1. Khu đất đầu cầu Cây Bông bây giờ là con phố buôn bán lam nham, mạnh nhà ai nhà ấy đua ra. Hàm thả bộ, nhìn trước nhìn sau nhưng không còn thấy dấu vết nào của trận địa tử thủ ngày xưa. Trong tiếng nhạc xập xình, Hàm ghé vào một quán cà phê, gọi một ly đen đá. Một đám trẻ con thấy Hàm ngồi một mình thì bu lại chào mời bán vé số, kẹo cao su, thuốc lá. Hàm không mua thứ nào, uống vội một hơi cà phê, trả tiền rồi bước nhanh ra cửa, đến bên một chiếc xích lô. Anh lên xe. Xích lô theo tay Hàm chỉ ghé vào vài nơi.
Ở nơi xích lô dừng, Hàm xuống xe, nói gì đó với người trên vỉa hè, rồi lại lên xe đi tiếp.
Xe xích lô vào một con phố nhỏ, hẹp. Hai dãy nhà gần như sát nhau, ban công nhà nào cũng phơi đầy quần áo. Hàm bảo cho xe dừng lại cửa một căn nhà ống, cửa sắt hoen gỉ. Anh gõ cửa. Một người đàn bà có gương mặt chất phác ngó ra:
“Cậu hỏi ai?”.
Hàm nói:
“Thưa bà, đây có phải là nhà của ông Khung?”.
Người đàn bà bảo:
“Phải. Nhưng ổng bán nhà cho tôi, dọn đi rồi”.
Hàm hỏi kỹ thêm:
“Thưa bà, bà có biết ổng dọn đi đâu không ạ?”.
Người đàn bà nói:
“Ông ở đây bán phở đẩy, nuôi thằng con đi học. Cho đến khi thằng con học xong đi làm thì ổng bán nhà, nghe nói dọn về ở bên kia sông làm vườn với bả. Con ổng đi làm nhưng buổi tối, ngày nghỉ thì thằng con đi bán phở thay cha kiếm thêm, có hôm cũng qua đây... Không biết cậu ấy thuê nhà ở đâu. Cậu vào chơi”.
Hàm nói:
“Cám ơn bà, tôi đi...”.
Hàm quay ra. Chiếc xe xích lô đi loanh quanh một lúc theo ý Hàm trở về quán cà phê cũ.
Nhìn lên cầu, trong đầu Hàm hiện lên hình ảnh ba chiếc xe bò chất đầy các bao cát. Chừng một trung đội nấp sau hai xe đầy bao cát này để sẵn sàng chặn đối phương từ xa nếu họ liều tiến theo đường cầu.
Tuy nhiên phía bên kia không có động tĩnh gì về một trận huyết chiến. Hàm tức điên vì đã bố trí quân chờ đánh mà đối phương lại im lặng. Kiểu như người phải đấm vào không khí. Anh nhảy lên khỏi công sự, hò hét lệnh ba khẩu đại liên M-60 xả đạn về bờ sông bên kia. Ở vị trí chỉ huy đại đội, Hàm bắn một quả pháo sáng ra ý, anh em cả đại đội tử thủ đều phải nổ súng. Sau loạt súng để thị uy kẻ muốn qua cầu, mọi sự chú ý của cả trận địa tử thủ dồn lên mặt cầu, nên không ai, kể cả Hàm biết có một đội quân trang bị gọn nhẹ đi trong bãi chuối dọc bờ sông, áp sát vào phía sau lưng trận địa của biệt động quân. Dưới sự hướng dẫn của trinh sát Quế, anh em tiến đến phía sau lưng địch chỉ còn cách chừng trăm mét, thì tạm dừng lại. Anh em đội xung kích, tất cả phải cắn một mảnh gỗ để lỡ có ho hoặc hắt xì hơi cũng không gây tiếng động. Quan sát địch, Quế lại ra ám hiệu cho anh em áp sát vào gần lưng địch hơn nữa, rồi ngồi thấp xuống, mỗi người quan sát kỹ một mục tiêu cho mình. Trong khi đó, trinh sát Quế, dẫn đầu một tốp trinh sát lần theo giao thông hào, đến gần sở chỉ huy của trung tá Hàm. Hàm tinh quái, đặt sở chỉ huy không ở giữa trận địa, cũng không ở cuối hoặc phía trên trận địa, mà nhô ra cái eo đất sát bờ sông, ngay dưới gầm cầu Cây Bông. Ở đó Hàm có thể quan sát được toàn đại đội và cả cầu lẫn mặt nước thượng và hạ lưu dưới cầu. Bò đến chỉ còn cách hầm chỉ huy hai mươi mét, Quế quan sát thấy từ hầm chỉ huy có ba nhánh giao thông hào thông về hai bên bờ sông và một nhô xuống tận mép nước. Hàm có thể thoát từ một trong ba đường giao thông hào này. Do cát dễ sụt lún, mép giao thông hào được gia cố bằng những tấm bê tông một cách chắc chắn.
Chừng năm phút im lặng quan sát địch từ phía sau, tất cả anh em đại đội chủ công bất ngờ đứng lên, chĩa súng vào lưng đám lính đang mải miết bắn hú họa lên cầu, hô lớn:
“Tất cả buông súng. Hàng thì sống, chống thì chết!”.
Cả đại đội tử thủ trong đó có Hàm vội quay ngoắt lại, đã thấy những đầu súng đen ngòm chĩa vào lưng. Hầu hết lính giơ tay xin hàng vì không hàng thì chết, không thể chống đỡ. Tuy nhiên Hàm vẫn ngoan cố chống lại, nhanh tay nâng khẩu M-79, bắn một quả đạn vào cái bóng người, lúc đó là Quế đang nhấp nhô trong giao thông hào. Quế né nhanh, quả đạn không trúng mục tiêu, mà bắn vào thanh bê tông chắn cát trên vách giao thông hào. Sức nổ phá mạnh thanh bê tông chắn, mảnh đạn phản lại bắn vào mặt Quế. Tuy nhiên, Quế vẫn bình tĩnh, nổ một phát súng AK làm kẻ vừa ngoan cố bắn M-79 đánh rơi khẩu súng, ngã xuống.
Đại đội chủ công làm chủ trận địa tử thủ của đại đội biệt động ngay sau đó. Lúc bấy giờ đại quân của trung đoàn mới kéo cờ, hô xung phong tiến qua cầu Cây Bông, không một viên đạn bắn cản.
Trong khi Quân giải phóng tràn qua cầu thì hầu hết lính biệt động của đại đội tử thủ vội tụt bỏ quần áo, cởi trần ngồi co ro trên bãi đất đầu cầu, vì gió sông lúc đó hơi lạnh.
2. Giờ ấy ở nhà, bà Liên lòng như lửa đốt. Bà chạy lên lầu một thắp hương rồi vội vơ tất cả đồ lính của Hàm, nào quần áo, nào mũ, nào dây lưng, nào giày... ném xuống phòng trệt.
Từ lầu một chạy xuống gian trệt, bà Liên luống cuống hò hét:
“Nhu, con giúp má quăng hết những thứ lính tráng của thằng Hàm ra khỏi nhà. Nhanh tay lên kẻo ba con sắp về”.
Nhu ôm lấy má:
“Má, bình tĩnh nào. Không phải giấu ba, má ạ”.
Bà Liên:
“Nhưng... Ổng mới về, ổng chịu sao thấu!”.
Nhu vẫn nhẹ nhàng khuyên má:
“Trước sau gì, ba cũng phải biết sự thật. Có khi ba biết rồi. Ba là người từng trải, má khỏi lo”.
Nhưng bà Liên không nghe lời khuyên của Nhu. Bà vẫn vội vơ những thứ bà vừa ném xuống, ôm một ôm ném ra ngoài cửa sổ sau nhà.
Bà Liên đang cuống cuồng thì có tiếng đập cửa.
Bà Liên run lập cập:
“Ai đó?”.
Nhu phải giúp má mở cửa. Rồi cô giật lùi, vì trước cửa là hai người cởi trần, chỉ mặc mỗi chiếc xà lỏn, khiêng cáng. Trên cáng có người nằm bất động, phủ tấm chăn màu cỏ úa quen thuộc của lính.
Anh lính khiêng cáng nhìn Nhu:
“Thưa cô Út, anh Hai bị thương...”.
Bà Liên kêu lên:
“Trời ơi, thằng Hàm bị thương? Ối con tôi!”.
Hai người lính đặt cáng xuống nền nhà. Anh lính khiêng cáng mở tấm chăn trùm kín đầu người nằm trên cáng.
“Dạ, anh Hai bị thương ở vai, được y tá của Cộng quân băng bó. Cho nên... Anh còn bị choáng chút đỉnh... Dạ, quân vụ Việt Nam Cộng hòa không hoạt động nữa, nên bọn con khiêng anh Hai vô nhà”.
Nhu hiểu nhanh cô phải làm gì vào lúc này. Tự nhiên Nhu thấy mình hoạt bát, tự tin, vượt qua nỗi sợ. Cô vội khoác chiếc áo:
“Má kêu cho con chiếc tắc-xi”.
Anh lính khiêng cáng bảo:
“Thưa cô, giờ này tắc-xi cũng không hoạt động nữa. Cô định đưa anh Hai đi đâu, để tụi tôi khiêng đi luôn. Ảnh là chỉ huy của bọn này. Chiến hữu từng sống chết có nhau”.
Nhu nói với má:
“Má ở nhà để con đưa anh Hai vô nhà thương Ái Hữu. Hai cậu khiêng giúp tôi”.
Cáng lên vai. Bà Liên giữ cáng lại:
“Hai cậu gắng sức giúp tui nghe”.
Bà nói, vỗ lên người nằm trên cáng:
“Ráng chịu nghe con. Nấu xong tô cháo, má chạy ra nhà thương với con. Nhu đi cẩn thận nghe. À, con cầm theo chút tiền”.
Nhu bảo:
“Lúc này biết người ta tiêu đồng tiền nào. Con cứ đi, tính sau, má”.
Cáng ra khỏi nhà. Bà Liên đóng sập cửa rồi ngồi rũ xuống xa-lông. Bà Liên bỗng giật nảy mình vì lại có tiếng gõ cửa. Bà định để mặc, không mở. Nhưng tiếng gõ vẫn bền bỉ. Bà nghĩ có khi ông Quang về, nên ra mở cửa.
Nhưng hiện ra trước cửa lại là một nữ quân nhân đội mũ tai bèo, hai bím tóc quả đào cuốn gọn sau gáy, cổ cao, gương mặt thanh tú, đeo túi thuốc y tá.
Nữ y tá nói:
“Thưa bà... Có phải vừa có cáng khiêng một người bị thương vào nhà ta?”.
Bà Liên:
“Không...”.
“Vậy xin lỗi bà…”.
Cô y tá quay ra.
Bà Liên nhìn theo nữ y tá bỗng lên tiếng:
“Xin cô dừng lại. Cô là...”.
Nữ y tá dừng chân:
“Thưa bà, tôi là y tá bộ đội Giải phóng... Tôi muốn tìm người tôi vừa băng bó vết thương để trả lại…”.
“Là sao cô? Cô trả lại gì?”.
Nữ y tá chìa ra cái áo sĩ quan biệt động, đã gập gọn:
“Thưa bà, bệnh nhân bị thương vào vai, nên khi băng bó phải cởi áo. Băng xong, do vội cáng ngay ra khỏi khu vực trận địa nên người bị thương bỏ quên lại chiếc áo, trong túi có nhiều giấy tờ tùy thân nên tôi đuổi theo để trả lại”.
“Cô tìm người bị thương vào phần vai?”.
“Vết thương không nặng lắm, nhưng có lẽ do mất nhiều máu, nên bị choáng”.
“Cô có biết người bị thương tên gì không?”.
“Tôi không kịp hỏi tên”.
“Xin lỗi, tôi đã không thành thực với cô. Đúng là vừa rồi có cáng người bị thương vào vai qua đây”.
“Người đó với bà là...?”.
“Là con trai tôi”.
“Thưa bà, anh tên là gì?”.
“Tên là Hàm. Xin cô chờ cho chút xíu”.
Bà Liên mở cánh cửa lối sau nhà, vội ôm một ôm đồ của Hàm bà vừa vứt bỏ, đem vào:
“Thực tình, tôi sợ bị liên lụy lúc mới gặp Giải phóng nên vội vứt bỏ đồ lính của con... Ai dè... Đây, giấy tờ tùy thân của nó còn đây... Nguyễn Phan Hàm”.
Nữ y tá lật tấm áo của người bị thương cô vừa cấp cứu, thấy trên nắp túi áo có tấm biển in tên HÀM.
Cô đưa tấm áo cho bà Liên:
“Vậy là tôi đã tìm đến đúng địa chỉ để trao trả áo. Bà nhận giúp. Xin chào bà”.
Cô y tá vội vã quay lui.
Bà Liên ôm chiếc áo của Hàm, cứ đứng ngẩn ra một lát. Bất chợt bà gọi “cô ơi” nhưng nữ y tá đã đi khuất.
Đóng sập cửa, bà Liên ném tấm áo của Hàm vào góc nhà. Nhưng rồi như nhớ ra, bà nhặt lại chiếc áo, kiểm tra xem những giấy tờ gì trong túi áo con. Bà rút ra một gói giấy thấy trong gói là xấp tiền đô la. Cầm gói tiền trên tay, bà Liên ngồi thừ, bỗng giật thót vì có tiếng gõ cửa. Bà ấn xấp tiền vào túi áo của Hàm, bước ra mở cửa. Bà nghĩ, lần này có thể là ông Quang chồng bà sẽ về. Bà vội vuốt lại quần áo cho đỡ nhăn nhúm, rồi mở cửa.
Nhưng trước cửa lại là Nhu.
Bà Liên vội hỏi:
“Anh con sao rồi?” .
“Anh Hàm tỉnh rồi. Bác sĩ nói, có thể cho tại ngoại, nhưng ảnh xin chuyển xuống phòng hồi sức để tiện chăm sóc thuốc...” .
“Thế cũng được. Nhu này...”.
“Má, dạy gì con ạ?”.
“À không...”.
Nhu đưa cho má phong thư:
“Không biết ảnh Hàm viết vào lúc nào, bảo con đưa bao thơ, nhắc cẩn thận, đưa tận tay cho má. Chắc ảnh dặn má gì đó. Má coi. Con cũng chưa kịp đọc”.
Bà Liên mở bao thư. Đọc dòng đầu, tay bà run lên.
Nhu nhìn thấy cử chỉ của má, đến bên, cầm trang thư của Hàm đọc tiếp cho má nghe:
“Khi má đọc lá thơ này, thì các chiến hữu đã giúp con xuống tàu đi di tản. Xin má đừng buồn. Từ khi bị thương đến lúc chiến hữu cáng về nhà, con chỉ giả vờ ngất, giả vờ vì sợ bị trả thù, chứ thực tình con vẫn tỉnh để quan sát mọi việc diễn ra quanh mình. Con còn níu tay em Nhu, bảo dắt má đi với anh. Nhưng Nhu từ chối. Lúc này con thực sự tin ba đã về. Ba về, mà con ở nhà thì lại có một cuộc xung đột khác ngay trong mái nhà mà bao năm má mong ước đoàn tụ. Bao năm ba một hướng, con đi một hướng, chưa có thời gian và sự trải nghiệm để có thể hòa thuận dưới một mái nhà. Để má đỡ buồn khi sống với ba, con tự ra đi... Con cầu mong cho má được bình yên. Hãy tha tội cho con. Nhu chăm sóc má giúp anh”.
Đọc xong, Nhu trả lại lá thư của Hàm cho má.
Bà Liên mở lá thư vuốt vuốt cho thẳng, nhưng không đọc nữa, mà bật lửa ga, đốt.
Nhu kêu lên:
“Sao má lại đốt thư của anh Hàm?”.
Bà Liên không trả lời mà cầm mảnh giấy cháy cho đến khi lửa sắp bén vào tay, mới buông xuống nền nhà. Ngọn lửa tắt. Cả không gian phòng khách cũng chìm trong bóng tối. Bấy giờ bà Liên mới nói:
“Má đốt thơ của Hàm đi, để ba con về, ba con không phải đọc những dòng đau lòng này”.
3. Sáng đó, Ba mươi tháng Tư, là buổi sáng vui buồn lẫn lộn với Nhu.
Những buồn vui lẫn lộn kéo dài gần hai năm trời dằng dặc mà có lúc cô tưởng gục ngã, rồi không hiểu lấy sức từ đâu, cô lại gượng dậy, bước tiếp.
Mãi sau này, cô mới hỏi chồng:
“Không hiểu sao ngày đó anh lại đối xử bội bạc với em và má?” .
Chồng bảo:
“Nào anh có bội bạc. Anh chỉ nghĩ cho em. Gương mặt anh đã khác, không còn hợp với em nữa, nên anh cố tránh. Tránh để quên em đi, mà nào có quên được… Với lại, với em, với má, có những việc anh chưa thể nói ra, nên im lặng để rồi tính” .
Nhu bảo:
“Anh làm khổ em!”.
Bắt đầu của buối sáng Ba mươi tháng Tư, lúc Quân giải phóng còn ở ngoại ô chưa vào, thành phố gần như bị bỏ trống, vì chủ cũ đã bỏ đi, còn chủ mới chưa tới. Nhu vẫn liều lĩnh đẩy chiếc xe máy Honda ra cửa.
Má chặn Nhu lại hỏi:
“Ngoài phố đang nhốn nháo, con đừng ra ngoài!”.
Nhu nói kiên quyết:
“Con đi tìm anh Hàm về cho má. Lúc ở phòng khám, con nghe loáng thoáng họ xì xào với nhau, giờ này, chỉ còn bến kho xăng Nhà Bè là còn tàu di tản. Con lại không nghĩ là anh Hàm sẽ đi vì đang bị thương và còn má ở nhà. Vậy mà… Ở nhà nhìn má như người mất hồn thế này, con không chịu nổi. Thôi con đi”.
Thành phố náo loạn. Mặc dù đã cởi bỏ quần áo, giày mũ ném đầy đường, nhưng người ta vẫn nhận ra những kẻ chỉ mặc trên mình mỗi chiếc xà lỏn đang hò hét quậy phá là lính của nhiều binh chủng ngụy chạy về đây. Không ai ngăn được đám người vô chính phủ này. Nhu rẽ về phía đám đông chen chúc len vào cửa đại sứ quán Mỹ để cầu mong được lên máy bay trực thăng đậu trên nóc nhà. Có lẽ nhiều người không đến lượt ra đi vì trên nóc sứ quán chỉ có một chiếc trực thăng nhỏ mà dòng người đòi đi thì chen lấn, xô đẩy kéo dài cả một dãy phố.
Ở bến cảng Nhà Bè cảnh chen lấn còn khủng khiếp hơn. Hàng vạn người đứng ngóng vô vọng vì con tàu đã rời bến. Nhu biết, cô chậm chân không thể giữ anh Hàm ở lại. Ngay cả nhìn thấy anh cũng khó. Anh ở đâu giữa nghìn người đứng như nêm cối cả boong tàu?
Vậy mà bất chợt Nhu gặp anh.
Không phải gặp anh bằng xương bằng thịt, mà trong tiếng gọi tên anh nghẹn ngào của một cô gái trẻ:
“Anh Hàm đừng bỏ em”.
Lúc bấy giờ cô không hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng và đau đớn của tiếng gọi tên anh vang lên vô vọng giữa bến cảng. Và cô cũng không dám nói với má vì chưa hiểu ra sự thật. Mãi sau này cô mới biết, anh bỏ đi, vẫn còn để lại một dòng huyết thống của dòng họ. Nhưng khi đó ba má đã mất rồi.
Nhu len lén về nhà vì sợ má hỏi, anh con đâu. Cuối cùng, không tránh mãi được, Nhu đành phải nói với má:
“Thôi, má đừng chờ anh ấy nữa. Coi như má lỡ tay đánh đổ cốc nước, không lấy lại được”.
Má ngồi lặng đi, thở dài.
Ít ngày sau, may quá, cả hai má con đang buồn nẫu ruột thì ba về. Phải đến mấy ngày sau nữa Nhu mới dám hỏi ba về anh Quế. Thì ra ba yêu quý người này, nhưng sợ nói ra, Nhu buồn, nên ba chưa nói.
Bây giờ Nhu hỏi, không đừng được, ba bảo:
“Ba biết chuyện cậu Quế trinh sát của trung đoàn có lọt vào nhà ta để tránh bị truy đuổi. Cậu ấy bảo được cả hai má con tận tình giúp đỡ cho nên mới thoát chết về đến đơn vị để dẫn đại đội chủ công sang bên kia cầu Cây Bông, đánh úp. Cậu ấy là chàng trai tuyệt vời, không may bị thương…”.
Nhu cướp lời ba:
“Ảnh bị thương nặng không ba?”.
“Ba đã kịp thăm cậu ấy ở trạm xá trung đoàn. Bị nhẹ thôi. Nhưng vết thương làm hỏng một bên mặt, phải đưa ra bệnh viện ngoài Bắc chữa trị. Ngoài ấy họ có kinh nghiệm chữa vết thương chiến tranh và phục hồi chức năng…”.
Nhu ngồi lặng một lúc sau, mới nói với ba:
“Thưa ba, con ra Bắc thăm ảnh được không?”.
Ba lắc đầu:
“Đã biết cậu ấy nằm ở viện nào, một linh tám, một linh ba, hay tuyến bệnh viện dân sự như Bạch Mai, Việt Đức. Phải biết cậu ấy ở đâu rồi mới đi thăm được. Ba cũng nóng lòng muốn thăm cậu ấy”.
Nhu bắt đầu sống những ngày chờ.
Chờ nửa năm vẫn không nhận được thư Quế gửi cho Nhu và gia đình. Rồi chờ thêm nửa năm nữa Quế vẫn biệt tăm. Hay là người ta đã quên nghĩa xưa? Rồi Nhu cũng chẳng có thời gian mà quan tâm đến Quế nữa. Được hơn một năm vui sống thì ba ốm phải nằm viện rồi mất. Nhu bỏ các buổi biểu diễn và biếng nhác ngồi đàn, tối tối nhớ đàn quá, cô không dám đàn bản Bốn mùa vì tác phẩm này vui vẻ quá, không hợp với hoàn cảnh u buồn của má nên chỉ đàn Phục sinh của Gusta Mahler có màu tối hơn, gợi về cái chết có thể phục sinh trở lại với ánh sáng cho má nghe.
Sau hơn nửa năm chịu tang ba, Nhu mới bất ngờ nhận được thư của Quế. Bấy giờ má còn sống nhưng yếu lắm rồi, đi lại phải lần giường. Má hỏi thư ai gửi cho con, Nhu thờ ơ nói:
“Bạn con”.
Cô thờ ơ với lá thư muộn màng của Quế. Trong cô, sự chờ đợi đã quá đủ, không còn vương vấn Quế nữa. Ba mất anh không đến thăm và không một lời chia buồn với má và Nhu. Không thể vô tâm với một người từng dang tay che đạn cho mình đến như vậy được. Sự thờ ơ của Quế xúc phạm đến lời hẹn “em chờ anh về” của cô. Nhu xếp lá thư của Quế vào ngăn kéo, không mở, vì không còn muốn biết trong thư nói chuyện gì. Và anh nói chuyện gì bây giờ cũng không còn quan trọng với Nhu nữa.