Ở chương 1 chúng ta đã thấy thức ăn có vai trò quan trọng như thế nào đối với đời sống, sức khỏe, tính tình, tuổi thọ của con người. Mục này chúng ta bàn về ảnh hưởng của thức ăn tới hạnh phúc lứa đôi và sự thịnh suy của hậu thế, giống nòi! Sau đây là một số vấn đề đáng để mọi người suy ngẫm:
1. ĂN UỐNG VỚI CUỘC SỐNG LỨA ĐÔI
Nằm trong quy luật biện chứng Âm - Dương của tình yêu là: Đối lập mà bổ túc, mâu thuẫn mà thống nhất, tương khắc mà tương thành! Vì vậy, biết cách vận dụng nguyên lý Âm - Dương trong ăn uống hàng ngày, người nữ sẽ giữ được vẻ duyên dáng, yêu kiều của “phái đẹp”, thuộc Âm. Người nam giữ được nét hào hùng, dũng cảm, đại trí của “phái mạnh”, thuộc Dương!
Hơn nữa, với nghệ thuật nấu nướng, ăn uống... người ta có thể cải tạo thể chất và tính tình người bạn đời của mình theo ý muốn! Đó chính là bí quyết tăng cường ái lực của Âm - Dương; bí quyết của tình yêu bền vững, giúp đời sống lứa đôi đượm nồng hạnh phúc vì sự hòa hợp tâm hồn và thỏa mãn gối chăn!
Bà Lima, vợ của nhà thực dưỡng bậc thầy Ohsawa, nói: “Ăn cùng loại thực phẩm sẽ tạo ra cùng tâm trạng. Đó là sự tâm đồng ý hợp, hôn nhân sẽ bền vững... Một người đàn bà hay đàn ông chỉ là một nửa của con người. Con người thực là sự kết hợp thành một giữa hai người đó qua tình yêu. Tình yêu có nghĩa là phẩm chất năng lượng rung động giống nhau, được tạo ra bởi sự ăn uống giống nhau. Ðó là sự kết hợp giữa Âm và Dương, giữa trời và đất! Hôn nhân là khi vợ nấu cho chồng ăn, thì chồng hấp thu tinh thần của vợ qua thức ăn đó; Là tình cảm của vợ đi vào, tạo lên tinh thần của chồng qua thức ăn và chồng biểu lộ tình cảm ấy ra cuộc sống. Vì vậy, hai người không cùng ăn thực phẩm như nhau thì sự kết hợp thực sự sẽ chẳng thể nào xảy ra. Một phụ nữ ăn chay không thể nào sống hạnh phúc với người đàn ông ăn thịt được. Thực phẩm quả là chìa khóa của hôn nhân và hạnh phúc !”.
2. CHUẨN BỊ MANG THAI
• Điều vô cùng quan trọng, khiến rất nhiều người băn khoăn là: Trong thời kỳ mang thai mà ăn chay sẽ không đủ chất nên ảnh hưởng xấu đến thai nhi và đứa trẻ sau này. Hỏi các bác sĩ hoặc bất kỳ cơ sở y tế Tây y nào, thì câu trả lời đương nhiên và duy nhất là: “Phải ăn nhiều thịt cá, trứng, đường, sữa... để thai nhi đủ chất mới phát triển tốt!”.
Theo tôi cả sự băn khoăn và lời khuyên đó đều xuất phát từ không hiểu biết về thực dưỡng chân chính. Cụ thể như sau:
+ Ăn chay luôn luôn đủ chất, thậm chí nếu chẳng tiết độ sẽ còn thừa chất đạm, mặc dầu đạm thực vật tốt hơn nhiều so với đạm động vật nhưng thừa vẫn không tốt!
+ Băn khoăn lớn hơn là, trong thời kỳ mang thai, nếu ăn chay trường sẽ thiếu canxi! Điều này cần được giải thích rõ ràng như sau: Trong thành phần của thức ăn thực vật luôn có hàm lượng canxi dồi dào, đủ cung cấp cho nhu cầu của cơ thể mẹ và thai nhi. Bằng chứng rất hiển nhiên và hùng hồn là: trâu bò, hươu nai, voi, tê giác, dê, thỏ... là những loài ăn thực vật tuyệt đối. Nhưng chẳng bao giờ bị thiếu canxi cho nhu cầu bản thân và những con non của chúng! Riêng điều này đã đủ để giải đáp thắc mắc trên!
Ở loài người, bệnh loãng xương hoàn toàn chẳng phải do thiếu canxi, mà là do ăn nhiều đạm! Thậm chí càng ăn nhiều đạm, nhiều canxi càng bị loãng xương trầm trọng hơn. Trường hợp của ngươi dân Alaska là bằng chứng điển hình.
Bởi vì, thức ăn đạm sẽ tạo ra nội môi trường axít, khiến cơ thể phải khởi động quá trình chuyển canxi từ xương ra máu để trung hòa độ axít, nên phá vỡ trữ lượng canxi trong cơ thể, bệnh loãng xương xuất hiện! Lượng đạm dư thừa sẽ làm giảm lượng canxi của cơ thể nhiều hơn là lượng canxi được bổ sung qua thức ăn! Chính vì vậy, ăn thuần chay còn là cách phòng và chống bệnh loãng xương tốt nhất! Người ăn chay hoàn toàn không phải lo lắng thiếu canxi cho thai nhi! Đây là điều hoàn toàn chắc chắn!
Mặt khác, trong chăn nuôi thời hiện đại này, con người đã đối xử quá tồi tệ, thậm chí hành hạ dã man các vật nuôi (xem lại Chương 3, mục IV) nên thịt, sữa, trứng... của chúng chất chứa rất nhiều chất độc hại, sẽ gây hại khôn lường cho chính người mẹ, rồi từ mẹ, chất độc sẽ theo máu nuôi thai nhi, theo sữa cho trẻ thơ!
Vì thế, ăn thức ăn động vật mới thực sự độc hại và gây hiện tượng thiếu canxi cho người mẹ, thai nhi và trẻ nhỏ. Người mang thai tuyệt đối không ăn thịt, trứng, sữa là tốt nhất!
• Có những cặp vợ chồng, cả hai cùng to cao, khỏe mạnh, nhưng do ăn uống mất quân bình Âm - Dương (nhiều đường, sữa, đồ ngọt, trái cây, thực phẩm nhân tạo pha hóa chất, uống bia rượu, dùng thuốc tân dược...) nên không thể thụ thai để có con được!
• Ăn quá nhiều hoa quả trong thời kỳ không mang thai thì tử cung sẽ bị biến thể, kinh nguyệt không đều... Những người hiếm muộn, hoặc lâm vào tình trạng tuyệt vọng, thường là người thích ăn trái cây và các thức ăn Âm tính...
Giáo sư Ohsawa đã nêu nhiều bằng chứng cho thấy: Ăn quá nhiều trái cây sẽ bị suy nhược bộ máy sinh dục, nhưng lại không thoát khỏi sự ràng buộc của nhục dục, nên đã tiếp tay cho các hiện tượng sẩy thai, đẻ non, hài nhi chết yểu...
• Cặp vợ chồng nào sinh hoạt thiếu điều độ, quá phóng túng, thích ăn cho sướng miệng sẽ sinh toàn con gái. Trái lại cặp vợ chồng nào mạnh khỏe, ăn uống quân bình Âm - Dương, sống điều độ, chừng mực... thì mỗi lần sinh chỉ một đứa và số con trai và gái bằng nhau!
3. THỜI KỲ MANG THAI
Chỉ trong vòng 9 tháng 10 ngày, bào thai của loài người từ một tế bào trứng, thụ tinh, phát triển qua các giai đoạn: đơn bào, đa bào, động vật không xương sống, cá, lưỡng cư, bò sát, linh trưởng và thành người.
Trong suốt thời gian ấy, thai nhi được nuôi dương hoàn toàn bằng những gì người mẹ ăn uống hằng ngày. Khí chất của đứa con được cấu tạo bằng đồ ăn thức uống của người mẹ trong suốt thời gian mang thai. Do vậy, việc ăn uống và lối sống của người mẹ ảnh hưởng quyết định đến thai nhi và cuộc đời đứa trẻ sau này.
• Phụ nữ có thai nếu ăn nhiều trái cây liên tục sẽ đẻ con yếu ớt hoặc bị cận thị, có tật bẩm sinh ở mắt. Ăn cà, nhất là cà dái dê vài tuần lễ sẽ nắm chắc nguy cơ đẻ khó, sẩy thai, đẻ non hoặc hài nhi chết yểu...
Một cặp vợ chồng đều là trí thức, mới có thai nên rất quan tâm đến việc dưỡng thai. Bác sĩ khuyên mỗi ngày phải uống nước hai quả dừa để không bị khô nước ối. Họ đến hỏi tôi, tôi nói: “Tuyệt đối không nên! Vì giai đoạn bào thai rất Âm, nước dừa lại rất Âm! Uống liên tục như vậy sẽ ảnh hưởng xấu cho thai nhi!”. Sau khi bàn bạc, đắn đo... họ quyết định làm theo lời khuyên của bác sĩ, vì “không thể lấy con của chúng cháu ra thí nghiệm được!”. Tôi hỏi: “Thế uống nước hai quả dừa mỗi ngày có phải là thí nghiệm không? Cô cậu có hiểu cơ chế ra sao chưa?”. Vài ngày sau họ đến hỏi lại bác sĩ, rồi lại tiếp tục uống nước dừa! Tôi rất ái ngại cho cặp vợ chồng trẻ đó, nên gọi họ đến, nói trước: “Uống nước dừa như thế, sau này nhẹ thì con sinh ra sẽ bị dị tật bẩm sinh, thường là cận thị nặng. Nặng hơn sẽ bị đẻ non. Nặng nữa có thể sẩy thai! Tùy cô cậu quyết định! Đưa ra lời khuyên chân tình là trách nhiệm lương tâm của tôi. Thực hiện hay không là quyền và trách nhiệm của cô cậu!”.
Mấy tháng sau người chồng hớt hải chạy đến tôi, mếu máo báo tin: “Vợ cháu bị... sẩy thai rồi... bác ơi!”. Cậu ta tỏ ý vô cùng hối hận. Tôi nói: “Biết sai lầm và hối hận là tốt. Nhưng có những điều trong suốt cuộc đời không được phép sai lầm, vì sẽ không có cơ hội để sửa chữa đâu. Bằng chứng là bây giờ cậu có ‘hối hận ngút trời’ thì con cậu cũng đã chết rồi(*)!”.
(*) Điều cần cảnh báo là hiện nay rất nhiều người có thai được bác sĩ Tây y khuyên cần phải uống nhiều nước dừa hàng ngày! Thật không thể hiểu nổi!
• Trong thời gian mang thai, nếu người mẹ liên tục ăn nhiều cá, thì sau này mũi hài nhi sẽ bẹp và hếch. Người mẹ ăn nhiều rau quả hơn cốc loại, hoặc thường xuyên ăn thịt, đứa con sau này sẽ có đôi tai nhỏ, nhọn, không có hoặc dái tai rất nhỏ, giống như tai khỉ, chồn, cáo.
Nhân tướng học Đông phương coi đó là tai của người nghèo hèn, thường phải chịu cảnh khổ sầu trong cuộc sống và nhiều khi người đó xử sự rất thô bạo.
Ohsawa cho rằng: Những đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, kể cả những bệnh như cận thị, giang mai, đến ung thư... đều có nguồn gốc từ cách ăn uống sai trái của người mẹ trong thời kỳ mang thai và nuôi con sau này. Thậm chí ngay cả những trường hợp sinh đôi, sinh ba trở lên, hoặc sinh ngang đẻ ngược, sinh con dị dạng, quái thai... cũng đều do cách ăn uống của người mẹ mà ra!
Muốn sinh ra đứa con khỏe mạnh, thông minh thì người mẹ phải hết sức chú ý giữ mình. Câu phương ngôn của người Huế: “Đặt con vào dạ là mạ đi tu”, rất đáng để mọi người soi vào mình để áp dụng.
Nếu người mẹ ăn uống đúng, đứa trẻ sinh ra sẽ khỏe mạnh, không bị các bệnh tật bẩm sinh. Người mẹ sống dịu hiền, ăn uống đúng phép sẽ sinh ra đứa con có mũi thẳng, chóp mũi nở, hai cánh mũi rộng và dày, miệng ngậm kín, mắt nhìn sâu lắng, có đôi tai to, thành quách rõ ràng, dái tai dài, vành tai ép sát vào da đầu... sau này sẽ trở thành vĩ nhân, hiển triết, hoặc làm nên sự nghiệp lớn!
Người mẹ nào sinh ra và nuôi dưỡng được đứa con như thế có thể tự hào vì đã cống hiến cho nhân loại một công dân tuyệt vời!
Nhưng, điều vô cùng trớ trêu, rất cần cảnh báo, vì người mẹ càng có văn hóa càng mắc nhiều là, họ rất chăm đi “khám thai” để bác sĩ dùng siêu âm theo dõi thai nhi, thì mới “yên tâm”. Ngày càng có nhiều trẻ bị ung thư máu do người mẹ nghiêm túc “khám thai định kỳ” hàng tháng theo quy định của bệnh viện!
Tôi thành thực khuyên đừng mê lầm mà làm cái việc đầu độc cả cuộc đời đứa con vô tội của mình như thế! Hãy sống và ăn uống đúng mới là cách chăm sóc hài nhi tốt nhất!
4. SINH CON
Tùy cách ăn uống trong thời kỳ mang thai mà lúc sinh con sẽ dễ dàng hay khó khăn:
Các loài vật sống hoàn toàn phù hợp với thiên nhiên nên việc sinh đẻ của chúng rất đơn giản, nhẹ nhàng. Ngày xưa do cách ăn uống và sống gần tự nhiên nên rất nhiều người sinh con vô cùng dễ dàng, có khi đang làm việc ngoài đồng, đi trên đường... là chuyển dạ và sinh con ngay.
Ngược lại, ngày nay người mẹ ăn uống quá sai, lại xa rời tự nhiên nên đẻ rất khó khăn.
Rõ ràng là, nếu người mẹ ăn uống đúng sẽ sinh ra đứa con khỏe mạnh, cân đối, thông minh. Trái lại ăn uống sai sẽ sinh ra đứa con yếu đuối, dị dạng, tật nguyền, ngu đần... Việc ăn uống của người mẹ vì thế có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc đời sau này của đứa con, thành viên tương lai trong xã hội loài người. Trách nhiệm làm mẹ trong vấn đề ăn uống do vậy cực kỳ quan trọng, mà xã hội cũng như mọi người cần nhận rõ và hết sức chú ý!
Điều vô cùng tệ hại là, Y học hiện đại chỉ tôn thờ phương tiện nên luôn luôn vô cảm, khuyến khích sản phụ mổ để lấy hài nhi ra. Điều này cực kỳ nguy hiểm vì đã vi phạm rất thô bạo vào quy luật tự nhiên:
Thứ nhất, tự đi ra khỏi bụng mẹ là bước “thử thách” đầu tiên mà hài nhi nhất thiết phải trải qua, giống như con ngài, phải có khả năng cắn thủng vỏ kén, gà vịt con phải tự bổ vỡ vỏ trứng để chui ra! Tạo hóa sinh ra như vậy, loài người phải tuân theo, tuyệt đối không được phép vi phạm. Đó mới là thuận theo tự nhiên. Mổ để lấy đứa trẻ ra, là hài nhi đã trốn “kỳ sát hạch” cực kỳ quan trọng đầu tiên này, đó là ngược với luật của Tạo hóa! Chỉ có những kẻ hợm hĩnh, ngu muội mới đi ngược quy luật, nên nhất định phải trả giá!
Tôi cần nói ngay: Đừng nên cố tình bảo vệ cho sự sai trái rành rành của mình bằng cách lập luận ngây ngô rằng: Thế những trường hợp sinh ngược, sinh ngang... thì sao(*)? Hãy nghĩ đến điều đó từ trước đi! Đừng để đến lúc đó mới lo “vuốt đuôi”!
(*) Giống như kiểu lập luận để cố kiết bảo vệ cho cách làm sai trái của các bác sĩ khi họ tranh luận với tôi: “Thế, trước bệnh nhân bị viêm ruột thừa cấp tính thì sao?”.
Những điều trên đây đã cho thấy rõ nếu sống tốt, ăn uống đúng thì chẳng bao giờ có những chuyện như vậy! Tại sao không biết lo trước mà cứ để nước đến chân mới “nhảy”? Người giác ngộ, thông minh luôn luôn lo trước, lo xa, lo “gieo nhân tốt” (Bồ tát sợ nhân). Kẻ mê muội, ngu đần thì bao giờ cũng chỉ lo hậu quả, để đến nơi mới cuống lên (chúng sinh sợ quả) là vậy!
Thứ hai, mổ đẻ là chỉ nhìn tới sản phụ, mà lại nhìn ở mức độ cực kỳ thiển cận, vì sau giải phẫu, sản phụ bị suy kiệt sức lực, không có sữa cho con bú, không thể thực hiện ngay được thiên chức nuôi con của mình trong những ngày đầu tiên vô cùng quan trọng của cuộc đời hài nhi. Ảnh hưởng tồi tệ đó còn kéo dài mãi trong cả cuộc đời đứa trẻ!
Có người còn cố tình lập luận: Nhiều đứa trẻ đẻ mổ vẫn lớn lên và phát triển bình thường đấy thôi! Họ đã không thể hiểu rằng hiện tượng sinh ngang, đẻ ngược... dẫn đến phải mổ, là hậu quả của cách sống, cách ăn uống vi phạm luật tự nhiên của người mẹ, điều đó đã đủ khiến cho thai nhi “không phát triển được bình thường rồi”! Liệu họ có thấy rằng một con gà con có khả năng tự bổ vỡ vỏ trứng để chui ra và con khác không làm được như vậy, sau này nuôi trong cùng điều kiện như nhau thì kết quả có “vẫn bình thường” như nhau không? Một con ngài không có khả năng tự cắn thủng vỏ kén để chui ra thì điều gì sẽ đến với cuộc đời tiếp theo của nó? Chắc chắn sẽ bị đào thải khỏi cuộc sống!
Và, thật là khôi hài, vì cái gọi là “bình thường” của họ là sự “bình thường” của những bào thai được nuôi dưỡng một cách “bất bình thường” trong bụng mẹ (do mẹ sống sai, ăn uống nhiều chất độc, không quân bình Âm - Dương...), thì như vậy chỉ là “bình thường” của sự “bất bình thường”. Như thế là không bình thường chứ sao gọi là “bình thường” được chứ?
5. NUÔI TRẺ SƠ SINH:
a. Trẻ sơ sinh
Nếu người mẹ ăn uống đúng phép, trọng lượng sơ sinh trung bình của hài nhi Việt Nam khoảng 2,5 kg là vừa, trẻ sẽ khỏe mạnh, thân hình nhỏ chắc, da dẻ hồng hào, tóc mềm màu nâu nhạt.
Trái lại, người mẹ ăn uống sai, hài nhi sẽ to bệu, nặng trên 3 kg, da trắng nhợt hoặc xanh vì khí chất yếu kém, tóc cứng màu sẫm. Cuộc đời đứa trẻ đó sau này sẽ khổ, ốm đau và luôn luôn hành cha mẹ. Những người sinh ra đứa con như vậy là lỗi ở chính họ. Thì cũng đáng thôi! Họ cần phải tự trách mình!
Điều vô cùng đáng nói là: Vì tôn thờ vật chất, đề cao hưởng lạc, và đặc biệt sự lừa phỉnh từ những người sản xuất kinh doanh thực phẩm từ động vật, Tây y đã nêu chỉ tiêu trọng lượng của con trẻ cao hơn thực tế! John Robbins đã vạch ra: Những đứa trẻ có trọng lượng thấp hơn quy định 20% thì sau này khỏe mạnh, thông minh, sống lâu hơn hẳn những trẻ có trọng lượng đạt tiêu chuẩn! Những trẻ có trọng lượng vượt chỉ tiêu thì yếu đuối, chậm chạp, không thông minh, chết yểu!
Người Việt mình nhỏ bé hơn, nhưng bị ảnh hưởng của Tây phương nên ngành Y cũng lập “bảng chuẩn” về sự tăng trọng của trẻ khá cao so với thực tế. Rất nhiều người làm cha, mẹ luôn băn khoăn, cố phấn đấu để con mình đạt chỉ tiêu “trọng lượng chuẩn” bằng cách cho con ăn thật nhiều, thật bổ, khiến rất nhiều trẻ mà tôi biết rất rõ: Trọng lượng đạt chỉ tiêu, nhưng đờ đẫn, nặng nề, chậm chạp, rất chậm biết nói, thậm chí đần độn! Họ không hiểu rằng như thế là đã vô tình đầu độc, rút ngắn cuộc đời đứa con thân yêu của mình lại!
“Con đường dẫn đến nấm mồ thường được trải hương hoa của tình yêu thương” là thế!
b. Trẻ từ sơ sinh đến một năm tuổi
Trong suốt 20 đến 30 giờ sau khi sinh, cứ để cho trẻ ngủ, không nên cho ăn uống bất cứ thứ gì là tốt nhất. Tạo hóa đã dự trữ sẵn, đầy đủ chất dinh dưỡng cho hài nhi rồi, không cần ăn uống trong khoảng thời gian ấy!
Sau đó chỉ nên cho trẻ ăn sữa mẹ, vì sữa đầu có giá trị dinh dưỡng rất cao (đầy đủ mọi chất khoáng, vitamin), rất dễ tiêu, nhiều kháng thể giúp trẻ đề kháng với các mầm bệnh trong thời gian đầu hệ miễn dịch chưa hoàn thiện.
Nếu thiếu sữa, người mẹ nên chú ý điều chỉnh chế độ ăn uống cho hợp lý, đặc biệt cần ăn cơm hoặc bột gạo lứt, nếp lứt, miến lứt... Nên ăn với tương (tamari hay tương cổ truyền lâu năm), sẽ rất bổ, nên sớm có sữa và sữa rất tốt.
Phải cố cho trẻ thơ bú sữa mẹ, dù sữa của người mẹ đã lớn tuổi hay ốm yếu vẫn tốt hơn nhiều lần so với sữa bò!
Trong trường hợp bất khả kháng thì người mẹ phải “hy sinh” bằng cách uống sữa bò để có sữa cho con bú, nhưng tốt nhất hãy cho trẻ ăn sữa thảo mộc Kokkoh được chế biến từ các loại hạt cốc rang kỹ, tinh bột đã chuyển sang dạng dextrin rất dễ tiêu, nên hài nhi có thể ăn sữa này ngay sau khi sinh. Sữa này có bán tại các cửa hàng thực dưỡng Ohsawa, (xem Phụ lục 4). Tuyệt đối không cho trẻ sơ sinh (và cả sau này nữa) bú sữa bò!
Để có nhiều sữa cho con bú, sản phụ không nên ăn hoa quả, tuy sẽ có nhiều sữa nhưng loãng, giá trị dinh dưỡng rất thấp. Càng không nên ăn nhiều thịt, trứng và uống thuốc bổ, vì có thể “sinh nhiệt”, làm mất sữa thêm!
Một số nghiên cứu gần đây còn cho thấy: Ăn nhiều sữa bò và các sản phẩm của nó sẽ có hại cho đường tiêu hóa, hô hấp (viêm họng, xoang, phế quản,...) thậm chí viêm não! Kinh nghiệm bản thân tôi thấy rất rõ: Những người bệnh, nhất là trẻ nhỏ bị viêm xoang, viêm đường hô hấp phần lớn là do ăn nhiều sữa bò và các sản phẩm của sữa!
Điều cực kỳ quan trọng, rất ít người để ý đến là: Khi được mẹ âu yếm, nâng niu, vỗ về, trìu mến, vuốt ve... trước lúc cho bú, trẻ sẽ có những thay đổi sinh lý đặc biệt: Nhịp tim chậm lại, hệ cơ chùng ra, cảm giác hỷ lạc lan tỏa, hệ tiêu hóa tiết dịch chuẩn bị cho sự tiêu hóa... Những biến đổi đó tạo nên mối liên hệ sâu thẳm, vô hình giữa trẻ và mẹ. Nếu không có những biểu hiện ấy, thì sự liên hệ tốt đẹp không thể thiết lập được. Lớn lên trẻ chẳng thể có tình cảm tốt đẹp với đồng loại. Loài người sẽ suy thoái không biết thế nào mà lường!
Mặt khác, cho con bú thì bản thân người mẹ sẽ rất có lợi: Thân hình mau chóng thon gọn, săn chắc lại, thêm phần duyên dáng sau thời gian mang thai cơ thể to bè ra; tình cảm giữa mẹ và con càng phát triển và tốt đẹp hơn.
Chính vì vậy, chỉ có những người mẹ quá ích kỷ đến mức nhẫn tâm cộng với ngu muội, mới không cho con bú lâu dài! Đáng buồn là, những phụ nữ càng hấp thu nền giáo dục hiện đại bao nhiêu càng muốn cho con thôi bú sớm bấy nhiêu để trẻ phải ăn sữa bò!
Nên cho trẻ thơ bú đến khi mọc răng (khoảng trên dưới một năm tuổi), mọc răng là tín hiệu báo rằng cơ thể trẻ đã tự ăn được, nếu tiếp tục cho bú, trẻ sẽ trở nên bạc nhược, kém ý chí, ích kỷ, trái nết, thường hay làm phiền người khác!
c. Trẻ từ sau 1 tuổi
Trẻ được nuôi dưỡng đúng phép Âm - Dương thường nhỏ, tuy chậm biết đi hơn những trẻ khác, nhưng cơ thể rắn chắc, tính tình điềm tĩnh, nhanh nhẹn và nhạy cảm.
Thậm chí trẻ chậm biết đi là tốt, vì để năng lượng tập trung cho sự phát triển não bộ. Ngược lại biết đi sớm và đi nhiều thì năng lượng sẽ dành cho hai chân chứ không cho bộ não! (xem lại Chương 3, mục IV - 4 và 5).
Từ 6 tuổi trở đi trẻ sẽ tăng trưởng nhanh theo nhịp độ bình thường như những đứa khác.
Nếu người mẹ ăn ở tốt lành, trong lúc mang thai và khi đứa trẻ ra đời được nuôi dưỡng đúng cách thì đến 6 tuổi trẻ tự biết thức ăn nào là thích hợp cho nó, và rất ít khi ăn quá mức cần thiết. Nếu đưa đường trắng vào miệng, trẻ sẽ phun ngay ra. Đưa vài ba loại trái cây, trẻ sẽ tự chọn loại nào Dương tính nhất để ăn mà không bao giờ nhầm lẫn. Bản năng trực giác tự nhiên sẽ giúp trẻ tự chọn đúng thức ăn có lợi nhất cho nó.
Điều này hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, vì các loài vật từ nhỏ luôn sống thuận theo tự nhiên, nên có bản năng tuyệt vời: Phân biệt thức ăn tốt hay xấu, loại nào nên ăn hoặc không nên ăn, ăn đến đâu thì dừng, khi bị bệnh biết tự tìm thuốc để chữa.
Người ta làm thí nghiệm: Đưa hai củ cà rốt có hình dạng, màu sắc giống hệt nhau, trong đó một củ đã dùng phương pháp tinh vi rút bớt vitamin A ra, cho con thỏ, thì thỏ sẽ chọn ngay củ có nhiều vitamin hơn để ăn!
Điều vô cùng quan trọng phải nhớ là, không vì bất cứ lý do nào lại cho trẻ dưới 5 tuổi ăn thịt! Vì trẻ em thuộc Dương tính, nên ăn thảo mộc (hơi Âm tính) để quân bình, lại dễ tiêu, chóng lớn, nên đó là việc cần thiết và rất hợp lý! Nếu cho ăn quá nhiều thức ăn Dương tính như thịt, trứng thì cơ thể săn chắc lại, trẻ sẽ chậm lớn, thậm chí sau này quá nhỏ thó!
Mặt khác, thực phẩm có nguồn gốc động vật, là thức ăn có nhiều lực tĩnh, lực của sự đần độn, trì trệ, thối rữa và chết chóc! Trái lại thức ăn có nguồn gốc thực vật chứa nhiều lực tri giác, sự tự tri, tình thương, sự an bình trong sáng và niềm vui (xem Chương 1, mục III).
Tốt nhất nên cho trẻ ăn thuần chay ít nhất đến 15 – 16 tuổi để phát triển tối đa năng lực trí tuệ! Và, khi đủ trí tuệ thì trẻ sẽ chẳng “dại” gì mà ăn thịt!
Trong gia đình thực dưỡng (Hội những người ăn, uống theo nguyên lý vô song vũ trụ) có nhiều cháu nhỏ ra đời khi cha mẹ chúng áp dụng đúng phương pháp ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương từ trước, trong khi mang thai và cả sau này, thì các cháu rất khỏe mạnh, chẳng hề ốm đau, luôn nhanh nhẹn, hoạt bát, yêu đời, ngoan ngoãn, thông minh... hơn hẳn những trẻ khác cùng trang lứa(*).
(*) Bạn đọc có thể hỏi anh Nguyễn Thanh Loa, thường gọi là Ba Loa, số ĐT: 0986140019, ở ấp Tây Bắc, xã Tân Hòa, huyện Tân Thanh, tỉnh Long An, hoặc hỏi những người trong hội Thực dưỡng để tìm hiểu, sẽ rõ.
Từ khi lọt lòng, việc nuôi dưỡng của mẹ sẽ ảnh hưởng quyết định đến cuộc đời đứa trẻ sau này: Trẻ nhỏ ăn nhiều đồ ngọt (Âm tính cao), lớn lên dễ bị liệt dương, lãnh cảm, khó có con. Nếu ăn nhiều thức ăn thuần Dương (thịt, trứng...) lớn lên trẻ sẽ độc ác, hung bạo trong quan hệ tình dục!
Và khốn khổ nhất là những người ăn hỗn tạp cả những thức ăn quá Dương như thịt, trứng, phô mai mặn với những thức ăn quá Âm như đường, sữa, cà phê, sô-cô-la, rượu, nhất là thực phẩm tinh chế có xử lý hóa chất, hoặc dùng nhiều thuốc tân dược... thì suốt đời chẳng thể được hưởng lạc thú đích thực của tình yêu!
Việc ăn uống, đặc biệt nuôi con theo khoa học Tây phương rất chi tiết, tốn kém, thậm chí rất phiền toái! Trong khi theo minh triết của phương Đông, vấn đề lại rất đơn giản, dễ dàng nên nhiều người không hiểu biết đã cho rằng như thế là không “khoa học” và không đảm bảo cho cơ thể trẻ phát triển tốt.
Điều này thiên nhiên đã giải đáp rất rõ ràng, rành mạch, tường tận... từ trước khi xuất hiện bóng dáng loài người trên hành tinh này: Các loài vật sống vô cùng đơn giản, hoàn toàn thuận theo tự nhiên, chỉ ăn uống những thứ sẵn có, nhưng chúng luôn luôn khỏe mạnh, nhởn nhơ vui đùa!
Những người trong hoàn cảnh nghèo khó, chỉ ăn uống đạm bạc, gần với thiên nhiên nhưng có bao giờ ốm đau sầu não như những người hiện đại và giàu có đâu? Rất dễ thấy là, nước ta trong nhiều thập niên chiến tranh gian khổ, thiếu thốn mọi bề, nhưng không khi nào nhiều bệnh tật, bệnh nan y như bây giờ khi mà đời sống vật chất được nâng cao rõ rệt!
Câu ngạn ngữ “Gỗ quý không mọc trên đất phì nhiêu” rất đáng để loài người trong xã hội hiện đại suy ngẫm!
Do vậy, muốn cho đứa con sau này lớn lên, có đủ khả năng đảm đương mọi việc, cha mẹ cần hiểu biết để nuôi dưỡng trẻ trong điều kiện đơn giản, càng gần với tự nhiên càng tốt!