• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mây vẫn bay về trời
  3. Trang 9

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 13
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 8
  • 9
  • 10
  • More pages
  • 13
  • Sau

Chương sáu

1. Đêm nay, Nhu lại chỉ có một mình trong căn nhà của ba má.

Lâu lắm rồi Nhu mới sống một mình trong căn nhà hai tầng có nhiều cửa sổ nhìn ra sông. Ngày ba chưa về thì Nhu ở bên má. Má ít ngủ chung với con gái, thường ngồi lặng trước ban thờ, nhưng Nhu vẫn thấy yên lòng. Ba má mất thì Nhu bên chồng. Đôi khi chồng đi công tác dăm bữa nửa tháng, cô sợ một mình, thường kêu con bạn chưa chồng ở đoàn Bông Sen đến ngủ cùng.

Cũng có khi con bạn kêu giời:

“Mi tha đi ngủ lang, má tao quạu quá trời”.

Nhu xách túi sang nhà bạn. Ngủ một mình trong căn nhà còn nhiều bóng dáng ba má, Nhu không yên.

Tuy nhiên đêm nay Nhu không thể gọi bạn gái đến ngủ vì còn chờ anh Hàm về. Anh đi thăm bạn từ sáng mà đến tối vẫn không liên lạc được. Cô ngồi bồn chồn chờ tiếng gõ cửa của anh. Thắp nhang lên ban thờ gia tiên đặt trên lầu một và ban thờ hai vị Phúc Lộc ở góc nhà, rồi cô đun nước pha ấm Blao thật đặc, uống để cầm cự thức cả đêm chờ anh.

Chờ mãi anh không về, Nhu lại ngồi vào đàn.

Lâu rồi cô mới lại ngồi vào cây đàn piano ở nhà riêng, vì chỗ ở mới cô thường dùng cây đàn của Nhạc viện. Hai bàn tay Nhu đặt lên hàng phím trắng của chiếc đàn hiệu Bernstein thật lâu mới gõ những âm thanh đầu tiên của Bốn mùa. Tiếng đàn gợi nhớ:

Đó là đêm hai tám tháng Tư.

Đêm cô một mình trong nhà, ngồi đàn cho đỡ vắng, thì má lại từ bờ sông về.

Khác mọi khi, về đến nhà, nếu thấy Nhu đang đánh đàn, thì má kiễng chân bước nhẹ rồi ngồi vào xa-lông nghe hết bản nhạc, không bao giờ gây tiếng động làm công việc của con bị ngắt quãng.

Nhưng bữa nay thì khác.

Vừa vào nhà, má vội đặt tay lên vai Nhu, bảo:

“Để má sửa soạn ban thờ một chút, rồi con lên ban thờ trên lầu, má có chuyện nói với con”.

Ít khi má cần nói chuyện vào lúc Nhu đang đánh đàn. Hẳn là có việc hệ trọng, nhưng khuya rồi, Nhu bảo:

“Mấy hôm nay con thấy má hay ra bờ sông, chắc là mệt rồi. Hay má đi nghỉ đi, chuyện gì mai sẽ nói”.

Bà Liên:

“Con lên đó nghe má nói ngay bây giờ”.

Má nói như ra lệnh, chắc phải có chuyện gì cần kíp và hệ trọng lắm. Nhu theo má, bước lên cầu thang.

Cô đến trước ban thờ đặt trên lầu một. Trên ban thờ má đã đặt đĩa ngũ quả, bình hoa và bát hương đang bốc khói.

Đợi Nhu quỳ gối trước ban thờ, vái gia tiên ba vái, má ngồi dịch lại gần con gái, nói:

“Từ ngày con biết hỏi má: “Ba con đâu?”, má nói: “Ba con mất rồi”. Lớn lên chút nữa, con hỏi má: “Ba mất ở đâu?”, má nói: “Người ta mai táng trong rừng chiến khu”.Với anh Hàm má cũng nói vậy. Nhưng Hàm thì biết nhiều hơn con, biết vì nghe bọn chiêu hồi nói, rằng ba bị Cộng sản bắn chết do bỏ ngũ chạy về phía quốc gia. Hàm vẫn nuôi báo thù cho ba. Trên ban thờ có bát hương cho ba con là vậy. Chết vì ta hay chết vì họ cũng là người thân, là ba của hai con. Nhà ta hai mươi năm nay không có khách đàn ông. Má muốn toàn tâm nuôi hai con. Má vì các con mà sống. Đêm nào má cũng nuốt nước mắt vào bụng, cố chịu để còn chờ đợi đến ngày này. Nghe Giải phóng đã sắp về thành phố, nên mấy bữa nay má ra sông ngóng. Có khi má thuê cả chú Ba Tàu bán mì vằn thắn bây giờ ở thuyền đưa sang bên kia sông để nghe ngóng. Má không chịu đựng được điều bao năm vẫn giấu con…

“Bữa nay con thấy má khác quá...”.

“Bữa trước, lần đầu nhà ta mở cửa cho một người đàn ông lạ mặt bước vào nhà. Người đó là cậu Quế Giải phóng. Từ lúc cậu Quế đi, má như mất một cái gì gần gũi, ấm áp và tin cậy… Hôm nay, má mới nói với con là ba con còn sống. Chuyện ba của con bị bắn chết vì chạy theo địch chỉ là hoang tin. Người ta cố ý đặt ra cái tin ấy để cứu má con ta không bị truy sát vì có chồng làm cán bộ của cách mạng.

Nhu sững người:

“Kìa má ...”.

“Má phải nói dối con nhiều năm nay để má con ta được sống yên lành giữa thành phố toàn sắc lính. Hai mươi năm, ngày má sống với gương mặt của người đàn bà chồng bị bắn chết vì đảo ngũ chạy về phía địch, đêm một mình sống với nỗi niềm của người đàn bà chờ chồng đi làm cách mạng. Ngày má sợ ngày dài, đêm má cũng sợ đêm dài…”.

Nhu:

“Con và anh Hàm lớn, con và anh có thể chia sẻ với má được. Sao lâu nay má không nói với con cho vợi nhẹ?”.

Bà Liên:

“Má đang nói với con đó. Hôm qua, bà bạn của má, cũng có chồng đi tập kết, nghe tin Giải phóng đã về tới ngoại ô, bả giả đò ra ngoại ô thăm gia đình, vượt qua hàng rào giới nghiêm để lượm tin chồng. Hai ngày ở ngoải, bả không có tin gì về chồng, nhưng lại biết đơn vị của ba con đã về bên kia cầu Cây Bông.

Nhu:

“Ba con đã về đến bên kia cầu Cây Bông? Sao má không sang bên đó tìm ba cho con? Hay là anh Quế ở cùng đơn vị ba?”.

Bà Liên:

“Má muốn lén chạy sang bên kia cầu Cây Bông mấy ngày. Nhưng, má chưa đi được xa vì anh con. Anh con đang là lính quốc gia, tử thủ ở đầu cầu. Má phải ở nhà để ngăn anh con, khuyên anh con, nếu không thì ba con bắn nhau”. - Nói đến đây bà Liên như kiệt sức, cúi sụp xuống.

Nhu đỡ má ngồi ngay lại:

“Má... Con biết nỗi lo của má. Để con giúp má”.

Nhu dìu má vào phòng ngủ rồi vội bước xuống cầu thang. Mỗi bước chân bước xuống bậc cầu thang, Nhu lại nghĩ, ba sắp trở về… Ba có giống anh Giải phóng vừa ra đi khỏi nhà? Má không thể đi tìm ba vì anh Hàm, nhưng sao mình lại không thể? Nếu má đứng bên anh Hàm, mình đứng bên ba thì cuộc gặp mặt hai mươi năm chờ đợi sẽ không có tiếng súng, chỉ có tiếng gọi ba và con.

Nhu kéo ri đô ngăn đôi phòng khách. Ở bên kia của ri đô Nhu thay đồ. Sợi dây căng ri đô được vắt dần nào khăn, nào bộ đồ ngủ màu trắng. Rồi tiếng tắt công tắc đèn.

Bóng Nhu mất hút ra phía cửa sau mở ra phía sông.

2. Bà Liên dường như quá mệt vì sau cả ngày lục lọi trên các con đường bên kia bờ sông, ngủ thiếp đi. Cho đến khi tỉnh dậy, phố đã sáng bảnh. Bà vội ra phố kiếm đồ ăn thì Nhu về trong bộ đồ đen, ngồi ngửa mặt lên trần nhà, mắt nhắm, thở dốc vì mệt do một đêm thức trắng.

Hàm sắc phục trung tá biệt động, đeo chéo vai khẩu AR-15, chạy xộc vào phòng. Hàm về nhà với gương mặt hốc hác, gầy rộc vì đã mấy đêm thức trắng.

Hàm lên tiếng:

“Đêm qua con Út lén đi đâu mà về ngủ vùi ở đó?”.

Nhu nói ráo hoảnh:

“Không đi đâu cả”.

Hàm soi mói:

“Đầu tóc, quần áo rũ rượi, bê bết bùn đất thế kia, lại còn chối không đi đâu. Thu dọn nhanh đồ để di tản. Hôm nay là ngày cuối cùng cho gia đình sĩ quan. Chỉ đem theo những thứ cần thiết, còn bỏ lại hết!”.

Nhu:

“Bỏ lại tất cả ư?”.

Hàm:

“Lúc này thoát được thân đã may, còn muốn đem theo gì. Sang bển có đủ cả. Người Mỹ không bỏ rơi những gia đình có người sống chết với họ”.

Nhu kéo anh trai đến bên cửa sổ:

“Anh nhìn qua cửa sổ này. Cả khu gia binh có ai đi di tản đâu. Họ đóng cửa, nhốt chồng con bên trong, bắt thay đồ lính, chờ Giải phóng về”.

“Họ khác, nhà ta khác. Gia đình binh lính thường muốn di tản cũng không có chỗ. Út và má đi trước. Còn anh, anh ở lại cho đến lúc không thể nào giữ được thành phố nữa mới đi... Thu dọn lẹ lên, không còn dịp thoát thân nào nữa đâu”.

“Em không đi đâu hết”.

“Mày nhớ rằng, mày là em gái một trung tá biệt động quân”.

“Em cũng nhớ em là con gái của một cán bộ Giải phóng.”

“Câm. Tao quên chuyện hồi hôm tha cho thằng Việt cộng rồi, mày đừng chọc tao nữa”.

“Anh vào phòng để đồ em cho xem cái này, quý lắm... Bước hẳn vào. Thế...”.

Hàm bước vào phòng đồ. Nhu vội bước ra, sập cửa lại, cài khóa ngoài.

Nhu nói vọng vào:

“Anh chịu khó ở trong ấy. Má bảo anh về thì giấu anh vào buồng để đồ”.

Nhu ấn qua lỗ thông hơi của buồng để đồ một mớ quần áo, nói:

“Anh trút bỏ bộ đồ lính đi, mặc bộ thường phục”.

Tiếng Hàm quát:

“Con ranh, định giam tao để đem nộp cho Việt cộng hẳn?”.

“Má bảo em nhốt anh lại”.

“Mở ra. Tao có chết thì chết ở trận địa tử thủ, chứ không chết trong căn buồng để đồ. Mở!”.

Tiếng súng nổ. Hàm bắn vỡ ổ khóa cửa, vọt ra, chỉ tay vào mặt Nhu:

“Mày bỗng đổi khác chỉ sau một đêm thằng Việt cộng lọt vào nhà?”.

“Trận chiến sắp kết thúc rồi anh Hàm ạ!”.

“Đúng là giọng Việt cộng. Sắp là khi nào?”.

“Là sáng nay, là trưa nay, chiều nay, hoặc ngày mai, ngày mốt...”.

“Cái thằng khốn mà tao đã vì má mà không bắn đã nhồi vào đầu mày tất cả chuyện này?”.

“Đó không phải là thằng khốn mà là một người đàn ông tử tế và đáng kính trọng. Một người đàn ông khó tìm thấy ở thành phố nhộn nhạo này... Rất tiếc, không phải ảnh nhồi vào đầu em những điều em vừa nói mà là má. Má nói... Anh Hàm ạ, má nói ba sắp về”.

“Lại nữa. Mày lảm nhảm cái gì?”.

“Ba sắp về. Có người nói với má, ba đã về đến bên kia cầu Cây Bông”.

“Về hướng trận địa tử thủ của đại đội biệt động do tao chỉ huy?”.

“Có lẽ là thế. Má bảo vậy”.

Hàm cất tiếng cười:

“Mày bịa ra tích trò nghe ngon đó ta. Ba con sẽ dàn trận đánh nhau ở hai đầu cầu. Bên kia chiến hào, ba ca: Con ơi vì đâu huyết lệ tương tàn... Bên này tao bắt giọng: Thưa ba tình phụ tử con ngày đêm nung nấu. Con lạc đường giữa gió bụi trường chinh... Màn kết cuộc chiến đẫm nước mắt”.

Hàm đến bên Nhu giọng bỗng dịu dàng:

“Em mơ ngủ hả? Nghệ sĩ như em dễ mơ ngủ”.

Rồi Hàm kéo tay Nhu chạy lên lầu một, đến trước ban thờ:

“Cái gì đây? Bát hương thờ vong ba đấy. Ba chỉ còn sống trong tâm tưởng của má thôi. Vì cái tâm tưởng đó mà má lẫn lộn tất cả”.

“Không phải... Ba còn sống. Ba đang trở về với anh em mình, với má”.

Hàm vẫn dịu dàng với em:

“Bọn chiêu hồi đã nói với anh, Cộng sản giết ba vì ba chạy theo quốc gia”.

“Đừng tin bọn chiêu hồi”.

“Vậy cái ban thờ này má dựng hay bọn chiêu hồi dựng cho má?”.

“Là má lập bát hương vì anh em mình. Vì có bát hương này mà anh em mình và má được sống yên bao lâu nay. Má đã úp mặt vào đêm mấy chục năm chờ ba. Ba về thì cuộc chiến kết thúc...”.

“Anh không tin. Anh không tin Nhu ạ. Người ta giết ba là có thật. Mộ ba còn giữ tấm ảnh cả nhà là có thật. Với lại, hai anh em mình là ruột rà của má, lẽ nào má lại giấu hai con suốt mấy chục năm? Tên chiêu hồi giết ba vẫn còn sống kia, nay đã là trung tá cảnh sát quốc gia. Nó giết ba vì theo lệnh của Cộng sản cấp trên. Nghĩ thế nên anh tha, không giết nó để trả thù cho ba. Những nhân chứng còn sống còn đó, làm sao nói khác đi được. Nghe chuyện ba còn sống, anh chỉ thấy thương má hơn”.

“Anh có biết vì sao má không nói chuyện về ba cho anh nghe không? Vì anh không đi theo đường của ba, má giận, má không nói với anh”.

“Dù sao thì bây giờ anh cũng không thể bỏ mặc chiến hữu của anh ở trận địa tử thủ. Đứng ở chiến hào nào thì thằng lính nào cũng đều có lời thề danh dự với tổ quốc của họ. Anh phải đi”.

“Nhưng tổ quốc của anh đâu còn nữa?”.

Hàm định lao ra cửa. Nhu vội nắm tay Hàm, giọng khẩn thiết:

“Hãy tin má, anh Hàm. Ba sắp về... Anh phải ở nhà đón ba”.

Hàm vung tay em ra, xốc lại khẩu súng trên vai:

“Anh không phải là con nít”.

“Đêm qua em đã đi tìm ba...”.

“Ra em tìm liên lạc với Cộng quân. Buông tay anh ra”.

“Anh đừng đi. Má đã chạy đi đón ba ở ngoài cầu Cây Bông”.

“Trời ơi, sao để má chạy ra đó!”.

Hàm lao vội ra cửa. Nhưng anh vừa chạy được một vài bước thì bà Liên đã đứng chắn trước mặt.

Bà chắp hai tay vào nhau, bất ngờ lạy Hàm:

“Con ơi, má xin... Má xin... Con dại thì cái phải mang. Con đừng ra đầu cầu vào lúc này. Má biết đơn vị của con ở đầu cầu, nên má mới ra đó tìm con. Má nói với anh em binh lính của con, bỏ súng mà về với ba má các con ơi... Nhiều đứa nghe má...”.

“Má thương con, đừng cản phận sự của con...”.

Bà Liên:

“Có người từng thấy ba con ở bên kia cầu Cây Bông. Nhất định ba con qua cầu về nhà. Nếu con vẫn cứ muốn bắn chặn đường qua cầu thì con bắn vào ba con đó. Ba con đang về đấy. Trời đất ạ, thời buổi khốn nạn, con bắn bố”.

Bà khóc nấc lên, nhưng bà vẫn không cản được Hàm. Anh vùng tay ra khỏi tay má, lao đi.

2. Ngoài cầu Cây Bông, trận địa tử thủ tất cả binh lính đang ở thế sẵn sàng chiến đấu cao độ. Hàm quan sát cầu rồi quyết định điều ba khẩu đại liên M-60 có tầm bắn xa chừng hai ngàn mét, bằng ống kính ngắm, từ đầu cầu bên này, xạ thủ đại liên có thể bắn trúng từng mục tiêu nhỏ di động từ bên kia đầu cầu. Bố trí hỏa lực của Hàm đủ để chặn đứng không cho đối phương qua cầu dù họ đông tới cả một trung đoàn. Sau khi bố trí lại chỗ bắn cho từng người lính, Hàm còn tổ chức cho ba chiếc xe bò chứa đầy cát làm bia đỡ đạn cho lính tiền tiêu đứng nấp, đánh địch từ xa.

Quan sát bằng ống nhòm, Hàm nhận xét, đối phương vẫn ém quân, không một tiếng người, không một tiếng động. Đối phương càng im lặng, càng phải cảnh giác. Trận đánh lớn thường xảy ra sau những giờ im lặng.

Thấy trung tá Hàm vừa hạ ống nhòm, có anh lính nhảy lên khỏi ụ súng, nói:

“Bẩm, có người tìm chỉ huy ạ”.

Từ góc căn lều xộc xệch, một cô gái mặc đồ đen, trùm khăn rằn bước ra. Cô cởi khăn, lúc đó Hàm mới nhận ra là Tư, đêm nào hai người gặp nhau trong bãi lau bên kia sông. Hàm ngắm Tư thấy cô có vẻ mập hơn mọi khi:

“Nhìn em khác quá” - Hàm nói - “Sao em lại biết anh ở đây mà tìm?”.

Tư cởi chiếc khăn rằn, lau mồ hôi mặt:

“Dạ, muốn tìm thì anh ở đâu em cũng tìm được” - Tư nói, rồi ấn vào tay Hàm một gói lớn.

Hàm hỏi:

“Chi đó...?”.

“Em sắm cho anh bộ thường phục. Anh mặc vô rồi đi cùng em...”.

Hàm trố mắt:

“Em xui anh bỏ các chiến hữu, theo em ư?”.

“Em không xui anh mà chỉ mong anh ở với em. Khu gia binh em thấy nhiều gia đình gọi chồng con về, đóng cửa chờ Giải phóng. Em cũng muốn anh bên em những ngày này. Anh biết không, em có tin vui cho anh rồi đó”.

“Tin vui gì?”.

Tư nhìn vào mắt Hàm để đắn đo báo cái tin mà cô nghĩ, anh sẽ bất ngờ và sung sướng:

“Anh không ở bên em lúc này thì ai lo cho em. Chúng ta sẽ có con, anh ạ”.

Hàm ngờ ngợ:

“Mới có một lần gặp nhau, rồi mới xa nhau có mười mấy ngày mà em nói đã có con ư?”.

“Trời thương nên trời cho đấy anh ạ”.

Tư thì vui mà Hàm cứ ngẩn ra. Quả thật Hàm không nghĩ đến điều này. Hàm gặp Tư trong bãi lau bên kia sông bữa rồi, anh chỉ nghĩ, cô cũng như nhiều cuộc tình bất chợt anh thường gặp ở nhiều nơi đơn vị biệt động đồn trú. Vì thế, sau cái đêm ân ái vội vã trong lều dã chiến trong bụi lau bên kia sông, anh cũng đã quên mối tình chợt gặp này. Mấy lần vào ấp Xoài Hai, anh cũng không tìm Tư. Anh nghĩ, một cuộc tình đã qua, thì cho qua. Đàn ông mà cuộc tình nào cũng ôm lấy thì ôm sao thấu. Việc Tư bất ngờ đến tận trận địa tử thủ, báo tin có thai, là ngoài mọi dự tính của anh. Tuy nhiên, đối với phụ nữ, để họ nghe mình, thì phải dịu dàng khuyên bảo, càng tỏ ra yêu thương họ, họ càng nghe lời để giải quyết cái thai mà anh chưa mong muốn vào lúc này.

Hàm ôm lấy cả hai vai Tư:

“Cám ơn em đã báo tin vui. Nhưng em biết đấy, lúc hỗn loạn này, có con sao được. Một là, anh không thể bỏ trận địa với các chiến hữu đã gắn bó máu thịt với mình. Hai là biết mai ngày sẽ sống thế nào, thậm chí họ có cho mình được sống không mà nuôi con. Buồn lắm, nhưng anh phải dằn lòng khuyên em, để anh đưa em đến phòng khám nào đó tạm bỏ đứa con ra đời không đúng lúc này. Em còn trẻ, anh cũng còn trẻ, nếu yên hàn, ta sẽ sinh con sau”.

Nghe Hàm nói, Tư lặng đắng, hai hàm răng mím chặt, nước mắt lăn dòng trên má. Gỡ cả hai tay Hàm đặt trên vai, Tư hơi lùi lại, nhìn Hàm, nói:

“Anh không chấp nhận thì nó sẽ là con của riêng em. Nó ra đời vội vã, anh và em chưa kịp một lời hứa hẹn nào, nhưng em vẫn giữ giọt máu của em. Nó là thiêng liêng với em. Không có anh, con em vẫn lớn lên như mọi đứa trẻ của xóm Xoài Hai, ba chết trận mà nó vẫn sống, vẫn lớn lên, vẫn làm người”.

“Kìa em. Em đang trách anh bội bạc chứ gì. Anh xin, vì lúc này, anh không chỉ có em, mà anh còn rất nhiều thứ phải lo, phải sống. Việc của đàn ông thời chiến. Chỉ là hoàn cảnh mà anh khuyên em thôi…”.

Tư lắc đầu:

“Anh yên tâm, em chỉ trách em chứ không trách anh. Trách em sao vội vàng hiến thân cho người bạc tình. Chúa dạy con người là ánh sáng của trần gian, đày đọa con người, từ bỏ con người là chuốc lấy bóng tối. Em phải sinh con, không được bỏ con dù bất cứ lý do gì. Bỏ con là phản lại ánh sáng của Chúa”.

Tư đang nói với Hàm, thì có anh lính từ xa chạy lại:

“Trình trung tá, chúng con bắt được thiếu úy Khung dẫn tốp anh em trung đội ba chạy khỏi trận địa tử thủ”.

Hàm quay ngoắt, bỏ Tư lại phía sau:

“Lính trung đội ba chạy hết?”.

“Dạ, chỉ ba đứa cởi bỏ quân phục, chạy theo thiếu úy”.

Hàm đã hoàn toàn quên có Tư ở bên, bước đi:

“Đồ khốn. Dẫn thiếu úy Khung về trận địa tử thủ, xích chân lại, xếp đạn quanh người để hắn trở thành cái máy bắn súng về phía bên kia đầu cầu”.

“Dạ, bọn con đã làm vậy nhưng thiếu úy không bắn”.

Hàm không nói, co chân đá văng cái vỏ hòm đạn, rồi chạy đến chỗ có những người lính lô nhô ở các công sự xung quanh:

“Để moa xử cái vụ bỏ trận địa làm gương cho các chiến hữu”.

Hàm rút súng colt, bước đến nơi thiếu úy Khung bị xích chân vào càng khẩu đại liên.

Khung ngồi lút giữa các hòm đạn ngó lên, mặt tái mét.

Hàm nhìn Khung bằng con mắt khinh bỉ:

“Sao thiếu úy bỏ trận địa?”.

Khung nói:

“Trình trung tá, phía sau lưng dân chúng đang chờ Giải phóng về thành phố”.

Hàm hỏi lại:

“Sao thiếu úy không nghe thấy tiếng dân chúng nguyền rủa chúng ta không bảo vệ được quốc gia Việt Nam Cộng hòa?”.

Khung:

“Trình trung tá, tôi có bắn hết cả đống đạn này cũng không ngăn được Cộng quân tiến vào thành phố. Họ đâu chỉ vào thành phố bằng cách qua cây cầu này”.

Hàm xoay xoay khẩu colt cầm ở tay:

“Cộng quân đi lối nào, moa không biết. Nhưng, ở đây, Cộng quân muốn vào thành phố thì phải dẫm qua xác của những thằng lính biệt động tử thủ. Cộng quân phải qua xác chúng ta”.

Khung cố nhoai người lên:

“Trình trung tá, xin ông nghĩ lại. Chúng ta bị bỏ rơi rồi. Chúng ta thua trận rồi...”.

Hàm nhìn những người lính đứng xung quanh:

“Thành phố có thể thất thủ. Nhưng chúng ta thì không. Lính Việt Nam Cộng hòa ở đâu có thể đầu hàng, nhưng chúng ta thì không. Đó là lời thề của lính biệt động. Chưa bao giờ lính biệt động bỏ chạy khỏi trận địa. Kẻ nào đào tẩu, kẻ nào thoái chiến là phản bội, phải bị trừng phạt”.

Hàm bất ngờ bắn một phát vào cánh tay của Khung.

Khung hét lên:

“Giết tôi đi! Tôi vẫn nói, chúng ta đã thua cuộc!”.

Hàm đút súng vào bao, nói:

“Tôi không giết anh. Tôi chỉ bắn bỏ cánh tay của người lính mà không biết bóp cò súng. Các chiến hữu coi đấy, ai có tay mà không biết bắn súng cũng bị bắn bỏ”.

Hai tay Tư bịt lấy mặt vì sợ hãi. Bất chợt, Tư nhìn Hàm với đôi mắt kinh ngạc.

Tư:

“Trời ơi... Anh ác quá”.

Hàm nói:

“Làm lính, có luật của lính, em đừng can thiệp vào”.

Nói rồi Hàm bước đi, mặc Khung kêu đau đớn và coi như không có Tư đứng ở bên.

Hàm vừa đi khỏi, Tư nhảy xuống bên Khung, rồi ngước nhìn mấy cậu lính xung quanh, nói:

“Cứu người làm phúc, sao mấy người còn đứng nhìn!”.

Nghe Tư cầu cứu, có cậu lính nhảy xuống dùng sợi dây buộc chặt cánh tay của thiếu úy Khung để cầm máu rồi anh mở khóa xích chân cho Khung. Cô Tư bá vai dìu Khung bước lên khỏi giao thông hào, nói với mấy anh lính:

“Mấy cậu đang bận để tôi đưa ảnh đi phòng khám”.

Lúc Tư dìu Khung đi, Hàm nhìn thấy, nhưng không cản lại bởi lúc này, Tư và Khung đi khỏi càng nhẹ gánh cho anh.