Điều vô cùng quan trọng mà hiện rất ít người biết, nên cần phải báo động là:
1- NGHỊCH LÝ CỦA NGƯỜI MỸ
Từ năm 1976 đến năm 2000, người Mỹ đã giảm đáng kể lượng mỡ trong khẩu phần ăn. Nhưng bệnh béo phì vẫn tăng với tốc độ “phi mã”. Các nhà khoa học lý giải là do ăn sai và ít vận động.
Nhưng, Gérard Ailhaud, khoa học gia người Pháp đã phát hiện ra sự bất hợp lý của lập luận đó với bằng chứng đầy thuyết phục như sau: Trẻ sơ sinh (dưới một tuổi) ở Mỹ thường có khối mỡ gấp đôi bình thường. Thời kỳ từ 6 đến 11 tháng tuổi mà các cháu béo phì, thì chẳng thể do thức ăn nhanh (fast food) và ít tập thể dục!
Gérard Ailhaud cho rằng, thủ phạm của bệnh béo phì là do sự thay đổi trong bản chất của sữa:
Trước kia, gia súc, gia cầm chủ yếu ăn cỏ, trong cỏ hàm lượng omega 3 khá cao, tỷ lệ omega 3/omega 6 là 1/1. Nhưng từ năm 1950, do sự quảng cáo của ngành sản xuất thức ăn từ động vật và sự khích lệ của ngành y, nhu cầu về thịt, trứng, sữa tăng vọt. Để mau chóng tạo ra sản phẩm, các nhà chăn nuôi đã cho gia súc, gia cầm ăn hạt (ngô, đậu, lúa mỳ...) là chính. Những hạt này hầu như không có hoặc có rất ít omega 3, nhưng lại giàu omega 6 (tỷ lệ omega 3 - omega 6 là 1/15, thậm chí có loại đến 1/40).
KHẨU PHẦN ĂN CỦA BÒ SỮA VÀ CHẤT LƯỢNG CỦA SỮA
Ghi chú: Lượng omega 3 (bên trái) và omega 6 (bên phải) trong sữa bò nuôi trên bãi chăn thả và nuôi chủ yếu bằng hạt ngũ cốc.
Trong cơ thể con người:
- Omega 6 đẩy mạnh quá trình tích lũy mỡ, làm xơ cứng tế bào, tăng tốc độ đông máu, tạo điều kiện cho hiện tượng viêm nhiễm.
- Omega 3 tham gia vào việc cấu tạo hệ thần kinh, làm mềm dẻo tế bào, ức chế phản ứng viêm nhiễm, ngăn ngừa hiện tượng tích mỡ.
Có thể nói, thế cân bằng sinh lý của con người liên quan chặt chẽ với sự cân bằng giữa omega 3 và omega 6. Nhưng thế cân bằng đó bị đảo lộn trầm trọng trong khẩu phần ăn của gia súc, gia cầm suốt thời gian dài vừa qua.
SỰ SUY GIẢM TỶ LỆ OMEGA 3 SO VỚI OMEGA 6 TRONG DÂY CHUYỀN THỰC PHẨM GIỮA NHỮNG NĂM 1960 VÀ 2000
Ghi chú: Cột bên trái là lượng omega 3, bên phải là omega 6.
Mặt khác không kém phần quan trọng là, một loại axít béo trong sữa, phô mai rất có lợi là CLS (conjugated linoleic acid) có tác dụng kìm hãm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư. Nhưng CLA chỉ có trong sữa của những con bò ăn cỏ. Khi chuyển sang ăn hạt thì hàm lượng CLA hầu như không còn.
HÀM LƯỢNG AXIT BÉO CLA TRONG PHÔ MAI LÀM TỪ SỮA CỦA NHỮNG CON BÒ NUÔI BẰNG HẠT VÀ CỎ
Ghi chú: Cột bên trái là hàm lượng CLA trong phô mai từ những con bò được nuôi bằng hạt.
Cột bên phải là hàm lượng CLA trong phô mai từ những con bò được nuôi bằng cỏ.
Nghịch lý là ở Mỹ, người ta cố giảm lượng mỡ động vật trong khẩu phần ăn, nhưng tỷ lệ người bị béo phì vẫn tăng vọt!
2- NGHỊCH LÝ CỦA NGƯỜI DO THÁI
Những năm 1950, khi phát hiện ra mối liên quan giữa việc ăn nhiều mỡ động vật với bệnh tim mạch, nhiều người đã từ bỏ bơ, sữa để chuyển sang ăn dầu và bơ thực vật. Sự thay đổi đó đã giảm thiểu đáng kể lượng cholesterol trong máu, nhưng lại làm “nóng lên” các bệnh viêm nhiễm, nhồi máu cơ tim và béo phì. Điều này đặc biệt rõ ở Israel.
Lý do là bơ sản xuất từ dầu thực vật, vốn có hàm lượng omega 6 cao (dầu hoa hướng dương có hàm lượng omega 6 gấp 70 lần, các loại dầu khác thường gấp 7 lần, ít nhất là 3 lần so với hàm lượng omega 3).
Tệ hại hơn gấp bội là thực phẩm công nghiệp luôn sử dụng chất béo hydrat hóa (toàn phần hay một phần) để thực phẩm không có mùi hôi của dầu, lại giòn và có thể bảo quản được lâu ngày trong điều kiện bình thường (như bánh quy, bánh kem, bánh trứng, mứt, đặc biệt là khoai tây rán...). Nhưng những thực phẩm này lại rất khó tiêu, dễ gây viêm nhiễm hơn hẳn so với omega 6 tự nhiên.
Nghịch lý của người Do Thái là, không ăn bơ, sữa nên tỷ lệ cholesterol thấp nhất so với các nước châu Âu, nhưng lại ăn dầu thực vật hydrat hóa nên có tỷ lệ cao nhất về bệnh nhồi máu cơ tim, béo phì và tạo điều kiện cho ung thư phát triển.
Những năm cuối thế kỷ 20, nhiều nước đã ăn dầu thực vật hydrat hóa “như điên”, nên các bệnh nhồi máu cơ tim, béo phì, ung thư... phát triển, tác oai tác quái khắp nơi trên thế giới!
SỰ GIA TĂNG TIÊU THỤ DẦU OMEGA 6 TÍNH TRÊN ĐẦU NGƯỜI TRONG THẾ KỶ 20 (kg/người/năm)
Từ những trình bày trong chương hai này, chúng ta thấy:
- Thực dưỡng là một ngành khoa học vô cùng tinh vi, phức tạp, mầu nhiệm... trước mắt ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tuổi thọ, sự thông minh, tâm linh, tiến hóa, hòa bình thế giới và việc bảo vệ hành tinh. Lâu dài sẽ quyết định chất lượng nòi giống của hậu thế.
- Nhưng thực tế đau lòng là, hiện nay hầu hết loài người không nhận thức được vai trò, tầm quan trọng vô cùng to lớn của lĩnh vực này. Đó là nguyên nhân khiến chất lượng cuộc sống của loài người suy thoái nghiêm trọng. Thực tế ấy đòi hỏi phải kịp thời gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh để ngăn chặn gấp những suy thoái không đáng có hiện nay.
- Tôi mạo muội kiến nghị chúng ta và cả loài người cần có chương trình, kế hoạch trang bị kiến thức về thực phẩm và giáo dục về ăn uống đúng cho mọi thành viên trong cộng đồng. Phải coi đó là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của “chiến lược giáo dục toàn cầu tương lai” trên phạm vi toàn thế giới!