệt đường dũng sĩ!
Tính hào hiệp của Bất Mẫn khuất phục được tính cách phục thiện của kẻ mang tâm tư bất mãn. Lý Kiện Khang chắp tay làm lễ:
- Vậy thì Tô Giang đại hiệp không phải là hạng xấu như người ta đồn đại.
Sơn Bất Mẫn chém không khí đáp:
- Ta tốt hay xấu chỉ có trời mới thấu!
Lý Kiện Khang biết muốn định giá trị con người phải nhìn vào phẩm chất, muốn đánh giá phẩm chất con người phải nhìn vào bạn bè. Sơn Bất Mẫn hành động ngang ngược nhưng không giao tiếp với hạng người gian manh xảo quyệt. Bất Mẫn cũng có tâm trạng như Kiện Khang ta chăng? ở đời đồng bệnh tương cầu, đồng kiến tương giao là một thực tế. Sau khi thổ lộ thân phận, Lý Kiện Khang xin được cùng Sơn Bất Mẫn kết giao anh em.
Sơn Bất Mẫn khảng khái đáp:
- Tấm lòng trượng nghĩa của Lý Giám quân quả là bao la như biển cả, nhưng Sơn mỗ quen sống độc thân như chim giữa trời. Vợ và bạn bè là thứ ta chưa hề nghĩ tới.
*
Mục tiêu buổi lang thang theo triền sông Tô Lịch hôm qua bị gã nhiễu sự Lý Kiện Khang làm hỏng. Hôm nay, Sơn Bất Mẫn lại tiếp tục cuộc hành trình, hắn không phải hạng người thấy khó mà nản, thấy lâu mà chán. Mục đích của hắn trưa nay không nhằm tìm gái mà để giải tỏa tâm trạng. Thứ tâm trạng tù túng bức bối chỉ muốn phá phách, chỉ muốn trêu ngươi.
Sơn Bất Mẫn đang ngồi ăn ổi bên hồ Vạn Xuân thì vợ chồng Vũ Nam - Thị Mơ quang gánh trên vai, sóng đôi đi tới. Bất Mẫn ném miếng ổi đang ăn dở, bước ra chắn đường rồi quờ hai tay mỗi tay ôm một người. Vũ Nam, Thị Mơ nghiêng vai trút quang gánh xuống đất để rảnh rang đối phó với kẻ làm càn; nhưng càng giãy giụa thoi thụi càng bị xiết chặt. Sơn Bất Mẫn khỏe quá, hắn ôm hai người mà còn nhảy lên cao hàng thước.
Vũ Nam vừa thở hổn hển vừa hỏi:
- Bọn em mắc lỗi gì với bác?
Khi lâm sự, Thị Mơ tỏ ra lanh lợi và khéo mồm:
- “Tô Giang đại hiệp” chấp chi bọn cùng đinh ăn không nên đọi nói không nên lời chúng em. Kẻ cả ngả mặt lên, Tô Giang đại hiệp làm phúc tha bọn em đi!
Câu nói này vừa tai hắn. Sơn Bất Mẫn buông Thị Mơ nhưng vẫn xiết chặt Vũ Nam. Nói có giời làm chứng, hắn muốn trêu ghẹo Thị Mơ thì trêu ghẹo chứ không có ý định trăng hoa chỉ vì anh chồng như những mảnh đá dăm trên đường khiến hắn khó chịu nên hắn quyết làm tới, làm tới đến mức nào hắn vẫn chưa định rõ. Chỉ khổ thân Vũ Nam cũng thân đàn ông khỏe mạnh mà chẳng làm sao thoát khỏi cẳng tay gọng kìm của kẻ dũng phu làm càn.
Đang lúc kẻ khóc người cười, kẻ van người xin chưa đâu vào đâu thì một tráng sĩ sừng sực bước tới.
Vị khách bỗng dưng xuất hiện đội khăn vành rế, áo nái vàng, quần đũi đen, chân đi dép da trâu, tư thế khi khẩn trương vẫn đàng hoàng chững chạc, chứng tỏ ông ta là người có vai vế hoặc sẽ có vai vế. Ông ta nhìn Sơn Bất Mẫn bằng con mắt thiện cảm, ôn tồn khuyên:
- Cẳng đậu không luộc hạt đâu, xin tráng sĩ nới tay!
Sơn Bất Mẫn chớp chớp mắt tỏ ý xúc động nhưng vẫn không lỏng tay.
Vị khách vỗ nhẹ lên vai Sơn Bất Mẫn nói:
- Mong tráng sĩ chiếu cố!
Lời nói hay động tác vỗ vai của khách có tác dụng như điện giật khiến cẳng tay Sơn Bất Mẫn thõng xuống. Vũ Nam được tự do. Khách lại vỗ vai Sơn Bất Mẫn nói:
- Đội ơn tráng sĩ nể tình!
Sơn Bất Mẫn đã biết nhưng chưa từng thấy ai điểm huyệt lợi hại như khách, nhất là cách ông ta khiến hắn thua mà vẫn giữ được thể diện trước vợ chồng Vũ Nam. Người này không phải tầm thường, Lý Kiện Khang cũng là người trượng nghĩa, có bản lĩnh nhưng không thể sánh với ông ta. Trong đời, hắn chưa va chạm với loại chuyện đơn giản mà khó ứng xử như trường hợp này. Thà đấm đá, đánh nhau một trận quyết liệt kỳ phân thắng thua đã đi một nhẽ. Đằng này... ví phỏng có muối mặt thách tỉ thí thì chẳng có cơ sở cầm chắc thắng ông ta, thua keo này thì chỉ còn cách nhảy xuống sông Tô mà tự tử cho đỡ bẽ mặt.
Sơn Bất Mẫn chưa tìm được lời đáng nói để nói thì khách đã lên tiếng; giọng ông ta rõ ràng trầm ấm như dao động của âm thanh dây đàn làm lay động lòng người:
- Chúng ta đường đường một đấng trượng phu đầu đội trời chân đạp đất thấy gốc đa giếng nước quê hương bị chà đạp dưới gót chân kẻ lạ mà không biết sỉ nhục, thấy con em nheo nhóc lầm than vì lũ xấu mà không động tâm thì sao có thể yên lòng sống trong vòng trời đất này.
“Lời nói gói vàng”. Lời nói đạo lý nghĩa tình có sức hấp dẫn như ong thấy hoa, như ruồi thấy mật, như ác thần gặp Bồ Tát. Sơn Bất Mẫn là kẻ xấu, nhưng là cái xấu của kẻ dũng phu bị ức chế, không giống thói nhày nhụa của bọn lưu manh hèn hạ, không tước đoạt được của người thì nảy sinh thù oán người. Xưa nay, hắn phá phách chỉ để giải tỏa tâm trạng như quả bóng căng hơi ắt phải nổ.
- Ông là ai, ở đâu đến, đến đây làm gì?
Khách tiếp nhận câu hỏi thiếu khiêm tốn của gã dũng phu một cách vui vẻ:
- Ta là Lý Bôn ở Giao Châu đến Giao Châu, ta mới về đây để nhận chức Giám quân đồn binh Vạn Xuân trên cửa sông Tô Lịch.
Lời nói không thể cân mà có sức nặng ngàn cân khiến kẻ ngang ngạnh ngông cuồng nhất Giao Châu thời ấy xẹp xuống đất:
- Đệ mù, đệ có mắt mà không thấy Thái Sơn trước mắt. Bấy lâu ngu muội, nhờ lời nói của đại huynh mà vén được mây mù. Từ lâu có một người xóm Trại Tiên Ngư(1) đi lính ở Cửu Đức về ca tụng đức độ và lòng nghĩa hiệp của đại huynh. Xin cho đệ vác gươm theo hầu.
Lý Bí đỡ dậy nói:
- Ngày còn làm Giám quân ở châu Cửu Đức(2) ta đã biết chuyện của đệ. Mới đầu ta không bằng lòng về thói ngông cuồng, ngang ngược không phân biệt đúng sai, nặng nhẹ ấy; sau nghĩ, ta lại cho rằng đệ đang có tâm sự u uất cần phải giải tỏa. Đệ là người có tài, tài ấy sao có thể phí hoài mà phải dùng vào việc nước việc dân.
(1) Là một vạn chài ở cửa sông Tô Lịch sống dưới thuyền, sau lập xóm trại trên đất tự đặt tên là Xóm Trại Cá Tươi, tên chữ là trại Tiên Ngư - nay ở khoảng phố Hàng Cá, Hà Nội.
(2) Vùng Hương Sơn, La Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh
Sơn Bất Mẫn khảng khái đáp:
- Đệ nguyện suốt đời thủy chung với đại huynh. Đại huynh lên núi đệ lên núi, đại huynh xuống biển đệ xuống biển, quyết không nản lòng.
Vũ Nam, Thị Mơ tranh nhau nói:
- Chúng em cũng xin được Lý đại huynh chiếu cố.
Lý Bôn cười đáp:
- Anh em thịnh tình, ta đâu không dám nhận. Từ nay chúng ta là bốn huynh đệ đói no, hoạn nạn có nhau. Hãy giữ mình theo gương Bách Lý Hề - Kiển Thúc, Lưu Bị - Quan Vũ.
Sơn Bất Mẫn, Vũ Nam và Thị Mơ không hiểu giai thoại Lý Bôn vừa viện ra, nhưng hiểu lời nói của Lý Bôn chứa đựng ý nghĩa gì.
Cả ba đều một ý:
- Chúng em quyết chí nghe theo đại huynh!
*
Sau khi được nghe anh trai và chị dâu không ngớt lời ca tụng hành động hào hiệp của Lý Bôn, tâm trạng Miên Hằng rộn lên niềm xao xuyến, vừa háo hức vừa e ngại. Gặp chàng chỉ huy đồn binh Vạn Xuân là tâm nguyện, là điều cô mong muốn bấy nay, nhưng gặp mà chẳng đem lại kết cục như sở nguyện thì khác nào nước chảy lá khoai. Trăng đến rằm trăng mới tròn, hoa tới kỳ hoa mới nở... Nhưng cớ sao tình cảm cô nôn nóng, hấp tấp thế này? Âu cũng là “trăm đường tránh chẳng khỏi số”.
Miên Hằng là cô gái xinh đẹp tìm khắp hương Long Đỗ, khắp triền núi bờ sông Giao Châu cũng không bói ra người con gái xinh đẹp bằng cô, chính Tinh Thiều tiên sinh, một người lịch lãm, từng trải ngược xuôi cũng phải tấm tắc khen:
- Nàng Tây Thi của Giao Châu ta!
Hoa lá làm đẹp cảnh, Miên Hằng làm đẹp đời. Miên Hằng là cô gái đa tình, khi cô là thiếu nữ sôi nổi, khi cô là người phụ nữ chín chắn, dám yêu và quyết giữ lòng thủy chung, cô nhủ lòng phải tìm một ý trung nhân thích hợp với tâm nguyện, nhưng vì tiêu chuẩn thích hợp quá cao nên tới bây giờ dù là một cô gái xinh đẹp nhất vùng, cô vẫn chưa chồng và các chàng trai táo tợn cũng không dám bén mảng bờm xờm. Nhớ hôm nào, anh trai ốm, Miên Hằng phụ chị dâu mang hàng vào đồn binh Vạn Xuân, Giám quân Lý Bôn đứng trước sân nhà bếp, tay ấn đốc kiếm trông oai phong vững chắc như tượng đồng, mắt rực sáng ngắm cô thoăn thoắt chuyển hàng cho anh nhà bếp, cô cảm thấy anh chàng cao lớn, chững chạc ấy như muốn nuốt tươi nuốt sống mình. Rõ ràng một đấng nam nhi... Cô vừa làm vừa miên man nghĩ - Cách nhìn mới gớm ghê làm sao, mới tham lam làm sao, mới lôi cuốn làm sao; cái nhìn thúc giục con tim thêm rạo rực, chất vấn con tim tham lam vỗ về con tim đang thổn thức... Hai ánh mắt ngời ngời kỳ vọng chạm nhau, lóe lên nhưng không tan biến trong không trung - nơi chúng chạm nhau mà cuốn hút thần thái của ánh mắt kia về phía mình, nuôi dưỡng trong mình. Cái nhìn bối rối mách bảo, chiều hướng bước đi tiếp theo của con tim? Lần gặp gỡ đầu, cô hy vọng; lần gặp gỡ sau, cô trông chờ, mòn mỏi trông chờ... Bướm thấy hương sắc của hoa bướm phải bay tới. Nhưng, càng mong mỏi càng bồn chồn, hình như đấng trượng phu mải lo toan việc nào đó quan trọng hơn, cấp thiết hơn. Không thể thế. ở đời này làm gì có thứ việc quan trọng bằng tình yêu. Chàng e ngại chăng! Phải có cách thổ lộ, trăng đến rằm trăng phải tròn, hoa đủ độ hoa phải nở.
Buổi chiều đông ấy gió nhẹ lay ngọn cỏ, mưa phùn lây phây. Những anh chài đã cuốn lưới gác chài, hối hả trở về mái ấm gia đình, những cô làm ruộng cũng rửa ráy quấy quá chân tay để nhanh chóng trở lại nhà lo bữa cơm chiều. Một ngày lao động vất vả kết thúc đối với mọi người, nhưng Miên Hằng mới bắt đầu mở cuộc tấn công tình cảm. Tình yêu có quyền của nó, hoặc được hoặc mất, hoặc có hoặc không, là ngô là khoai cũng phải rõ ràng. Chị Mơ giao xong hàng quẩy quang gánh không về trước, Miên Hằng ở lại giúp nhà bếp. Và... Miên Hằng đòi Lý Bôn phải tiễn mình một đoạn đường. Dù là bậc hào kiệt cũng không phải là gỗ đá mà không ngầm hiểu những biểu hiện khác thường. Giọng nói Miên Hằng ngọt ngào, ý tứ, lời nói bao hàm ý nghĩa khúc triết sâu xa khiến người anh hùng phải lụy thuyền quyên.
Lý Bôn và Miên Hằng nhẩn nha bước quanh bờ hồ Vạn Xuân. Gió đông bắc không mạnh, nhưng những hạt mưa phùn như trăm ngàn mũi kim chích vào da, cái giá lạnh hãi hùng của ngày đông không biết chừa một ai. Lý Bôn ý muốn trở về doanh trại, Miên Hằng vẫn kiên trì giữ vững mục tiêu. Trước một cô gái mảnh mai nhưng xinh đẹp và cực kỳ quyết tâm, người chai sạn cũng không thể dứt lòng bỏ đi huống chi Lý Bôn là khách đa tình.
Lý Bôn nhìn Miên Hằng khuyên:
- Trời mỗi lúc một lạnh, về thôi Miên Hằng. Ta lo em cảm lạnh.
Miên Hằng nhìn đáp lại, một cái nhìn chứa chan lớp sóng vỗ bờ:
- Đi bên ông em không thấy lạnh, hình như... cũng lạ, hình như cái gì đó sưởi ấm lòng em.
Tâm trạng người anh hùng chết đuối trong ánh mắt thuyền quyên, Lý Bôn cởi áo ngoài khoác lên Miên Hằng thành thật giãi bày:
- Ta muốn yêu nàng lắm chứ! Ta được yêu nàng thì còn gì hạnh phúc bằng. Nhưng đời ta là cánh chim trời... Ta không muốn làm khổ nàng.
Miên Hằng hớn hở nhận tín hiệu tình yêu, cô nắm chặt tay con chim trời:
- Chim phải có tổ, chim bay mỏi cánh chim phải quay về tổ. Em muốn là con chim bé nhỏ bay bên ông. Ông như con chim đại bàng chỉ nhằm nơi dông tố mà bay tới, em sẽ là con chim nhỏ vỗ cánh bay theo. Mấu chốt là ông có tin em không, có thương em không.
Khách anh hùng ngẩng đầu nhìn lên tìm cao xanh, nhưng chỉ thấy một màu bàng bạc. Tín hiệu u ám ban đầu chăng? Không đúng! Trời định không bằng người định. Ông nói như buông một lời thề son sắt:
- Ta tin em, ta muốn em cùng ta đi đến cùng trời cuối đất.
*
Lý Bôn là một Giám quân nhỏ nhoi chỉ huy một đồn binh dăm chục giáp binh(1) ở vùng Cửu Đức nhưng là viên chỉ huy có tinh thần phụ trách và là bậc hào kiệt thức thời, ông giúp kẻ khó đỡ người yếu, lo lắng với nỗi lo toan của anh em, quan tâm tới nguyện vọng của binh lính và dân cư trong vùng; ông không có tiền bạc nhưng giàu lòng vị tha, bọn quan lại đô hộ tin, dân cư trong vùng kính trọng, binh lính phục theo, những người có tâm huyết ở Giao Châu mến mộ ông. Ông có lòng nhân hậu, người nào cũng cho rằng ông là nhà đạo đức, ít ai ngờ ông nuôi chí lớn, đang ngầm lo việc phục quốc.
Nhân lúc Giám quân trại lính Vạn Xuân chết, Thứ sử Tiêu Tư điều Lý Bôn về thay.
Lý Bôn sinh ra từ Đông Hưng trấn Sơn Nam Hạ, mình cao bảy thước, thân to tầy ôm, mặt vuông, mắt sáng, lông mày xếch, tiếng nói sang sảng, bước đi uyển chuyển, đó là tướng quý lạ. Một thầy tướng quan sát ông đã nhận định: “Sinh vi quân, tử vi thần”(1).
(1) Lính người bản xứ, tương tự ngụy binh thời Pháp.
(1) Sống là vua chúa, chết là thần thánh.
Ông vừa về Vạn Xuân mấy ngày thì gặp vụ Sơn Bất Mẫn làm càn. Sau vụ này, ông có thêm bạn bè, đồng chí ở vùng đang âm ỉ cơn sóng thần. Sơn Bất Mẫn giúp ông liên kết được nhiều vị tộc trưởng các xóm Cổ Vũ(2), Đông Hà(3), Lục Thủy(4), Đông Tác(5), Công Bộ(6), Tả Nhất(7), Hồng Mai(8) và tập hợp, huấn luyện kỹ thuật chiến đấu cho hơn hai trăm dũng sĩ. Trại lính Vạn Xuân trở thành nơi tụ nghĩa. Bọn đô hộ không thể ngờ đồn binh của mình lại là nơi đi lại an toàn của những nghĩa sĩ đang ngầm mưu lật đổ mình. Sơn Bất Mẫn trở thành người hữu ích, Lý Bôn vui một, những người già họ Sơn vui mười. Cụ trưởng họ Sơn trầm trồ:
- Đúng là dao sắc hay nhụt là do tay người thợ rèn. Khuyên được thằng Bất Mẫn đổi nết, Lý giám quân không phải người thường.
(2) Đường Thành.
(3) Mạn Hàng Gai, Tô Tịch.
(4) Khu lân cận Hồ Hoàn Kiếm.
(5) Ngõ Trung Phụng.
(6) Phường Thành Công.
(7) Phường Vân Hồ.
(8) Phố Bạch Mai, Hoàng Mai.
Con cháu cải tà quy chính khiến các cụ họ Sơn rất mừng và ghi nhớ công ơn người đã hướng dẫn con cháu các cụ vào con đường chính đạo. Tất nhiên các cụ cũng không chịu thua kém cái thằng có một thời hư hỏng “thế mà nên người”. Vậy là, chỉ thu phục một Sơn Bất Mẫn ngang tàng mà Lý Bôn, nhà vận động ứng nghĩa có thêm hàng trăm người đi theo.
Hôm nay, Lý Bôn đến nhà Vũ Nam bàn việc quan trọng, cũng nhân dịp gặp Miên Hằng theo sự nhắc nhở của con tim.
Cả nhà Vũ Nam mặc nhiên là người ngồi cùng thuyền chẳng phải giữ kẽ. Sơn Bất Mẫn nhìn vợ chồng Vũ Nam, cười ha hả nói:
- Giận tớ lắm nhỉ? - Bất Mẫn chỉ Lý Bôn nói tiếp: - Bữa đó không có Bồ tát giải nguy thì đố thoát. - Bất Mẫn lại vỗ trán mình tự hỏi: - Chẳng hiểu lúc đó tớ nghĩ gì và sẽ làm gì tiếp nữa? Chẳng định làm gì cả, trêu tí thôi. Bây giờ nghĩ lại mới thấy sử dụng thời gian một cách phí hoài.
Thị Mơ nhanh nhảu chuyển đề tài:
- Để thời gian có thêm ý nghĩa, các bác ngồi nói chuyện, em với cô Miên Hằng đi nấu cơm. Bác Lý thích nhắm rượu với thịt gà luộc, em xin chiêu đãi một bữa thịt gà luộc tơi bời tới mức quên đường về Vạn Xuân.
Lý Bôn gạt đi:
- Ta có chuyện cần thiết hơn chuyện ăn!
Từ lúc theo chân khách vào nhà, Miên Hằng vẫn đứng ngoài cửa ngắm Lý Bôn. Cô đã chọn được một đấng mày râu mạnh mẽ, chững chạc. Tâm trạng cô xôn xao, háo hức, hả hê đến nỗi chỉ muốn ôm chầm lấy người yêu mà nũng nịu, hờn dỗi. Vậy mà, ông chỉ nói với em bằng mắt, chưa nói với em bằng lời lấy một lần...
Lý Bôn nhìn ngôi nhà sàn có cửa sổ mặt trước và mặt sau. Người ta dựng nhà sàn chỉ có cửa ra vào, chủ nhà này trổ cửa theo công dụng. Cũng hay, nhà thông thoáng, lại có thể thả tầm mắt bao quát cảnh vật xung quanh. Ông ngước mắt quan sát đỉnh núi Nùng, đền thờ thần Tô Lịch, thành hoàng làng Long Đỗ là ngôi nhà sàn vẫn ngày đêm hương khói như tín hiệu nhắc nhở lòng hoài vọng của tổ tiên về lớp con cháu kế tiếp. Núi Sưa lù lù như mâm xôi lớn của trại làng Hoa(1) cúng thần Danh sơn Đại xuyên, thần cai quản miền đất rốn rồng thiêng liêng. Núi Khán(2) như là một điểm cao đứng để chiêm ngưỡng nét tươi đẹp của nước non... Nước non! Bất chợt, ông đưa mắt tìm Miên Hằng, vẫy tay gọi:
- Ả vào đây, ta cùng bàn công việc!
(1) ở khu vực Ngọc Hà, vườn Bách Thảo, Hà Nội.
(2) Xế trước của Phủ Chủ tịch.
Miên Hằng bước vào mắt vẫn trân trân ngắm Lý Bôn bụng tự hỏi: Đấng trượng phu hấp dẫn đến thế đã có mấy ả chết vì tương tư?
Lý Bôn không biết tâm trạng của cô gái đang yêu, ông bình thản lên tiếng:
- Có nhiều việc đòi hỏi chúng ta hết lòng. Vận hội có lợi đang đến dần, nghĩa quân phải chuẩn bị sẵn sàng “nhất hô bá ứng”. Anh em nghe ta giao việc: Chú Nam đi sắp xếp lại đội ngũ nghĩa sĩ ở các hương Bôn Đô, xóm Trại Cá, sau đó lên Sấu Giá(1) liên lạc với Lý Phục Man; Miên Hằng cùng chị Bằng đi Long Biên tìm hiểu, nghe ngóng tin tức nhà Lương. Chị Mơ lên sông Cầu mời anh em Trương Hát, Trương Hống xuống đây gặp ta.
(1) Vùng Yên Sở.
Xong công việc với gia đình Vũ Nam, Lý Bôn và Sơn Bất Mẫn ra về ngay. Dọc đường, Sơn Bất Mẫn đề xuất:
- Đệ dẫn huynh trưởng đến gặp một nhân tài...
Nghe nói đến nhân tài, lúc nào Lý Bôn cũng mừng như nắng hạn gặp nước mưa, ông hỏi ngay:
- Ai vậy? - Không đợi trả lời, ông bình phẩm tiếp:- Chú đã để mắt đến ai, người ấy hẳn phải là hảo hán!
Sơn Bất Mẫn đáp:
- Hơn hảo hán một bậc, ông này là dũng sĩ hàng đầu.
Lý Bôn nhìn Sơn Bất Mẫn bằng ánh mắt háo hức. Người tài là nhân tố bảo đảm thắng lợi. Sự nghiệp cứu nước càng có nhiều người tài góp sức càng dễ thắng lợi, ông hỏi dồn, giọng ôn tồn nhưng có sức chỉ trích:
- Ai vậy? Chú thích ta phải sốt ruột chăng?
Sơn Bất Mẫn lật đật thanh minh:
- Huynh trưởng trách nhầm em rồi! Đối với nhân vật khác thường cũng phải vòng vo tung hứng mới có giá chứ. - Bất Mẫn chuyển sang giọng cảm thán: - Ông ta là Phạm Tu, người làng Văn (Quynh Đô) cũng vùng Thanh Đàm(1) ta; ông đã già, khoảng trên dưới sáu mươi tuổi. Nhưng huynh trưởng hẳn biết, gừng càng già càng cay, nếu được cầm quân ông sẽ là một vị lão tướng giàu cơ mưu, giỏi võ nghệ. Theo em, Giao Châu ta ngày nay chỉ có một vài người như vậy.
(1) Tên ngày xưa của huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Lý Bôn hiểu “cái thằng em” tự cao tự đại Sơn Bất Mẫn đã ca tụng ai người đó không thể tầm thường. Ông tỏ ý không bằng lòng, trách:
- Có người như thế mà bây giờ chú mới nói cho ta biết.
Sơn Bất Mẫn nhe răng cười, không phải là chống chế mà là sự thực vốn vậy:
- Huynh trưởng lại mắng oan thằng em này rồi. Từ ngày huynh trưởng về làm Giám quân Vạn Xuân hết bận việc này lại lo việc kia, đệ chen chân vào chỗ nào cho được. Vả lại, cơm chưa nấu thì gạo còn đó, nào có lọt đi đâu.
Lý Bôn gật đầu. Sơn Bất Mẫn nghĩ đúng. Người tài không khinh xuất, họ thà làm anh thợ cày đi sau con trâu hoặc làm gã tiều phu bươn trải trên núi cao rừng sâu chứ chẳng chịu đưa thân vào nơi tăm tối bẩn thỉu.
Lý Bôn là bậc hào kiệt thức thời. Bậc hào kiệt nuôi chí lớn chăm chăm tìm nhân tài là lẽ đương nhiên, ông giục Sơn Bất Mẫn:
- Anh em ta đến làng Văn!
*
Tiếng reo hò cuốn hút bước chân anh em Lý Bôn tới xóm Đô. Trên mảnh sân chữ nhật, mươi thanh niên lực lưỡng cởi trần, đóng khố đứng chung quanh rìa; ở giữa là ông già râu tóc muối tiêu, đóng khố cởi trần, da đỏ như đồng hun, bắp chân bắp tay nổi vồng, cụ đang hướng dẫn các miếng vật: nào móc, nào quét, nào giật, nào đẩy... Chân cụ giẫm như vồ đầm đất, tay cụ múa như rồng uốn, như cánh chim chấp chới bay. Cụ mải mê, nghiêm túc thực hiện từng động tác, khách lạ đến cũng không khiến người đô vật già bận tâm.
Lý Bôn chăm chú quan sát người già thượng võ. Sơn Bất Mẫn cũng thích, nhưng anh không muốn tiếng nói của mình làm phân tâm võ sư nên chỉ khẽ thì thào “Phạm Tu đấy” và dùng khuỷu tay huých hông Lý Bôn ra ý muốn biết sự đánh giá.
Lý Bôn không kìm được niềm phấn khích:
- Bôn chưa từng gặp một đô vật nào ra thế hay đến vậy, lông mã đẹp hẳn phải là chim quý.
Cụ già đô vật ngừng làm động tác, hướng về phía khách lạ, lên tiếng:
- Dám hỏi quý ngài là ai, đến miền đồng chua nước chát này làm gì?
Lý Bôn đáp:
- Vãn bối tên là Lý Bôn, nghĩa đệ đây là Sơn Bất Mẫn.
Phạm Tu sinh ra từ nơi nghèo đói, nhưng chí khí hơn người, cụ vòng tay làm lễ tương kiến đáp bằng giọng vui vẻ:
- Sơn Bất Mẫn thì cả làng Quynh Đô này đều biết. Nhưng túc hạ thì... “Kiến kỳ thanh bất kiến kỳ hình”(1) gặp mặt mới thấy lời thiên hạ không phải là đồn đại. Túc hạ quá bộ tới làng ta hẳn có việc?
(1) Nghe danh tiếng mà chưa biết diện mạo.
Lý Bôn đáp xã giao:
- Nghe danh cụ từ lâu, hôm nay mới đến bái kiến, thực có lỗi.
Phạm Tu là người giàu tâm huyết, cụ muốn cống hiến đời mình cho đất nước khổ đau, nhưng muốn lên cao mà không có thang, muốn qua sông mà không có thuyền, khi đến tuổi xế chiều cụ dồn tâm sức đào tạo cánh thanh niên để may ra có người kế tục. Mới đây nghe tiếng đồn về Lý Bôn trượng nghĩa khinh tài khí phách hơn người, đang khuất thân làm Giám quân Vạn Xuân, cụ có ý đến thăm thì gặp dịp may này. Cụ chỉ tay về phía nhà mình:
- Nếu không chê hủ lậu, xin mời hai vị đến tệ xá ăn miếng trầu và nói những lời phải tai.
Lý Bôn và Sơn Bất Mẫn chỉ mong có thế. Hai người đi theo ông lão đến ngôi nhà sàn có hai cửa ở hai bên hồi nhà, cửa phải đón khách, cửa trái dẫn lên vương quốc của các bà nội trợ; sàn nhà lát bằng luồng bóng ánh màu nâu nhạt. Nhà nhiều cột, trang trí đơn sơ, giữa là ban thờ, hai bên ban thờ bày các thứ khí giới của thợ săn: cung tên, lao, dao bảy... Cây lao có phần đặc biệt, nó không bằng gỗ mà bằng sắt, chủ nhà sử dụng nó như lao, lại như giáo. Quanh vùng tấm tắc khen tài phóng lao, múa giáo của vị đô vật già; lao phóng bách phát bách trúng, múa giáo biểu diễn mà tưng bừng khí thế như Triệu Tử Long xông pha trong trận Trường Bản.
Chủ khách ngồi bằng tròn giữa sàn, phía trước ban thờ, giữa bày cơi trầu và ché rượu cần, cần cong vút như những sừng sơn dương.
Chủ nhà mời khách dùng rượu cần, ba đầu chụm lại, bụng ché rượu cần sôi ùng ục.
Lý Bôn buông cần, khà một tiếng. Phạm Tu, Sơn Bất Mẫn thôi theo.
Lý Bôn ngồi ngay người, dáng ung dung thư thái, ông lên tiếng:
- Được chiêm ngưỡng tài nghệ của lão bá, lại được lão bá cho uống rượu ngon. Men rượu cần khiến lòng người hăng hái muốn bộc lộ, như hoa tới kỳ phải nở, quả tới kỳ phải chín. Bôn dám hỏi, tài nghệ cung kiếm của lão bá có thể đem ra giúp đời không?
Phạm Tu hiểu ý nghĩa câu nói nhưng vẫn hỏi cho minh bạch:
- Hãy nói rõ hơn!
Lý Bôn giãi bày tâm sự và chí hướng:
- Đất nước Tiên Rồng bị ngoại bang xâm chiếm, con em Tiên Rồng bị giặc dữ chà đạp, tiếng oán than vang khắp đồng ruộng, mom sông, triền núi. Người có tâm huyết không ai không dang tay mắm miệng. Phương Bắc đang rơi vào thời kỳ đại loạn, các phiên quốc Ngụy, Chu, Tề, Tống, Lương loạn chiến để giành đất giành dân. Bọn Tiêu Tư vất vưởng không có hậu phương tin cậy. Đây là cơ hội cho người Giao Châu phục quốc.
Phạm Tu chắp tay khảng khái đáp:
- Tu mỗ và các môn đồ xin nghe theo mệnh lệnh của thủ lĩnh.
Lý Bôn mừng lắm, ông thắt luôn:
- Bôn muốn lão bá làm đầu lĩnh nghĩa quân. Lão bá tính sao?
Phạm Tu cũng mừng, được gắng sức vì non sông đất nước thì còn gì đắc chí bằng, cụ khảng khái đáp:
- Chúa công đã cho lão già cập kề miệng lỗ này cơ hội trở thành người có ích.
Lý Bôn nói tiếp:
- Sơn Bất Mẫn là một dũng sĩ, võ nghệ cao cường… ta cử Mẫn giúp lão bá tập hợp, huấn luyện nghĩa quân.
Phạm Tu lại hỏi:
- Hổ mạnh không ở hang, nhưng nghĩa quân nhất thiết phải có thành, chúa công đã có dự định gì về việc đó?
Lý Bôn đáp:
- Trại quân Vạn Xuân nằm bên bờ hồ Vạn Xuân, gần sông Tô Lịch tuy chật hẹp cũng có thể chứa hàng ngàn quân. Nơi đó có đường thủy bộ vận động thuận tiện. Lão bá thấy được không?
Sơn Bất Mẫn đề xuất:
- Tống Bình(1) là tên mới của vùng này. Nó có hai ý nghĩa Tống Bình và Bình Tống. Xin đổi tên trại Vạn Xuân thành thành Tống Bình.
(1) Tên chỉ khu vực Nam sông Đuống nhưng cũng là tên riêng của Hà Nội thời ấy.
Lý Bôn không ngạc nhiên vì một kẻ vũ dũng thường có suy nghĩ nông cạn, ông chưa kịp nói, Phạm Tu đã lên tiếng:
- Người Giao Châu biết Tống Bình là tên do Hiếu Vũ Đế nhà Lương đặt để kỷ niệm chiến công diệt nước Tề bình nước Tống của ông ta. Nghĩa quân không thể dùng tên đó, vì e có sự hiểu lầm trong dân chúng. Người Giao Châu phải nói tiếng của người Giao Châu. Đặt là thành Vạn Xuân là có ý nghĩa nhất. Nơi này là trung tâm của Giao Châu. Sau này lấy lại được đất nước ta đặt kinh đô ở Vạn Xuân cũng rất thích hợp.
Lý Bôn nhìn Sơn Bất Mẫn như ý hỏi: “Cậu đã thấy cái hớ của mình và suy nghĩ sâu sắc của ông cụ chưa?”.
Sơn Bất Mẫn thấy rõ sự kém cỏi của mình. Anh tự giáng một đấm vào đầu, thành thật bộc lộ:
- Quả là đệ chỉ nên chuyên tâm vào việc đao kiếm, không nên lạm bàn những vấn đề tế nhị... - Anh nhìn Phạm Tu vui vẻ nói tiếp: - Từ nay kẻ võ phu này muốn tránh lỗi hồ đồ chỉ nên tuân theo hiệu lệnh của lão tướng quân.
Lý Bôn nói vài nét tình hình nội bộ:
- Trương Hống, Trương Hát, hai tráng sĩ anh hùng cũng đã xuống đây tụ nghĩa. Ta giao cho họ trở về sông Cầu lo chuẩn bị ở mặt đó sẵn sàng phối hợp khi quân ta khởi binh.
Phạm Tu được tin cậy giao việc khó mà lòng mừng như mở cờ:
- Chúa công đối xử rộng rãi như thế mà lão già này không làm nên chuyện thì chết không thể nhắm mắt.
*
Sông Tô Lịch(1) xưa nhận nước của sông Hồng qua Hồ Tây, dồn cá cho ngư phủ, cấp nước tưới cho nông dân các huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận(1), Từ Liêm, Thanh Trì(3)... tới thôn Hạ Liễu (Thanh Oai, Hà Tây), nghĩa là sau khi đã để lại hầu hết lộc trời ban cho dân mới nhờ sông Nhuệ đưa nước trả về biển.
(1) Tên này có từ năm 545.
(1) Quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa và Hai Bà Trưng (các quận nội thành Hà Nội), hai huyện này còn có tên là: Nghĩa Hoài hoặc Tống Chân hoặc Hoài Đức, hoặc Nam Định hoặc Vũ An...
(3) Năm 621 đã có huyện Từ Liêm.
Xóm Cá Tươi(1) nằm bên bờ sông Tô Lịch, lẫn trong rừng tre là ngà inh ỏi tiếng chim hót thú kêu. Những ngôi nhà sàn chỉ cách nhau dăm chục bước chân, đều dựng tựa lưng vào bụi tre mọc như quấn vào nhau, mái nhà phủ đầy lá tre úa vàng, vài chú lợn ủn ỉn dũi đất quanh cột sàn, dăm chú gà táo tác tranh mồi đuổi nhau tới tận nhà hàng xóm; bên cầu thang nhà nào cũng dựng mấy chiếc cần câu, giữa sân hong phơi một vài tay lưới màu nâu.
(1) Còn có tên là Tiên Ngư Trại - bây giờ là phố Hàng Cá, Hà Nội.
Cả xóm nghỉ ra sông vì mấy bữa trước có ông chài bị cá sấu tép mất một chân, toác cả mảng mình, đưa được người gặp nạn về nhà nhưng vẫn không cứu sống nổi.
Không ai dám ra sông Tô chứ đừng nói là sông Hồng. Ai cũng nói, cá sấu lạc vào sông Tô khiến cá sợ chạy hết ra sông Hồng.
Khách buôn từ chợ Tây, chợ Đông, chợ Dừa đến mua cá đành phải về không.
Nghỉ chài lưới vài hôm là nhà hết gạo. Người đói, lợn hộc đòi ăn gậm cột sàn sồn sột, gà đá mổ nhau kêu quang quác vì tranh một mẩu giun. Vậy mà tên tu quan thu thuế cá trên sông đã không thông cảm còn dọa nạt:
- Chậm thuế bắt gái đẹp thay thuế.
Thằng chó Ngô không dọa xuông, từng có nhiều cô gái trẻ bị chúng bắt vì các phường hội thợ săn, mò ngọc trai… chậm kiếm được sản phẩm cống nộp.
Dù mối nguy treo lơ lửng trước cổng, việc kiếm sống vẫn không thể xao nhãng.
Ông Trần đứng giữa sân, vuốt vuốt gại gại các mắt lưới rồi ngửa cổ nhìn lên gác, cất tiếng gọi:
- Ơi Thanh Vân! Xuống đây cha bảo!
Một tiếng thưa, liền sau là những tiếng ván sàn kêu cọt kẹt vì bị sức nặng đè lên và tiếng bước chân hối hả chạy xuống thang.
Đó là cô gái tuổi chừng đôi tám thon chắc, khá xinh xắn. Cô mặc váy đen ngắn, khoác yếm nâu, hai cánh tay trần trắng hồng màu trái đào.
Cô gái nghênh mặt nhìn cha vẻ chờ sai khiến, thay cho câu hỏi.
Ông Trần nhìn con gái, nhìn trời, nói bâng quơ:
- Bụng đói đầu gối phải bò!
Thanh Vân không hiểu bố định nói gì nên lừ bố với ánh mắt đáng yêu.
Ông Trần vẫn nhìn trời, miệng ngâm nga:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Chẳng thạo sông nước cũng người Tô Giang.
Ông tự hỏi, phải chăng đạo lý sống là thế chăng? Muốn sống trong cõi đời gian nan và nhiễu loạn chẳng những phải cần cù một nắng hai sương mà còn phải dũng cảm?
Người sinh ra trên Trại Cá Tươi nổi tiếng gan dạ. Ngày xưa, thời Vua Hùng, ngài Lý Tiến đã rời thuyền lưới cùng trai làng ra tận Vũ Ninh đánh giặc Ân, lập nhiều chiến công, ngài bị thương nặng và hóa thần trên ngay mảnh đất quê hương… Ông Trần nghển cổ nhìn ngôi nhà sàn lớn nơi dân làng lập đền thờ vị anh hùng của quê hương(1). Bất chợt, ông nhìn con gái hỏi:
- Con có sợ không?
Thanh Vân lại lừ bố.
- Hôm nay bố dớ dẩn làm sao ấy! Bố sai bảo gì phải nói rõ con biết đường biết nẻo mà liệu chứ?
Ông Trần dùng người thực việc thực để thuyết phục con gái:
- Anh thợ săn thôn Bái Ân(2) vào rừng săn hổ bị hổ tát suýt mất một mắt mà vẫn vào rừng Thiên Bảo(3)… nhờ có gan mà săn được con cọp chột. Muốn ăn thì lăn vào bếp. Cha con mình ra sông Hồng đánh cá. Cha cũng định đi một mình… nhưng phải có một người chèo thuyền, một người tung lưới.
(1) ở Hàng Cá, Hà Nội có đền thờ Lý Tiến. Đôi câu đối tôn vinh vị thành hoàng này: Nhất khí quán sơn hà, Hùng quốc Long thành lưu di tích. Song tang huyền nhật nguyệt, Đông Kiều, Ngư phố ký di tung (Khí mạnh trùm sông núi, nước Gấu, thành Rồng ghi di tích. Vời vợi vầng nhật nguyệt, Cầu Đông, bến Cá lưu hình xưa).
(2) Vùng Bưởi, Yên Thái, Hà Nội, thế kỷ X vẫn còn hổ.
(3) Nơi xây chùa Một Cột, thế kỷ XI còn có hổ lảng vảng ở đó.
Thanh Vân lại lừ bố:
- Cha cứ làm như đi sứ sang Tàu không bằng. Ngay từ hồi con còn bé tới khi con đã lớn cha vẫn một mực bảo con là cái đuôi của cha kia mà “Cái đuôi vắt vắt theo cha ra sông”…, cha quên rồi à?
Ông Trần cười, ánh mắt lóng lánh cười nhiều. Ông là người cha nhân từ nhưng không chu đáo, nhu cầu của con thật nhiều mà ông lại đáp ứng quá ít, con muốn có chiếc váy sồi mà ông không thể làm con trẻ vui, chẳng hôm nào kiếm nổi số cá đủ đổi chục vuông sồi, các cụ bảo kẻ khó vặt cỏ bỏ miệng cũng chẳng no quả không sai…
Thấy bố đứng ngây người, Thanh Vân ra hồi nhà xách bơi chèo lại vừa dộng dộng chèo xuống sân vừa nói:
- Việc của con đã xong!
Ông Trần giật mình giơ tay quơ tấm lưới giũ cho sóng, gập làm đôi, vắt lên vai rồi vẩy ngược tay, nói:
- Xuống bến!
Hai cha con kẻ trước người sau lên thuyền; ông Trần ngồi đằng mũi, Thanh Vân mắc chèo vào cọc chèo.
Ông Trần lại vẩy ngược tay về hướng Hồ Khẩu, nói:
- Ra sông Cái(1)!
(1) Sông Hồng - sông Nhĩ Hà.
Thanh Vân nhất nhất vâng theo. Cô hối hả đưa thuyền ngược dòng Tô Lịch, vào Hồ Tây, rẽ ra sông Hồng. Thuyền bơi men theo dòng nước lặng ven bờ. Giữa sông nước chảy xiết, sóng cuồn cuộn ào ào, khi xoáy hút xuống sâu, khi đẩy lên từng cồn nước.
Ông Trần đứng choãi chân trên mũi thuyền, oằn người vươn tay quăng tay lưới chụp xuống nước. Thuyền bơi ngược, nặng nề lôi lưới theo. Hàng chục lần thu lưới, cả chục lần không thấy một con cá dính lưới.
Ông Trần quăng lưới lần thứ mười một, miệng than thở:
- Chẳng lẽ trời không thương người chịu khó. Sông Cái chứa đầy cá mà sao…
Chiếc thuyền đang trườn ngược bỗng chững lại rồi bị lôi xuôi. Thanh Vân cố ghìm tay chèo mà thuyền vẫn bị lôi băng băng.
Ông Trần mừng rỡ nghĩ đến chục vuông vải sồi tặng con gái, ông động viên:
- Cố hãm mái! Con cá to đây!
Ông Trần mải vui mà quên giữ thế nên cả lưới và người cùng bị kéo tuột xuống nước. Người dân chài xấu số chưa kịp định thần đã bị tới bốn năm con cá sấu châu đầu vào hăm đớp, một con đớp trúng mạng sườn, nó lôi ông xuống sâu.
Thanh Vân luống cuống gỡ mái chèo, nhưng nhìn mặt nước chẳng thấy cha và đàn cá sấu đâu, chỉ thấy mặt sóng cuồn cuộn lẫn vệt máu đỏ ở chỗ cha vừa ngã. Cô cầm chèo đập, thọc xuống chỗ sóng cuộn mong xua đàn cá hung dữ để cứu cha. Cha chẳng thấy mà thuyền chòng chành muốn ụp.
Thanh Vân ngồi ôm mặt khóc cha, tới khi thuyền chững lại vì bị xoáy nước đánh vào bờ cô mới biết thuyền đã trôi xuống tận Giang Khẩu(1) ngã ba sông Tô Lịch - sông Hồng. Thanh Vân hẫng hụt, bâng khuâng và đau đớn, cô thẫn thờ bước lên bờ ngột bệt xuống bãi cỏ ôm mặt nấc từng tiếng. Con thuyền không neo buộc trôi theo dòng nước.
(1) Bây giờ là phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Trời đổ về chiều, trên sông không một bóng thuyền - bãi dâu ven sông cũng vắng lặng. Thanh Vân chống tay đẩy mình đứng dậy, vai vác bơi chèo, men theo bờ sông Tô Lịch, len lỏi qua rừng tre là ngà, rừng cây tạp trở về Xóm Cá Tươi. Đi hết khu rừng cây tạp, cô phát hiện thấy ba con sói già lẽo đẽo đi sau. Lũ thú dữ này muốn ăn thịt cô chăng? Thanh Vân cảm thấy trợn, cô dừng chân, cầm bơi chèo đập mạnh xuống đất. Lũ sói cũng dừng lại, cúp đuôi, nhe răng gừ gừ một cách dữ tợn.
Thanh Vân biết sức mình không chống nổi ba con sói hung hăng, nhưng bỏ chạy càng nguy. Cô dộng bơi chèo để dọa; lũ sói trùn mình, quặp chặt đuôi, nhe răng gừ gừ tỏ sự cảnh giác nhưng không sợ hãi. Cô đưa mắt tìm một cây dễ trèo. Toàn loại cây to tày ôm. Chẳng lẽ Diêm Vương đã sờ đến cha con cô, có trốn cũng không thoát.
Thanh Vân không dễ dàng chấp nhận cách đối phó hèn nhát. Không thể đứng mãi giữa rừng trong đêm, dù sao cũng phải ra tay. Cô cầm bơi chèo lao lên, lia ngang một cú đánh rất mạnh. Một con sói bị trúng đòn, nó nhảy lò cò, tru một tiếng lớn. Đàn sói bị đánh đã không sợ mà còn hăng hơn, chúng chạy vòng quanh, thỉnh thoảng vọt vào cắn đối phương. Thanh Vân cầm thứ vũ khí nặng so với sức bản thân nên các động tác ra đòn không linh hoạt. Lũ sói chẳng thể lao vào cắn xé, chúng chạy quanh; thỉnh thoảng, cả ba con cùng vươn cổ tru lên từng hồi; chúng gọi thêm đồng loại, dọa con mồi và chờ đối phương kiệt sức. Đó là chiến thuật bản năng của loài sói khi săn con mồi mạnh hơn.
Bỗng, một thanh niên lực lưỡng, đóng khố, cởi trần, tay cầm gậy chạy như nhảy tới. Lũ sói bị bất ngờ, chúng chưa kịp ứng phó đã bị người thanh niên phang tới tấp ba gậy liền. Cú phang đầu tiên làm vỡ sườn một con, cú phang thứ hai làm què cẳng một con, con thứ ba bỏ chạy bị đập vỡ xương đùi cẳng sau.
Thanh Vân đứng ngây người chứng kiến tư thế dũng mãnh, nhanh nhẹn của anh thanh niên. Chỉ nháy mắt đã thắng ba con vật hung hãn, quả là một hảo hán!
Anh thanh niên bước đến trước mặt, trách sự lơ đễnh của cô gái lạ:
- Ả không biết có đàn sói lạc vào cánh rừng này à? Hôm trước chúng ăn thịt con bê của ông trưởng làng Bôn Độ đấy!
Tâm trạng Thanh Vân đang cay đắng về cái chết bất ngờ của cha và cái chết vừa lù lù đến với mình, nhưng cũng còn đủ tỉnh táo cân nhắc sự nặng nhẹ, cô nói:
- Muội cảm ơn đại huynh đã cứu muội!
Lời nói không có nước mắt nhưng giọng nói lại thấm đẫm nước. Anh thanh niên biết cô gái có tâm sự uẩn khúc, nên từ tốn:
- Tôi tên là Vũ Phiên, người xóm Báo Thiên(1) đi săn, nghe tiếng sói tru biết là chúng đang vây mồi nên vội chạy đến đây.
(1) Bên bờ hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Thanh Vân bình tĩnh kể lại chuyện đau thương của mình.
Vũ Phiên cảm thông với tình trạng bi thảm của cô gái, nhưng muốn vào rừng mà không tìm được lối đi. Anh thành thật bày tỏ:
- Tôi ăn nói vụng về… Giá ả đang gánh nặng, tôi ghé vai đỡ ngay. Nếu không có gì bất tiện, tôi đưa ả về tận Tiên Ngư Trại?
Thanh Vân thành thật chấp nhận:
- Muội đang muốn có người ở bên cạnh.
Từ cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ này, hai người năng đi lại thăm hỏi chuyện trò, đỡ đần nhau. Từ cảnh ngộ dẫn đến sự cảm thông, từ cảm thông nảy sinh tình yêu. Thực tình chính họ cũng không biết tình yêu đôi lứa đến từ khi nào, thời kỳ đầu có một hiện tượng rất rõ là: xa thì nhớ, gặp thì thương.
Vũ Phiên tính đến chuyện cưới xin. Một hôm hai người sóng đôi dạo dọc bờ sông Tô Lịch, dưới rặng tre là ngà, anh ướm hỏi:
- Anh muốn vo cho tròn, muội nghĩ sao?
Thanh Vân cầm tay Vũ Phiên nói:
- Ít nhất cũng phải chờ đoạn tang cha!
*
Thế mà ông Trần từ giã cõi đời ồn ào, nhiều niềm vui lắm nỗi buồn này kéo dài đã trên hai năm. Hôm giỗ đại tường(1) Vũ Phiên không đến. Thanh Vân ra vào bồn chồn cả ngày, ôm gối khóc suốt đêm, vẫn không thấy Vũ Phiên đến, chẳng hiểu tại sao nữa. Sáng sau, Thanh Vân toan đến xóm Báo Thiên hỏi cho ra nhẽ. Giỗ cha là ngày trọng đại, sao dám vắng mặt? Hay có chuyện “tham đó bỏ đăng”? Nhưng… cô vừa giận vừa tủi thân nên chẳng thèm, chẳng bõ… Nếu “họ” biết lỗi “họ” sẽ tự đến. Ngày lại ngày “họ” chẳng chịu đến. Tâm trạng Thanh Vân từ sốt ruột phát triển thành lo lắng, hay có chuyện gì bất trắc xảy ra.
Tuy chưa làm lễ trừ phục(2), Thanh Vân vẫn mặc thường phục sang nhà Vũ Phiên.
(1) Hai năm giỗ hết.
(2) Sau lễ đại tường là lễ trừ phục - lễ thay tang phục bằng thường phục.
Vừa trông thấy Thanh Vân, bà Ngoan - mẹ Vũ Phiên đã lật đật chạy xuống thang đón nàng dâu tương lai. Bà hớn hở bộc lộ:
- Mẹ mong con quá! Hàng tháng không tới là cơn cớ sao?
Thanh Vân chẳng hiểu đầu đuôi lời trách cứ ấy, cô ậm à cho qua chuyện.
Bà Ngoan lại hỏi:
- Nó có tin tức gì về cho con không?
Thanh Vân láng máng hiểu ra tí chút. Vũ Phiên đi đâu đó. Hẳn có chuyện. Chuyện gì? Cô đành nói thật:
- Con mong mẹ nói rõ hơn, cả tháng nay con không gặp anh Phiên.
Bà Ngoan nghĩ thầm: “Thì ra thế!”. Bà vừa kéo Thanh Vân lên sàn vừa thì thào:
- Chuyện thằng Phiên với mấy trai xóm này đi đâu chưa thể hở ra được. Chúng nó đi theo Giám quân Lý Bôn…
Thanh Vân nghe phong thanh có một người tên là Lý Bôn về nhậm chức Giám quân trại lính Vạn Xuân. Chuyện ấy muôn thuở vẫn vậy, quan cũ đi quan mới đến, chẳng có gì lạ cả. Cánh thanh niên vào lính cũng là chuyện bình thường. Dù Vũ Phiên là lính dưới quyền Lý Bôn thì vẫn quanh quẩn ở trại Vạn Xuân, có xa xôi mấy mà không về dự giỗ đại tường.
Một già một trẻ lọ mọ trèo hết bậc thang, bước lên sàn, ngồi trước bếp - khu bếp đặt ngay giữa gian chính. Bà Ngoan lấy que cời khều củ sắn nướng phủi tro than rồi đưa cho khách giục:
- Con ăn đi!
Thanh Vân đỡ củ sắn, không ăn mà tiếp tục câu chuyện chưa rõ ràng.
- Vậy mà giỗ hết hai năm bố con anh ấy cũng chẳng tới.
Bà Ngoan xua xua tay:
- Nó có phải là lính đóng ở Vạn Xuân đâu mà về. Cũng là lính nhưng là lính kín… Bọn này ở kín trong rừng sâu, tập luyện…
Thanh Vân vẫn thắc mắc:
- Vùng Tống Bình tuy nhiều đầm hồ sông ngòi nhưng thiếu gì đất cao mà phải vào rừng.
Bà Ngoan che một bên miệng như sợ lời nói của mình lọt ra ngoài:
- Mẹ đã bảo là lính kín mà. Ngài Lý Bôn lập đội lính này để đuổi bọn giặc Lương, đòi lại vạt rừng, bến sông cho chúng ta.
Thanh Vân hí hoáy bóc vỏ sắn, bẻ một nửa đưa cho bà Ngoan, háo hức:
- Mẹ nói thế là con hiểu rồi. Tiếc phận con là gái, nếu không…
Bà Ngoan tách miếng sắn làm hai:
- Là gái thì sao? Hãy nghe mẹ kể sự tích phái quần thoa ở thôn Xốc Súng(1), Đào lão không có con trai, chỉ sinh được ba gái nhưng là những cô gái giỏi giang… cày cấy, săn bắn và chài lưới đều thạo, cánh trai tráng trong thôn phải phục tài. Thời Hai Bà của chúng ta phất cờ khởi nghĩa, ba cô gái họ Đào mộ quân ứng nghĩa, hết lượt trai làng đều theo, các cô các bà thì sốt sắng tới mức nào khỏi phải nói. Anh chị em tập trận ở vạt đất phía trước hồ Súng, đóng trại ở vạt đất phía sau hồ Súng, nơi này còn gọi là Khu ống Lệnh(2), vì nó phát hiệu lệnh tập hợp, nơi anh em phát lệnh ở gọi là xóm Lệnh Cư. Ba bà tướng họ Đào đã kéo quân sang Mê Linh, phò tá Trưng Nữ Vương đánh đuổi giặc Tô Định, thu phục thành trì đất đai Lạc Việt. Khi ba bà hóa, dân làng tôn làm Thành hoàng, dựng đền thờ quanh năm hương khói.
(1) Ngày nay là làng Thổ Quan, Hà Nội. Xưa kia có mảnh hồ ở phía tây nam đình Thổ Quan mọc đây cây hoa súng.
(2) Tên Khu ống Lệnh, Lệnh Cư - theo truyền thuyết có từ thời Hai Bà Trưng, nay vẫn còn mang tên ấy - nay thuộc phường Thổ Quan, khu Đống Đa, Hà Nội.
Thanh Vân liên tưởng tới miền đất quê hương, cô thủ thỉ:
- Hồi còn nhỏ con được cha con cho ngồi thuyền qua Đại Hồ(1) sang hồ Chu Tước(2) và cả hồ sen Kim Liên, hồ súng Hữu Nghiêm… Hoa sen, hoa súng nhiều và đẹp quá, nhất là hương thơm… đến bây giờ con vẫn nhớ.
Bà Ngoan nói tiếp:
- Miền quê ta nhiều ao đầm sông ngòi, bát ngát rừng cây, chim bay kín trời, cá lội chật nước… Thầy địa lý người Ngô nói rằng đây là vùng đất đẹp có rồng chầu hổ phục, mẹ chưa thấy điều đó, nhưng mẹ biết rõ đất thôn Long Đỗ, Lệnh Cư quả là đất đẹp, khí thiêng sông núi phảng phất ở đâu đó.
Thanh Vân tỏ vẻ thành thạo:
- Xóm ta có gò Báo Thiên, có hồ Lục Thủy(3)… cũng là đất đẹp!
(1)Gồm các hồ quanh khu vực Văn Miếu, Văn Chương, An Trạch thông sang Giảng Võ...
(2) Gồm các hồ Bảy Mẫu, Ba Mẫu, Thuyền Quang… xưa còn ăn thông với nhau.
(3) Hồ Hoàn Kiếm.
Chẳng phải Thanh Vân quên mục đích chuyến sang Báo Thiên mà do câu chuyện bà Ngoan kể đã đủ giải thích sự vắng mặt lâu ngày của Vũ Phiên. Cô được an ủi và nhận sự khích lệ mới.
Bà Ngoan cũng nhận được sự khích lệ, dù là vô tình của nàng dâu tương lai. Bà khoe:
- Phiên nhà mình được làm cừ súng chỉ huy ba trăm quân kia đấy.
*
Lý Bôn sau khi phát văn bản hiệu triệu “Phát khí hùng tâm, vì nước gắng sức”, ông rà soát lại kế hoạch khởi binh, bụng tự ước ao: “Giá mà có người giúp ta việc này để ta chuyên tâm lo đại cục thì đỡ biết mấy”.
Vừa lúc Sơn Bất Mẫn vào thưa:
- Có người xưng là học trò xin vào gặp đại huynh.
Linh tính báo cho thủ lĩnh nghĩa quân có điềm lành. Ông hỏi lại:
- Học trò hả?! - Ông đứng dậy vào chỉnh trang lại khăn áo vừa giục:
- Mời ông ta vào đây!
Người “học trò” ấy là Tinh Thiều.
*
Tinh Thiều là bậc túc nho có tài trị quốc an dân nhưng không có cơ hội thi thố tài năng. Ông bảo vợ con:
- Người nổi danh hiền tài hay mang tiếng đớn hèn đều do thời thế và địa vị tạo nên. Kẻ trượng phu lầu thông kinh sách, trên hiểu thiên văn dưới tường địa lý mà không có danh gì với núi sông thì chỉ là con mọt sách, phường giá áo túi cơm, phí công dùi mài kinh sử. Nay ta muốn sang Kiến Nghiệp xin triều đình bổ dụng. ở nhà mẹ con rau cháo lần hồi, đợi ta công thành danh toại, áo mũ xênh xang trở về.
Bà vợ gàn chồng:
- Hổ báo khác nhau cũng như người Hán và người Giao Châu, tôi lo ông sang đó công danh chưa thành mà đã bị hổ vồ.
Tinh Thiều hiểu tình hình hệ thống tổ chức nhân sự của quan quân đô hộ, bọn này lười biếng: quan chỉ lo vơ vét, lính sa đà rượu chè, mặc dân chịu nạn trộm cướp, đói khổ. Ông muốn góp mình vào chỉnh đốn cái sai, khuyến khích cái đúng để quan đúng là cha mẹ dân. Đại trượng phu mà không làm được điều có ích cho đời há chẳng hổ thẹn lắm sao. Ông nói:
- Bà nói vậy là sai rồi, đất thiên hạ là của hoàng đế, người trong thiên hạ là thần dân của hoàng đế. Lý nào họ cấm cửa riêng ta.
Nói rồi Tinh Thiều nhất quyết ngồi thuyền sang Kiến Nghiệp. Đến kinh đô nhà nước đô hộ ông dâng biểu bày tỏ ý nguyện:
- Đức vua ban ân huệ cho bề tôi công đức ví như trời ban mưa cho mùa màng. Người Hoa Hán là con dân của đức vua, người Giao Châu cũng là con dân của đức vua. Vậy mà đức vua chỉ cất nhắc những người Hoa, Hán làm quan tả hữu, người Giao Châu bị bỏ quên, như thế há chẳng phải làm cha mà con yêu con ghét. Dân đen cho rằng đức vua ban ơn mưa móc cho người biên cảnh mới tỏ được đức bao dung trời biển của bậc hùng chủ, như thế cũng hợp lý trời, được lòng người.
Hiếu Vũ Đế xem bản tâu liền cho vời Tinh Thiều vào chầu. Vua phán hỏi:
- Gã tiện dân kia, ngươi có thể làm gì?
Tinh Thiều cảm thấy bị khinh miệt, nhưng vẫn nhịn nhục, chắp tay tâu:
- Bệ hạ giao quyền giao việc, tiện dân sẽ không làm nhục mệnh vua.
Nghe khẩu khí đằng đằng như bốc khói, quan Hữu ti Tôn Chính Biệt hạch:
- Một kẻ Nam man mọi rợ mà dám ngông cuồng. Tội khinh mạn đáng chém đầu.
Tinh Thiều phản bác:
- Ngài quá lời chăng. Người Hán hay người Giao Châu cũng đều là linh khí của trời đất cả, linh khí không phân biệt cao quý hay bần tiện.
Nghe nghị luận thấu tình đạt lý, Hiếu Vũ Đế phán:
- Trẫm phong nhà ngươi làm Túc vệ!
Được phong quan mà như bị làm nhục, Tinh Thiều cắn răng chịu đựng, sau đó lẻn trở về Giao Châu. Sau chuyến mang chuông đi gõ xứ người không thành, Tinh Thiều hiểu ra rằng “kẻ đô hộ nói gì làm gì vẫn cứ là kẻ đô hộ”. Ông về nhà, toan sống trọn đời “lão già an chí”, bưng tai nhắm mắt trước việc thiên hạ. Khốn nỗi “cây muốn lặng gió chẳng đừng”. Người có tài chẳng khác gì sản phụ tới kỳ sinh nở, tạo hóa không cho phép tự thoái thác nghĩa vụ sinh nở. Tinh Thiều cũng mong mỏi có cơ hội bộc lộ tài năng, vì đời mà gắng sức, nhưng sau khi bị triều đình nhà Lương làm nhục, ông hiểu rằng dù có là trọng thần của triều đình thì cũng chỉ là vong quốc nô, sự kiện Kiến Nghiệp khiến ông xác định phải dùng tài năng của mình phục vụ quê hương Giao Châu. Ông suy nghĩ về lẽ được mất, càng nghĩ càng giận bọn ngoại bang ngạo mạn và mình nông cạn “Ăn cây táo mà toan rào cây sung”. Ta tự cho là người đọc sách mà xử sự như một kẻ cơ hội mù quáng. Ông chọn giải pháp sửa sai và tự cho là đúng đắn nhất. Ông lắng nghe tình hình tụ nghĩa ở các nơi và hành tung của các bậc hào kiệt. Ông nghe dân chúng nói nhiều về Lý Bôn, ông cho con cháu đi thăm dò và tự mình đi kiểm tra. Đúng là một thủ lĩnh đức độ, có chí lo việc nước. Khi đọc bản công bố hiệu triệu khởi nghĩa của Lý Bôn, ông tức tốc đến gặp lãnh tụ nghĩa quân.
Lý Bôn nói chuyện với Tinh Thiều suốt buổi, tâm đắc lắm. Lý Bôn thành thực bày tỏ:
- Có tiên sinh kề vai sát cánh, quân khởi nghĩa như được chắp thêm cánh, mọc thêm vây.
Tinh Thiều bàn:
- Dùng sức có thể thắng mười người, dùng mưu thắng vạn người, biết dùng người mới có sức mạnh, có dân mới có sự nghiệp, vì thế, việc quân phải vận dụng mưu kế là chính, việc nước phải lấy lợi dân làm đầu. Hẳn chúa công đã nghĩ tới điều ấy.
Lý Bôn không ngạc nhiên khi Tinh Thiều tôn mình là bậc chúa công, cũng phải thôi, ông xướng nghĩa và đứng đầu cuộc xướng nghĩa mang danh vị ấy không thể coi là quá. Ông chấp nhận để sự thế tự tiến triển. Ông bàn công việc:
- Lời tiên sinh là sách lược của nghĩa quân - Ông nói tiếp - Vận hội đuổi kẻ ngoại bang ra khỏi bờ cõi đã tới. Tiêu Tư có trong tay năm nghìn quân, tuy sống an nhàn nên chểnh mảng nhưng là những người lính được huấn luyện. Tiên sinh có cao kiến gì?
Tinh Thiều đáp:
- Trung Quốc bị chia làm hai miền thế lực theo địa phương nam bắc, mỗi miền lại chia thành nhiều cương vực lãnh thổ, chúng không ngừng khởi binh thôn tính lãnh thổ của nhau… Từ thực tế mà nhận định thì tình hình loạn chiến ở Trung Quốc có thể kéo dài hàng trăm năm. Chúng mải tập trung lực lượng đánh nhau, đó chính là cơ hội giúp ta phục quốc. Chúa tôi ta hãy cùng nhau bàn lẽ được thua. Tiêu Tư có năm nghìn quân nhưng chia ra giữ các nơi - bắc tới Hợp Phố(1), nam xuống tận Nhật Nam(2), ngoài một số Giám quân là người Hán còn toàn là người Giao Châu. Chúng ta áp dụng chiến lược của Hai Bà Trưng “đánh chết đầu rắn”, sau khi chiếm xong thủ phủ Long Biên, ta phái người đi tảo phạt, phủ dụ các nơi… Lính giáp binh Giao Châu hẳn sẽ quay giáo về với chúng ta.
(1) Nay thuộc Trung Quốc - phía trong bán đảo Lôi Châu.
(2) Các tỉnh Trung Trung Bộ.
Lý Bôn hớn hở tiếp nhận những kiến giải hợp tình thấu lý:
- Lời bàn của tiên sinh hợp với trù tính của ta. Hai người một ý khó có thể sai. - Ông chuyển giọng: - Ngày khởi sự sắp tới, ta mong tiên sinh trù liệu giúp nghĩa quân về lương thực, vũ khí, đưa người vào việc.
Tinh Thiều nhận lời:
- Tinh Thiều sẽ không phụ sự tin cậy của chúa công. Vãn sinh sẽ vận động lòng trượng nghĩa của dân chúng để có sự giúp đỡ về lương thực, sẽ mời thợ rèn thạo nghề ở các làng; việc bổ nhiệm các quan chức vãn sinh sẽ lo, sau khi trình chúa công mới sắp đặt.
*
Trời không mây mà u ám. Vầng thái dương sáng lạn trốn ở đâu. Dân chúng thủ phủ Long Biên vẫn qua lại, nhưng sao vẫn thấy tẻ nhạt vắng vẻ.
Từ trong dinh Thứ sử, đoàn người ngựa nghênh ngang đi ra. Lính hầu mặc đồng phục màu xanh tím, áo cài khuy vải, quần chẽn gấu, ngang hông buộc vải vàng, chân dận hài mũi ngọn màu đen. Chiếc kiệu sơn đỏ, mái xanh che rèm vàng tám người khiêng ngông nghênh đi chính giữa. Dẫn đường là sáu nhạc công trang phục màu đỏ khua chũm chọe, đánh thanh la inh ỏi; tiếp theo, mươi người lính xếp thành hai hàng dọc, tay cầm cờ vuông màu trắng tua đen; hộ tống phía sau cũng khoảng mươi người, giáo vác trên vai; chỉ huy bọn hộ vệ là viên Trưởng cơ mặc áo giáp, đội mũ trụ đồng, cưỡi ngựa ô, ngang hông lắc lư thanh kiếm nhại kiều Long Tuyền.
Thứ sử Tiêu Tư ngồi như bụt mọc trong kiệu. Hắn đang trầm tư nỗi gì? Đến nhà hát mà hắn phải dùng nghi trượng như bậc đế vương đi thị sát dân tình. Tiêu Tư là em vua nhà Lương, hắn cậy dòng hoàng thân quốc thích, lại trị nhậm ở ngoài biên cảnh, đương nhiên hắn là anh hùng nhất khoảnh, là một ông vua chư hầu. Vua chư hầu? Hắn thích bộ hạ xưng tụng mình như thế. Biết đâu, nếu có cơ may hắn có thể kế ngôi ở kinh đô Kiến Nghiệp. Hiểu sao được cơ trời và phúc phận. Nhưng làm hoàng đế chưa chắc đã sướng bằng vua chư hầu. Vua chư hầu nằm khểnh hưởng lộc trời chẳng phải đụng đến can qua, hoàng đế thì lao tâm khổ tứ lo chuyện đánh nhau giành giật đất đai. Nói sao thì nói, ở cái xứ sở trùng trùng núi cao rừng thẳm, nhan nhản ao hồ đầy nước, chằng chịt sông ngòi cuộn sóng lăn tăn, hắn là vị chúa tể muốn gì được nấy, muốn thế nào ra thế ấy, sướng hơn hẳn “mấy bác” hoàng đế bên Trung Nguyên. Ngay chuyện tích lũy cũng định sao được thế. Sảnh thừa ti thu đủ các loại thuế để nuôi guồng máy đô hộ và làm cống phẩm; toàn của lạ vật quý: ngọc trai, ngà voi, quế và rất nhiều châu báu vàng bạc. Hắn chuyển về kinh đô Kiến Nghiệp bốn mươi xe cống phẩm, nuôi hệ thống đô hộ hai mươi xe và đưa vào kho nhà mình hai mươi xe. Hắn ngồi ở xó Giao Châu hẻo lánh, nhưng giàu nhất thiên hạ, kể cả mười nước Trung Nguyên bói cũng không ra một vị hùng chủ cao sang như hắn. Trong thâm tâm, Tiêu Tư nhận thấy hắn trên trướng mấy lão hoàng đế bên chính quốc, thoải mái vui chơi tửu sắc, chẳng bận lo chém giết nhau, công khố dồi dào, gươm giáo để gỉ. Vạn tuế sự bình yên! Để minh chứng cho phong cảnh thái bình, hắn chỉ phô trương nghi trượng lập uy, rong ruổi đến các tửu lâu để biểu dương sự giàu có và cuộc sống an hòa. Dân chúng Giao Châu chịu giáo hóa hay bị đưa vào vòng cương tỏa không thành vấn đề, miễn rằng họ cứ sống an phận như thế.
Trưởng sử Mai Chí Lộ đi lại, quan hệ với nhiều giai tầng Giao Châu nên hiểu thực tế hơn. Hắn quan sát người Giao Châu khi họ gặp quan lại Tòa thứ sử: khóe mắt nhìn, bước chân đi, cách chìa khuỷu tay... hành vi nào cũng có ngôn ngữ biểu thị sự oán giận, khinh miệt. Quan sát tinh tế mới biết, biết mà chẳng làm gì được. Dữ như hổ nó cũng chỉ vồ mồi khi đói, không dưng bắt bẻ hạch tội người chỉ có kẻ điên, loại khờ dại mới làm. Góp gió thành bão, hiểm họa ấy không thể coi thường.
Mai Chí Lộ cảnh báo, nhắc nhở vị quan nhất đẳng thạo các ngón nghề bớt xén của cống nộp và la đà trong biển tửu sắc:
- Chớ coi thường những con sóng ngầm!
Tiêu Tư phẩy tay coi khinh. Để chứng tỏ niềm tin an bình và ham muốn tửu sắc, hắn sai sửa soạn “nghi trượng” giong phố rồi đến nhà hát.
Nhà hát “Đệ Nhất Trần Gian” nổi tiếng ở Long Biên đã từng rất nổi tiếng ở kinh đô Kiến Nghiệp. Hồi về kinh đô triều kiến Hoàng Thái hậu và Hoàng huynh, Tiêu Tư được mẹ và anh gọi gánh hát “Đệ Nhất Trần Gian” đến úy lạo và giúp “hoàng nhi”, “hoàng đệ” rửa sạch bụi đường dài. Gánh hát lộng lẫy quá, sân khấu càng tưng bừng; cô đào Mỹ Lệ Nương xuất hiện, giọng oanh cất lên thì chim bách thanh cũng phải dỏng tai lắng nghe, nhất là lúc cô múa, cô lượn, cô uốn éo, đôi môi hồng chúm chím, cặp mắt phượng long lanh ngắm mà “khốn khổ làm sao”. Hằng Nga trên cung Quảng Hàm ngó xuống cũng phát ghen. Gã đa tình Tiêu Tư bị thu mất hồn, ngồi ngây như phỗng đá.
Hoàng Thái hậu thấy lạ hỏi:
- Có chuyện gì, hoàng nhi?
Tiêu Tư chẳng kịp đắn đo, mà cần gì phải cân đong nặng nhẹ:
- Bẩm Thái hậu, hoàng nhi mê gánh hát này quá. Hoàng nhi ở miền hoang vu mọi rợ, buồn nhớ Thái hậu và hoàng huynh mà chẳng biết làm gì cho khuây khỏa. Có được gánh hát ấy thì hoàng nhi cũng đỡ cô quạnh.
Tiêu Tư xin bỏ ra một xe vàng để mua gánh hát đem về Long Biên. Đệ Nhất Trần Gian là báu vật của triều đình, nhưng Thái hậu và nhà vua nghĩ thương kẻ xa nhà, sống ở nơi heo hút, hẻo lánh nên bấm bụng “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
Về Long Biên, Tiêu Tư nuôi gánh hát trong tư dinh. Nhưng, nghệ sĩ mà mất tự do thì chẳng khác chim phượng hoàng bị nhốt trong lồng, suốt ngày xù lông thõng cánh. Tiêu Tư biết nguyên nhân bắt người ta cười thì chỉ nhận được nụ cười gượng. Kẻ tham tàn đành phải cho họ mở rạp ngoài phố. Cũng hay, bọn họ biểu diễn nuôi sống được mình lại còn có “quà hậu” dâng biếu quan chủ.
Nghi trượng quan Thứ sử dừng trước cửa Đệ Nhất Trần Gian, tiếng thanh la, chũm chọe vẫn inh ỏi... các đào kéo đã ùa ra đón. Đưa mắt tìm Mỹ Lệ Nương không thấy, Tiêu Tư gục gặc đầu với vẻ hài lòng. Mỹ Lệ Nương cao giá lắm, người đẹp là báu vật của trần gian, nàng thuộc hàng đệ nhất trong những báu vật. Nàng kiêu kỳ như Điêu Thuyền, nàng kênh kiệu như Đát Kỷ; đố ai dám bờm xờm hoạch họe, tỉa tót nàng, kể cả bậc quyền quý như Tiêu Thái hậu, thét ra lửa như Hoàng đế đương kim. Vưu vật ấy dám chết để bảo vệ tính cách của mình. Thế mà Mỹ Lệ Nương chịu ngả vào vòng tay Tiêu Tư. Kể cũng lạ! Người ta bảo: Thuyền quyên lụy anh hùng. Mà anh hùng gì cái thứ Tiêu Tư. Hắn chỉ mang danh hão hoàng thân quốc thích, chứ có tài kinh bang tế thế gì đâu. Hắn chỉ giỏi trưng mã và giỏi lẻo khẩu. Thì ra đàn bà ưa ngọt.
Bỗng Tiêu Tư trớn mắt nhìn một cô gái như bị ma quỷ hớp mất hồn. Hắn thực sự ngạc nhiên về sự kỳ diệu của tạo hóa, tạo hóa luôn làm nảy sinh những hiện tượng bất ngờ. Dung nhan của cô gái này hơn hẳn Mỹ Lệ Nương, hơn gấp mười lần, gấp trăm lần.
Viên Trưởng lại hiểu sự tình, vội bước ra thưa:
- Bẩm chúa công! Đó là ả hầu mới xin vào làm việc trong rạp hát. ả ta tên là Miên Hằng.
Không kịp suy nghĩ, Tiêu Thứ sử hạch luôn:
- Sao lại làm việc vặt! Một mỹ nữ như thế sao phải khổ thân làm việc vặt.
Tiêu Tư lên lầu ngồi đối ẩm với Mỹ Lệ Nương, chuyện trời mây, chuyện triều đình... chuyện gì gã đa tình cũng vận dụng mỹ nhân Miên Hằng: ráng chiều lộng lẫy như Miên Hằng, việc triều chính ung dung như Miên Hằng ngủ trưa.
Mỹ Lệ Nương nói dỗi mà lại có ý chê bai nhân cách bậc bề trên:
- Ngồi bên thiếp mà ngài Thứ sử khen vẻ đẹp lộng lẫy của mỹ nữ khiến thiếp tự thấy hổ thẹn.
Tiêu Tư biết mình hớ, nhưng lúc vội vã, tâm trạng bối rối, trí óc ứng xử linh hoạt, tế nhị bay đâu mất, hắn lúng túng tự bào chữa mà hóa ra công nhận:
- Ờ, ờ... Miên Hằng cũng đẹp!
Tiêu Tư chán uống rượu, nói chuyện... dẫu ngồi bên là người đẹp Mỹ Lệ Nương, đẹp như Hằng Nga cũng chẳng là gì so với Miên Hằng, hắn đứng dậy đòi có người đẹp Miên Hằng lên chào mới dứt áo ra về.
Trên đường về, Tiêu Tư nghĩ thấy mình xử sự quá nông nổi. Mỹ Lệ Nương không phải hạng mỹ nhân chấp nhận sự xúc phạm. Miên Hằng xinh đẹp hơn Mỹ Lệ Nương, nhưng vẻ yêu kiều dịu dàng thì không một mỹ nữ nào dưới gầm trời này bằng Mỹ Lệ Nương. Muốn chiếm cả Miên Hằng, ta phải khéo léo, hấp tấp thì chim mới chưa tóm được lại bay luôn con chim đang nhốt trong lồng.
Mỹ Lệ Nương đem tấm thân ngàn vàng khó mua trao vào tay Tiêu Tư, ngỡ mình tìm được người lý tưởng, không ngờ vớ phải hạng tốt mã rẻ cùi. Làm hại một cô gái là hèn, xéo một đóa hoa thì không gì bỉ ổi, đốn mạt bằng; dẫm đạp một đóa hoa tuyệt đẹp trong vườn hoa tuyệt đẹp là loại bất nhân độc ác. Một mỹ nhân như Miên Hằng không thể chịu kết cục hẩm hiu như mình.
Mỹ Lệ Nương là người nhân hậu, nàng hiểu trong chuyện này Miên Hằng không có lỗi. Nếu bắt lỗi thì chỉ tại tạo hóa tạo ra một mỹ nhân quá đẹp và một gã đàn ông có nhân cách tồi tàn. Nàng là một mỹ nhân nên biết rõ thân phận mỹ nhân, nếu không cứng cỏi như cây tre gai thì rất dễ bị cơn bão cuồng vọng bẻ gãy. Nàng khuyên Miên Hằng:
- Em không thể ở đây được nữa! Phải nhanh nhanh chạy trốn mới kịp thoát khỏi gã đàn ông tàn bạo - Nàng ngừng lời, nói như tự trách sự nhẹ dạ của mình: - Đời chị trải qua bao huy hoàng không ngờ lại lọt vào tay một kẻ tăm tối, tâm địa không lang sói nhưng hành động thì ác độc hơn lang sói.
*
Miên Hằng nhận lệnh của Lý Bôn lên Long Biên tìm hiểu tình hình quân địch, nhất là quan quân đô hộ. Để làm công việc này cô đóng nhiều vai. Cô biết sắc đẹp trời cho là một ưu thế có thể dễ dàng kết thân với bậc chính nhân quân tử, nhưng cũng là một nhược điểm - mỹ nhân là miếng mồi ngon mà bọn đa tình bất lương nhòm ngó, tìm cách chiếm đoạt. Cô phải mặc quần áo rách, bôi nhọ mặt mũi, da dẻ, vò xù tóc... chỉ bằng giọng nói chân thành ngọt ngào, cô làm phụ bếp cho nhà hàng này, gồng gánh thuê cho nhà buôn kia... để có cơ hội tiếp cận các nguồn tin. Cô đã thu thập được nhiều thông tin quan trọng. Có lẽ bên Kiến Nghiệp loạn lạc chưa yên, cần nhiều nhân tài để xử lý tình huống gay cấn nên họ phái sang Giao Châu các quan văn, tướng võ thuộc hạng tầm thường, có kẻ là con ông cháu cha nên dẫu bất tài vô đức vẫn được bổ dụng vào chức vụ cao - hiệu úy Lã Can, Trưởng sử Chu Thích - là một ví dụ về kẻ hèn ngồi ghế nhất. Chỉ riêng bản lĩnh của Tiêu Tư là chưa hiểu mấy, hắn có thế mạnh cơ bản, điểm yếu chí tử nào... thủ lĩnh nghĩa quân cần nắm vững vấn đề ấy.
Nhằm thực hiện việc khó này, Miên Hằng xin vào phụ việc trong rạp hát Đệ Nhất Trần Gian. Quản rạp bị sắc đẹp của Miên Hằng khuất phục khi mới thoạt trông thấy; cô vừa ngỏ lời hắn đã sốt sắng tiếp nhận và đưa luôn cô lên lầu gặp Mỹ Lệ Nương, nhờ người đẹp Kiến Nghiệp trang điểm cho người đẹp Giao Châu.
Miên Hằng ăn vận trang phục người Hán thì... Mỹ Lệ Nương ôm chầm lấy cô mà nức nở khen:
- Em đẹp quá! Đến chị cũng phải ghen với em. Chị là mỹ nhân đệ nhất miền Hoa Hạ, có thể đẹp nhất Trung Nguyên nhưng em đẹp hơn... Đát Kỷ, Tây Thi, Điêu Thuyền xinh đẹp, lộng lẫy đến mức nào chị không biết, nhưng trọn đời chị chưa thấy mỹ nhân nào đẹp hơn em... Nhưng... - Nàng ngừng lời như để nhấm nháp nỗi cay đắng, phũ phàng ở đời. Có nhan sắc là có hệ lụy, người càng đẹp hệ lụy càng đớn đau... Cuộc đời nàng trinh trắng, không hổ thẹn là vưu vật của trời đất. ấy thế mà, chỉ một lúc nhẹ dạ cả tin vào sự hào nhoáng mà ô danh một đời trinh bạch. Nàng không muốn một mỹ nhân sắc nước hương trời như Miên Hằng rơi vào cảnh ngộ bi thảm. Từ bản thân nàng suy ra, kẻ ấy dày liễu vò hoa chán chê như con ong hút hết nhụy mật rồi thản nhiên bay đi, hoa tàn hoa rụng không cần biết... Nàng thương Miên Hằng nhưng liệu mình không giúp đỡ, bênh vực nổi, nếu làm gay gắt thì người đời cho là ghen tuông, mà ghen tuông là thói xấu của nữ giới, vả chăng, ghen tuông chỉ chứng tỏ sự yếu kém của mình trước đối phương. Suy đi tính lại, nàng chỉ có lời khuyên:
- Em muốn bảo toàn danh tiết, tránh bàn tay bẩn thỉu của con quỷ dâm ô dày vò thì nên tìm đường trốn đi, càng xa càng tốt.
Miên Hằng hiểu nguy cơ, nhưng cô là người cứng cỏi, thủ tín... Cô đang có nhiệm vụ điều tra tình hình quan quân đô hộ, việc làm mới được một phần sao cô dám sợ hiểm nguy mà không làm cho trọn việc. Mỹ Lệ Nương hiểu biết nhiều về gã Thứ sử. Vì nghĩa cả cô dám mạo hiểm ở lại thu lượm thêm tin tức về nhân thân kẻ cầm đầu bộ máy đô hộ, Mỹ Lệ Nương không nghi ngờ cô là mật thám của nghĩa quân nên rất dễ nói lời sơ hở.
Miên Hằng biết Mỹ Lệ Nương thương mình chứ không phải đánh ghen. Từ tình hình thực tế diễn biến và lời thì thào to nhỏ có thể thấy Mỹ Lệ Nương đang buồn phiền vì bị phụ bạc. Một khi người đàn bà bị phụ bạc thì sóng gió sẽ nổi lên, tính ghen của người có danh phận ắt không sỗ sàng, nhưng chắc chắn sẽ rất sâu sắc, dễ thông cảm và mong muốn thổ lộ tâm trạng. Cô sẽ lợi dụng tình thế này để khai thác tin tức. Cô gái moi tin đổ thêm dầu vào lửa:
- Ngài Thứ sử là vị quan cao chức cả, là phương diện quốc gia, một vị quan đạo mạo đường hoàng, rất hay đi thăm hỏi dân tình, giúp đỡ người khốn khó. Một vị quan tốt không thể có hành vi buông tuồng.
Chỉ cần nhìn cái đuôi thò ra ngoài bụi rậm là có thể biết ngay, đó là con thỏ hiền lành hay con sói hiểm ác. Mỹ Lệ Nương hiểu điều đó, chẳng khác quan hệ giữa hôn quân và nịnh thần thời xưa: Khi yêu thì cái gì cũng đúng, cũng đẹp; khi ghét thì cái đúng ấy bị ghép vào tội khinh mạn, cái đẹp trở thành cách nịnh bợ coi thường sự anh minh của bậc đế vương. Nàng đã dại dột khi yêu thì việc gì cũng hay, bây giờ kẻ kia lộ rõ bản chất, nàng thấy mình đánh giá người quá hời hợt, quá lầm lẫn. Nàng mỉm cười mỉa mai, nói:
- Tốt với con hát nhưng không đạo mạo với con hát, ông “quan tốt” ấy từ khi nhậm chức Thứ sử ở Giao Châu đã làm nên nhiều công tích với giới tửu sắc, nhưng công việc Tòa thứ sử thì bỏ bễ, mặc nó tự thân phát triển, hoặc giao phó cho bọn Trưởng sử, Hiệu úy khu xử. Thật là một kẻ tắc trách, cẩu thả chỉ biết chạy theo dục vọng. Trước đây thế nào không biết, từ ngày Đệ Nhất Trần Gian sang Giao Châu chị từng thấy ông ta ngồi cạnh gái đẹp nhiều hơn ngồi vào ghế Thứ sử. Quả tình lúc đầu chị cũng hãnh diện vì được quan Thứ sử dành mọi sự ưu ái cho chị nên bỏ ngoài tai những lời đồn đại về tính xấu của ông ta, chỉ nghĩ ông ta đối xử tốt với mình là đủ. - Bất chợt nàng thở dài với vẻ chán chường, nói tiếp: - Chẳng riêng Tiêu Tư trác táng, mải mê chạy theo tửu sắc hơn quan tâm tới chức trách mà bọn quan lại cấp dưới cũng xấu xa, hư đốn không kém; thầy nào tớ ấy, thản nhiên làm mọi việc hủ bại, lấy cắp công khố, bòn cướp của dân, hối lộ quan trên, gây bè cánh hại nhau, tranh quyền giật chức, nói thì nhân danh đạo đức những Khổng Tử, Lão Tử, làm thì như Bá Hi, Đạo Chích... - Nàng chuyển giọng, bộc lộ tâm trạng u uất, cay đắng về hạng người đê tiện nhưng vẫn ra vẻ uy nghi, đạo mạo. - Vậy mà, ai vạch trần sự thối tha, xấu xa ấy thì khốn khổ với chúng. Đấy là vùng đất riêng, vùng đất thánh của bọn cầm quyền hủ bại.
Miên Hằng cứ ngỡ một mỹ nhân như Mỹ Lệ Nương thì cuộc đời thanh thản sung sướng, nào ngờ chứa chất trong cái vỏ hào nhoáng, đài các ấy là những nỗi day dứt u uất. Vậy thì... không cơ hội nào dễ khơi chuyện như dịp tâm sự với người đang sống trong tâm trạng thất vọng. Cô đã biết tình hình nội bộ của bọn đô hộ, càng muốn biết về cá nhân Thứ sử Tiêu Tư và nhất là cần tận dụng tình thế để tìm hiểu các vấn đề hệ trọng khác mà thủ lĩnh cần nắm vững trước khi khởi sự. Cô tiến sát mục tiêu hơn:
- Chị nói thế nào chứ, một vị quan trấn thủ biên cương, giữ bình yên cho trăm họ phải có tài năng đức độ mới có được sự tín nhiệm của triều đình. - Cô thúc đẩy hơn nữa: - Lâm ấp ở phương Nam bên kia dãy Hoành Sơn là một quốc gia hùng mạnh, không phải người có bản lĩnh hơn đời thì không thể bảo vệ nổi Giao Châu.
Mỹ Lệ Nương tỏ vẻ khinh thường ra mặt:
- Tài cán nỗi gì, cờ đến tay ai người ấy phất. Không phải là hoàng đệ của vua nhà Lương, Tiêu Tư suốt đời là gã thư sinh dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
Miên Hằng biết Mỹ Lệ Nương nói đúng nhưng cũng hơi quá, có vẻ như nàng trút hết cơn giận dỗi vào lời chỉ trích nặng nề. Dù sao, bước đầu, nhờ cơn giận hờn của cô gái bị phụ bạc mà cô biết nhiều điều quan trọng về Tiêu Tư - chủ soái của giặc: ham chơi hơn ham làm, cẩu thả trong ứng xử, chủ quan coi thường các mầm mống của nguy cơ.
Chị Bằng cùng đi với Miên Hằng vẫn trú ở ngoài nhà dân biết chuyện cũng khuyên:
- Là con gái có thân phải lo, em là cô gái xinh đẹp nên càng phải lo tự bảo vệ.
Miên Hằng không nghe, tuy những tin tức cô khai thác được đã có giá trị, nhưng đổ vào buồng càng nhiều thóc ngô càng tốt, thứ nào cũng giúp no bụng. Cô viết bản tường trình, bảo chị Bằng mang về Vạn Xuân đưa cho Lý Bôn.
Lý Bôn đọc thư và nghe lời kể của chị nghĩa quân, vội viết mấy chữ:
“Việc nàng làm được đã tốt lắm rồi không nên mạo hiểm nữa. Ta lo lắm, nàng phải về ngay”.
Miên Hằng nhận được thư, liền viết lời phúc đáp:
“Thủ lĩnh hẳn còn nhớ buổi chúng ta đi dạo quanh hồ Vạn Xuân đã hứa hẹn với nhau “quyết quên thân mình vì đất nước của tổ tiên”. Vì việc đại nghĩa em không ngại mạo hiểm”.
Miên Hằng biết Tiêu Tư dẫu xấu xa càn rỡ đến mấy vẫn là vị hoàng thân trọng thần, buộc phải giữ thể diện, không thể trắng trợn làm điều bẩn thỉu. Cô tin rằng có Mỹ Lệ Nương làm vật cản, chỉ cần ứng xử khéo léo, trước mắt hẳn không có chuyện gì xảy ra.
Cô dám mạo hiểm là muốn làm một việc hệ trọng nữa, ngoài các lĩnh vực tình hình các tướng soái, quân số, vũ khí, lương thực, cô còn muốn vẽ sơ đồ thành Long Biên. Thủ lĩnh không giao cho cô làm nhiệm vụ nguy hiểm này. Nhưng cô là người thông minh, từ việc muốn thả lưới bắt cá phải biết ao nông sâu rộng hẹp thế nào, cô luận ra muốn đánh thành trì phải biết đại thể về thành trì đó. Cô thu thập dữ liệu từ nhiều nguồn tin khác nhau: Tự đi tìm hiểu, hỏi dò những người dân sống lâu năm ở Long Biên, nghe binh lính đến rạp hát kháo chuyện. Kết quả thu được mỹ mãn ngoài mong muốn. Thành Long Biên cách sông Cầu không xa, kiến trúc đơn giản, đường thủy có chi lưu sông Đuống lên, chi lưu từ sông Cầu xuống, chi lưu sông Cầu rẽ sang..., đường bộ cũng nhiều.
Miên Hằng hoàn thành công việc, chuẩn bị về Vạn Xuân thì gặp nạn. Con quỷ già Tiêu Tư không giữ thể diện nữa, sai quân hầu đến bắt.
*
Thứ sử Tiêu Tư ngồi sau bàn giấy trong thư phòng; bên phải là tủ sách toàn loại trước tác bất hủ như Kinh Thi, Kinh Thư, Sở Từ, Pháp Trị, Sử Ký...; bên trái là giá cắm các loại binh khí: giáo, đao, trùy, phụng..., sát tường là hai thanh trường kiếm treo chéo cánh sẻ, bộ cung tên lủng lẳng phía dưới. Ngắm các thứ sản phẩm văn hóa đặc sắc nhất của thời đại, ai cũng phải công nhận chủ nhân tòa nhà này chuộng văn thơ, ham võ nghệ; nếu không ngâm thơ phú thì ắt múa may đao kiếm. Con người của hành động! Con người của văn hóa tao nhã, chỉ có ích cho đời, làm đẹp cho đời. Xin chớ vội tin biểu hiện bề ngoài!
Không gian im phắc! Ông ta đang trầm tư. Trầm tư về các tác phẩm văn chương trác tuyệt, về các loại vũ khí sắc nhọn để trau dồi kiến thức, mài nhọn vũ khí nhằm làm tốt sứ mệnh “giáo hóa” của mình. Sứ mệnh của quan cai trị thật nặng nề, thật cao cả, nó là vinh dự được gánh vác. Dân chúng lầm than đang chờ bàn tay Thứ sử chìa ra cứu vớt; kỷ cương xã hội bị xem thường, bọn trộm cướp, lũ lộng quyền nhan nhản như nấm mùa xuân báo hại dân lành, đang cần Thứ sử đứng ra uốn nắn chỉnh đốn. Không! Tiêu Tư chưa có thời gian lo toan tới lĩnh vực phức tạp, hiểm ác ấy. Hắn đang bị chi phối bởi tính quy luật của muôn đời, tạo hóa có âm dương, vũ trụ có trời đất, con người có mối ràng buộc nam nữ, hắn đã có một dàn thê thiếp và Mỹ Lệ Nương, hắn còn muốn có cả Miên Hằng; giang sơn Giao Châu này là của hắn, mọi người sống trên đất này là thần dân của hắn, hiển nhiên Miên Hằng cũng thuộc về hắn. Mỹ Lệ Nương làm khó hắn sao được. Thực tình, Mỹ Lệ Nương là một mỹ nhân không thể thiếu để bù đắp vào chỗ lũ thê thiếp nhõng nhẽo của hắn không làm được. Mỹ Lệ Nương ngăn trở không cho hắn thực hiện khát vọng làm chủ một mỹ nhân nữa cũng là điều dễ hiểu. Có thể nàng ghen, cũng có thể nàng coi là bị xúc phạm. Mỹ Lệ Nương là một mỹ nhân đòi hỏi phải được tôn trọng, hắn là vua xứ nay cũng đòi hỏi mọi người phải phục tùng. Nhưng, Mỹ Lệ Nương vẫn khăng khăng, không thể trắng trợn chơi xấu với nàng. Giải pháp không hợp tình hợp lý có thể dẫn đến đổ vỡ, mất cả hai.
Tiêu Tư từng nhiều lần thuyết phục Mỹ Lệ Nương, đưa nàng lên tận mây xanh. Nàng chỉ cười nhạt, nụ cười nhạt xinh tươi ấy mà như chứa mật đắng. Tây Thi khóc càng đẹp, Mỹ Lệ Nương cười mỉm mới hấp dẫn làm sao, bừng sáng làm sao. Mỹ Lệ Nương mỹ miều, lộng lẫy quá nhưng chẳng thể bằng Miên Hằng. Chẳng thể bằng... nhưng, làm thế nào để có Miên Hằng? Ta đã có đệ nhất mỹ nhân Trung Nguyên, lại có cả đệ nhất mỹ nhân Giao Châu thì đào hoa hơn hẳn mọi bậc đế vương.
Tiêu Tư đôi khi nịnh đầm khá khoát hoạt cũng thạo ngón chiếm đoạt trắng trợn. Nhưng đi đường trơn tránh sao khỏi trượt ngã. Hắn nói lấy lòng hóa ra làm hỏng việc:
- Dù có Miên Hằng, ta vẫn nhìn nhận nàng là hạng nhất, mỹ nhân bậc nhất, không ai sánh bằng, không ai hơn.
Mỹ Lệ Nương cười bằng khóe mắt long lanh:
- Không ai sánh bằng, không ai hơn sao ngài còn muốn cô gái sinh ra từ nơi mọi rợ ấy.
Tiêu Tư nhơn nhơn tự đắc. Hắn hãnh diện là một hoàng thân càng hãnh diện là chúa xứ này.
- ấy, xưa nay các bậc đế vương thường có hàng ngàn cung tần mỹ nữ. Tần Thủy Hoàng, ngoài tam cung còn có ba ngàn mỹ nhân!
Mỹ Lệ Nương cười mỉa:
- Một khối tình chia ra làm mấy nghìn mảnh. Kẻ bạc mệnh này còn gì mà hy vọng.
Tiêu Tư ắng cổ, hắn giỏi trâng tráo chứ không giỏi biến báo, mà trâng tráo với cô gái cứng rắn như Mỹ Lệ Nương thì hắn có thể là không nỡ, cũng có thể không dám. Phải tìm phương kế khác, nhưng phương kế gì?
Hôm sau, Tiêu Tư ra công đường nghe quan lại các ban bẩm báo công việc; hắn nghe và phán nhưng tâm trí bay ở chín tầng mây, do vậy lời hắn giải quyết nhiều tình huống lạc đề, không phù hợp với tình hình phát sinh, đã thế, buổi làm việc hôm nay hắn rất hay cáu gắt, có trường hợp cáu gắt rất vô lý, rất vô cớ.
Thấy Thứ sử không bình thường, Trưởng sử Chu Thích quan tâm đến cấp trên một cách vô duyên:
- Hôm nay… xin ngài giữ gìn ngọc thể.
Thứ sử đập bàn:
- Ông muốn ta ốm hả? Ông rủa ta hả?
Hiệu úy Lã Can đỡ đòn giúp đồng liêu:
- Ông Trưởng sử muốn tốt cho ngài. Thưa đại nhân, làm công việc gì cũng cần có sức khỏe tốt.
Tiêu Tư vặc luôn:
- Ông Hiệu úy dạy khôn ta hả, muốn ta xấu hả?
Vừa nói nặng lời Tiêu Tư vừa vỗ tay lên bàn, rướn nghiêng mình hắn vùng vẫy trong tâm trạng nặng nề, muốn bay không có cánh, muốn bơi không có vây. Trường hợp vin hoa bẻ nguyệt tế nhị này nên giải quyết cách nào cho được việc mà không nảy sinh hậu quả ngoài ý muốn?
Bách Lý Ngôn là tên lính hầu cận của Thứ sử nên biết tỏng tòng tong trong bụng chủ muốn gì. Thứ sử muốn có Miên Hằng mà không cách nào có được, chủ yếu do Mỹ Lệ Nương cản trở. Ngài dám phái sai nha đến cướp mỹ nhân nhưng lại sợ mếch lòng Mỹ Lệ Nương. Vì hai người đẹp ấy thân nhau lắm và vì e ngại đệ nhất mỹ nhân Trung Nguyên phản ứng. Nó là một gã đầy tớ xảo quyệt, nhiều mưu ma chước quỷ... Tình thế này muốn lấy lòng chủ gã biết nên làm gì. Trong thời loạn lạc không tội nào nặng bằng tội phản nghịch, cứ ghép vào tội phản nghịch thì ngay thẳng như Anh Bố tướng quân, tài giỏi như Hàn Tín nguyên soái cũng phải chết.
Bách Lý Ngôn nhõng nhẽo bước ra trước án thư, chắp tay xé rào cho hươu có đường chạy:
- Bẩm đại nhân Thứ sử! Tiểu nhân được một người rỉ tai cho biết: ả Miên Hằng, người đang làm việc vặt ở Đệ Nhất Trần Gian là tai mắt của quân phản loạn.
Tiêu Tư cau mày, chuyện dân chúng bị cướp của giết người đến kêu cứu ở Tòa Đô giám ở trị sở huyện lệnh thì có, còn vấn đề phản loạn chưa hề thấy ai đề cập tới. Nhất là một mỹ nhân rực rỡ như Miên Hằng làm sao có thể bước vào con đường đen tối ấy. Nói xấu Miên Hằng thì không thể tha thứ. Tiêu Tư vỗ bàn quát:
- Ngươi nói bậy, muốn rụng đầu hả?
Bách Lý Ngôn giả vờ khúm núm sợ hãi, miệng hắn nói, mắt cũng nói. Hắn bịa mà cứ như thật:
- Tiểu nhân có ăn gan hùm mật gấu cũng không dám loạn ngôn. Người cung cấp tin tức cho tiểu nhân là Trưởng lại Vô Bất Tức, thuộc lại cũ của Thứ sử Lý Tắc. Dân dấy loạn là mối lo của xứ sở, mong đại nhân minh xét.
Trưởng sử Chu Thích bị Thứ sử vặn mắng lòng vẫn áy náy lo sợ, muốn tìm cơ hội lập công chuộc tội. Hắn chẳng lạ gì sở thích của vị hoàng thân bạo ngược và trác táng. Ông ta thấy gái đẹp thì hớn hở như sói thấy thỏ, hùm thấy sơn dương. Ông ta không cướp luôn ả Miên Hằng xinh đẹp về, hẳn còn e ngại mỹ nhân Mỹ Lệ Nương. Sao không nhân cơ hội này lấy lòng kẻ háo sắc. Việc làm hại gái lành tuy thất đức nhưng chẳng vướng bận đến ta. Hắn liền cướp cơ hội lấy lòng quan trên:
- Trưởng lại Vô Bất Tức vốn người Hoa Hạ lưu lạc sang Giao Châu từ thời Tề Minh Đế. Thứ sử Lý Khải thấy là một thiếu niên nhanh nhẹn, trung thành nên đã thu nạp làm gia nhân, sau cho làm Trưởng lại, ông ta là người Trung Nguyên hiểu biết nhiều về dân Giao Châu. Lời ông ta nói có nhiều điều đáng tin. Cổ nhân dạy: Uốn cây phải uốn từ non. Ti chức cầu xin đại nhân cho bọn nghịch dân biết thiên uy. Dù ả ấy vô tội vẫn nên bắt về tra hỏi cho minh bạch.
Tiêu Tư sực tỉnh ngộ. Bách Lý Ngôn “đưa mắt”, Chu Thích mách nước “bắt về”? Bọn này ma quái thật, chúng hiểu lòng ta nên bày kế “tiện tay dắt hươu”. Quan Thứ sử lập nghiêm:
- Không có các vị tìm ra sự lợi hại hẳn ta đã mắc tội hồ đồ. - Hắn nhìn Bách Lý Ngôn, ra lệnh: - Ngươi dẫn theo vài người bắt ả phản loạn về đây!
Thâm tâm gã si tình muốn dặn “Không được có hành động bất nhã với nàng”; nhưng nghĩ, Bách Lý Ngôn là thằng thông minh, nó biết sẽ làm thế nào là đúng mức.
*
Miên Hằng có thể xoa tay cùng chị Bằng ung dung trở về Vạn Xuân. Cô nhớ lại, trước khi chị em cô đi Long Biên, thủ lĩnh Lý Bôn dặn dò:
- Việc của Miên Hằng là thu lượm tin tức ghi vào giấy rồi trao cho chị Bằng ngay, nghiêm cấm giữ tài liệu trong người. Việc của chị Bằng là tìm chỗ trú chân kín đáo, nhận tài liệu mang về cho ta, chỉ phụ giúp Miên Hằng khi cần thiết.
Miên Hằng biết chẳng riêng thủ lĩnh thận trọng đề phòng rủi ro mà cô cũng bận tâm về tình huống “làm người mà chẳng biết suy, đến khi nghĩ lại còn gì là thân” nên nhất cử nhất động đều cân nhắc. Cô muốn thủ lĩnh hài lòng về mình, không nhìn nhận mình bằng con mắt thờ ơ, không đánh giá mình là đứa con gái chỉ được cái mẽ ngoài.
Cô lớn lên bên bờ sông, trên đồng ruộng, tuy có nhan sắc nhưng cũng chỉ là cô gái chân lấm tay bùn. Con công náu mình trong rừng thẳm thì ai biết nó là con chim đẹp. Nó nhởn nhơ trong rừng, sẽ chết trong rừng như bao con chim khác. Từ khi biết nghĩ cô đã định hướng cho đời mình “Phải xổ lồng tung cánh, phải thấy bầu trời cao rộng”. Cô biết nhan sắc của mình là thứ hồng nhan bạc mệnh, cao không tới thấp không thông. Cô khó tìm được ý trung nhân vừa đôi phải lứa. Nếu biết mình vớ phải anh chồng tầm thường thì cô thà ở vậy. Cô không thể đem cuộc đời đặt vào may rủi “May gặp duyên, không may gặp nợ”. Cô không phải hạng kén cá chọn canh, nhưng cô sẽ không sống cẩu thả được sao biết vậy, tới đâu hay tới đó. Cô coi trọng cuộc đời mình, cuộc đời một hoa khôi làng Long Đỗ. Cô tự tin và có tư thế, có khả năng của một người tự tin. Cô hiểu điều đó và chắc chắn làm được điều đó. Cô đang bối rối về thân phận của một cô gái xinh đẹp, có hoài bão thì gặp Lý Bôn. Quả là thuyền quyên gặp anh hùng, chỉ bằng một ánh mắt cũng thấu hiểu nhau về tính cách và tình yêu. Cô đến với tình yêu như âm tìm dương, như cá tìm nước, không một mối quan hệ nam nữ nào hợp đạo lý hơn.
Từ ngày đi Long Biên, thật tình, tám phần thời gian cô làm nhiệm vụ, hai phần thời gian cô bay về với người thủ lĩnh thân yêu của mình; nếu tính chi li cả ngày lẫn đêm thì thời gian dành cho nhiệm vụ và thời gian dành cho tình yêu rất khó bắc đồng cân. Trong thế gian này, không vinh dự nào cao cả bằng dấn thân vào sự nghiệp cứu quốc và không nỗi nhớ nào khắc khoải, bồn chồn bằng nỗi nhớ người yêu.
Vậy là cô sắp được gặp người yêu. Thủ lĩnh đón em thế nào? Lời nói thoạt đầu là gì? Chúng ta hớn hở hay lúng túng khi gặp nhau? Thì ra cuộc hội ngộ nào cũng chất chứa rất nhiều tâm trạng.
Sáng nay, Mỹ Lệ Nương lại khuyên cô:
- Mỹ nhân phải là hoàng hậu, mệnh phụ phu nhân, chứ không thể là một đóa hoa mặc cho ong bướm nhởn nhơ bay đến, thản nhiên bay đi. Chị đã lầm lỡ, em không thể là mỹ nhân thứ hai bị hại bởi một kẻ trụy lạc. Em muốn tránh tai họa thì chỉ có một cách là xa chạy cao bay.
Miên Hằng đã hoàn thành nhiệm vụ của thủ lĩnh giao nên có thể thanh thản đáp:
- Chị thương em như thương em gái, săn sóc em như trông nom em gái. Em biết ơn chị nhiều. Nhờ chị nhắc nhở nên em cũng nghĩ “chẳng lo trước ắt lụy sau”. Chị là mỹ nhân đệ nhất Trung Nguyên mà còn bị ông ta phụ bạc, em là dân lam lũ nên phải biết thân biết phận mình. Em đi, đến bao giờ mới được gặp chị?
Mỹ Lệ Nương nóng lòng vì nỗi cô gái thản nhiên trước nguy cơ bị dập liễu vùi hoa đang lơ lửng trên đầu. Bên trong cái vỏ bề ngoài đạo mạo của Tiêu Tư là tính cách của loài chó lợn, thấy ăn là xốc, thấy người là cắn... Một khi không cho hắn toại nguyện thì chỉ có đường chết. Giọng nàng trở nên khẩn trương giục giã:
- Gặp nhau là quan trọng nhưng quan trọng hơn là bảo vệ danh tiết của mình. Chị hiểu tính em nên có thể lường ra hậu quả. Nếu em không bảo vệ được em thì làm gì còn cơ hội gặp gỡ.
Miên Hằng thực sự quý cô gái tốt bụng, quý như chị gái thân yêu của mình. ở đời gặp được một người bạn nhân hậu, biết yêu thương là một hạnh phúc. Cô ao ước suốt đời kết nghĩa bầu bạn “bốn biển một nhà” với mỹ nhân Mỹ Lệ Nương để cùng chia ngọt xẻ bùi, thổ lộ tâm trạng lúc vui buồn sướng khổ... Không những thế, cô còn mang ơn Mỹ Lệ Nương, dù vô tình cũng đã cung cấp cho cô những thông tin quý giá về bọn giặc. Với nàng, cô mang nặng ân nghĩa. Nhưng, ngày vui ngắn ngủi, cuộc xum họp nào chẳng có chia ly. Vả chăng, cô không thể bịn rịn, cô còn nhiều việc phải làm, nhất là ở nẻo sôi động kia, có người đang đợi cô. Cô bùi ngùi nói:
- Chị đã nói vậy thì em không nên nấn ná nữa. Em xin chào biệt chị từ đây. Chẳng hiểu số phận có còn cho chị em ta cơ hội gặp nhau nữa không?
Mỹ Lệ Nương từng sinh sống lâu năm ở Kiến Nghiệp, nơi đô hội phồn hoa nhất cũng là nơi xảy ra nhiều bi kịch tàn bạo bỉ ổi giết chúa cầu vinh, lừa thầy phản bạn, tranh vợ cướp chồng... Bọn đê tiện dám làm mọi chuyện hiểm ác miễn là thỏa mãn tham vọng của chúng. Những cảnh chạy trốn khỏi nơi lửa cháy nước dâng xảy ra thường ngày. Chạy trốn cũng phải khôn khéo; nếu không, trốn chẳng xong còn mang thêm họa vào thân. Nàng cảm thấy Tiêu Tư đang chăng lưới quây bắt Miên Hằng đưa về buồng nhà mình nên giọng cô càng khẩn trương hơn:
- Trốn chạy khi nguy cấp lợi ở bất ngờ, em nên đi ngay! Em chưa thoát thân chị còn lo lắng.
Miên Hằng nghe lời. Cô cởi bỏ bộ xiêm áo đài các mặc bộ quần áo nâu sồng, chắp tay bái biệt ân nhân:
- Em xin vái lạy chị thân yêu!
Mỹ Lệ Nương lật đật vừa đỡ vừa nói:
- Em làm gì thế? Em làm vậy thì sao có thể xem là tình nghĩa chị em. Thôi em đi đi!
Vừa ấy vang lên giọng nói không có vẻ trâng tráo, cũng không có dáng hách dịch, giọng nói của thằng lẻo khẩu Bách Lý Ngôn:
- Miên Hằng ơi! Vải thưa không che nổi mắt thánh đâu! - Hắn phẩy tay nói tiếp: - Theo ta lên công đường trình báo cho thực sẽ được miễn tội!
Miên Hằng quắc mắt cãi:
- Tội gì? Tôi chẳng làm chi nên tội, các người đừng vu oan giá họa!
Mỹ Lệ Nương cau mày cự nự:
- Ta biết ngài Thứ sử muốn có Giao Châu mỹ nhân nên thầy trò ngươi giở cái trò vừa ăn cướp vừa la làng. Nhưng ăn cướp la làng cũng phải đúng cách - Nàng chỉ Miên Hằng nói tiếp: - Cô gái ngay thẳng hiền thục này không thể phạm tội. Các ngươi chớ có làm bậy.
Bách Lý Ngôn nói ráo hoảnh:
- Ả là quân phản loạn. Tội này mất đầu như chơi.
Mỹ Lệ Nương cười mỉa:
- Thì ra thầy trò nhà ngươi rắp tâm xếp đặt độc kế hại người lành. Nhưng ngươi hãy lấy mắt mà ước lượng, một cô gái trói gà không chặt thì làm phản loạn cái nỗi gì.
Bách Lý Ngôn biết mình định tội chưa chặt chẽ nên nói thêm:
- Ả không thể cầm gươm giáo nhưng thừa khả năng làm tai mắt.
Mỹ Lệ Nương vẫn cố bảo vệ bạn:
- Hay cho cái cách quanh co của ngươi. Ngươi quy tội phản loạn cho ả không xong quay sang quy tội do thám cho quân phản loạn. Vậy do thám cái gì, chứng cớ đâu?
Bách Lý Ngôn, một tên sai nha lẻo khấu bậc nhất, chỉ vì trong lúc nóng vội, cũng có thể cậy thế - quyền bắt người nằm trong tay hắn nên đưa ra cái lý có nhiều điểm yếu. Hắn đuối lý đành giở bài thô bạo:
- Có chứng cớ hay không, không cần biết. Bọn ta cứ theo lệnh quan trên truyền mà làm.
Mỹ Lệ Nương cười mỉa, nói khích:
- Vậy ra mấy người làm việc không cần theo phép của triều đình, mà chỉ cần vừa lòng quan trên.
Bách Lý Ngôn biến báo:
- Sai nha làm vừa lòng quan trên, cũng giống như lính tuân lệnh chỉ huy. Sai hay đúng cấp trên chịu trách nhiệm, cô nương đừng can thiệp vào việc quan nha mà mắc vào tội bao che phản loạn.
*
Trong ngôi nhà núp dưới bóng cây bên bờ sông Cầu, cách thành Long Biên một thôi đường, Bằng ngồi trên chõng tre, tay nải hành lý bên cạnh, chị chờ mong Miên Hằng sốt cả ruột mà chẳng thấy tăm hơi.
Miên Hằng đã giao sơ đồ thành Long Biên cho chị từ chiều hôm kia. Hai người hẹn nhau sáng nay cùng về căn cứ. Vậy mà... chẳng biết lấn bấn chuyện gì nữa. Hay là bén mùi phồn hoa, ngại cảnh lam lũ rồi. Không! Miên Hằng không thuộc hạng tham phú phụ bần mà là người tham công tiếc việc. Cái con bé rõ hay!
Bằng đứng dậy, bước ra hè, kiễng chân ngóng phía đầu ngõ. Đường vắng bóng người. Cơn gió đông bắc ào tới, ù ù như tiếng rên, giá lạnh vào những ngày cuối mùa đông có phần gay gắt. Nhưng, sức trẻ và nỗi niềm tâm sự bộn bề khiến Bằng không quan tâm tới điều đó.
ừ! Buổi chiều ấy, chị nghe Miên Hằng kể về thái độ ân cần quá mức của viên Thứ sử, liền nhắc nhở:
- Đấy là dấu hiệu ban đầu của hành vi quá trớn. Theo chị em nên đi khỏi Đệ Nhất Trần Gian.
Miên Hằng cũng nhận thấy thái độ thân mật không bình thường của gã Thứ sử, cô lo ngại nhưng vẫn không muốn rời Đệ Nhất Trần Gian. Đây là nơi lui tới của nhiều quan lại, tướng sĩ làm việc trong Tòa Thứ sử; sẽ có cuộc tiếp xúc ngẫu nhiên, cũng sẽ có cuộc gặp gỡ có sắp đặt, nó là cơ hội cho cô khai thác tin tức. Động cơ ấy hấp dẫn lắm, sao có thể dễ dàng rời xa nó.
- Trước mắt chưa có gì đáng ngại, vì Tiêu Tư rất sủng ái Mỹ Lệ Nương. Mỹ Lệ Nương làm như ghen tuông để bảo vệ em; thêm nữa, dẫu sao Tiêu Tư vẫn đường đường là vị đại nhân Thứ sử, không dễ muối mặt làm sằng.
Bằng biết, Miên Hằng dám mạo hiểm để thực hiện công việc thủ lĩnh giao phó là điều đáng quý, nhưng được việc mà thiệt thân chưa chắc đã hay. Lần nào Miên Hằng về trao tài liệu cho chị, chị cũng hỏi về thái độ của tên Thứ sử chó má; lần nào chị cũng khuyên ả nên tránh nơi hang hùm nọc rắn... Miên Hằng ư hừ mà vẫn dùng dắng hết bận này đến bận khác. Chị lo cho ả nên lựa lời khuyên:
- Việc chung mỗi người góp một chút công lao, một cây chẳng thể làm nên rừng.
Miên Hằng xòe năm ngón tay vừa đếm vừa kể:
- Chị là một cây, em là một cây, thủ lĩnh Lý Bôn là một cây, tiên sinh Tinh Thiều là một cây, đô vật Phạm Tu là một cây... tất cả hợp thành rừng; muốn rừng xanh tươi, đòi hỏi cây nào cũng xanh tươi. Chị cố một tí, em gắng một chút, ắt rừng sẽ tươi xanh hơn.
Bằng không tìm được lời biện hộ cho lòng mong mỏi “việc công chuyện tư đều xuôi chèo mát mái”. Chị đành chấp nhận:
- Người ta bảo con gái kẻ chợ Long Đỗ làm như phượng múa, nói như rồng bay quả không ngoa. Dù sao ả cũng chớ quá coi thường hiểm nguy...
ít lâu sau, khi thấy có dấu hiệu thằng Thứ sử sẽ làm càn, chị khuyên ả rút về căn cứ; ả không nghe, chị thông báo cho thủ lĩnh biết; Thủ lĩnh viết thư giục ả phải rời ngay Đệ Nhất Trần Gian. ả vẫn không nghe, bảo:
- Làm việc hễ thấy khó là nản thì bao giờ mới xong công việc.
ả muốn nán lại để hoàn tất tấm sơ đồ thành Long Biên. Quả thực, có việc ả làm được mà những người khác không làm nổi. Tấm sơ đồ thành Long Biên kèm theo các gợi ý là kỳ công của sự tìm hiểu, khám phá và phát hiện mà chỉ ả mới thực hiện nổi.
Ví dù, vì công việc thủ lĩnh tin cậy giao phó mà ả không quản gian nguy, mà tham công tiếc việc... thì ả cũng phải lo bảo vệ mình chứ. Con bé này chẳng khác mấy ả cấy lúa cặm cụi, lặn lội dưới ruộng nước giá lạnh trong ngày đông tháng giá. Thủ lĩnh quý ả ta quả có cớ. Bây giờ, xong công việc, ả mới chịu rút về. Vậy mà... lần chần, chậm chạp quá.
Bằng bước vào nhà, trân trân ngắm bọc hành lý, đang triền miên trong những ý nghĩ miên man, phấp phỏng thì chị chủ nhà hớt hải từ ngoài đường chạy gằn về, giọng phập phồng theo hơi thở:
- Bọn Ngô(1) bắt ả mỹ nhân... Đệ Nhất Trần Gian. Dong đến Tòa Trưởng sử...
(1) Tên chỉ người Trung Quốc xuất hiện từ thời Bà Triệu, Giao Châu là đất đô hộ của Ngô Tôn Quyền.
Bằng sững người. Cõi đời có quá nhiều bất trắc vô thường. Nhưng chị không tin ở linh tính tiên đoán chị muốn tin ở sự may mắn và cầu mong sự may mắn mới là thực.
- Mỹ Lệ Nương bị bắt, hả chị?
Chị chủ nhà phẩy tay:
- Thế thì nói làm gì. Bọn Ngô ăn thịt người Ngô là chuyện của chúng, động dạng đâu đến chị em mình. Đằng này... Một cô gái Giao Châu... Họ bảo... Một mỹ nhân Giao Châu... Tên ả là... là gì nhỉ? Miên... à, phải rồi, Miên Hằng!
Bằng nghe từng lời nói và nghe cả hơi thở xúc động của chị chủ nhà, còn chị thì trái tim co thắt từng cơn. Chị khóc thầm. Miên Hằng ơi! Em rơi vào hang hùm ổ sói thì đủ đường khốn khổ thân em! Chị nói theo phản ứng tự nhiên:
- Có cách nào cứu được ả không chị?
Chị chủ nhà thở dài:
- Nghe nói Mỹ Lệ Nương làm cho ra đáo để mà không xong. Bây giờ, chỉ có Quan thế âm Bồ Tát ra tay mới làm nổi!
Bằng ngồi xuống chõng, tay đặt lên bọc hành lý, đầu nghĩ giải pháp đối phó với sự kiện bất ngờ. Chị có thể giải cứu được Miên Hằng không? Chị không có khả năng ấy, chị cũng chẳng quen ai có thế lực ở Long Biên. Việc chị nên làm lúc này là về ngay Vạn Xuân cáo cấp với thủ lĩnh Lý Bôn.
*
Lý Bôn đang cùng Bộ tham mưu bàn kế hoạch khởi nghĩa thì chị Bằng vào, giao bản sơ đồ thành Long Biên và sụt sùi kể việc Miên Hằng bị giặc Ngô bắt:
- Em thương ả! ít người chịu thương chịu khó như ả! Đi cấy không quản nắng mưa, làm nhiệm vụ không sợ hiểm nguy.
Lý Bôn an ủi Bằng mấy câu và bảo chị đi nghỉ.
Kế hoạch dấy binh đã bàn thảo xong, mọi người yên tâm chuyển sang kế hoạch cứu người. Lý Bôn muốn cứu Miên Hằng ngay. Đời ông có hai việc trọng đại phải làm: Quan trọng bậc nhất là tống cổ bọn Ngô ra khỏi bờ cõi, khôi phục giang sơn Giao Châu; thứ hai là bảo vệ, săn sóc Miên Hằng.
Tuy nôn nóng cứu ý trung nhân, Lý Bôn vẫn ngồi im lặng, tay trải bản sơ đồ. Ông muốn dùng công việc để che đậy tâm trạng xúc động.
Cận tướng Sơn Bất Mẫn hăng hái đề nghị:
- Xin chủ tướng cho đệ lẻn vào Long Biên cứu Miên Hằng.
Lý Bôn xua tay:
- Chú rất giỏi võ nghệ, là tay kiếm bậc nhất của Vạn Xuân. Nhưng, đơn thương độc mã xông vào tòa thành Long Biên cứu người thì khó khác gì đi bộ lên mặt trăng.
Sơn Bất Mẫn bậm mạnh chân xuống đất, nói bằng giọng gay gắt:
- Không cứu được người con gái ấy, tất cả chúng ta đều có tội.
Phạm Tu nghe chủ tướng nói câu “đơn thương độc mã”, cảm thấy chủ tướng đưa ra gợi ý, nên mạnh dạn đề xuất:
- Quân ta được luyện tập lâu ngày, các cơ ngũ đã thành hình, nhân dịp này ta tiến binh chiếm Long Biên. Nhất cử lưỡng tiện.
Tinh Thiều nhận định:
- Đẻ non khó nên người, nếu thành người thì cũng quặt quẹo.
Lý Phục Man đồng chính kiến với nhận định của Tinh Thiều, nhưng muốn thử tài ứng phó của chủ tướng nên nói:
- Tiên sinh Tinh Thiều nói tuy có lý nhưng chẳng lẽ chúng ta phó mặc cho Miên Hằng tự chống chọi với răng hùm nọc rắn!
Sơn Bất Mẫn lại biểu lộ sự nôn nóng của mình:
- Vậy thì chỉ có cách của đệ là nên theo, tuy làm gượng nhưng vẫn nên gắng sức. Xin chủ tướng cứ cho đệ đi một chuyến.
Lý Bôn giữ điềm tĩnh, nói:
- Chư vị muốn cứu Miên Hằng, Bôn tôi càng muốn cứu ả hơn. Cách chú Sơn Bất Mẫn định làm không khác gì kiễng chân với mặt trăng, chân mỏi mà trăng vẫn không với tới. Kế hoạch của lão tướng Phạm Tu là khả dĩ. Nhưng, vì một mối quan tâm nhỏ mà tổ chức khởi nghĩa non là điều rất không nên. Chư vị dám hy sinh vì Miên Hằng, Lý Bôn tôi cũng vậy, chắc chắn Miên Hằng dám quên mình vì đại nghĩa hẳn hiểu lẽ thiệt hơn, lợi hại mà không phiền trách chúng ta. Miên Hằng là cô gái dũng cảm, rất thông minh nên sẽ biết cách khu xử.
Lý Phục Man gặng hỏi:
- Chẳng lẽ mặc kệ Miên Hằng tự xoay sở?
Lý Bôn là bậc trượng phu hùng tài, ông biết cân nhắc nên chớ, lớn nhỏ, ông là người cầm đầu nên cần đắn đo thận trọng trong mỗi quyết định:
- Chúng ta tập hợp tại đây lo việc nước, muốn lo việc nước phải bảo vệ nhau, đồng thời cũng phải biết tự hy sinh. Muốn mọi cái vẹn toàn là điều không thể. Chư vị có hiểu lòng Bôn này không?
Tinh Thiều cảm thấy từng tiếng trong lời nói của chủ tướng tưởng như khô khan, cứng nhắc, nhưng thực ra đó là tiếng nói tâm tình đẫm máu và nước mắt. Ông chuyển đề tài để cuộc họp mặt bớt nặng nề lại có thêm nội dung thiết thực.
- Nhân có bản sơ đồ Miên Hằng nhờ chị Bằng mang về, chúng ta bàn kế hoạch tiến đánh Long Biên. Đó cũng là cách thể hiện sự tôn trọng với người con gái đã tận tụy xông pha vì nghĩa cả.
Bản sơ đồ và những chú thích, gợi ý của Miên Hằng khiến cả Bộ tham mưu nghĩa quân đều có cảm tưởng đây là việc làm của một vị nữ tướng thạo trận mạc. Thành Long Biên hiển hiện trước mắt mọi người: Hình dạng tòa thành, cổng phụ, cửa chính; tường rào cao thấp, chắc yếu, nơi ở của tướng soái, quân lính; các ngả có thể bất ngờ đột nhập, đường giao thông thủy bộ dẫn đến Long Biên. Bộ tham mưu cho rằng, muốn có bản sơ đồ chi tiết như thế Miên Hằng phải mất nhiều mồ hôi, tâm sức, phải vượt qua nhiều tình huống hiểm nguy.
Tinh Thiều không kìm được xúc động, ông đặt bàn tay lên tấm sơ đồ, nhắc nhở chủ tướng:
- Chúng ta đã hội đủ những yếu tố cơ bản để khởi sự!
Trái tim Lý Bôn giục giã ông khởi nghĩa ngay, cứu Miên Hằng sớm ngày nào ả đỡ khổ ngày ấy, nhưng lý trí nắn ông phải đi theo con đường hợp lý nhất. Chiến tranh là việc hệ trọng có liên quan tới sự mất còn mà sự mất còn ấy lại liên quan đến nhiều công phu của bao thế hệ gom góp nhen nhóm, hun đúc. Không thể sơ sẩy trong sự nghiệp này, ông nói:
- Tôi muốn chờ một người!
*
Về tư dinh, Lý Bôn gọi chị Bằng lên hỏi tình hình Miên Hằng bị bắt. Nghe xong, ông nói với Bằng:
- Miên Hằng làm việc vì chúng ta rất nhiều mà chúng ta chưa làm được việc gì vì nàng. Nếu vì đại sự bận rộn mà ta quên mất hoàn cảnh cá chậu chim lồng của nàng thì ta không đáng là kẻ nam nhi; nhưng nếu vì nàng mà ta lơ là đại sự thì ta là tội nhân của con em Giao Châu, của núi sông Giao Châu. Ta muốn có người sang Long Biên, cứu được Miên Hằng thì tốt, nếu không cũng biết tin tức về nàng. ả cố gắng giúp ta việc này, nên bảo Vũ Nam cùng đi.
Bằng đáp:
- Em cũng đang định xin thủ lĩnh đi Long Biên vì việc đó.
*
Tù trưởng Triệu Túc là người giàu nhất vùng Chu Diên(1) - chủ một tài sản khổng lồ, điền trang mênh mông, vườn hoa trái sum suê, trâu bò hàng ngàn con, gà vịt nhiều vô kể, ao cá cũng không ít... nhưng không do bóc lột con em trong bộ lạc mà do biết làm ăn. Việc làm ăn ngày một thịnh vượng thể hiện ông là người có tài chí lớn. Trong nhà ông nuôi hàng trăm tráng đinh thục nữ, bề ngoài là những kẻ làm thuê, sự thực thì không phải vậy.
(1) Xưa còn có tên: phủ Tam Đái, phủ Tam Đa, phủ Vĩnh Tường, nay thuộc Vĩnh Yên.
Lý Phục Man điều hành những người làm thuê, thiếu chủ Triệu Quang Phục là đầu lĩnh của họ. Ban ngày, anh chị em chia nhau làm các việc: cày cấy, chăn dắt trâu bò, săn sóc lợn gà... để có thu nhập tự nuôi sống và giúp đỡ gia đình; ban đêm, anh chị em vào rừng luyện tập võ nghệ. Họ là võ sinh và là chiến binh.
Triệu Túc chưa bộc lộ ý định thầm kín với con em, nhưng có người cũng phong phanh đoán ra ý đồ của vị tù trưởng tâm cơ sâu sắc, nuôi hoài bão lớn.
Lý Phục Man biết chủ trương của tù trưởng nên thẳng thắn đề nghị:
- Cháu nghĩ, anh chị em biết chí hướng của trang chủ chẳng có hại mà chỉ kích thích thêm lòng hăng hái của họ. Yêu nước thương nòi là tình cảm chung của mọi người.
Triệu Quang Phục hùa thêm:
- Con người nỗ lực làm việc là do biết công việc cần gắng sức mới xong, con người dũng cảm làm việc là do biết công việc ấy nguy hiểm… Biết việc mới biết liệu sức mình.
Triệu Túc nói:
- ích lợi do hiểu biết trước mà có, các anh biết, ta cũng biết. Nhưng có một điều các anh chưa biết?
Triệu Quang Phục kính cẩn hỏi:
- Mong cha chỉ bảo!
Triệu Túc đáp:
- Con sâu con gặm đổ cây đại thụ, con mối nhỏ đục ruỗng thân đê lớn, cơn gió tín phong phe phẩy giọt gianh, dẫn đường cho trận bão lớn ào ào tới quật đổ cả ngôi nhà, hẳn hai anh hiểu cái lẽ đó. Họ là con em thân tín của ta, người nào cũng có thể tin cậy giao việc khó. Nhưng lời từ cửa miệng đi ra, tránh sao chẳng có lời nói hớ; lời nói hớ ấy là con sâu con, con mối nhỏ, cơn gió tín phong…
Triệu Quang Phục nói lời nói phải:
- Lời cha dạy giúp chúng con tỉnh ngộ. Thận trọng không bao giờ thừa.
Một hôm, Lý Phục Man dẫn về ra một người cao lớn, thưa:
- Kẻ lạ mặt này dám ngang nhiên bẻ trộm ổi trong vườn nhà ta!
Triệu Túc nhìn tên trộm nhưng không tỏ rõ thái độ khinh ghét:
- Quả ổi là vật tầm thường!
Lý Phục Man lại nói:
- Kẻ lạ mặt này dám ngang nhiên lội xuống ao mò trộm cá nhà ta!
Triệu Túc quan sát tên trộm thấy hắn thản nhiên như không có chuyện gì khi người ta kết tội hắn, biết là người không tầm thường liền bảo:
- Con cá lá rau là vật nhỏ, ai cơ nhỡ đều có thể dùng, làm khó anh ta ích gì. Cớ sao không để anh ta đi?
Lý Phục Man gãi gáy chứng tỏ anh ta có điều gì chưa đứng mức.
- Lòng con chật hẹp không có lượng khoan dung như ông, lại thấy mặt, mắt hắn... đã ăn trộm mà vẫn câng câng nên ghét.
Triệu Túc cau mày hỏi:
- Thế là các anh xúm vào đánh anh ta phải không?
Lý Phục Man thưa:
- Ông cho rằng con em ông là những kẻ hèn hay sao?
Triệu Túc tỏ ý vừa lòng nhưng không giải thích, cố đợi kẻ tráng sĩ có lòng nghĩa hiệp bộc lộ hết chuyện.
Lý Phục Man nói tiếp:
- Nghĩ xuôi thì tức kẻ ăn trộm, nghĩ ngược thì con cá lá rau là vật mọn chẳng đáng để mất hòa khí nên chúng con chỉ phẩy tay đuổi hắn đi. Hắn chẳng đi mà còn nhơn nhơn bảo: “Ăn trộm có cái đức của kẻ ăn trộm. Tất cả chúng ta đều là kẻ trộm”.
Triệu Túc cười:
- Hắn là người hiểu biết đấy! Chúng ta đều là những kẻ trộm.
Lý Phục Man cau mày hỏi:
- Ông dạy mà con chẳng hiểu gì cả.
Triệu Túc hỏi lại:
- Anh trồng lúa ở đâu, phơi khô thóc bằng gì? Anh có xin đất hỏi trời không. Không hỏi xin mà cứ dùng thì là hành vi gì?
Lý Phục Man hiểu ra, anh nói tiếp:
- Lúc ấy, con tức quá, đâu có biết như lời ông giảng giải, thế là con vọt lên, trả lời thằng trộm hỗn xược bằng nắm đấm.
Triệu Túc tỏ ý băn khoăn về hậu quả đáng tiếc bằng sự đánh giá:
- Cả vùng Sấu Giá đều biết anh đã đấm chết con trâu mạnh nhất của Trưởng làng; ta còn biết anh đoạt giải trong cuộc thi tài ở sới vật Mai Động.
Lý Phục Man không những là võ sĩ mà còn là hiệp khách trượng phu, đúng sai phải trái phân minh nên thua mà không tìm cách chống chế:
- Con mạnh đến vậy mà vẫn chưa thắng nổi anh ta. Cao cường lắm! Con bảo: “Ta không thắng nổi ngươi, tất cả chúng ta xúm vào thì chúng ta hèn lắm. Ngươi không bỏ đi, vậy mi có dám vào gặp chủ ta không?”. Anh ta đáp: “Núi sông này là núi sông Giao Châu, người ở đây là người Giao Châu, sao ta không dám vào, không dám gặp”.
Triệu Túc nhìn tên trộm trầm trồ:
- Quả là bậc tuấn kiệt khác người, xin cho biết quý tính cao danh.
Tên trộm chắp tay làm lễ bái kiến:
- Hậu duệ của Đạo Chích tên là Trương Hống!
Triệu Túc mỉm cười khi nghe tên trộm tự giễu mình. Ông nhíu mày tỏ ý băn khoăn:
- Họ tên nghe quen lắm, nhưng chẳng khác người phương Nam trông thấy con chim mỏ đỏ, mào hồng, cánh trắng, chân vàng bay lạc xuống đất mình; chim rất đẹp mà chẳng biết là chim gì.
Trương Hát, Trương Hống đến Vạn Xuân ứng nghĩa.
Lý Bôn nghe phong thanh miền Chu Diên có nhiều hào kiệt: Triệu Túc giàu lòng yêu đất nước quê hương, Triệu Quang Phục hùng tài, Lý Phục Man trượng nghĩa lại rất giỏi võ nghệ; ông muốn quy nhân tài về một mối, cùng chung sức lo việc nước nhà nên phái Trương Hống đến dò la xem họ có thực tài hay chỉ như tiếng chuông vang vọng rất xa rồi mất hút trong hư vô.
Những việc anh làm: ngang nhiên trẩy ổi, bắt cá... chỉ là tạo cớ tiếp cận trang chủ. Qua cách ứng xử đúng mức, đàng hoàng của Lý Phục Man, anh nghĩ: “Trò giỏi là do có thầy hay”. Khi gặp Triệu Túc, anh thấy ông có phong độ hơn người, đi đứng nói năng chững chạc, xử trí tình huống hợp đạo lý. Biết là nhân vật kiệt xuất nên thành thật thông tên họ:
- Tiểu nhân là Trương Hống, em trai là Trương Hát. Người ta thường gọi chung là Lưỡng Long sông Như Nguyệt.
Triệu Túc vỗ vỗ hai tay vào nhau, nói như reo:
- Ta nhớ ra rồi. Ta từng nghe hành tung của Nhị Trương bến Tam Giang, Lưỡng Long sông Như Nguyệt. Được gặp tráng sĩ lòng ta vui lắm. Vậy cơn gió lành nào đưa người thiếu niên anh hùng tới gặp lão già cổ hủ này.
Trương Hống khảng khái đáp:
- Biết trang chủ là bậc hào trưởng nên tiểu nhân muốn được kiến diện.
Triệu Túc ướm hỏi:
- Tráng sĩ có điều gì chỉ giáo chăng?
Trương Hống thưa:
- Tiểu nhân không dám phạm thượng, chỉ có lời tâm huyết muốn bày tỏ để nhận lời dạy bảo của trang chủ.
Triệu Túc nói giọng ôn tồn nói:
- Hiền sĩ chằm Bái Trạch(1) rửa tai vì nghe phải lời không chính đạo. Lão hủ đã dỏng tai lắng nghe đạo lý của người tuấn kiệt.
(1) Hứa Do là bậc hiền sĩ tài giỏi ở ẩn trong chằm Bái Trạch. Vua Nghiêu mời ra xin nhường cả thiên hạ. Hứa Do từ chối, lánh sang núi Trung Nhạc. Vua Nghiêu sai người cố mời ra làm Trưởng giả cả chín châu. Hứa Do không muốn nghe nữa, bèn ra sông Dĩnh Thủy rửa tai. Ông nói: “Dùng danh lợi nhử người thì còn gì là đạo lý”.
Trương Hống thưa:
- Nước có vua như nhà có chủ; nhà có chủ thì nước phải có vua, đó là đạo cương thường. Người Giao Châu ta không có vua không có nhà, sống trên đất nước của tổ tiên mà như kẻ ở nhờ. Tại sao vậy? Tại bọn đột nhập quá mạnh hay tại các bậc tuấn kiệt hoặc mải ung dung thưởng ngoạn phong cảnh nơi núi cao rừng thẳm, hoặc bận chăm lo cho trâu bò nhà mình sinh trăm đẻ ngàn, kho nhà mình ăm ắp cót thóc đầy, lẫm thóc cao, mặc vật đổi sao dời. Lơ việc nước, siêng việc nhà đó là cái lý tiểu nhân không hiểu, cúi mong được trang chủ chỉ giáo.
Triệu Túc hiểu ý tứ của Trương Hống. Trương Hống dẫn chuyện xa để hỏi gần, ông cũng dùng biện pháp ấy để tìm hiểu kẻ vừa gặp:
- Hết đêm mới đến ngày, bước vội không thể đi xa, khoảnh đất rộng sâu nhưng không có nước vẫn không thể gọi là đầm; nước tràn trề nhưng không có nơi chứa, nước biết chảy về đâu. Trời còn có bất trắc, ta cũng đang lo chuyện đó.
Trương Hống đã nắm bắt được ý tứ của Triệu Túc nên không cần úp mở giấu giếm thân phận mình:
- Có nước chảy ắt có nơi chứa, nước chảy tràn lan thì chẳng thành sông. Chủ tiểu nhân là Bắc thảo tướng quân Lý Bôn biết trang chủ là bậc hùng tài trượng nghĩa nên sai tiểu nhân tới mời ngài cùng đi săn con hươu lạc.
Triệu Túc vui mừng như bới cát được vàng, đào đất được mạch nước, ông hớn hở nói:
- Quả như lời cổ nhân dạy, đánh nhau rồi mới nhận ra anh em. Ta cũng được nghe danh vang của Bắc thảo tướng quân từ lâu. Gió đã chuyển hướng, ngày đông đang tàn; ta và các con em đang định kéo nhau đến Vạn Xuân tụ nghĩa đây!
Triệu Quang Phục bước lên, chắp tay làm lễ tương kiến Trương Hống:
- Danh tiếng Lưỡng Long đã khiến anh em vùng sông nước Chu Diên chúng tôi mến phục. Nay được gặp gỡ, thật là cái phúc ba sinh.
Trương Hống ngắm tướng mạo uy nghi, lẫm liệt của Triệu Quang Phục giật mình tự nghĩ: Người này có dáng đứng trên muôn người. Anh chắp tay đáp lễ một cách trịnh trọng:
- Thiếu chủ quá khen! Anh em tôi muốn được cùng thiếu chủ đi khắp đầu sông đỉnh núi Giao Châu.
Lý Phục Man đến, biết họ Triệu ứng nghĩa, anh hớn hở tự nhủ:
- Đơn giản có thế mà mình phải mất công tìm hiểu dò la. Trương Hống quả là tay hào kiệt biết cách thuyết phục hào kiệt.