• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Minh chứng thiên đường
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 45
  • Sau

11Kết thúc vòng xoáy đi xuống

Trong suốt bảy năm tiếp theo, cả sự nghiệp và cuộc sống gia đình của tôi tiếp tục chịu nhiều hệ lụy. Suốt một thời gian dài, những người quanh tôi - kể cả những người gần gũi tôi nhất - vẫn không rõ được nguyên nhân vấn đề của tôi là gì. Nhưng dần dà, qua những câu nói bất chợt của tôi, Holley và các chị em gái của tôi cũng liên kết lại và nghiệm ra được.

Cuối cùng, trong một dịp cả gia đình đi nghỉ vào tháng Bảy năm 2007, trong một buổi đi dạo sớm đón bình minh trên một bờ biển ở bang Nam Carolina, Betsy và Phyllis đề cập đến chuyện này. “Anh có nghĩ rằng nên viết thêm một lá thư nữa cho gia đình ruột thịt của mình không?”, Phyllis hỏi.

“Đúng đó”, Betsy góp thêm vào. “Có khi mọi chuyện bây giờ đã khác trước, anh không biết được đâu.” Gần đây, Betsy có chia sẻ với chúng tôi rằng cô ấy cũng muốn nhận nuôi một đứa trẻ, vì vậy tôi cũng không quá ngạc nhiên khi chủ đề này được khơi ra. Tuy vậy, phản ứng tức thời của tôi, chỉ trong đầu chứ không nói ra, là: Ôi, lại nữa rồi! Tôi còn nhớ bảy năm trước, khi tôi đối mặt với sự chối bỏ ấy, mặt đất dưới chân tôi như nứt gãy, lộ ra một vực thẳm sâu hun hút. Nhưng tôi biết Betsy và Phyllis đều có ý tốt. Họ biết tôi đang đau khổ; rốt cuộc họ cũng thấy ra được nguyên nhân tại sao và họ mong muốn, một mong muốn chính đáng, rằng tôi phải bước lên trước và tìm cách giải quyết vấn đề. Họ trấn an tôi rằng họ sẽ ở cạnh tôi trên chặng đường khó khăn này, rằng tôi sẽ không phải chịu đựng một mình, như đã từng trước đây. Chúng tôi là một đội.

Vì vậy, vào đầu tháng Tám năm 2007, tôi viết một lá thư không để tên người gửi cho cô em ruột của mình, người đóng vai trò then chốt trong vấn đề này, và nhờ Betty ở Hiệp hội Mái nhà cho trẻ của bang Bắc Carolina chuyển hộ:


Em gái thân mến,

Anh mong có thể liên lạc với em, em trai và cha mẹ của chúng ta. Sau một cuộc nói chuyện dài với các chị em và mẹ nuôi của anh, sự ủng hộ và nhiệt tâm của họ khơi dậy lại trong anh niềm mong mỏi được biết nhiều hơn về gia đình ruột thịt của mình.

Hai con trai của anh, một đứa chín tuổi và một đứa mười chín tuổi, cũng muốn được biết về cội nguồn của chúng. Cả ba cha con anh và chị dâu của em sẽ rất biết ơn em nếu em cảm thấy đủ thoải mái để chia sẻ bất kỳ thông tin nào về gia đình mình với anh. Về phần mình, những điều anh muốn biết là về cha mẹ ruột của mình, về cuộc sống của họ từ thời còn trẻ cho đến bây giờ. Anh cũng muốn biết về mọi người trong gia đình, tính cách và sở thích mỗi người ra sao.

Vì tất cả chúng ta đều đang già đi, hy vọng của anh là sớm được gặp mặt mọi người. Việc gặp mặt có thể được sắp xếp theo sự đồng thuận của tất cả mọi người. Anh muốn em biết rằng anh vô cùng tôn trọng mức độ riêng tư mà mọi người muốn giữ gìn. Anh đã có một gia đình với cha mẹ nuôi tuyệt vời và anh biết ơn quyết định của cha mẹ ruột của mình khi họ còn trẻ. Mong ước của anh là chân thành và anh sẽ thuận theo bất cứ giới hạn nào mà cha mẹ và các em cho là cần thiết.

Anh vô cùng biết ơn sự cân nhắc của em về vấn đề này.

Chân thành,

Anh trai của em


Vài tuần sau đó, tôi nhận được một lá thư từ Hiệp hội Mái nhà cho trẻ từ em gái ruột của tôi.

“Vâng, cả nhà đều rất muốn gặp anh”, cô ấy viết. Luật của bang Bắc Carolina cấm cô ấy tiết lộ bất kỳ thông tin nào khiến tôi có thể xác định danh tính của cô, nhưng bằng cách khéo léo để không vi phạm những tham số, cô ấy đã cho tôi những manh mối thật sự đầu tiên về gia đình ruột thịt mà tôi chưa từng gặp mặt của mình.

Khi cô ấy nói với tôi rằng cha ruột của tôi từng là một phi công hải quân ở Việt Nam, tôi gần như choáng váng: hèn gì mà tôi đã luôn yêu thích môn nhảy dù và lái tàu lượn. Tôi càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng cha ruột của tôi cũng là một phi hành gia được NASA đào tạo trong giai đoạn thực hiện các sứ mệnh Apollo vào giữa thập niên 1960 (bản thân tôi cũng từng cân nhắc việc tham gia khóa huấn luyện chuyên gia cho hành trình tàu con thoi vào năm 1983). Sau này, cha ruột của tôi làm phi công cho hai hãng hàng không Pan Am và Delta.

Vào tháng Mười năm 2007, cuối cùng tôi cũng gặp được cha mẹ ruột của mình, Ann và Richard, và các em ruột, Kathy và David. Mẹ ruột Ann kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện vào năm 1953, khi bà trải qua ba tháng tại Mái ấm Florence Crittenden dành cho các bà mẹ chưa kết hôn, ở kế bên Bệnh viện Tưởng niệm Charlotte. Tất cả các cô gái ở đó đều có mật danh, và vì yêu thích lịch sử nước Mỹ nên bà chọn tên Virginia Dare - là tên gọi của đứa trẻ đầu tiên được sinh ra ở Tân Thế Giới bởi những người định cư đến từ Anh. Hầu hết các cô gái khác chỉ gọi bà là Dare. Khi đó bà chỉ mới mười sáu tuổi và là cô gái nhỏ tuổi nhất ở đó.

Bà kể cho tôi nghe rằng cha của bà sẵn lòng làm bất cứ điều gì để giúp đỡ bà, khi ông biết về “vấn đề nan giải” của bà. Ông sẵn lòng đưa cả gia đình chuyển đi nơi khác sống nếu cần thiết. Ông đã thất nghiệp một thời gian, nên việc mang một đứa trẻ về nhà nuôi nấng sẽ là một gánh nặng lớn về tài chính, chưa kể vô số vấn đề khác nữa.

Một người bạn thân của ông thậm chí còn gợi ý một bác sĩ mà ông ấy biết ở Dillon, bang Nam Carolina, người có thể “xử lý mọi chuyện”. Nhưng mẹ của bà không muốn nghe về cách đó.

Ann kể cho tôi nghe rằng bà từng ngước nhìn lên những vì sao nhấp nháy đến hoa cả mắt trong những cơn gió mạnh của đợt không khí lạnh mới ùa về vào cái đêm tháng Mười Hai giá rét năm 1953 ấy, rằng bà đã đi bộ qua bao nhiêu con phố vắng bên dưới những đám mây thấp rải rác đang lướt băng băng qua. Trong giờ phút đó, bà chỉ muốn được ở một mình, với mặt trăng và những vì sao, và với đứa con sắp sửa chào đời của bà - là tôi.

“Vầng trăng khuyết vẫn còn lơ lửng ở phía tây bầu trời. Sao Mộc chỉ vừa ló lên, sáng rực và dõi theo chúng ta suốt đêm. Richard yêu khoa học và thiên văn học, và sau này ông ấy nói với mẹ rằng sao Mộc ở vị trí xung đối vào đêm đó, và phải gần chín năm sau, nó mới lại chiếu sáng rực. Trong suốt chín năm đó, nhiều việc đã xảy đến trong cuộc đời của cha mẹ, trong đó có sự ra đời của hai đứa trẻ nữa.

“Nhưng trong giờ phút đó, mẹ chỉ nhìn lên bầu trời và nghĩ rằng Vua Của Các Hành Tinh hiện ra đẹp đẽ và rực rỡ làm sao, và đang dõi theo chúng ta từ bên trên.”

Khi bà bước vào tiền sảnh của bệnh viện, một ý nghĩ kỳ diệu chợt nảy ra trong trí bà. Các cô gái thường ở lại Mái ấm Crittenden hai tuần sau khi sinh em bé, rồi sau đó sẽ trở về nhà để tiếp tục cuộc sống của mình như trước kia. Nếu quả thật bà sẽ hạ sinh tôi vào đêm hôm ấy, bà và tôi sẽ về nhà vào dịp Giáng sinh - nếu họ thật sự để cho bà về sau hai tuần. Sẽ là một điều kỳ diệu nếu mọi chuyện diễn ra đúng như vậy: bà được mang tôi về nhà đúng vào ngày Giáng sinh.

“Bác sĩ Crawford chỉ vừa mới đỡ đẻ xong cho một ca nên trông ông mệt mỏi kinh khủng”, Ann kể với tôi. Ông ấy đặt lên mặt bà một miếng gạc thấm ête để gây tê nhưng vẫn giữ cho bà tỉnh táo và cuối cùng, vào lúc 2 giờ 42 phút sáng, bà đã hạ sinh đứa con đầu lòng sau đợt rặn cuối cùng.

Ann kể với tôi rằng bà đã tha thiết muốn được ôm ấp và âu yếm tôi đến thế nào, và bà sẽ không bao giờ quên rằng bà đã nghe tiếng khóc của tôi cho đến khi cơn mệt mỏi cùng với tác dụng của thuốc gây mê cuối cùng cũng làm bà lịm đi.

Trong bốn giờ tiếp theo đó, đầu tiên là sao Hỏa, rồi sao Thổ, sao Thủy, và cuối cùng là sao Kim sáng rực, lần lượt mọc lên ở phía đông bầu trời, chào đón tôi đến với thế giới này. Trong lúc đó, Ann đã có một giấc ngủ thật sâu, giấc ngủ sâu nhất bà có được trong nhiều tháng.

Cô y tá đánh thức bà dậy trước khi mặt trời mọc.

“Có một người mà tôi muốn cô gặp”, cô ấy nói rất hào hứng rồi đưa tôi, lúc đó được quấn trong chiếc chăn màu xanh da trời, cho bà ngắm.

“Tất cả các y tá đều đồng ý rằng con là đứa trẻ xinh đẹp nhất bệnh viện. Mẹ vô cùng sung sướng và hãnh diện.”

Dù rất muốn được giữ tôi bên mình, nhưng bà nhanh chóng phải đối diện với thực tế phũ phàng. Richard luôn mơ được đi học đại học, nhưng để nuôi dưỡng được những giấc mơ đó, họ sẽ không thể nào nuôi nổi tôi. Có lẽ vì cảm nhận được nỗi đau của Ann nên tôi bỏ ăn. Khi được mười một ngày tuổi, tôi phải nhập viện với chẩn đoán “không tăng trưởng”, và tôi phải trải qua Giáng sinh đầu tiên của mình và chín ngày tiếp theo trong bệnh viện ở Charlotte.

Sau khi tôi nhập viện, Ann bắt chuyến xe buýt hai tiếng về phía bắc để về nhà mình ở một thị trấn nhỏ. Bà đón Giáng sinh cùng với cha mẹ, các chị em của bà và bạn bè, những người bà đã không gặp suốt ba tháng. Tất cả, ngoại trừ tôi.

Lúc tôi bắt đầu ăn được trở lại, cuộc đời riêng của tôi cũng bắt đầu. Ann cảm thấy bà đang bị mất đi quyền kiểm soát và rằng họ sẽ chẳng để bà giữ tôi. Khi bà gọi đến bệnh viện ngay sau ngày đầu năm mới, người ta nói với bà rằng họ đã gửi tôi đến Hiệp hội Mái nhà cho trẻ ở Greensboro.

“Gửi đi cùng với một tình nguyện viên? Thật không thể hiểu nổi!”, bà nói.

Ba tháng sau đó, tôi ở trong một ký túc xá dành cho trẻ nhỏ cùng với một vài đứa trẻ sơ sinh khác không được ở cùng mẹ. Chiếc cũi của tôi được đặt ở trên tầng hai của một căn nhà thời Victoria màu xám xanh nhạt được hiến tặng cho hiệp hội. “Mái ấm đầu tiên của con là một nơi thật dễ chịu”, Ann nói với tôi và cười, “mặc dù nơi đó chỉ là một ký túc xá dành cho trẻ sơ sinh.” Trong vài tháng tiếp đó, Ann đến thăm tôi sáu lần, bằng cách bắt chuyến xe buýt ba tiếng đồng hồ; lần nào bà cũng cố vắt óc nghĩ ra một kế hoạch để giữ tôi lại cùng bà. Một lần bà đến cùng với mẹ mình và lần khác thì đến cùng Richard (dù các y tá chỉ cho phép ông nhìn tôi qua cửa sổ - họ không để ông cùng vào phòng, và tất nhiên là không cho ông được bế tôi).

Nhưng rồi đến cuối tháng Ba năm 1954, mọi sự đã rõ ràng, rằng bà sẽ không có được điều mình mong muốn. Bà sẽ phải từ bỏ tôi. Bà và mẹ bà bắt chuyến xe buýt để đến Greensboro thăm tôi lần cuối.

“Mẹ phải ôm con và nhìn vào mắt con, cố giải thích mọi chuyện cho con hiểu”, Ann nói với tôi. “Mẹ biết con sẽ cười khúc khích và nói bập bẹ, sẽ phì bong bóng, rồi tạo ra những âm thanh vui tai bất kể mẹ nói gì, nhưng mẹ vẫn cảm thấy mình nợ con một lời giải thích. Mẹ ôm con thật chặt lần cuối, hôn vào tai con, ngực con, mặt con. Mẹ nhớ mình đã hít một hơi thật sâu, tận hưởng mùi thơm tuyệt diệu của trẻ nhỏ khi vừa được tắm, như thể nó chỉ vừa mới xảy ra hôm qua.

“Mẹ gọi con bằng tên mà mẹ đặt cho con lúc mới sinh và nói với con rằng: ‘Mẹ yêu con nhiều lắm, nhiều đến mức con không thể hình dung được. Và mẹ sẽ yêu con mãi mãi, cho đến ngày mẹ chết đi’.

“Rồi mẹ nói: ‘Lạy Chúa, xin Người hãy cho thằng bé biết mình được yêu thương nhiều đến thế nào, rằng con yêu con của mình, và tình yêu đó là mãi mãi’. Nhưng mẹ không có cách nào để biết lời cầu nguyện của mẹ có được Người nghe thấy hay không. Những thủ tục trao và nhận con nuôi vào những năm 1950 là chính thức và phải cam kết giữ bí mật. Không có chuyện đổi ý, không có chuyện tìm gặp để giải thích. Đôi khi người ta thay đổi cả ngày tháng năm sinh trên giấy tờ chỉ để ngăn cản bất kỳ ai muốn vén màn sự thật về nguồn gốc của một đứa trẻ. Không để lại bất kỳ dấu vết nào. Các thỏa thuận được bảo vệ bởi luật lệ nghiêm ngặt của tiểu bang. Luật lệ đặt ra là bạn hãy quên tất cả những gì đã xảy ra liên quan đến vụ việc này và sống tiếp cuộc sống của bạn. Và rồi, hy vọng rằng bạn sẽ học được bài học từ chuyện này.

“Mẹ hôn con lần cuối, rồi nhẹ nhàng đặt con xuống cũi. Mẹ quấn con lại trong chiếc chăn màu xanh da trời, nhìn lần cuối vào đôi mắt xanh của con, rồi mẹ hôn lên ngón tay mình rồi đặt lên trán của con.

“‘Tạm biệt, Richard Michael. Mẹ yêu con’, là những lời cuối cùng mẹ nói với con, ít ra là cho nửa thế kỷ sau.”

Ann tiếp tục kể cho tôi nghe rằng sau khi bà và Richard cưới nhau và những đứa con khác của họ ra đời, bà càng lúc càng cảm thấy thôi thúc muốn biết những gì đã xảy ra với tôi. Ngoài việc là một phi công hải quân và phi công lái máy bay dân dụng, Richard còn là một luật sư, và Ann nghĩ rằng với vai trò này, ông ấy sẽ có được một số quyền hạn để tìm hiểu về thân phận sau khi được nhận nuôi của tôi. Nhưng là một người trọng danh dự, Richard không muốn đi ngược lại những thỏa thuận khi trao con nuôi vào năm 1954, vì vậy ông đứng ngoài chuyện này. Vào đầu thập niên 1970, khi cuộc chiến tại Việt Nam vẫn còn khốc liệt, Ann không thể nào ngừng nghĩ đến ngày đã sinh ra tôi. Tháng Mười Hai năm 1972, tôi sẽ bước sang tuổi mười chín. Liệu tôi có phải tham gia cuộc chiến không? Nếu vậy thì chuyện gì sẽ xảy đến với tôi? Dự định ban đầu của tôi là đăng ký vào thủy quân lục chiến để được bay. Thị lực của tôi là 20/100, và Lực lượng Không quân yêu cầu thị lực 20/20 khi không mang kính. Tôi nghe thông tin ngoài lề rằng thủy quân lục chiến sẽ nhận cả những thanh niên có thị lực 20/100 như chúng tôi và sẽ dạy chúng tôi bay. Nhưng rồi sau đó, họ bắt đầu cắt giảm quân lực ở Việt Nam, nên tôi đã chẳng bao giờ được gọi. Thay vào đó, tôi nộp đơn vào trường y. Nhưng Ann không biết việc này. Mùa xuân năm 1973, họ nhìn thấy cảnh những tù binh chiến tranh sống sót từ nhà tù Hỏa Lò bước ra khỏi những chiếc máy bay trở về từ miền Bắc Việt Nam. Tim họ như vỡ tan khi không nhìn thấy nhiều phi công mà họ biết bước ra khỏi những chiếc máy bay kia; trong số những người mà họ cho là đã mất tích đó, có hơn một nửa là bạn cùng khóa huấn luyện hải quân của Richard, và Ann đinh ninh rằng tôi cũng đã bỏ xác ở chiến trường rồi.

Cảnh tượng đó ghi dấu ấn sâu đậm trong trí bà đến nỗi trong nhiều năm sau đó, bà luôn hình dung cảnh tôi nằm chết một cách thảm thương giữa cánh đồng lúa ở Việt Nam. Chắc là bà sẽ vô cùng kinh ngạc nếu biết được rằng trong suốt khoảng thời gian đó, tôi sống ở Chapel Hill, cách bà chỉ vài cây số!

Vào mùa hè năm 2008, tôi gặp cha ruột của mình, anh trai ông, Bob, và anh rể của ông, cũng tên là Bob, ở bãi biển Litchfield, bang Nam Carolina. Anh trai ông, Bob, là một anh hùng được tặng thưởng huy chương của lực lượng hải quân trong Chiến tranh Triều Tiên và là một phi công thử nghiệm ở China Lake (trung tâm thử nghiệm vũ khí của hải quân ở sa mạc California, nơi ông hoàn thiện hệ thống tên lửa Sidewinder và lái những chiếc máy bay F-104 Starfighters). Trong khi đó, anh rể của Richard, Bob, đã lập nên một kỷ lục về tốc độ trong Chiến dịch Đua Cùng Mặt Trời (Operation Sun Run) năm 1957, một cuộc đua tiếp sức “nhanh hơn mặt trời”, bay vòng quanh trái đất bằng máy bay chiến đấu phản lực F-101 Voodoo với vận tốc trung bình trên 1.600 km/giờ.

Tôi có cảm giác như đây là một Tuần Trở Về Nguồn.

Những buổi gặp cha mẹ đẻ đã đánh dấu sự chấm hết cho cái mà gần đây tôi gọi là Những Năm Tháng Không Biết của tôi. Những năm tháng, mà cuối cùng tôi đã được biết, đã được tạo nên từ nỗi đau kinh khủng, đối với cả tôi lẫn cha mẹ ruột của mình.

Chỉ có một vết thương không thể lành: cái chết cách nay mười năm, năm 1998, của người em gái ruột của tôi, Betsy (đúng vậy, trùng tên với em gái tôi trong gia đình cha mẹ nuôi, và họ đều cưới chồng tên Rob, nhưng đó là một câu chuyện khác). Mọi người kể với tôi rằng em ấy có một trái tim rộng lớn, và những khi không làm việc ở trung tâm hỗ trợ nạn nhân bị cưỡng hiếp, nơi mà em ấy dành phần lớn thời gian của mình, mọi người thường thấy em chăm sóc và cho một bầy chó và mèo hoang ăn. Ann gọi em ấy là “một thiên thần đích thực”. Kathy hứa gửi cho tôi một tấm ảnh của em ấy. Betsy cũng đã từng vật lộn với chứng nghiện rượu như tôi, và khi biết về cái chết của em ấy, một phần là do hậu quả của việc nghiện rượu, một lần nữa tôi nhận ra mình may mắn ra sao vì đã vượt qua được vấn đề của mình. Giá như tôi được gặp Betsy, để an ủi em ấy - để nói với em ấy rằng những vết thương đều có thể lành, và mọi việc đều sẽ ổn.

Bởi vì, thật kỳ lạ, khi gặp được gia đình ruột của mình, lần đầu tiên trong đời, có điều gì đó khiến tôi cảm thấy rằng mọi việc thật sự ổn. Gia đình là quan trọng, và tôi đã tìm lại được gia đình của mình. Đây là sự “thực học” đầu tiên của tôi, rằng việc ai đó biết được nguồn cội của mình có thể hàn gắn sâu sắc vết thương lớn trong đời họ và theo những cách mà chúng ta không ngờ tới. Biết được mình đến từ đâu, nguồn gốc huyết thống của mình, cho phép tôi thấy và chấp nhận những khía cạnh của bản thân mà tôi chưa bao giờ mơ rằng mình có thể. Qua việc gặp mặt những người thân ruột thịt, cuối cùng tôi cũng dứt bỏ được mối nghi ngờ dai dẳng đã từ lâu đeo bám mình một cách vô thức: mối nghi ngờ rằng, cho dù tôi có nguồn gốc từ đâu, về mặt huyết thống, tôi cũng đã không được yêu thương và quan tâm. Trong tiềm thức, tôi đã tin rằng mình không xứng đáng được yêu, hay thậm chí là được tồn tại. Việc biết được rằng mình đã được yêu thương, ngay từ giây phút chào đời, bắt đầu chữa lành cho tôi theo một cách sâu sắc nhất mà ta có thể hình dung. Tôi cảm thấy một sự trọn vẹn mà trước đây mình chưa bao giờ được biết đến.

Tuy nhiên, đó không chỉ là điều duy nhất mà tôi khám phá được ở phương diện này. Một câu hỏi khác mà tôi tưởng rằng mình đã nhận được câu trả lời khi tôi ngồi trong xe cùng với Eben ngày hôm đó - câu hỏi liệu rằng thật sự có một Thượng đế đầy tình yêu thương luôn ở ngoài kia hay không. Câu hỏi vẫn còn đó, và câu trả lời trong tâm trí tôi vẫn là không.

Mãi cho đến sau khi tôi trải qua bảy ngày hôn mê, tôi mới nhìn nhận lại câu hỏi này. Tôi cũng đã khám phá ra một câu trả lời hoàn toàn bất ngờ...

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 45
  • Sau