Tô Phong Nghi ngủ suốt một ngày một đêm, sớm dậy rửa mặt mũi xong bèn thay một bộ y phục sạch sẽ. Lúc xuống lầu đã thấy có hai người ngồi ở một bàn rượu, đang nhắm mấy món vặt, nói nói cười cười. Một người trong đó bận áo khoác sám to rộng, vai vượn lưng ong, trán cao mắt sâu, mi mày như kiếm, vẻ mặt ngang ngạnh lại đượm nét u sầu, chẳng phải Diêu Nhân thì còn ai vào đây? Còn người kia, râu ria đầy mặt, vết thương chưa lành, trước ngực còn cuốn vải băng trắng. Bởi mất quá nhiều máu, sắc mặt hắn có chút nhợt nhạt nhưng ăn uống không giảm, tửu lượng hoành tráng, chốc chốc lại vui vẻ rót rượu, bình đổ nhưng người không say. Đấy chính là đại hán họ Quách được bọn họ cứu về đêm hôm trước.
Lần đầu tiên nàng thấy trong mắt A Nhân tràn đầy sự ôn hòa và nét cười, lần đầu tiên phát hiện chàng lại có thể nói nhiều đến thế. Tiếp đến, chàng còn không ngừng châm rượu gắp thức ăn cho người kia, trong động tác đưa tay đưa chân còn ẩn chứa vẻ thân cận khó tả.
Bọn họ trò chuyện tới hăng say, đến mức không ai nhận ra nàng đã tới, đợi khi nàng đã đứng cạnh bàn, Diêu Nhân còn chỉ bình trà của mình, không quay đầu lại nói: “Tiểu nhị, làm phiền mang lên một ít nước nóng”.
Nàng tức tối cầm bình trà đi tới quầy, rót nước, rồi đặt xuống cạnh tay chàng đánh “bình” một tiếng, lúc này chàng mới phát hiện đó là nàng, cười cười xin lỗi, nói: “Cô dậy rồi à?”.
“Dậy rồi”, nàng tìm một cái ghế ngồi xuống, trong lòng đố kỵ, nửa cười nửa không hỏi: “Vị này là…”.
“Quách Khuynh Quỳ. Tử Hân gọi tôi là ‘A Tuấn’,” ánh mắt đại hán rất chân thành, “Đêm trước đa tạ Tô cô nương tương cứu”.
Thì ra chàng vẫn còn một tên khác là “Tử Hân”, trong lòng nàng thầm nhủ.
“Hai vị trước đây… quen biết”, Tô Phong Nghi hỏi, mi mày nhíu chặt lại.
“Bạn tốt thuở nhỏ, nhiều năm không gặp. Tôi vẫn nhận ra hắn, hắn lại không nhận ra tôi”, Quách Khuynh Quỳ cảm khái một trận, không nhịn được, sờ sờ quai hàm, “Chính là bởi tôi lớn lên mặt lại đầy râu ria”.
Tô Phong Nghi chống cằm, hơi sững ra rồi đột nhiên mi giãn miệng cười, sáng lạn khôn tả, cứ như cuối cùng cũng tìm ra một con đường có thể đả thông nội tâm của Tử Hân, bèn nói: “Vậy sau này muội gọi huynh là Tuấn ca, có được không?”.
Quách Khuynh Quỳ cũng định cười, không ngờ động tới vết thương, miệng đã mở ra muốn cười thế nào cũng không thu lại được, nói xong một câu “Đương nhiên được!” thì phải ho khan một chập.
“Chỉ là, Quách Khuynh Quỳ này với cái người ‘Quách Khuynh Trúc’ kia không có quan hệ chứ?”, Tô Phong Nghi chợt hỏi.
Trông nàng không giống người trong võ lâm, không ngờ cũng biết chuyện này. Quách Khuynh Quỳ cũng không hề biến sắc:
“Bất hạnh lắm thay, Quách Khuynh Quỳ này chính là em ruột của Quách Khuynh Trúc nọ.”
Đây là một câu chuyện ai ai trên giang hồ cũng biết.
Phu nhân của Thẩm Bích Sơn, Trần Tĩnh Thanh vốn là người yêu của Quách Tượng Tiên, tổ phụ của Quách Khuynh Quỳ, bởi theo lệnh của cha mà gả vào nhà họ Thẩm rồi vì Thẩm gia mà sinh con đẻ cái mấy chục năm. Còn Quách Tượng Tiên vì chuyện này mà lòng dạ tan nát, tâm tình bi thương cả đời không lấy vợ, chỉ vào lúc tâm ý nguội lạnh nhất thu dưỡng một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đứa trẻ này chính là Quách Khải Thiền.
Lúc ấy, địa vị của Thiết tiêu tiên sinh Thẩm Bích Sơn trong giang hồ đang như mặt trời giữa Ngọ, ba đứa con trai của Thẩm gia cũng là những kẻ ưu tú của lớp sau. Quách Tượng Tiên thì theo học “Thông Tí Thần Viên” Lục Huyền Ưng nổi danh với Bát quái kiếm của Thiết Hoàn môn miền tây bắc, trên giang hồ tuy không được như Thẩm gia người đông thế mạnh nhưng cũng là danh môn chính phái. Hai vị lão nhân kia đang đêm bỏ trốn, chỉ mới ở trong một khách điếm được hai ngày đã bị phụ tử Thẩm Bích Sơn nộ khí xung thiên đuổi theo bắt được. Trần Tĩnh Thanh đối diện mắng chửi Thẩm Bích Sơn không thôi, tuyên bố kiên quyết không về Thẩm gia, Quách Tượng Tiên cũng không chịu nhường nửa bước. Dưới con thịnh nộ, người nhà họ Thẩm nhất tề xông lên công kích, hai vị lão nhân kia biết là không địch nổi bèn trước mặt chúng nhân ôm chặt lấy nhau, cùng nhau tự vẫn. Trong đám người vây bắt còn có võ lâm bằng hữu đã báo tin cho Thẩm gia. Nghe nói cảnh tượng khi ấy khiến Thẩm gia nhục nhã khôn tả, thể diện mất sạch. Thi thể hai người kia thế nào vẫn ôm chặt lấy nhau, mặc người bên cạnh ra sức lôi kéo thế nào cũng không chia lìa. Thẩm Bích Sơn vừa xấu hổ vừa phẫn nộ, vung đao chém loạn, xả bọn họ thành ra nát như tương rồi cho chó hoang ăn mất.
Chuyện này truyền tới tai Quách Khải Thiền, thù hận của hai nhà chính là bắt đầu từ đây. Quách Khải Thiền từ biệt thê tử, mai danh ẩn tích, suy tính mưu đồ báo thù cho phụ thân, ba năm sau vào một ngày nọ đột nhập vào Thẩm phủ, một đêm cắt đầu Thẩm Bích Sơn và con trưởng của lão, treo đầu lâu trước cửa lớn Thẩm gia.
An táng xong cho cha và anh, lão nhị của Thẩm gia là Thẩm Thái trước tế đường chặt ngón tay phát thệ, nhất định phải nợ máu đòi máu, không đem được Quách Khải Thiền ra nghiến thành tro bụi, thề không làm người. Nhưng bỏ ra trọn mười năm trời Thẩm Thái mới tìm được nhà họ Quách trốn tránh ở nơi thâm sơn cùng cốc, ai ngờ Quách Khải Thiền sớm đã dự liệu tất cả, đem hai đứa con trai của mình chia ra giấu đi từ lâu. Thẩm Thái dẫn người đuổi đến nơi, chỉ bắt được phu phụ họ Quách, lập tức giết họ tại chỗ, rồi lại truy lùng tung tích hai đứa con của Quách gia khắp nơi.
Mấy chục năm sau, trưởng tử Quách Khuynh Trúc đã giết trưởng tử Thẩm Huy Thiền của Thẩm Thái. Quách Khuynh Trúc theo học “Thái Huyền môn”, là đệ tử độc truyền của Nam Hải thần kiếm Khổ Vũ đại sư năm xưa, hiện hắn là đệ nhất sát thủ của miền tây bắc. Người này không những kiếm thuật cực cao, mà hành tung lại ẩn mật, trên giang hồ ai nghe thấy tên cũng biến sắc kinh tâm.
“Vậy thì, người truy sát huynh hôm qua là do Thẩm gia thuê sao?”, Tô Phong Nghi hỏi tiếp.
“Quá nửa là thế”, Quách Khuynh Quỳ cười khổ, “Xem ra mạng của ta càng lúc càng đáng tiền. Nếu không phải năm xưa được một thủ hạ của phụ thân mai danh ẩn tính nuôi dưỡng thành người, lại phải chạy tới chạy lui tránh đông tránh tây trên giang hồ mười mấy năm thì chỉ sợ sớm đã thành vong hồn dưới đao của Thẩm gia rồi”.
Nói rồi, hắn đưa mắt tựa như có chỗ khó nói mà nhìn Tử Hân, trong lòng tràn đầy day dứt.
Đêm hôm đó hắn vội vã rời đi, không nói lời từ biệt với Tử Hân. Mười mấy năm sau đó trốn chạy giữ mạng, càng chưa từng liên hệ với Tử Hân.
Hắn còn nhớ tình cảnh đêm hôm đó đang say ngủ thì bị gọi dậy. Vừa mở mắt đã thấy khuôn mặt suy sụp và ánh mắt sợ hãi của mẹ nuôi, bà nhỏ giọng an ủi hắn một câu rồi nhanh chóng mặc đồ cho hắn, sau đó không ngừng dỗ Tiên Nhi yên lặng. Không kịp thu dọn đồ đạc, cả nhà chỉ đem theo một bọc hành lý rồi ngồi xe ngựa phóng vội đi.
Đánh xe là một người lạ mặt, cao to mà âm trầm, đôi môi mím chặt, trên đường rất ít mở miệng nói năng. Còn chưa ra khỏi tiểu trấn bọn họ đã gặp phục kích của Thẩm gia. Cả nhà bỏ xe ngựa lẩn vào thâm sơn, xuyên đông trốn tây. Hắn mở to mắt, nín thở, núp trong lùm cỏ rậm. Có mấy lần đám người truy bắt phóng qua trước mặt, đuôi ngựa phất phơ quét qua má hắn; đèn đuốc sáng trưng, tro củi bay vào mắt hắn.
Tiên Nhi bắt đầu đã không chịu ngồi yên, dần dần lại càng thêm quấy phá. Nó không ngừng vặn vẹo, lấy chân đá vào đá vụn dưới đất, muốn thoát khỏi vòng tay của mẫu thân. Hắn ở bên cạnh ra sức giúp bịt miệng Tiên Nhi. Tiên Nhi nổi giận, hung dữ cắn tay hắn, vết răng tới giờ vẫn còn lưu trên mu bàn tay. Hắn bị cắn đau phải lỏng tay ra, nhân cơ hội ấy, Tiên Nhi chạy biến đi, vừa chạy vừa kêu: “Ca ca xấu! Ca ca xấu!”.
Hắn định xông ra kéo Tiên Nhi lại, một cánh tay đã như kìm thép giữ chặt lấy hắn. Hắn quay đầu lại thấy cha nuôi tay cầm rìu sắc, ngồi bất động sau lưng hắn, ánh mắt vừa tàn nhẫn lại bi thương.
Bọn họ trú trong một sơn động suốt một đêm, ngày hôm sau mới tìm được thi thể của Tiên Nhi… Tiên Nhi chết rất đau đớn, hai mũi tên nhọn xuyên qua bụng nhưng không chết ngay lập tức. Cô bé giãy dụa rất lâu cho tới khi máu tươi chảy hết.
Rất lâu sau hắn mới biết, người đánh xe kia là đại ca của mình, là người thân duy nhất của mình trên đời.
Có lẽ là nhờ bao nhiêu năm nay toàn dựa vào đại ca một mình đối kháng với Thẩm gia hắn mới được thuận lợi sống sót, đối với đại ca hắn luôn giữ một lòng kính sợ sâu sắc. Giữa bọn họ không hề thân thiết gì cho cam, thực ra còn rất ít khi gặp mặt. Có lúc, đại ca sẽ đột nhiên xuất hiện trên một con đường hắn đang đi, trao đổi vài câu rồi lại biến mất. Đọng lại trong đầu hắn, thủy chung là vết sẹo dài trên mặt cùng thanh trường kiếm đeo bên người, đôi tay lùa trong ống tay áo, dáng điệu lạnh lùng, cái nhìn xa xăm của đại ca.
“Đệ là huyết mạch duy nhất còn lại của Quách gia”, có một hôm đại ca chợt nói.
“Lẽ nào huynh không phải.”
“Không phải nữa rồi.”
Hồi ức thoáng chốc ập tới, tựa như một cái bong lướt qua mặt hắn, Tô Phong Nghi nhanh chóng nhận ra hắn đang lơ đãng. Hiếm có cơ hội moi tin từ miệng Quách Khuynh Quỳ, nàng ân cần rót rượu cho hắn, hưng phấn định hỏi tiếp, Tử Hân chợt hỏi: “Vết thương ở chân có đỡ hơn chưa?”.
Tai nàng thoắt cái đỏ lừ, nhẹ nhàng cười với chàng: “Thoa chút thuốc, đã hết sưng rồi”.
Tử Hân chẳng chớp mắt: “Tôi không hỏi cô”.
Giờ nàng mới phát hiện chân Quách Khuynh Quỳ cũng băng một lớp rất dày, vẫn có thể thấy được màu máu đỏ nhàn nhạt.
“Không sao rồi không sao rồi”, Quách Khuynh Quỳ vội vàng giàn hòa, “Vết thương vặt thôi. Tô cô nương, cô ăn sáng chưa? Sựa đậu nành với dầu cháo quẩy ở chỗ này rất ngon, tôi bảo tiểu nhị bưng lên một ít nhé?”.
“Không cần đâu”, Tô Phong Nghi nói, “Muội ăn không nổi”.
“A? Sao thế?”
“Muội cảm thấy có chút khó chịu”, nói rồi tức tồi lườm Tử Hân một cái.
Tử Hân cười nhạt, tiếp tục chọc tức nàng: “Chớ quên cô còn nợ tôi mười lăm lượng bạc, tốt nhất là nhanh nhanh một chút kiếm tiền trả tôi”.
Còn chưa dứt lời, đã thấy trước mắt khói đen bốc ngùn ngụt, Tô Phong Nghi hất mái tóc dài, tức giận xông khỏi cửa. Bước đi quá nhanh, suýt chút nữa vấp vào bậc cửa ngã nhào.
Nhìn theo bóng lưng nàng, Quách Khuynh Quỳ cười nói: “Sao lại phải chọc giận người ta bỏ đi thế?”.
“Cô ta nếu giận đi luôn thì tốt.”
“Lão đệ, chú ý phong độ.”
“Ta không có phong độ.”
Phần lớn đám nam nhân đều tự cho rằng minh hiểu nữ nhân, còn đa số nữ nhân lại cho rằng bản thân không hiểu nổi nam nhân, thậm chí còn hy vọng bọn họ vĩnh viễn cứ thần bí.
Tô Phong Nghi thì lại không hề như vậy. Nàng luôn tràn đầy tò mò đối với con người Tử Hân, ngoại trừ vì thích chàng ra, còn vì đã bất giác đã coi chàng là một món đồ đồng cổ thời nhà Thương lai lịch không rõ ràng. Nàng biết rõ cái thói tò mò của mình rất đụng chạm Tử Hân, khiến chàng cực kỳ tức giận nhưng cứ kiên trì không chịu thôi.
Cho nên, tuy trong túi rõ ràng có một tờ ngân phiếu ba chục lạng nhưng nàng tuyệt đối không chịu giao ra.
Nếu giữa hai người đã không có bất kỳ loại quan hệ gì, vậy thì nợ nần chính thành một loại quan hệ.
Bất kể Tử Hân có nói gì cũng không cách nào khiến nàng tức giận bỏ đi, nàng căn bản không phải là một nữ nhân dễ dàng thương tâm.
Ngủ đẫy đà, lại thêm một bữa sáng thịnh soạn, nàng cảm thấy tinh lực dồi dào, quyết tâm có thừa, liền chạy về tiệm đồ cổ Vinh Ký đứng quầy hai canh giờ. Trong khoảng thời gian ấy nàng liên tiếp thực hiện được mấy vụ làm ăn, đều rất thuận lợi. Rồi lại đem một chiếc nhẫn ngọc đời Hán ố vàng tán tới mức hoa bay đầy trời có một không hai rồi đen bán cho một vị công tử ăn mặc hoa lệ với cái giá cao kinh người. Sau đó còn thừa nhận với hắn bản thân nàng là người mới, thật thà, không biết làm ăn.
Hoa hoa công tử nọ rõ ràng không có thói quen mặc cả, chỉ một mực cười mỉm nhìn nàng, lặng yên nghe nàng giảng giải từ cổ ngọc thời Thương cho tới gốm quý thời Đường, lại từ tượng phật thời Tây Hán sang động đá Đôn Hoàng. Cuối cùng nhỏ nhẹ than rằng: “Cô nương bác học tài cao, lại phải làm thuê cho tiệm nhỏ này, đúng là thiệt thòi rồi”.
Nói xong, đón lấy chiếc nhẫn, rút khăn tay lau lau một lúc, đeo vào ngón trỏ ngắm trái ngắm phải, sau đó nói: “Vậy thì cứ sáu trăm lượng đi. Làm phiền cô nương ghi nợ”.
“Xin lỗi, tiệm nhỏ vốn ít, giao dịch tiền mặt.”
“Cô nương đại khái là mới đến. Tôi đến đây mua đồ, trước giờ đều là ghi nợ, đợi tới cuối năm thanh toán…”
Lời còn chưa dứt, Tô Phong Nghi đã túm lấy tay hắn, rút chiếc nhẫn khỏi ngón trỏ của hắn đánh veo một cái rồi bỏ vào hộp gấm, sau đó ngước đôi mắt, ánh mắt tóe lửa, bộ dạng cực kỳ đề phòng.
Người nọ không hề để ý, thở dài một tiếng ôn hòa, nhẫn nại giải thích: “Bởi vì đây là tiệm của tôi”.
Đưa mắt quét qua vai hắn, nàng đã thấy Vinh lão bản từ cửa vội vã đi vào, người chưa tới nơi, trên mặt đã đắp nụ cười: “Nhị công tử rảnh rỗi ghé qua lúc nào thế?”.
Nàng không đổi sắc mặt, tỉnh bơ đưa cái hộp gấm vào tay người kia: “Cầm lấy đồ này, tôi có việc xin đi trước”, nói rồi nhanh chóng chuồn khỏi.
Trên phố ánh dương rạng rỡ, Tô Phong Nghi đi bâng quơ dạo một vòng, mua mấy bộ y phục, nhớ ra mình không có son môi, liền thả bước đi vào một tiệm son phấn gọi là “Tử Cẩm Ký”.
Trên quầy không có ai nhưng có một vị nữ nhân thân mình cao gầy đang ngồi im lặng thưởng trà trên một chiếc thái sư kỷ đặt cạnh cửa sổ.
Cô gái đó tối đa là hơn hai mươi, bận một bộ áo bào thêu màu xanh sáng, trên đầu giắt một cây trâm sừng tê, dung mạo tuyệt mỹ, đôi mắt như sương khói, trong ánh mắt có vẻ cao ngạo sắc bén phi thường.
Làn da của nàng vốn đã đủ mịn màng mềm mại, lại thoa thêm một lớp nữ trang. Mười ngón tay thon dài, đầu ngón tay thoa sơn phụng tiên hoa đỏ. Ngón giữa thon nhỏ đeo một chiếc nhẫn ngọc, chất ngọc có ẩn mấy đường vân đỏ như máu.
Đầu tiên Tô Phong Nghi cho rằng nàng là lão bản nương của cửa tiệm, vừa định mở miệng chợt thấy có một người giúp việc đi ra từ cửa nhỏ chỗ quầy, hướng đến bản thân ra tư thế “Xin đợi một chút”, rồi mau bước tới bên chỗ cô gái kia ngồi, khom lưng cười nói: “Vất vả cho cô nương phải đợi lâu. Tiểu nhân vừa mới đi tìm lại một lần, vốn cho rằng lão bản hẳn còn giữ một rương hàng, không ngờ loại kem ‘Dạ Dung’ vừa nhập kia chưa tới hai ngày đã bán hết veo, đừng nói một rương, đến nửa hộp cũng không còn. Thật sự rất xin lỗi”.
Cô gái kia hừ một tiếng, không thèm đưa mắt nhìn hắn: “Kem Dạ Dung thì thôi, phấn Bát Bạch các người cũng không có. Ta thấy Tử Cẩm Ký còn chẳng bằng sạp hàng rong đầu phố, còn để làm gì nữa, chẳng bằng dỡ luôn cho xong”.
Giọng cô gái mềm mại thấu xương, còn mang theo chút lười biếng khiến người ta nghe thấy sung sướng cả lỗ tai. Có điều lời nói ra thì ngang ngạnh như muốn đòi mạng người ta, chẳng chút thông cảm cho người khác.
Tô Phong Nghi nghĩ thầm, cô gái này trắng trẻo như hoa lê, cho dù không thoa phấn thì vẻ đẹp tự nhiên cũng đủ kiều diễm lắm rồi, ai ngờ nàng vẫn cho là không đủ, còn muốn thoa thêm Bát Bạch phấn, thực là thái quá. Thế là không nhịn được mở miệng cười nói: “Vị tỷ tỳ này, theo muội thấy, phấn Bát Bạch cũng thôi đi. Đinh Hương, Bạch Phụ ở đây cũng là hàng tốt. Chỉ là ở trong lại cho thềm một ít tằm khô, làm một mặt nạ thuốc thì chắc chắn làn da trơn nhẵn, nhưng lúc rửa đi thì lại rất phiền phức. Còn chưa nói phối phương ấy vốn là dùng dấm chua điều chế, không khỏi có vị chua, dùng thật không tốt bằng phấn ‘Ngọc Nữ Đào Hoa’ mà Vạn Hoa lâu mới ra”.
Đôi mắt cô gái kia sáng lên, cười nói: “Vị cô nương này hình như là người trong nghề, muội nói tiếp xem, phán Ngọc Nữ Đào Hoa ấy có gì tốt nào?”.
Tô Phong Nghi tới ngồi cạnh nàng, nói: “Phấn ấy là hoa đào mùa xuân thu lấy phơi khô nghiền nát mà thành. Dùng kem Ô Kê xoa rồi đánh lên mặt, không chỉ có thể dùng làm phấn, mà còn có tác dụng của son môi, chẳng phải một thứ đồ mà có hai công dụng sao?”.
Cô gái vui mừng nói: “Nghe hay đấy, nhưng không biết ở đây có bán không”.
Người giúp việc vội thưa: “Có, có, có, đương nhiên có. Đây là hàng mới của năm nay, gọi là kem Ngọc Nữ Đào Hoa. Lúc xoa lên mặt thậm chí có thể không cần dùng kem Ô Kê, một hộp bảy loại, bảy màu sắc, hạnh hồng, đào hồng, ngân hồng, phấn hồng, thoái hồng, tía hoa hồng, tía ngó sen. Giá có hơi cao, hai mươi mốt lượng một hộp. Có điều cũng có thể chia ra bán lẻ”.
“Làm phiền lấy cho ta hai hộp đi.”
Cô gái nhàn nhã bước tối, trả tiền, lấy một hộp nói thế nào cũng muốn tặng cho Tô Phong Nghi. Tô Phong Nghi ngượng ngùng nhận lấy, cảm thấy nhận không thế thì có chút e thẹn, bèn hẹn nàng tới một trà lâu uống trà.
Trò chuyện một canh giờ là đã trở nên thân thuộc. Cô gái kia họ Thẩm, tên có hai chữ là Khinh Thiền.
“Tỷ tỷ làm nghề gì?”, Tô Phong Nghi nhìn thanh kiếm màu tím tinh xảo đeo trên bộ eo mềm mại như không xương của Thẩm Khinh Thiền, hỏi.
“Ta là một kiếm khách”, lúc nói câu này, nàng tỏ ra rất nghiêm túc, nói rồi tháo kiếm đưa cho Tô Phong Nghi cầm xem.
“Đây là tác phẩm của Lỗ Ẩn Tuyền đại sư năm xưa phải không?”, Tô Phong Nghi cười hỏi.
Thẩm Khinh Thiền hơi biến sắc hỏi: “Sao muội biết?”.
“Muội là một giám định sư, thanh kiếm này cũng xem như một món đồ cổ. Loại kiếm sắc tím kiểu thế này, Lỗ đại sư tổng cộng làm ba thanh. Chỉ còn một thanh lưu truyền tới nay, vốn luôn là chấn sơn chi bảo của núi Nga My. Người trên giang hồ gọi nó là ‘Ngư Lân Tử Kim kiếm’. Sau này nghe nói kiếm vào tay người năm xưa đứng đầu kiếm bảng là Sở Hà Y, vị này lại đánh mất nó trong đại sơn ở Đường môn.”
Thẩm Khinh Thiền gật đầu nhẹ: “Muội nói không sai”.
“Nhưng mà, tỷ tỷ người làm thế nào lại có được nó?”
“Là ta nhờ người đào nó trong núi ra.”
“Không thể thế chứ?”, Tô Phong Nghi bán tín bán nghi, “Nghe nói chỗ đó vốn là một sơn động, sau đó bị người ta đặt thuốc nổ, cả tòa núi sụp xuống. Đương thời ai cũng cho rằng đấy chính là nơi chôn thây của Sở Hà Y, đến cả thần y Mộ Dung cũng nhất mực tin thế, không ngờ nàng lại thoát được ra ngoài… Có lẽ là thông qua mạch suối ngầm trong lòng núi… Còn thanh kiếm ấy rõ rành rành còn lưu lại trong động”.
“Cho nên ta thuê rất nhiều người, đào cả nửa năm mới đào được nó ra”, Thẩm Khinh Thiền tự hào nói.
“Nơi đấy không phải địa bàn của Đường môn sao?”
“Đương nhiên. Làm việc gì cũng phải trả cái giá của nó.”
“Giá như thế nào?”, Tô Phong Nghi bất an nhìn Thẩm Khinh Thiền.
“Trinh tiết.”
Dùng trinh tiết đổi lấy bảo kiếm, đây vẫn là lần đầu tiên nàng nghe qua chuyện như thế. Tuy cuộc nói chuyện đã mấy lần bàn tới việc bí mật chốn phòng khuê, nhưng nghe thấy lời bộc bạch thản nhiên như thế, nàng vẫn cảm thấy hoảng hốt, tay run mạnh một cái, suýt chút nữa đánh rơi thanh kiếm.
“Sau đó”, Thẩm Khinh Thiền nói tiếp, “Ta đem nó tới Vân Mộng cốc bái kiến Mộ Dung phu nhân, định để vật quy nguyên chủ, nói thế nào phu nhân cũng không chịu tiếp nhận. Còn bảo, nếu đã vất vả như thế mới lấy được thanh kiếm này, vậy ngoài ta ra nó không thể thuộc về ai khác. Phu nhân giữ ta lại ăn một bữa cơm tối, còn tặng ta một bản kiếm phổ”.
Lúc nói câu này, nàng đưa mắt nhìn bầu trời xanh lam bên ngoài song cửa, trên khuôn mặt kiêu ngạo lộ ra vẻ sùng kính: “Tuy thời gian Mộ Dung phu nhân đi lại trên giang hồ cực kỳ ngắn ngủi, nhưng người vẫn là nữ nhân đầu tiên liệt danh đầu bảng trong võ lâm trăm năm nay. Về điểm này, chỉ sợ ta cả đời cũng không theo kịp”.
Tô Phong Nghi nói: “Vậy tỷ đã gặp được thần y Mộ Dung sao? Vị ấy là người thế nào?”.
Thẩm Khinh Thiền lắc đầu: “Không. Lúc ta tới đó đương là mùa đông, tiên sinh đang bệnh, không thể tiếp khách”.
“Tử Hân đặc biệt thích ông ấy. Đầu giường của chàng toàn là sách của Mộ Dung Vô Phong. Dưới mỗi chữ chàng đều ghi đầy ký hiệu, chắc sắp bị chàng vò hỏng mất thôi”, Tô Phong Nghi tay chống cằm, ngọt ngào nói.
Tự nhiên nghe thấy cái tên xa lạ này, Thẩm Khinh Thiền thoáng sửng sốt, hỏi: “Ai là Tử Hân?”.
“Bằng hữu của muội”, đôi mắt Tô Phong Nghi long lanh, vẻ mặt có một nét ấm áp khó tả, “Sớm muộn gì muội sẽ gả cho chàng. Tỷ xem, chàng chính đang hành y ở góc kia kìa, ngày nào giờ này cũng ở đấy”, nàng kéo Thẩm Khinh Thiền tới bên song cửa sổ, chỉ bong người áo xám chỗ con phố lớn phía xa.
Thẩm Khinh Thiền nhìn một hồi, không khỏi nhíu mày lại: “Trông hắn không tệ”.
“Há chỉ là không tệ? Có mà nhìn mãi không chán!”
“Có điều, hắn làm nghề gì? Mở sạp trên con phố hỗn loạn như thế, lẽ nào hắn không có nơi ở cố định sao?”
“A, chàng là giang hồ lang trung… cũng tức là hành nghề y tự do”, nàng lắp bắp giải thích, “Một ngày có thể kiếm mười lăm lượng bạc đấy!”.
“Chân của hắn bị thương sao? Tại sao đi đường lại phải dùng trượng?”
“Đúng là rất cà nhắc sao? Sao muội không cảm thấy…”, Tô Phong Nghi nhỏ giọng lí nhí.
“Muội làm sao lại quen người này?”
“Quen từ sớm rồi, rất tình cờ… chàng đối với muội khá tốt.”
“Nhưng mà, trời trong lành thế này, cũng không nóng lắm, sao hắn choàng cái khăn to thế?”
“À, chuyện này… mũi chàng có chút bệnh. Cứ ngửi thấy mùi lạ là sẽ hắt hơi”, tránh cho Thẩm Khinh Thiền hỏi mãi không thôi, Tô Phong Nghi dứt khoát kể hết một lượt, “Chàng không thể ăn rất nhiều thứ. Chàng không ăn cá, tôm, cua, trứng; không ăn đậu tương, lạc, vừng; không ăn hành, tỏi, ớt, tiêu; không ăn hạnh đào, hạnh nhân, hạt dẻ; không ăn ngải, mùi, nấm, cần; không ăn quýt, cải, dưa hấu. Không uống nước lạnh. Không ăn thịt”.
“Chẳng thà muội kể xem hắn có thể ăn những thứ gì, có khi còn đỡ mệt đầu hơn.”
“Những thứ còn lại đều có thể ăn.”
Thẩm Khinh Thiền buồn cười nhưng không dám cười: “Đấy chính là người muội thích? Hắn cứ như một đống bệnh gom lại, rất khó hầu hạ đấy”.
Tô Phong Nghi xua tay lia lịa: “Trước giờ chàng không cần hầu hạ. Trừ bữa sáng ra, hai bữa còn lại chàng đều tự mình làm. Nếu như có vào khách điếm, chàng sẽ đưa cho chưởng quỹ nhiều tiền hơn một chút, sau đó vào nhà bếp tự mình làm món ăn, không cho người khác động tay vào… Tỷ phải biết, người trong thiên hạ, cứ có bệnh là có vấn đề. Giống như Tử Hân có bệnh nhưng không thành vấn đề, quả thật rất hiếm đấy!”.
“Thế à… thật là kỵ lạ lắm thay. Tay nghề của hắn tốt không?”
“Rất tốt, làm rất tinh tế. Chỉ là chẳng có mấy mùi vị. Có điều, nhiều năm như thế rồi, chắc chắn chàng đã có tiến bộ…”
“Gả cho người như thế, chẳng phải quá phiền phức sao?”
“Không phiền phức, không phiền phức chút nào. Muội chỉ muốn kiếm nhiều tiền một chút, tương lai mua một ngôi nhà lớn, bọn muội sống cùng nhau. Chàng muốn mở quán khám bệnh thì mở quán khám bệnh, không muốn thì có thể hàng ngày đưa bọn trẻ ra ngoài câu cá.”
Thẩm Khinh Thiên đơn giản là không dám tin vào lỗ tai mình nữa: “Ý muội là, muội kiếm tiền, hắn nghỉ ngơi?”.
Nàng gật đầu thật mạnh: “Muội kiếm tiền dễ hơn chàng, tiêu tiền tiết kiệm hơn chàng. Nhất định phải là muội kiếm tiền mới được”.
“Phong Nghi”, Thẩm Khinh Thiền có chút cảm động, “Nếu muội có tấm lòng và quyết tâm như thế, làm gì không tìm được nam nhân tốt? Đáng tiếc ngũ ca của ta vừa mới qua đời… nếu không…”.
“Tử Hân chính là nam nhân tốt nhất. Muội sẽ gả cho chàng, sau đó sinh cho chàng hai đứa con trai, một đứa gọi là Diêu Hoan, đứa kia gọi là Diêu Hỷ”, Tô Phong Nghi kiên định nói, khuôn mặt sáng bừng.
Thẩm Khinh Thiền vuốt ve khuôn mặt nàng, dịu dàng nói: “Yêu một người là một việc hạnh phúc. Phong Nghi, ta cao hứng cho muội. Muội ở khách điếm nào? Ta chuyển tới ở với muội. Kẻ nào dám bắt nạt muội, ta giết kẻ đó!”.
“Tốt quá!”
Ngày hôm ấy, thu hoạch lớn nhất của Tô Phong Nghi chính là quen biết Thẩm Khinh Thiền.
Tình bạn giữa nam nhân và tình bạn giữa nữ nhân khác nhau như thế.
Nàng cố hết sức nghĩ cách tạo dựng một mỗi quan hệ với Tử Hân, từ đầu tới giờ vẫn là khó khăn trùng trùng, mỏng manh khôn tả.
Còn với Khinh Thiền thì hoàn toàn ngược lại, gặp nhau là hợp, trong vòng mấy canh giờ đã dốc gan dốc ruột, không rời được nhau.
Hai người dắt tay nhau dạo phố một canh giờ mới cùng nhau tới Dụ Long khách điếm.
Vừa vào cửa, đã nhìn thấy Tử Hân đang ngồi uống trà, bên cạnh lại có thêm một người trẻ tuổi.
Tô Phong Nghi nhìn kỹ một cái đã lập tức cảm thấy cực kỳ không thoải mái.
Người trẻ tuổi này chính là vị hoa hoa công tử mà sáng nay nàng gặp gỡ ở tiệm đồ cổ Vinh Ký, trên tay hắn vẫn đang đeo chiếc nhẫn ngọc đắt đỏ nọ.
Lúc bước vào, hai người kia đang thấp giọng trò chuyện… nói đúng ra, một mực nói mãi không thôi là người trẻ tuổi nọ còn Tử Hân chẳng qua chỉ là thi thoảng gật đầu, mỉm cười liên tục mà thôi.
Người kia vừa nói vừa vỗ vai Tử Hân, bộ dạng như hoạn nạn chi giao nhiều năm chưa gặp, thái độ thân mật còn hơn Quách Khuynh Quỳ cả mười lần.
Tô Phong Nghi đi tới bên bàn, hỏi: “Là công tử?”.
“Là tôi. Tô cô nương cũng ở đây sao?”, người nọ khách khí chào hỏi.
“Đúng thế. Chiếc nhẫn ấy…”
“Không, không, không tôi không đến tìm cô nương.”
“A. Công tử và Tử Hân… quen nhau?”
“Đương nhiên, bạn tốt thuở nhỏ, sau khi lớn lên vẫn thường qua lại, không ngờ lại gặp được huynh ấy ở đây”, người nọ cười, nụ cười có chút yêu mị, “Tôi chỉ mới biết cô nương họ Tô, đang định thỉnh giáo Tử Hân danh tự của cô nương”.
Tử Hân nghĩ ngợi, nghĩ không ra, bèn ngước mắt lên nhìn Tô Phong Nghi, hỏi: “Xin lỗi, tên cô là Tô gì?”.
“Tô Phong Nghi. Phong trong phong vân, nghi trong nghi thủy ”, nàng không hề tức giận.
“Tôi tên là Đường Hành”, người trẻ tuổi kia cười nhẹ.
CHƯƠNG 14: Thần Của Riêng Ta
Tô Phong Nghi cho rằng, mỗi người đều có thể một vài thói quen khó mà nắm bắt được, không cần thiết phải kinh ngạc hay cho rằng kỳ quái gì. Cho nên, trong cái khách sảnh lớn chừng này có vẻ như chỉ có mình nàng không có ấn tượng đặc biệt gì đối với Đường Hành.
Nàng thừa nhận người này thân hình cân đối, dung mạo anh tuấn, mắt sâu mà sáng, đôi môi căng đầy, thần thái nhàn tản, lúc nhìn người thường híp mắt, lộ ra nét cười nhàn nhạt khó đoán.
Trong việc huấn luyện chuyên gia về đồ cổ có huấn luyện về mắt nhìn, bộ trường bào lụa thêu hoa mây ngầm, chiếc áo trong màu bích bằng tơ tằm đó giá trị tuyệt không rẻ. Còn chưa nói đai lưng sừng tê nạm ngọc lam, còn buộc thêm ngọc ngũ sắc, bên dưới thắt với một cái túi thơm tử la, bên cạnh là một đôi ngọc bội song ngư, lúc đi lại tiếng phát ra tinh tang, hương thơm nức mũi.
Tô Phong Nghi cho rằng, mỗi người đều có thể một vài thói quen khó mà nắm bắt được, không cần thiết phải kinh ngạc hay cho rằng kỳ quái gì. Cho nên, trong cái khách sảnh lớn chừng này có vẻ như chỉ có mình nàng không có ấn tượng đặc biệt gì đối với Đường Hành.
Sau khi chào hỏi, Tô Phong Nghi và Thẩm Khinh Thiền ai nấy tự về phòng thu dọn đồ đạc. Qua một hồi, Tô Phong Nghi chợt nghe có người gõ cửa phòng.
Mở cửa nhìn, thấy Đường Hành nở nụ cười đứng ở cửa, nói: “Thứ cho tôi mạo muội, muốn hỏi thăm cô nương một việc, được chăng?”.
“Việc gì thế? Nói đi!”, vừa nghĩ tới hắn là bạn tốt thuở bé của Tử Hân, Tô Phong Nghi đã chẳng chút do dự ưa thích hắn.
“Tôi xem mái tóc của cô nướng bóng mượt đen nháy, có lẽ là phải dài ba thước ba phải không?”
“Chưa từng đo thử. Nhưng mà sao huynh biết?”, nàng bật cười.
Câu tiếp theo lại khiến nàng cười không nổi.
“Cô bán không?”
Nàng nghi hoặc nhìn hắn: “Bán cái gì?”.
“Tóc của cô… Không cần lo lắng, tôi không phải muốn toàn bộ, chỉ cần một thước là đủ rồi.”
Nàng bặm môi nghĩ một lát, hỏi: “Huynh nguyện ý trả bao nhiêu lượng?”.
“Giá ngoài chợ là mười hai lượng một thước, tôi đồng ý trả gấp đôi.”
“Tóc tai da thịt trên thân thể là phụ mẫu ban cho”, Tô Phong Nghi nói, “Năm mươi lượng tôi mới đồng ý khiến chúng tổn thương”.
“Thành giao”, Đường Hành móc ngân phiếu trong người ra.
Tô Phong Nghi khép cửa lại, ước lượng độ dài, lấy kéo cắt tóc, lấy đai lưng buộc lại, bọc vào vải hoa, đưa cho Đường Hành: “Tôi đã cắt thêm một tấc cho huynh, hy vọng huynh hiểu được, trong thời gian ngắn không thể cung cấp hàng được nữa”.
Đường Hành nói một câu cảm ơn rồi cất vào người, lại thấy tóc sợi dài sợi ngắn, lởm chởm không đều, không nhịn được nói: “Cô nương cắt không ổn, có chút hỗn loạn. Có cần tôi giúp chỉnh lại một chút không?”.
“Huynh làm được sao?”
“Thiện về việc ấy.”
Nàng đưa kéo cho hắn, Đường Hành cẩn thận sửa sang chỉnh lý lại, hết một tuần trà mời nói: “Soi gương xem, có phải tốt hơn nhiều rồi không?”.
Tô Phong Nghi nhìn trái ngó phải: “Đúng là đẹp hơn nhiều rồi! Đa tạ!”.
Đường Hành quét mắt qua bàn trang điểm, lại hỏi: “Cô thích dùng kem ‘Ngọc Nữ Đào Hoa’ sao?”.
Tô Phong Nghi nhíu mày, rốt cuộc cũng cảm thấy người này có gì đó không ổn: “Huynh cũng biết thứ ấy?”.
“Thứ này quá đắt. Kỳ thực ‘Xạ Hương Thập Hòa phấn’ rất khá, giá lại chỉ bằng phân nửa, hiệu quả không khác nhau là bao”, Đường Hành nói.
“Nhãn hiệu này sao tôi chưa từng nghe qua?”
“Đây là hàng mới Tầm Phương các mới xuất ra tháng trước. Tên nghe thì bình thường, hàng bên trong thì lại cực tốt. Ngọc trai, chu sa, bột vỏ sò, bột khoáng, bột tím, xạ hương thì đúng là tầm thường, hiếm có là cách làm cầu kỳ tinh tế. Màu phấn ấy trông tựa sắc hoa đào nhàn nhạt, mềm mại mượt mà, thoa lên không thấy vết, chỉ cần dùng nước là có thể hoàn toàn rửa sạch. Nếu là người nhan sắc tầm thường, đi mua kem Ngọc Nữ Đào Hoa, tự nhiên sẽ làm tăng không ít phần nhan sắc. Nhưng mà cô nương dung mạo tựa thiên tiên, hoàn toàn không cần lãng phí tiền như thế.”
Tô Phong Nghi nghe mà không nhịn được há hốc mồm, lùi lại một bước, ngắm nhìn Đường Hành thật kỹ: “Loại phấn ấy huynh cũng dùng?”.
Đường Hành vẻ mặt cổ quái cười với nàng, mãi không đáp lời.
“Huynh cần tóc của tôi làm gì?”
“Làm gối đầu”, Đường Hành nghĩ ngợi một chút, rồi lại thêm một câu, “Tránh tà”.
Tô Phong Nghi đột nhiên vớ lấy cái chổi phang mạnh xuống đầu Đường Hành.
“Úi! Nói là được rồi, sao tự dưng lại động thủ vậy?”, Đường Hành che đầu, ủy khuất hô lên.
“Đánh huynh đấy, làm sao!”, nàng chống nạnh, suy nghĩ trong đầu đã đảo được cả nghìn vòng, hung ác nhìn Đường Hành, “Thành thật khai ra, huynh thế nào lại quen Tử Hân? Có phải huynh luôn bám lấy chàng không?”.
“Tôi là một người không thể tốt hơn được nữa đấy”, Đường Hành cười khẩn khoản, “Đối với nữ nhân, trước giờ tôi luôn có ba tín niệm, cô nương muốn biết không?”.
Đường Hành còn chưa nói, Tô Phong Nghi đã trở nên nghiêm túc: “Đương nhiên muôn!”.
“Một lòng một dạ học tập nữ nhân, vui vẻ nhiệt tình phục vụ nữ nhân, kiên quyết không chọc giận nữ nhân.”
…
So với Thanh Nguyên khách điếm hào hoa khí phái, Dụ Long khách điếm chỉ có thể xem như một khách điếm hạng ba cung cấp chỗ nghỉ chân cho người đi đường. Đương nhiên, loại tiểu điếm này là nơi những kẻ bần cùng trong giang hồ thích tới nhất. Cung cấp ba bữa, bao nước nóng với thức ăn cho ngựa, phòng tuy nhỏ nhưng giá cả phải chăng, chăn đệm không quá cũ, cách ngày cũng có đem đi thay giặt.
Để tiết kiệm diện tích, phòng bếp liền ngay với sảnh ăn, ở giữa chỉ có một tấm rèm khó nhận màu sắc. Cứ tới giờ ăn cơm, mùi dầu với khói bếp nghi ngút, trong không khí có mùi hạt tiêu cay sặc mũi.
Giả như một ngày mà anh có tới phân nửa thời gian phải ngồi trong sảnh ăn, vậy thì tắm giặt gội đầu trở thành một chuyện phiền phức rồi.
Cho nên, cứ vào thời gian này, Tô Phong Nghi tuyệt đối sẽ không nhìn thấy Tử Hân. Chỉ có lúc phòng bếp nhàn tản chàng mới xuống ngồi một lúc, sau đó vào bếp gọi mấy cái màn thầu, hai đĩa thức ăn, tự mình đem tới phòng của Quách Khuynh Quỳ.
“Xương ngực của A Tuấn bị thương, cần phải tĩnh dưỡng tuyệt đối”, lúc xuống lầu, Đường Hành giải thích với Tô Phong Nghi.
Tô Phong Nghi lơ đãng đảo mắt nhìn một lượt sảnh ăn, mục quang đăm đăm dừng ở vị trí Tử Hân thích ngồi.
Hoàng hôn đã tận, màn đêm vừa buông.
Đại đa số khách trọ sẽ không ăn uống trong sảnh ăn mà sẽ ra ngoài tìm một sạp nhỏ rẻ tiền nơi đầu phố, cho nên khách ăn trong sảnh thưa thớt, sinh ý không được tốt lắm.
Vào tình huống ấy, lão bản sẽ sai người dập đi phân nửa số đèn dầu ở bốn vách, khiến cho trong sảnh tranh tối tranh sáng, một mảng mù mờ.
Đang bước lên mấy bậc thang cuối, Đường Hành bỗng dừng phắt lại, Tô Phong Nghi cũng dừng lại theo.
Đầu tiên nàng thấy Thẩm Khinh Thiền đứng bất động bên bàn ăn, tay lăm lăm kiếm.
Nhìn theo hướng ánh mắt nàng, Tô Phong Nghi phát hiện Quách Khuynh Quỳ đang ngồi ở một góc, trong tay là một chén rượu, trên mặt tỏ ra cực kỳ cứng cỏi.
Giữa bọn họ chỉ cách có mấy cái bàn trống, lấy ánh mắt họ nhìn nhau qua lại cũng đủ khiến mấy cái bàn nọ phải rung rung rồi.
Thoắt cái, không khí tựa biến thành một thứ dịch đặc, đặc tới mức mỗi người đều có thể nghe thấy tiếng hít thở của bản thân mình.
Tô Phong Nghi quay sang Đường Hành, nhận ra da cổ hắn căng ra, ngón tay đã bất giác đưa về phía cán đao sau lưng.
Thậm chí nàng còn nghe được tiếng các đốt ngón tay hắn siết cán đao kêu “lách cách”.
Tới tận bây giờ nàng mới chợt nghĩ tới Thẩm Khinh Thiền họ Thẩm, thì ra nàng ấy là người của Thẩm gia!
Cả buổi chiều, hai cô gái hi hi ha ha, trò chuyện thả cửa lâu như thế, thủ thỉ cho nhau cả đống bí mật khuê phòng, thứ duy nhất không nói tới chính là gia thế của nhau. Tuy đối với các loại truyện trên giang hồ Tô Phong Nghi biết khá nhiều nhưng xét cho cùng đó chỉ là một loại hiếu kỳ, không dẫn tới chút hứng thú tìm hiểu nào. Nàng hài lòng với việc biết một ít chuyện cũ, cũng không quan tâm lắm tới tình tiết.
Nếu như Thẩm Khinh Thiền đã là người của Thẩm gia, vậy thì bây giờ chính là thời cơ tốt nhất để giết Quách Khuynh Quỳ.
Kế đó, cửa phòng trên lột chợt “cọt kẹt” mở ra, Tử Hân chậm rãi bước khỏi phòng, nhìn thấy tình hình dưới lầu, hơi sững lại rồi tiếp tục đi xuống.
Tô Phong Nghi nghe ra bước chân của chàng cực kỳ trầm trọng và cũng không thiếu phần cảnh giác. Chỉ có lúc tâm sự trùng trùng chàng mới bước đi mạnh thế.
Theo bậc thang đi xuống, mắt thấy chàng sắp đi vào sảnh ăn thì chàng bỗng dừng phắt lại, quay đầu ra sang trao đổi một ánh mắt chớp nhoáng với Đường Hành.
Hai người lập tức như hai quân cờ di động tới vị trí của mình.
Chỉ cần Thẩm Khinh Thiền vừa động thủ, bọn họ sẽ nhanh chóng xông tới đánh ngã nàng.
Đột nhiên có tiếng cười nhẹ, Thẩm Khinh Thiền nói: “Quách Khuynh Quỳ, thì ra ngươi cũng có trợ thủ”.
Lời chưa dứt, Tô Phong Nghi bỗng nhảy tới, chân giẫm loạn trên sàn nhà, vừa giẫm vừa kêu: “Giẫm chết ngươi! Giẫm chết ngươi! Ta giẫm chết ngươi! Xem ngươi còn trốn đi đằng nào!”.
Bốn người kia quay lại nhìn nàng kỳ dị.
“Sao thế?”, Thẩm Khinh Thiền hỏi.
“Trên sàn có một con gián”, không biết vì sao, sắc mặt của Tô Phong Nghi tái đi, “Tử Hân, huynh chớ có qua đây”.
Ba người kia lại ngước mắt quay sang nhìn Tử Hân.
Tử Hân chớp chớp mắt, mặt không đổi sắc: “Chư vị nhìn ta làm cái gì? Lẽ nào ta lại sợ một con gián nho nhỏ?”.
Quách Khuynh Quỳ và Đường Hành đồng thanh nói: “Trước đây ngươi luôn sợ”.
Sắc mặt Tử Hân hơi nóng lên: “Mười mấy năm rồi, con người ai cũng có lúc phải lớn lên”.
Quách Khuynh Quỳ thở phào một tiếng: “Nói thế tức là hiện giờ ngươi xem ra không sợ nữa rồi!”.
Tử Hân lùi về sau một bước, tay rụt vào ống tay áo: “Ta vẫn sợ”.
Sau đó hai người cùng nhìn về phía Đường Hành.
Đường Hành thở dài một tiếng: “Mười mấy năm qua rồi, lẽ nào cái kẻ phải quét dọn thi thể ấy vẫn là ta?”.
“Đương nhiên.”
Hắn ủ rũ đi tới cạnh Tô Phong Nghi, nói: “Tô cô nương, làm phiền tránh ra một chút”.
Tô Phong Nghi lắc đầu, cắn chặt môi, khuôn mặt lộ ra vẻ sợ hãi: “Tôi không dám cử động”.
Đường Hành ngẩn ra: “Tại sao?”.
“Tôi sợ.”
“Cô cũng sợ gián?”
Tô Phong Nghi lại lắc đầu, có vẻ như sắp khóc đến nơi.
“Cô chỉ cần nhích chân, lùi ra một bước, tôi liền có thể bắt con gián đó”, Đường Hành nhẹ giọng khuyên nhủ.
“Tôi không sợ gián, tôi… tôi sợ rết”, giọng nàng run rẩy cực độ, “Vừa rồi tôi giẫm lên con gián, lúc giẫm mới phát hiện, cạnh con gián còn có một con rết dài ba tấc, toàn thân đỏ rực, chắc chắn… chắc chắn là cực độc”.
Tử Hân nghe thế bèn chạy tới, đưa trượng hơi vén váy nàng lên, cúi đầu xuống nhìn: “Rết? Rết ở đâu? Sao ta không nhìn thấy”.
Tô Phong Nghi kêu ré lên: “Đang tốt sao tự dưng lại động vào váy muội? Vừa rồi nó vẫn còn ngoan ngoãn nằm dưới đất, bây giờ không thấy nữa rồi!”, nói rồi túm lấy góc váy, lùi sang bên một bước.
Quả nhiên dưới đất chỉ còn một con gián bị giẫm cho tan nát, còn con rết nọ không cánh mà bay.
Nàng sợ hãi nhìn Tử Hân, thấy đôi mắt chàng nhìn chằm chằm vào con gián, mặt mày tái xanh, hơi thở đứt quãng, tay cầm trượng run rẩy. Quách Khuynh Quỳ nhanh tay nhanh mắt kéo chàng ra, tránh xa qua một phía.
Tuy kịp thời uống thuốc, môi Tử Hân vẫn tái nhợt đáng sợ.
Thẩm Khinh Thiền kéo Tô Phong Nghi, nói: “Đi theo tỷ”.
“Đi cái gì mà đi! Con rết đang trốn trong váy của muội!”
“Loài vật này thích tĩnh sợ động, muội càng chạy, nó càng sợ không dám thò đầu ra.”
“Thật sao?”, Tô Phong Nghi bán tín bán nghi, theo Thẩm Khinh Thiền chạy ra ngoài cửa, vòng qua sơn đạo, xuyên qua rừng cây, tới bên một cái hồ.
“Giờ trời tối rồi, bốn phía không có ai, cởi y phục ra, nhảy xuống hồ!”
“Tỷ… tỷ điên rồi! Nhỡ ra có người thì làm thế nào?”, Tô Phong Nghi nhìn đông ngó tây, nhỏ giọng nói.
“Đường Hành theo phía sau, sẽ giúp chúng ta trông chừng.”
“Đường Hành? Đường Hành chính là nam nhân!”
“Được rồi! Bệnh của hắn ai mà chẳng biết, coi hắn là nữ nhân cũng chẳng có gì là không được”, Thẩm Khinh Thiền vừa cười vừa cởi bỏ y phục.
Tô Phong Nghi đỏ mặt nhìn nàng, hỏi: “Sao tỷ cũng cởi y phục? Trên người tỷ đâu có rết đâu!”.
Thẩm Khinh Thiền nói: “Sợ muội nhát gan, cởi trước cho muội xem”, nói xong, y phục đã cởi hết, vù một cái nhảy ào xuống nước.
Không biết phải làm sao, Tô Phong Nghi chỉ đành quăng quần áo gọn sang một bên, nhảy theo xuống.
Mới đầu mùa hè, nước hồ lạnh giá.
Hai người bơi đến giữa hồ, mới trông thấy Đường Hành đứng xa xa sau rừng cây, lớn tiếng gọi: “Tô cô nương! Cô ở đâu? Tử Hân bảo tôi đưa thuốc cho cô”.
“Tôi ở dưới hồ!”
“Rết chưa cắn cô chứ?”, Đường Hành đi tới mép hồ, thấy một đống y phục nữ nhân ném trên mặt đất đầy rêu, vội vàng nhặt lên ôm lấy vào lòng.
“Chưa… có điều, huynh có thể giúp tôi giũ từng cái một không? Tôi sợ nó vẫn nấp ở đó…”, giọng Tô Phong Nghi xa xa vọng tới.
Đường Hành mở cờ trong bụng, vội nói: “Được được”.
Nói xong, lấy từng thứ từng thứ ra cẩn thận quan sát, quả nhiên thấy một con rết đỏ chói ẩn trong váy, vội một đao đập chết, sau đó đem váy áo gấp chỉnh tề, nâng trong tay: “Tìm được con rết rồi! Vừa đập chết nó xong, cô yên tâm đi”.
“Quay lưng lại, ném y phục qua đây, bọn tôi sắp lên rồi!”, Thẩm Khinh Thiền nói.
Đường Hành quay đi, cởi áo choàng của mình ra, trải xuống đất rồi đặt y phục của hai người ngay ngắn lên đó rồi bước đi mười bước, tránh xa chỗ ấy.
Thẩm Khinh Thiền vừa mặc y phục vừa cười, thì thầm: “Người này tiếng tăm không được tốt nhưng làm người cũng có quy củ”.
Tô Phong Nghi cười khẽ: “Muội thấy hắn không phải kẻ xấu”.
“Hình như hắn rất sẵn lòng dốc sức cho nữ nhân…”
“Đây chính là chỗ hiếm thấy của hắn.”
“Hay là bọn mình thử hắn xem, xem xem rốt cuộc hắn sẵn lòng dốc sức bao xa?”, Thẩm Khinh Thiền ngồi trong lùm cỏ, mặt lộ ý trêu chọc, “Muội từng nhìn thân thể trần truồng của nam nhân chưa?”.
Tô Phong Nghi cắn môi, xấu hổ lắc đầu.
“Đối với nam nhân, nữ nhân nhất định phải nhìn nhiều một chút mới tốt.”
“Oa!”
“Đường Hành, qua đây một chút.”
Đường Hành quay lại, đi tới trước mặt hai người, mỉm cười: “Thẩm cô nương có gì sai bảo?”.
“Cởi đồ ra, để Tô Phong Nghi nhìn ngươi… muội ấy nói muội ấy chưa từng nhìn thấy nam nhân không mặc y phục.”
Đường Hành lắc đầu như trống lắc: “Tôi không cởi”.
“Tại sao?”
“Xấu hổ.”
“Ba tím niệm của ngươi là gì!”
“Được rồi, Khinh Thiền”, Tô Phong Nghi ngắt lời nàng, “Đừng có làm khó người ta”.
“Sợ cái gì!”
Tô Phong Nghi đột nhiên nghiêm mặt, nói từng chữ: “Chớ có bắt nạt huynh ấy… Người bắt nạt huynh ấy trên đời này đủ nhiều rồi”.
Thẩm Khinh Thiền chỉ đành ngậm miệng.
Đường Hành lặng lẽ nhìn Tô Phong Nghi một cái, trầm mặc hồi lâu rồi nói: “Ngoài này rất lạnh, hai vị vẫn nên quay về khách điếm sơm sớm một chút”.
Nàng vỗ vỗ vai hắn, đột nhiên nói: “Tôi luôn có chút hoài nghi tín niệm thứ nhất của huynh”.
Đường Hành vốn đã đi vài bước, chợt dừng lại, đợi nàng nói tiếp.
“Huynh nói huynh muốn học tập nữ nhân. Nhưng ngay cả chính nữ nhân bọn tôi cũng không biết nữ nhân là gì, huynh học thế nào đây?”
Đường Hành cười khổ: “Đa tạ chỉ giáo, đây đích xác là vấn đề”.
…
Trà trên bàn hãy còn âm ấm.
Hai cô gái quay về sảnh ăn, đuổi Đường Hành đi rồi dùng bữa tối, sau đó lại tiếp tục nói chuyện trên trời dưới biển. Tô Phong Nghi một mực cẩn thận tránh nói đến chủ đề Quách Khuynh Quỳ. Trò chuyện một mạch tới canh ba mới cảm thấy mệt mỏi, đang định về phòng nghỉ ngơi thì đèn treo trên tường chợt động, đằng xa vọng lại tiếng trúc gõ kỳ dị, Thẩm Khinh Thiền nhỏ giọng nói với Tô Phong Nghi: “Muội đi ngủ trước đi. Tỷ có chút việc phải ra ngoài”.
Tô Phong Nghi kéo nàng lại: “Muộn thế này rồi còn đi đâu nữa?”.
“Ngoài cửa có người. Tỷ phải tìm hắn giải quyết ân oán cá nhân.”
“Muội biết hai nhà các người có thù oán sâu nặng”, Tô Phong Nghi chăm chú nhìn vào mắt nàng, “Nhưng mà bây giờ đừng động tới A Tuấn, được không?”.
Thẩm Khinh Thiền gạt tay nàng ra, cười lạnh: “Quách Khuynh Quỳ bị trọng thương sao có thể ở ngoài cửa được? Huống chi còn có Tử Hân và Đường Hành một trái một phải bảo hộ hắn, tỷ động thế nào đây?”.
“Vậy… tỷ một mình ra ngoài cũng không an toàn.”
“Cho nên tỷ cầm theo kiếm của mình”, Thẩm Khinh Thiền sắn tay áo, buộc mái tóc dài dùng trâm găm lại rồi dặn dò một câu, “Chớ có đi theo tỷ, kẻ địch rất khó đối phó, tỷ không chiếu cố được cho muội”.
Xuyên qua dọc hành lang phòng trọ buông rèm xanh, dưới gốc liễu lưa thưa rủ có một bong người bận đồ đen.
Đợi Thẩm Khinh Thiền tới gần, bóng đen đó đột nhiên thoáng động, chạy về phía sau núi.
Hắn không hề đi xa, đến khu đất rộng rãi cạnh cái hồ ban nãy nàng bơi lội thì dừng lại.
Dải ngân hà trên bầu trời hướng về đông, đom đóm lập lòe trong lùm cỏ.
Sương lộ lạnh lùng, tán cây đồng trùm xuống.
Nàng tự dưng cảm thấy căng thẳng, tim đập thình thịch nhưng vẫn to gan lớn mật đi về phía người đó.
“Cô đáng lẽ phải biết, người ta muốn tìm không phải là cô”, người áo đen lạnh nhạt.
“Chớ quên ta họ Thẩm.”
“Cô muốn ra sao?”, hắn nhìn nàng chăm chú, mi mày toát lên vẻ trế nhạo, “Ở đây quyết đấu với ta?”.
“Ta không thể sao?”
“Cô là nữ nhân.”
“Ta là kiếm khách”, nàng nhướng mày nâng kiếm, thần thái bình tĩnh, “Kiếm nặng sáu cân hai lạng, danh đứng thứ mười bốn trên kiếm bảng. Đối thủ của ta trước giờ đều là nam nhân. Trò chơi của nam nhân ta rất thông thạo”.
“Đây không phải trò chơi, kẻ thua cuộc phải trả một cái giá”, hắn lạnh lùng quan sát nàng.
“Ta hiểu.”
Vào thời khắc ấy nàng không hề do dự rút kiếm liên tục công ra ba chiêu, kiếm khí dày đặc, bức dạt đám đom đóm đang bay lượn trước mặt. Nàng vốn xuất thân từ Hình Ý môn, dùng xà kiếm thiên biến vạn hóa. Vào thời khắc ấy nàng không hề do dự rút kiếm liên tục công ra ba chiêu, kiếm khí dày đặc, bức dạt đám đom đóm đang bay lượn trước mặt. Sau khi tham cứu kiếm phổ của Trần Thanh Đình, đột nhiên ngộ đạo, hiểu được một câu nói xưa lưu truyền trong giang hồ:
“Chẳng sợ nghìn chiêu thường, chỉ sợ một chiêu tuyệt.”
Cho nên chiêu thức của nàng đơn giản mà hữu hiệu, dùng tới dùng lui.
Hắn đưa một tay sau lưng, một mạch thoái lùi, chỉ khi bắt buộc mới dùng bao kiếm gạt đỡ, tỏ ra cực kỳ khinh thường.
Nàng thẹn quá hóa giận, vung kiếm như gió, càng đánh càng hung mãnh, cả thân hình được bao phủ trong một tầng kiếm ảnh.
Hết bao mươi chiêu, đột nhiên nghe “Oang” một tiếng, cuối cùng hắn cũng rút kiếm, mũi kiếm đâm xéo vào không trung nhắm thẳng hạ bàn của nàng.
Hắn chỉ dùng một chiêu, “Xuy” một nhát đã xẻ đôi tấm váy dài của nàng, Thẩm Khinh Thiền không thèm bận tâm, giậm chân tung mình đánh ngược một kiếm, kiếm khí lăng lệ vạch một đường máu sau lưng hắn.
Hắn đau đớn ngả đi một bước, quay người lại, kinh ngạc nhìn nàng, đột nhiên lật tay xuất kiếm, từ một góc độ không ngờ tới nghiêng nghiêng đâm ra!
Thẩm Khinh Thiền vội vàng tránh né nhưng đã muộn một bước! Chỉ cảm thấy mắt trái lạnh buốt, một cơn đau khôn tả ập tới gần như khiến nàng ngất đi.
Một thứ chất lỏng mằn mặn từ hốc mắt chảy ra, chảy xuống môi, nàng nếm thấy vị tanh của máu.
Đấy không phải nước mắt, là máu.
Kế đó, nàng nhìn thấy con ngươi của mình cắm trên đầu mũi kiếm hắn.
Người kia cười nhạt, lấy con ngươi xuống, cầm trên tay tung tới tung lui cứ như đang chơi một đồng xu: “Ta nói rồi, kẻ thua phải trả giá”.
Nàng ôm nửa bên mặt máu huyết không ngừng chảy, run rẩy nhìn hắn, răng lợi nghiến chắt: “Quách Khuynh Trúc, có gan thì ngươi giết ta đi!”.
Quách Khuynh Trúc quăng con ngươi xuống đất, đưa chân từ từ nghiến lên. “Bẹp” một tiếng, con ngươi vỡ nát tựa như một quả nho. Âm thanh ấy cứ ung ung vọng vào tai nàng, như một mũi đinh sắt ghim vào não nàng.
“Giết ngươi rất dễ”, hắn rút khăn tay, lau sạch tay, “Đáng tiếc, vẫn chưa phải lúc”.
Sau đó hắn thả khăn tay xuống đất: “Thay ta hỏi thăm phụ thân ngươi”.
…
Tô Phong Nghi nằm trên giường đã lâu nhưng mãi không ngủ được. Trước khi đi ngủ nàng không nhịn được tới gõ cửa phòng Tử Hân, phát hiện chàng không hề ở trong phòng mình. Nàng tới tìm Quách Khuynh Quỳ, Quách Khuynh Quỳ nói với nàng, đứa con thứ hai của họ Trương bán màn thầu phố bên bị ngựa hất ngã, đầu gối bị vỡ, đã phái người tới mời chàng đi.
Tử Hân ở ngay phòng sát vách với nàng. Chàng là một người sinh hoạt rất quy củ. Mỗi ngày cuối giờ Hợi đi ngủ, đầu giờ Thìn dậy khỏi giường. Giờ Tị bắt đầu khám bệnh, giờ Dậu thì ra về. Ăn xong cơm tối sẽ đi tản bộ; trước khi đi ngủ mà nhàn rỗi thì sẽ đọc sách y. Mỗi ngày cuối giờ Hợi đi ngủ, đầu giờ Thìn dậy khỏi giường. Giờ Tị bắt đầu khám bệnh, giờ Dậu thì ra về. Ăn xong cơm tối sẽ đi tản bộ; trước khi đi ngủ mà nhàn rỗi thì sẽ đọc sách y. Một ngày ba bữa đều có thời gian cố định. Làm thức ăn thì đã cầu kỳ còn muốn cầu kỳ hơn: ví như thái rau được một nửa, phát hiện ra gia vị bên cạnh thiếu một thứ gì đó, chàng sẽ bỏ dao đi khắp phố tìm mua. Trong giang hồ phức tạp hỗn loạn này, chàng ngoan cố kiên trì giữ một loạt nguyên tắc của bản thân, chăm sóc bản thân không hề cẩu thả.
Chàng là một người rất phiền phức nhưng trước giờ chàng không làm phiền người khác.
Ánh đèn ngoài hành lang leo lét như hạt đậu, chút ánh sáng len qua khe cửa hẹp. Mỗi khi có người đi ngang qua cửa đều sẽ khiến căn phòng thoáng chìm trong bong tối. Không biết vì sao, đêm nay nàng không sao ngủ nổi, cứ trằn trọc trên giường mãi, một mực dỏng tai lắng nghe tiếng động ngoài cửa. Im lặng chờ đợi già nửa canh giờ, nàng chợt nghe thấy dưới lầu vọng lên tiếng bước chân nặng nề. Nàng biết người này không phải là Tử Hân, tiếng bước chân lại hướng về cửa phòng nàng. Kế đó, nàng nghe “bình” một tiếng, khung cửa chấn động, hình như có người nặng nề ngả vào cửa.
Nàng rút chủy thủ, chạy tới bên cửa, nhỏ giọng hỏi: “Ai đấy?”.
“Là tỷ…”
Nàng vội vàng mở cửa, thấy Thẩm Khinh Thiền hai mắt nhắm chặt, mặt toàn là máu, nửa bên mặt sưng vù lên. Nàng một mực ôm lấy kiếm của mình, thấy cửa mở ra thìmiễn cưỡng mở mắt. Chính khi nàng mở mắt, Tô Phong Nghi phát hiện mắt trái của nàng chỉ còn lại một hốc máu đáng sợ, không khỏi thất sắc mà kêu lên một tiếng kinh hãi, vội vàng đỡ nàng dậy, đưa tới giường của mình, khi ấy Thẩm Khinh Thiền đã hôn mê rồi.
Trong tình huống này, người đầu tiên Tô Phong Nghi nghĩ tới là Tử Hân, nhưng mà Tử Hân không có đây, cho nên nàng liều mạng gõ cửa phòng Đường Hành. Nửa đêm canh ba, tiếng gõ cửa của nàng khiến cho khách thuê phòng hốt hoảng một phen, mọi người còn cho rằng có cướp xông vào, kinh động tới tuần bổ trong thành. Có người khoác áo ra khỏi giường, hé cửa thò đầu ngó đông ngó tây; có người nằm trên giường ngoác miệng chửi chưởng quỹ, bảo là cái khách điếm này đã khiến cho người ta không được yên ổn như thế, ngày mai nhất định chuyển đi. Nửa đêm canh ba, tiếng gõ cửa của nàng khiến cho khách thuê phòng hốt hoảng một phen, mọi người còn cho rằng có cướp xông vào, kinh động tới tuần bổ trong thành. Đường Hành thì lại ngủ như chết, mãi một lúc lâu mới dậy mở cửa, ánh mắt ngái ngủ hỏi: “Tô cô nương, xảy ra chuyện gì thế?”.
“Mau đi tìm Tử Hân! Khinh Thiền bị trọng thương rồi.”
Đường Hành nói: “Tôi không biết Tử Hân đi đâu. Huynh ấy không ở trong phòng à?”.
“Tuấn ca nói có người bị bệnh, huynh ấy được người ta mời đi rồi.”
“Tôi đi xem Thẩm cô nương trước đã.”
Tô Phong Nghi cuống quít giậm chân: “Huynh xem cô ấy để làm gì? Để loạn thêm à!”.
“Tôi biết chút y thuật.”
Tô Phong Nghi đột nhiên đại ngộ, mừng rỡ nói: “Đúng rồi! Mẹ huynh là Ngô đại phu, đệ tử của thần y Mộ Dung, tốt quá rồi! Mau lên mau lên!”.
Đường Hành cười khổ: “Chớ có hiểu lầm. Tôi từ nhỏ rất ghét học y, chỉ biết một chút tri thức nông cạn thôi”.
Hai người tới bên giường Thẩm Khinh Thiền, Đường Hành vén màn, vừa nhìn thấy mặt Thẩm Khinh Thiền lập tức hồn phi phách tán, vội cụp mắt cúi đầu, rút trong người ra một bức tượng nhỏ màu đen, đặt bên miệng, lầm rầm tụng niệm cầu khấn.
Tô Phong Nghi vội nói: “Giờ là lúc nào rồi? Huynh còn ở đấy mà cầu thần bái phật à! Mau mau nghĩ cách đi!”.
“Suỵt… không được kinh động A Thanh.”
Tô Phong Nghi trừng mắt nhìn tượng gỗ trong tay hắn, to giọng hỏi: “A Thanh? A Thanh là ai?”.
Tiếng niệm của Đường Hành bỗng trở nên cực kỳ cung kính, ánh mắt mờ ảo như u linh: “A Thanh là thần của ta, thần của riêng ta. Trừ ta ra không bảo hộ ai khác”, ngừng một chút, hắn lại nói, “Xin cô lúc nói ra tên của người, nhỏ giọng một chút, được không? A Thanh không thích nghe người khác to tiếng gọi tên mình”.
Tô Phong Nghi một mực cho rằng bản thân rất có học vấn, chỉ trong thoáng chốc, trong não đã quét qua ba nhà Nho, Thích, Đạo cho tới chư thần trong dân gian, trên tới Như Lai Phật Tổ, Ngọc Hoàng Đại Đế, dưới có Quan Công, Táo Vương, Tài Thần gia, nhưng vắt óc cũng không nghĩ được ra “A Thanh” là vị thần tiên nào. Thấy thần sắc Đường Hành nghiêm túc, thái độ cung kính, có vẻ như đấy là một vị thần linh không thể xúc phạm, trong lòng hơi sợ, cười xin lỗi với hắn: “Hay là huynh ở đây chăm sóc cho Khinh Thiền, tôi đi tìm Tử Hân”.
“Tôi có thể rửa sạch vết máu cho cô ấy. Hiện giờ miệng vết thương sưng to quá, cho dù Tử Hân có tới chỉ sợ cũng khó giải quyết, trước hết phải tiêu sưng hẵng nói”, Đường Hành điểm vào huyệt ngủ của Thẩm Khinh Thiền, về phòng lấy một cuộn vải trắng và bông băng, sấp nước thuốc, nhẹ nhàng lau vết máu trên mặt nàng.
“Vậy phải nhờ vả rồi!”, thấy ngoài song trời bỗng đổ mưa nhỏ, Tô Phong Nghi khoác áo ngoài, cầm ô vội vàng ra ngoài.
…
Tiểu nhị trực đên bảo với nàng, họ Trương bán màn thầu ở không xa, ở ngay góc quẹo đầu đông con phố.
Nàng một mình cầm ô, nặng nề bước trên con phố tối đen. Đây không còn là lần đầu tiên nàng đi phố vào ban đêm nữa, nhưng con phố xa lạ vẫn làm nàng sợ hãi. Dưới ánh đèn mờ mờ của một khách điếm phía xa, nàng thường thấy được mấy bong người lén lén lút lút ở góc phố. Có một lần nàng suýt nữa bị một mảnh giấy dầu ở dưới đất là cho trượt ngã, quay đầu lại nhìn thì thấy có một tên ăn mày nằm trên mảnh giấy đó. Đây không còn là lần đầu tiên nàng đi phố vào ban đêm nữa, nhưng con phố xa lạ vẫn làm nàng sợ hãi. Dưới ánh đèn mờ mờ của một khách điếm phía xa, nàng thường thấy được mấy bong người lén lén lút lút ở góc phố. Trời đổ mưa nhỏ, mặt đất ẩm ướt, người đó màn trời chiếu đất nhưng hoàn toàn không hay biết, thật không rõ hắn còn sống hay là chết rồi.
Khó khăn lắm mới tới được chỗ quẹo, quả nhiên thấy ngựa của Tử Hân buộc ở cửa, lòng nàng ấm lại, gõ cửa nhè nhẹ. Qua một lúc có người ứng tiếng hỏi: “Ai đấy?”.
“Tôi tới tìm Diêu đại phu.”
Cửa hé mở, một chiếc đèn lồng được đưa ra bên ngoài, hướng về phía mặt nàng chiếu tỏ, một giọng nói già nua vang lên: “Cô nương, xin mời vào”.
Căn phòng âm u ẩm ướt, có mùi nấm mốc xua không chịu đi, trần nhà rủ xuống vô số mạng nhện. Ông lão khom lưng, hắng giọng, nói: “Diêu đại phu còn đang làm phẫu thuật, nói là nghiêm cấm làm phiền. Lão hán tôi từ đầu tới giờ cũng chỉ là đem một chậu nước nóng vào đã bị ngài ấy đuổi ra ngoài”.
“Chân của lệnh lang bị thương?”
Lão hán gật đầu, than thở: “Đứa bé này số khổ, đầu năm mẹ vừa mới mất, hôm nay lại ngã gãy chân. Chỗ khác còn tốt, đằng này lại vỡ nát xương bánh chè, dù là có trị khỏi được cũng thành anh thọt. Lão hán tôi cầu xin lão gia với nãi nãi mãi, tháng Hai vừa rồi mới xin được cho nó một chân trong đội khiêng kiệu, vừa mới học việc xong, đang hy vọng có thể kiếm được ít bạc… Giờ thì hay rồi, ài! Uổng hết rồi!”.
“Lệnh lang năm nay bao nhiêu tuổi?”
“Mười lăm.”
Tô Phong Nghi có chút kinh ngạc nhìn ông lão. Lão hán này tóc trắng phau phau, răng thì lưa thưa, già cả ốm yếu, tuổi tác xem ra phải trên sáu chục, không ngờ lại có một đứa con trai tuổi còn nhỏ như thế.
“Cô nương cũng tới cầu khám bệnh sao? Diệu đại phu đúng là một người tốt a, thấy chúng tôi nhà nghèo khốn khó, không những một xu cũng không nhận, lại còn cho chúng tôi mười lượng bạc để mua thuốc. Đêm hôm có người tới mời, cũng chẳng nói một chữ ‘Không’, một mạch bận bịu tới bây giờ, đến cả trà cũng không buồn uống lấy một ngụm.”
Tô Phong Nghi hé miệng cười: “Cháu là bằng hữu của huynh ấy, có việc gấp tới tìm. Liệu cụ có thể vào hỏi một câu xem còn phải đợi bao lâu không?”.
Lão hán lắc đầu lia lịa: “Diêu đại phu dặn đi dặn lại, bảo là phẫu thuật cân phải hoàn toàn tập trung, vạn nhất có gì sai sót sẽ di họa cả đời. Người bên cạnh tuyệt đối không được làm phiền. Nếu có gì cần, người sẽ tự ra ngoài phân phó. Cô nương hay là vẫn ở đây đợi đi thôi”.
Nàng chỉ đành tìm một cái ghế rồi ngồi xuống. Lão hán ân cần rót cho nàng một tách trà, còn bừng tới một đĩa bánh táo. Tô Phong Nghi thấy bánh táo được bọc trong ba lớp giấy, biết ngay là rất quý báu, nghĩ hẳn lão hán bản thân không nỡ ăn, định để dành cho con trai. Nàng vội vàng cảm ơn, chỉ cầm tách trà nhấp một ngụm, cảm thấy cực kỳ đắng chát liền đặt tách xuống, yên lặng ngồi đợi.
Không lâu sau, thấy cửa phòng trong kẽo kẹt một tràng, Tử Hân xách rương đồ nghề, chống trượng đi ra, thấy Tô Phong Nghi thì hơi sững lại rồi quay sang đưa cho lão hán một đơn thuốc: “Phẫu thuật làm xong rồi. Theo đơn thuốc này mua thuốc, đắp bên ngoài ngày hai lần, vạn lần không được qua quýt”.
Lão hán vội cảm ơn không thôi, sau đó tiễn hai người ra ngoài cửa, ngập ngừng một chút chợt hỏi: “Sáng nay Tiền đại phu có qua khám, nói là… nói là… chân của nó khó mà lành hẳn, về sau chỉ sợ không thể làm nghề khiêng kiệu… Không biết… không biết… có đúng hay không”, nói xong chăm chăm nhìn Tử Hân, một giọt lệ già nua từ đôi mắt đục rơi xuống, vội đưa tay lau đi. Tô Phong Nghi thấy bánh táo được bọc trong ba lớp giấy, biết ngay là rất quý báu, nghĩ hẳn lão hán bản thân không nỡ ăn, định để dành cho con trai. Ngón tay của lão đen đúa, móng tay nứt nẻ, bên trên hiện ra khá nhiều vết rạn.
Tử Hân vỗ vỗ vai lão, cười nói: “Không cần để ý tới lời Tiền đại phu. Tình hình không nghiêm trọng đến thế. Nếu như vết thương lành lại tốt, thì sẽ không có hậu họa gì đáng sợ. Nghỉ ngơi điều dưỡng bốn tháng là có thể đi khiêng kiệu được rồi”.
“Thật sao? Ngài muốn nói, nó sẽ không… sẽ không…”, lão vốn định nói “sẽ không biến thành một anh thọt”, nhưng rồi đem hai chữ sau cùng nuốt trả vào bụng.
“Đương nhiên không.”
Xét cho cùng đây chỉ là lời của một giang hồ lang trung, nếu chẳng phải phí khám của Tiền đại phu quá cao, lão hán trả không nổi thì cũng sẽ không đi mời cái tay đại phu mở sạp ven đường này về. Thấy lời Tử Hân nói ra vừa tự tin vừa chắc chắn, càng lấy làm hồ nghi, chỉ cho rằng đấy là nói lời tốt lành cho mình dễ chịu, bèn cười khổ một tiếng, đưa đèn lồng vào tay chàng: “Đường tối quá, cầm cái đèn này đi”.
Tử Hân còn định từ chối, Tô Phong Nghi đã nhận lấy, cười hì hì: “Đúng đấy, có cái đèn này thì thật tốt. Đa tạ lão bá!”.
Hai người cáo từ rời đi, thấy cửa đã đóng chặt, Tô Phong Nghi cầm rương đồ vào tay mình, nói: “Đã mệt chưa? Muội cầm rương cho huynh!”.
Tử Hân dắt ngựa, hỏi: “Tối thế này tới tìm tôi có chuyện gì?”.
“Khinh Thiền… bị thương rồi. Có người… có người móc mất một mắt của tỷ ấy.”
Tử Hân dừng phắt lại, kinh hãi hỏi: “Hả? Lúc nào thế?”.
“Vừa mới rồi thôi.”
“Là kẻ nào làm?”
“Không rõ. Hình như là một kẻ thù của tỷ ấy. Tỷ ấy vật vã trốn về được, giờ đã hôn mê bất tỉnh rồi. ”
“Cô đi tìm Đường Hành chưa?”, chàng chợt hỏi.
“Tìm rồi. Đường Hành nói trước tiên phải tiêu sưng, không hết sưng thì dù có là huynh cũng không sao làm phẫu thuật được.”
“Hắn nói không sai. Sưng to lắm sao?”
“Đến mức bây giờ nhìn rất khó nhận ra là tỷ ấy.”
Tử Hân vỗ yên ngựa, nói: “Cô lên ngựa đi, chúng ta phải mau mau trở về mới được”.
Tô Phong Nghi lắc đầu: “Huynh mệt rồi, muội muốn huynh ngồi trên ngựa”.
Lúc ra khỏi cửa, mượn ánh sáng của chiếc đèn lồng, nàng đã nhìn thấy vẻ mặt trắng tái của Tử Hân, môi chàng nhợt nhạt không có tí huyết sắc, liền biết ngay cái họa con gián kia gây ra còn chưa hết. May là kịp thời uống thuốc nếu không chắc là sẽ có bộ dạng của sáu năm trước.
Dáng vẻ ấy nàng vĩnh viễn không quên.
Tử Hân không nói gì, lạnh lùng nhìn nàng, hồi lâu lại nói: “Lên ngựa, mặt đất ẩm ướt.”.
Mỗi khi chàng tức giận, khẩu khí của chàng luôn có giọng điệu tỏ ra rất sốt ruột, khiến nàng sợ hãi. Nàng ngoan ngoãn trèo lên lưng ngựa, nói: “Vậy huynh cũng lên đi”.
Chàng không thèm để ý tới nàng, dắt ngựa tiếp tục đi về phía trước.
Mưa như mắc cửi, nhẹ nhàng trải khắp. Yên lặng đi được một nén nhang thời gian, bọn họ đi qua một đền thờ, Tô Phong Nghi ôm rương thuốc, nhìn vào nền trời đem thẫm, nói: “Muội nghĩ tới một bài thơ”.
“Y thượng chinh trần tạp tửu ngân, Viễn du vô xứ bất tiêu hồn, Thử thân hợp thị thi nhân vị, Tế vũ kỵ lư nhập kiếm môn ”, Tử Hân nói, “Có phải bài này không?”.
Tô Phong Nghi kinh ngạc: “Sao huynh biết?”.
“Đoán.”
“Thật ra huynh không nhất thiết phải làm giang hồ lang trung, làm giang hồ thi nhân cũng không phải là không được.”
“Tại sao tôi lại phải làm giang hồ thi nhân?”
“Như thế thì chúng ta gần như là đồng nghiệp rồi.”
“Sao lại nói thế?”
“Nghề nghiệp của chúng ta chỉ giao tiếp với những thứ đẹp đẽ.”
“Đầu lâu của con người rất đẹp. Chỉ là cô không quan sát cho kỹ mà thôi”, chàng bất giác lại cắn móng tay.
“Muội không thích huynh đánh giá bộ dạng của người khác. Đôi mắt huynh cứ như dao phẫu thuật ấy.”
“Tôi cũng không thích cô đánh giá bộ dạng của người khác, đôi mắt cô cứ như một cái xẻng, à, không phải, một cái bàn chải.”
“Nói không sai, muội thích đồ thanh đồng, chính là thích cái dáng vẻ tàn tạ sau bao nhiêu niên đại hủ hóa của nó”, nàng nhướng mày nói.
“Chẳng trách cô cứ theo tôi mãi”, chàng tự trào phúng một câu.
“Này, người ta không có ý đó mà!”, nàng đỏ mặt, “Huống chi…”.
Trong không gian vang vọng tiếng gậy trúc kỳ dị, sắc mặt Tô Phong Nghi đột nhiên thay đổi, nói: “Hắn tới rồi!”.
“Ai tới?”
“Cái kẻ móc mắt của Khinh Thiền… Khinh Thiền chính là nghe thấy âm thanh này mới đi tìm hắn.”
Tử Hân dừng bước, nói: “Bất kể hắn là ai, tôi đều hy vọng bây giờ cô đừng có chọc vào người ta”.
Tô Phong Nghi to tiếng nói: “Tại sao chứ? Thẩm Khinh Thiền là bằng hữu của muội, tự dưng bị người ta móc mất mắt, huynh cho rằng muội sẽ khoanh tay đứng nhìn à?”, Tử Hân đang định giữ lấy nàng, nàng đã nhảy xuống ngựa, rút trong người ra một cây rìu nhỏ sắc bạc, co chân đuổi theo nhanh như gió.
Khinh công của nàng ai ngờ không yếu, chạy rất nhanh, quả nhiên thấy có một bong áo đen dưới ánh đèn đằng trước, bóng áo đen nọ chuyển người vụt đi, dẫn nàng vào một ngõ nhỏ tối đen.
Cơn mưa chợt ngừng, vầng trăng ló khỏi tầng mây. Gió đêm ùa tới đem theo khí vị ẩm ướt lành lạnh, nàng cảm thấy hơi lạnh nhưng không hề sợ hãi.
Trong bong tối, nam nhân kia lạnh giọng hỏi: “Cô là ai?”.
“Mắt của Thẩm Khinh Thiền có phải bị ngươi móc mất không?”
“Không sai.”
“Ngươi có biết con mắt đối với nữ nhân mà nói rất quan trọng không?”
“Mắt của ai đối với người đó đều rất quan trọng.”
Nàng không đáp lời, nín thở, quan sát hắn trong bóng tối.
“Hôm nay ta không có hứng giết người, có điều ta giết người trước giờ không phân biệt nam hay nữ.”
“Thứ ta muốn cũng không nhiều, chỉ cần một con mắt của ngươi thôi.”
Kẻ kia khinh miệt “phì” một tiếng: “Thế giới này làm sao vậy? Tối nay cứ để ta gặp đám nữ nhân thích đi tìm chết”.
“Thật sao? Là ai tìm chết, sao ngươi không châm đèn mà nhìn cho rõ đi?”
Lửa vừa châm lên, mắt hắn chớp một cái, tựa như không quen đột nhiên có ánh sáng, kế đó thân hình của hắn chợt cứng đờ.
Hắn thấy nữ nhân trước mặt trong tay đang cầm một cái nỏ nhỏ, đoản tiễn sớm đã ngắm chuẩn vào mắt trái hắn.
Sát thủ cẩn thận rất ít khi phạm sai lầm, hôm nay hắn lại phạm phải một sai lầm không nên phạm.
Lúc đuổi bắt, hắn cảm thấy khinh công của cô gái này miễn cưỡng cũng chỉ xếp vào hạng hai, nếu dốc toàn lực mà chạy, nàng chắc chắn không theo nổi. Dẫn nàng tới đây, vốn là có ý chơi đùa.
Kiếm của hắn đeo chênh chếch sau lưng, cho rằng nàng chẳng thể làm gì nổi mình, hắn không hề rút kiếm.
Tuy hắn có thể chắc chắn bản thân nháy mắt rút kiếm, nháy mắt đâm thủng tim nữ nhân này nhưng trước đó, mũi tên nho nhỏ ánh bạc kia nhất định sẽ bắn trúng một mắt hắn trước.
Chỉ là bởi khoảng cách giữa hai người quá ngắn, ngắn tới mức không một kẻ nào có thể chiếm được chút lợi thế.
“Ngươi có biết…”, hắn còn đang định nói, muốn đánh lạc hướng sự chú ý của nàng, Tô Phong Nghi đã không chút do dự bắn mũi tên!
“Vút…”
Hắn lật tay xuất kiếm, chém ngang một nhát! Mũi tên kia sắp đâm tới con ngươi tới nơi thì bị hắn chặt đứt rồi!
Cùng lúc ấy, hắn chợt cảm thấy mắt phải lạnh toát! Một thứ nhỏ như cọng lúa đâm tới mắt hắn.
Hắn kịp thời nhắm mắt lạt nhưng vẫn cảm thấy một trận nhói đau, tới mức tay hắn cũng phải run theo.
Tô Phong Nghi nhổ một đoạn trúc nhỏ ra khỏi miệng, nhún vai nói: “Đây là một cánh mánh rất nhỏ, không ngờ ngươi cũng bị lừa”.
Bắn trúng hắn là một cây ngân châm phóng từ ống trúc, mũi tên kia chẳng qua chỉ là chiêu đánh lạc hướng.
Hắn nổi cơn thịnh nộ, sát khí trùng trùng, điên cuồng vung kiếm, chém tới nàng như lôi đình!
Dưới công kích hung mãnh ấy, cái rìu nhỏ bé kia của nàng chẳng có chút sức phòng ngự nào, cản về phía trước một cái lập tức bị gạt bay. “Xuy” một tiếng, một kiếm liếm qua mặt nàng, nếu không phải nàng nhanh nhẹn tránh đi thì đầu đã bị xuyên thủng!
Nàng đem ném cái rìu trong tay như ném ám khí rồi co giò chạy, thanh kiếm kia đã chém đứt búi tóc trên đầu nàng, “đinh” một tiếng, chiếc trâm ngọc rơi xuống vỡ làm đôi. Nàng đầu tóc tơi bời, cắm đầu chạy như bay.
Con ngõ nhỏ rất chật hẹp, hai bên tường đá phẳng lì, trong lúc cuống cuồng này chạy bừa, chạy khỏi một cái ngõ lại cắm đầu vào một cái ngõ khác, nam nhân kia như hình với bong bám theo sau nàng.
Nàng gần như có thể nghe thấy tiếng hít thở sâu mà dài của hắn, mũi kiếm như miệng rắn vươn lên trực đớp vào đầu nàng.
Sau đó, tiếng hít thở đáng sợ kia đột nhiên biến mất!
Nàng ngó đông ngó tây, không thấy bóng người, nhưng nàng iết người đó nhất định đang nấp trong một góc tối nào đó.
Một luồng sát khi dày đặc như sương đêm bao phủ xung quanh nàng.
Nàng siết chặt chủy thủ trong tay, căng thẳng quên cả hô hấp!
Đúng vào lúc ấy, một bàn tay bỗng giữ lấy nàng.
Động tác giữ ấy cực kỳ nhẹ nhàng.
Nàng không nghĩ ngợi gì quay lại chém một nhát!
Bàn tay nọ vẫn nhẹ nhàng tóm lấy cổ tay nàng.
Một giọng nói khẽ vang lên: “Là ta”.
Nàng không tự chủ được nhào vào lòng chàng, run giọng hỏi: “Kẻ đó… kẻ đó đi đâu rồi?”.
“Ở ngay trước mặt cô.”
Chàng đốt đuốc, quả nhiên người áo đen nọ đang đứng ở góc tường, kiếm cầm trong tay nhưng sát khí đã biến mất không thấy nữa.
Giữa con mắt phải người đó có một vệt máu nhỏ bằng hạt đậu, ánh mắt lạ lùng, đánh giá Tử Hân mấy lượt.
“Khuynh Quỳ thường nhắc tới ngươi”, hắn chợt mở lời.
“Gần đây hắn vừa bị thương”, Tử Hân nói.
“Ta biết”, người đó rất khách khí, “Đa tạ ngươi chiếu cố cho nó”.
Kế đến là một khoảng yên lặng.
Mãi một lúc sau, người kia hỏi: “Nữ nhân này là gì của ngươi?”.
“Là bằng hữu của tôi.”
“Nói với Khuynh Quỳ ta ở gần đây, bảo nó yên tâm dưỡng thương.”
“Tôi sẽ chuyển lời.”
“Bằng hữu của ngươi rất thông minh, ta sẽ không tính toán với nữ nhân thông minh”, kẻ áo đen cười nhạt, loáng một cái, thân hình đã biến mất trong bóng đêm thăm thẳm.
Hai người đứng lại trong cái ngõ một lúc, ánh trăng tĩnh mịch trải khắp.
“Hắn không làm cô bị thương chứ?”, Tử Hân vừa hỏi vừa châm đèn lồng, chiếu lên khuôn mặt nàng.
Ánh sáng chói mắt, nàng nhíu mắt lại, nói: “Không”.
Tay của chàng vẫn giữ lấy cằm nàng, quay khuôn mặt nàng qua trái qua phải kiểm tra.
“Sao lại véo mặt muội?”, động tác của chàng ngang ngược như thế, nàng lập tức nổi đóa.
“Đứng yên, ở đây có máu”, Tử Hân rút trong người ra một bình nước, thấm ướt khăn tay rồi lau kỹ vệt máu trên mặt nàng.
Tô Phong Nghi hoảng hốt nhớ tới mũi kiếm của người áo đen từng liếm qua mặt nàng, có lẽ là máu của Thẩm Khinh Thiền trên đó bắn lên.
Vết máu lau sạch, lộ ra làn da trắng muốt, chàng thở phào: “Còn may, không bị thương”.
Lúc chàng cúi xuống nhìn Tô Phong Nghi, đầu mũi chút nữa thì chạm vào mặt nàng. Nàng ngửi thấy trên người chàng có mùi thuốc nhàn nhạt phảng qua, liền mở to mắt, chăm chăm nhìn vào khuôn mặt chàng.
Ánh mắt chàng sâu thẳm, chăm chú nhìn nàng rất lâu.
Hơi thở từ đôi môi hai người phảng qua lại, nàng không tự chủ được kiễng chân, ra sức níu lấy cổ áo chàng.
Thấy nàng ra sức nghển cổ như thế, tay Tử Hân đành phải dời từ cằm tới sau gáy nàng, đỡ lấy đầu nàng, sợ nàng ngã nhào.
Đột nhiên, Tô Phong Nghi cảm thấy mũi chua chua, không nhịn được hắt hơi một cái.
Một đám nước bọt như mưa phùn bắn vào mặt chàng.
“Xin lỗi, không phải muội cố ý”, để chứng minh bản thân không cố tình, nàng kêu lên một tiếng rồi vội vàng lấy tay áo lau mặt cho chàng.
“Không sao”, chàng nhạt giọng nói.