• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Người biến mất
  3. Trang 45

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 44
  • 45
  • 46
  • More pages
  • 60
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 44
  • 45
  • 46
  • More pages
  • 60
  • Sau

Chương ba mươi chín

E

m đang lục soát từng cánh cửa một, Rhyme. Cánh cuối cùng của khu tầng hầm.”

“Hãy để Đội Khẩn cấp lo.” Anh thấy đầu mình vươn về phía trước hết sức khi anh nói vào micro.

“Chúng ta cần tất cả mọi người,” Sachs thì thầm. “Đây là một tòa nhà lớn kinh khủng.” Cô đang ở trong khu Hầm mộ ngay lúc này, lần mò tìm đường qua những hành lang. “Đáng sợ nữa. Giống như ở trường Âm nhạc.”

Ngày càng bí ẩn hơn…

“Một ngày nào đó anh phải thêm một chương vào cuốn sách của anh về việc xử lý những hiện trường tội ác ở những nơi rờn rợn,” cô đùa để bớt bồn chồn lo lắng. “Được rồi, giờ em sẽ im lặng đây, Rhyme. Em sẽ gọi anh sau.”

Rhyme và Cooper trở lại với các bằng chứng. Ở hành lang trên lối vào các phòng giam trong khu Hầm mộ, Sachs đã phát hiện ra lưỡi dao lam và những mảnh xương bò và miếng xốp màu xám – để làm giả xương sọ và não – cũng như những mẫu máu giả: si-rô với phẩm màu đỏ. Gã đã sử dụng áo khoác hay áo phông để lau sạch tối đa máu thật dưới sàn nhà và trên chiếc còng, nhưng Sachs đang xử lý hiện trường cẩn thận hơn bao giờ hết và cô đã khôi phục đủ một mẫu để phân tích. Gã mang theo chìa khóa và đồ phá khóa mà gã sử dụng để mở còng. Không còn bằng chứng nào có ích ở hiện trường hành lang.

Chiếc tủ của người lao công ở dưới lầu nơi gã thực hiện màn biến y mang lại nhiều thứ hơn – một chiếc túi giấy lớn trong đó gã giấu quả pháo và bóng đựng máu giả và những gì gã mặc khi họ bắt giữ gã ở chỗ của Grady: bộ vest xám, chiếc áo sơ-mi trắng gã đã sử dụng để lau chùi và một đôi giày doanh nhân kiểu Oxford. Cooper đã tìm thấy bằng chứng dấu vết đáng kể trên những đồ vật đó: thêm cao su và đồ trang điểm, những mảnh sáp dính của ảo thuật gia, những vết mực giống với vết họ đã tìm được trước đó, những sợi ni-lông dày và các vết ố của máu giả nhiều hơn.

Những sợi đó hóa ra là thảm màu xám tro. Máu giả là sơn. Bộ dữ liệu họ tiếp cận không cung cấp bất kỳ thông tin nào về những chất liệu đó, nên anh gửi phân tích hợp chất hóa học và các bức ảnh cho FBI, với yêu cầu truy nguồn gốc khẩn cấp.

Rồi Rhyme nảy ra một ý. “Kara,” anh gọi, thấy cô gái đang ngồi cạnh Mel Cooper, xoay một đồng hai mươi lăm xu giữa các ngón tay lúc cô nhìn trừng trừng vào hình ảnh máy tính trên của một vật hình sợi. “Cô giúp chúng tôi một chuyện được không?”

“Chắc chắn rồi.”

“Cô có thể tới Cirque Fantastique và tìm Kadesky không? Nói với ông ấy về vụ vượt ngục xem ông ta có thể nhớ ra điều gì khác về Weir không. Bất kỳ màn ảo thuật nào mà gã đặc biệt thích, những nhân vật hay hóa trang mà gã diễn đi diễn lại, kiểu tiết mục nào gã thường lặp lại nhất… Bất kỳ điều gì cho chúng ta chút thông tin về việc trông gã có thể ra sao.”

“Có thể ông ấy có vài bức ảnh cũ của Weir khi mặc đồ hóa trang,” cô nói, đeo chiếc túi trắng đen lên vai.

Anh nói với cô rằng đó là một ý hay rồi trở lại với sơ đồ bằng chứng, điều vẫn là sự xác thực cho nhận xét trước đó của anh: họ càng thấy được nhiều, họ càng biết ít.

GÃ PHÙ THỦY

Hiện trường tội ác trường Âm nhạc

• Mô tả nghi phạm: Tóc nâu, râu giả, không có gì nổi bật, tầm vóc trung bình, chiều cao trung bình, tuổi: ngoài năm mươi. Ngón tay đeo nhẫn và ngón út dính với nhau. Thay đồ nhanh để giống một người gác cổng lớn tuổi, hói đầu.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nạn nhân: Svetlana Rasnikov.

• Sinh viên âm nhạc toàn thời gian

• Kiểm tra gia đình, bạn bè, các sinh viên, đồng nghiệp để có thêm đầu mối khả dĩ.

• Không có bạn trai, không có kẻ thù. Trình diễn ở tiệc sinh nhật cho trẻ em.

• Bảng mạch điện tử có gắn loa.

• Đã gửi cho phòng thí nghiệm FBI, thành phố New York.

• Máy ghi âm kỹ thuật số, có thể chứa giọng nói của nghi phạm. Mọi dữ liệu đã bị hủy.

• Đoạn ghi âm là một “mánh.” Tự làm.

• Sử dụng còng tay sắt kiểu cũ để còng nạn nhân.

• Còng tay là loại Darby. Scotland Yard. Kiểm tra với Bảo tàng Houdini ở New Orleans để có thêm đầu mối.

• Phá hủy đồng hồ của nạn nhân vào đúng 8 giờ sáng.

• Dây vải giữ ghế. Loại thường. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Pháo tạo ra hiệu ứng tiếng súng. Đã bị hủy. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Dây dẫn cháy. Loại phổ biến. Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Cảnh sát hiện trường cho biết có đèn nháy trong không trung. Không tìm thấy vật liệu liên quan.

• Là vải chớp sáng hoặc giấy chớp sáng.

• Quá nhiều nguồn cung cấp.

• Giày của nghi phạm: hiệu Ecco cỡ 10.

• Sợi tơ, nhuộm màu xám, đã xử lý để trở nên mờ xỉn.

• Từ bộ đồ người gác cổng thay nhanh.

• Đối tượng có thể đội tóc giả màu nâu.

• Gỗ hồ đào đỏ và địa y Parmelia, được tìm thấy chủ yếu ở công viên Trung Tâm.

• Bụi có dính dầu khoáng khác thường. Đã gửi cho FBI để phân tích.

• Dầu Tack-Pure dùng cho yên cương và da

• Mảnh lụa đen, 1,8 x 1,2 mét. Được dùng làm vật ngụy trang. Không thể truy nguồn gốc.

• Các ảo thuật gia thường xuyên sử dụng.

• Đeo bọc ngón tay của ảo thuật gia để giấu vân tay.

• Dấu vết cao su, dầu thầu dầu, mỹ phẩm.

• Đồ hóa trang cho sân khấu.

• Dấu vết alginate.

• Sử dụng trong các “thiết bị” tạo khuôn cao su.

• Vũ khí giết người: dây thừng lụa trắng với lõi là lụa đen.

• Sợi thừng là một trò ảo thuật. Màu sắc thay đổi. Không truy được nguồn gốc.

• Nút thắt khác thường.

• Đã được gửi cho FBI và Bảo tàng Hàng hải – không có thông tin gì.

• Các nút thắt giống những màn trình diễn của Houdini, gần như không thể cởi ra.

• Dùng mực vô hình trong sổ đăng ký.

Hiện trường tội ác ở East Village

• Nạn nhân thứ hai: Tony Calvert.

• Nghệ sĩ trang điểm, đoàn kịch.

• Không có kẻ thù.

• Có vẻ không có liên hệ gì với nạn nhân thứ nhất.

• Không có động cơ rõ ràng.

• Nguyên nhân tử vong:

• Vết thương do vật cùn đập vào đầu, sau đó cơ thể bị cắt ra khi đã chết bằng cưa tay.

• Hung thủ trốn thoát giả làm một phụ nữ ngoài bảy mươi. Kiểm tra khu vực lân cận xem có đồ hóa trang bị bỏ đi và các bằng chứng khác không.

• Không tìm thấy gì.

• Đồng hồ bị đập bể chính xác lúc 12 giờ.

• Có thể là mô thức không? Nạn nhân tiếp theo có thể bị hại vào 4 giờ chiều.

• Hung thủ trốn đằng sau tấm gương. Không thể truy nguồn gốc. Vân tay đã được gửi cho FBI.

• Không có vân tay nào khớp.

• Sử dụng mèo đồ chơi (“feke”) để dụ nạn nhân vào con hẻm. Món đồ chơi không thể truy nguồn gốc.

• Tìm thấy thêm dầu khoáng, giống với ở hiện trường thứ nhất. Đang đợi báo cáo của FBI.

• Dầu Tack-Pure cho yên cương và da.

• Tìm thấy thêm cao su và đồ trang điểm từ những miếng bịt ngón tay.

• Tìm thấy thêm alginate.

• Để lại giày Ecco.

• Tìm thấy lông chó trên giày, từ ba giống chó khác nhau. Cả phân nữa.

• Là phân ngựa, không phải phân chó.

Hiện trường tội ác sông Hudson và những khu vực liên quan

• Nạn nhân: Cheryl Marston.

• Luật sư.

• Ly dị nhưng chồng cũ không phải là nghi can.

• Không có động cơ.

• Nghi phạm nói tên là “John.” Có sẹo ở cổ và ngực. Bàn tay dị dạng được xác nhận.

• Nghi phạm thay đồ nhanh thành một doanh nhân không có râu mặc quần tây và áo sơ- mi dài tay, rồi một tay đi mô-tô mặc áo phông Harley vải bò.

• Chiếc xe đã xuống sông Harlem. Nghi phạm có thể đã trốn thoát.

• Keo dán để bịt miệng. Không truy được nguồn gốc.

• Pháo giống như lần trước. Không truy được nguồn gốc.

• Dây xích và khóa, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Dây thừng, loại phổ biến, không truy được nguồn gốc.

• Thêm đồ trang điểm, cao su và dầu Tack-Pure.

• Túi tập thể dục, sản xuất ở Trung Quốc, không truy được nguồn gốc. Bao gồm:

• Dấu vết của loại thuốc dùng trong những vụ hiếp dâm flunitrazepam.

• Sáp dính của ảo thuật gia, không truy được nguồn gốc.

• Dăm đồng (?). Đã gửi cho FBI.

• Nhất quán với máy trong đồng hồ. Có thể là thiết bị bom hẹn giờ.

• Mực không phai, màu đen.

• Tìm thấy áo gió màu xanh hải quân, không có chữ viết tắt hay ký hiệu của tiệm giặt ủi. Bao gồm:

• Thẻ phóng viên của kênh truyền hình cáp CTN, thẻ của Stanley Saferstein. (Anh ta không phải là nghi phạm – tìm kiếm trên NCIC, VICAP không cho ra kết quả.)

• Thẻ chìa khóa khách sạn bằng nhựa, American Plastic Cards, Akron, Ohio. Mẫu APC- 42, không có dấu vân tay.

• CEO đang tìm hồ sơ bán hàng.

• Các cảnh sát Bedding và Saul đang lùng các khách sạn.

• Khoanh lại còn các khách sạn Chelsea Lodge, Beckman và Lanham Arms. Vẫn đang kiểm tra

• Hóa đơn nhà hàng ở Riverside Inn, Bedford Junction, NY, cho thấy có bốn người ăn trưa, bàn 12, ngày thứ Bảy, hai tuần trước. Gà tây, bánh thịt xay, bít-tết, món đặc biệt trong ngày. Nước ngọt. Nhân viên nhà hàng không biết khách ăn là ai. (Đồng phạm?)

• Con hẻm nơi Gã phù thủy bị bắt.

• Phá khóa còng tay.

• Nước bọt (đồ phá khóa giấu trong miệng).

• Không xác định được nhóm máu.

• Dao cạo nhỏ để thoát khỏi dây trói (cũng được giấu trong miệng).

• Không biết cảnh sát Burke đang ở đâu.

• Có tin thi thể ở đâu đó thuộc khu Upper West Side.

Hiện trường sông Harlem:

• Không có bằng chứng, trừ dấu trượt trên bùn.

• Tờ báo lấy từ chiếc xe. Các dòng tít:

Cúp điện. Đóng đồn cảnh sát gần 4 tiếng

New York trước Đại hội Đảng Cộng hòa

Phụ huynh biểu tình vì an ninh yếu kém ở trường nữ sinh

Âm mưu giết người của lực lượng dân quân. Phiên tòa bắt đầu hôm thứ Hai

Lễ hội cuối tuần ở MET quyên tiền cho từ thiện

Giải trí mùa xuân cho trẻ em

Thống đốc, thị trưởng họp về kế hoạch mới cho khu West Side.

Hiện trường tội ác vụ Lincoln Rhyme

• Nạn nhân: Lincoln Rhyme.

• Nhân thân nghi phạm: Erick A. Weir.

• LKA Las Vegas.

• Bị bỏng trong vụ hỏa hoạn ở Ohio từ ba năm trước. Gánh xiếc Hasbro và Keller Brothers. Biến mất sau đó. Bỏng độ ba. Nhà sản xuất là Edward Kadesky.

• Bị kết án ở New Jersey vì bất cẩn gây nguy hiểm cho người khác.

• Ám ảnh với lửa.

• Điên loạn. Nói tới “quý khán giả thân mến.”

• Biểu diễn những màn nguy hiểm.

• Đã kết hôn với Marie Cosgrove, thiệt mạng trong vụ hỏa hoạn.

• Không liên lạc với gia đình cô ấy kể từ đó.

• Cha mẹ đã chết, không có người thân trực hệ.

• Không có trong hồ sơ của VICAP hay NCIC.

• Tự gọi mình là “Phù thủy phương Bắc.”

• Tấn công Rhyme để ngăn anh trước chiều thứ Bảy. (Nạn nhân tiếp?)

• Màu mắt – nâu.

• Hồ sơ tâm lý học (theo Terry Dobyns, NYPD): Sự báo thù tạo động cơ cho gã dù gã có thể không nhận ra. Gã muốn tính toán sòng phẳng. Lúc nào cũng tức giận. Bằng cách giết người, gã làm giảm bớt đôi chút sự đau đớn vì cái chết của vợ, sự mất mát khả năng biểu diễn.

• Weir gần đây đã liên lạc với các trợ lý: John Keating và Arthur Loesser, ở Nevada. Hỏi về vụ hỏa hoạn và những người có liên quan. Mô tả Weir là điên dại, độc đoán, loạn trí, nguy hiểm, nhưng tài năng.

• Liên lạc với cựu giám đốc lúc xảy ra vụ hỏa hoạn, Edward Kadesky.

• Giết nạn nhân vì điều mà họ đại diện cho – có thể là những khoảnh khắc hạnh phúc hay bi kịch trước trận hỏa hoạn.

• Chiếc khăn tay đẫm xăng, không truy được nguồn gốc.

• Giày Ecco, không truy được nguồn gốc.

Hiện trường vụ vượt ngục ở Trung tâm Giam giữ

• Pháo ném và túi máu làm giả vết thương – tự làm, không có nguồn gốc.

• Máu nhân tạo (si-rô + phẩm màu đỏ), những mảnh vụn xương bò, bọt biển màu xám làm giả não, máu thật, dao lam.

• Khẩu Glock của cảnh sát ở Trung tâm Giam giữ.

• Còng tay.

• Nỗ lực lau sạch vết máu bất thành.

• Thêm các mảnh cao su và đồ trang điểm, giống các hiện trường trước.

• Sáp dính.

• Mực không xóa được, màu đen, giống với những gì tìm thấy trước đó.

• Máu nhân tạo đã khô (sơn), đã gửi cho FBI.

• Sợi thảm, đã gửi cho FBI.

Hồ sơ về ảo thuật gia

• Nghi phạm sẽ sử dụng việc đánh lạc hướng để đối phó với nạn nhân và che mắt cảnh sát.

• Đánh lạc hướng về vật lý (để gây phân tâm).

• Đánh lạc hướng về tâm lý (để loại trừ sự nghi ngờ).

• Trốn thoát ở trường Âm nhạc giống với màn biểu diễn ảo thuật Người biến mất. Quá phổ biến để truy ra nguồn gốc.

• Nghi phạm về cơ bản là một ảo thuật gia.

• Giỏi trò nhanh tay lẹ mắt.

• Cũng biết ảo thuật biến y (thay đồ nhanh). Sẽ sử dụng quần áo có khớp nối, ni-lông và lụa, mũ bịt đầu giả hói, bịt ngón tay và các thiết bị cao su khác. Có thể thuộc bất kỳ độ tuổi, giới tính hay chủng tộc nào.

• Cái chết của Calvert mô phỏng màn trình diễn Cắt một phụ nữ làm đôi của Selbit.

• Giỏi mở khóa (có thể là mở khóa “hàng loạt”).

• Biết các kỹ thuật trốn thoát.

• Có kinh nghiệm ảo thuật với động vật.

• Sử dụng thuật thao túng tâm lý để có thông tin về nạn nhân.

• Sử dụng thuật nhanh tay lẹ mắt để bỏ thuốc cô ấy.

• Cố gắng giết nạn nhân thứ ba với màn trốn thoát của Houdini. Ngục nước.

• Biết thuật nói tiếng bụng.

• Những lưỡi dao lam.

• Quen thuộc với trò Tấm gương cháy. Rất nguy hiểm, ngày nay hiếm khi được biểu diễn.

Rạp Cirque Fantastique đã sống động trở lại, một tiếng trước màn biểu diễn buổi tối.

Kara đi qua tấm băng-rôn Arlecchino và để ý thấy một chiếc xe cảnh sát mà Lincoln Rhyme đã ra lệnh ở lại sau cơn hoảng loạn vào buổi chiều. Cảm thấy sự thân thiết với họ từ khi bản thân cô cũng chơi trò cảnh sát, cô mỉm cười và vẫy tay với hai sĩ quan, những người, dù không biết cô, vẫn vẫy tay lại.

Hiện chưa có người soát vé nên Kara lang thang vào trong và đi ra sau sân khấu. Cô để ý thấy một người đàn ông trẻ tuổi đang cầm một kẹp hồ sơ. Một tấm thẻ nhân viên giắt trên thắt lưng anh ta giống như khẩu súng của Amelia.

“Phiền anh,” cô nói.

“Vâng?” Anh ta đáp bằng giọng đậm kiểu Pháp hoặc Pháp - Canada.

“Tôi tìm ông Kadesky.”

“Ông ấy giờ không có ở đây. Tôi là một trong các trợ lý của ông ấy.”

“Ông ấy đâu?”

“Không có ở đây. Cô là ai?”

“Tôi làm việc cho cảnh sát. Ông Kadesky đã gặp họ trước đó. Họ có thêm một số câu hỏi cho ông ấy.”

Người đàn ông trẻ tuổi liếc nhìn ngực cô, dù không cần thiết, để tìm thẻ phù hiệu.

“Ừ hử. A. Cảnh sát. Ông ấy đi ăn tối. Ông ấy sẽ sớm trở lại.”

“Anh có biết ông ấy ăn ở đâu không?” cô hỏi.

“Không. Cô phải ra khỏi đây. Cô không được vào trong này.”

“Tôi chỉ cần gặp ông ấy...”

“Cô có vé không?”

“Không, tôi...”

“Vậy thì cô không thể đợi. Cô phải ra khỏi đây. Ông ấy chẳng nói gì về cảnh sát cả.”

“Tôi thật sự cần gặp ông ấy,” cô nói một cách cương quyết với người đàn ông điển trai có vẻ ngoài xứ Gô-loa và tính khí lạnh lùng.

“Thật sự, cô phải đi ra. Cô có thể đợi ông ấy bên ngoài.”

“Tôi có thể bỏ lỡ ông ấy.”

“Tôi sẽ phải gọi bảo vệ,” anh ta đe dọa bằng giọng có ngữ điệu nặng nề. “Tôi sẽ gọi đấy.”

“Tôi sẽ mua vé,” cô nói.

“Bán hết rồi. Và ngay cả nếu cô có mua được vé cô cũng không được vào trong này. Tôi sẽ đưa cô ra.”

Anh ta dẫn cô ra ngoài cửa chính, nơi những người soát vé đang làm việc. Ở bên ngoài cô dừng lại và chỉ qua vai anh ta về phía một chiếc xe kéo với một tấm bảng trên đó, NƠI BÁN VÉ. “Tôi có thể mua vé ở đó hả?”

Một sự khinh thị thoáng xẹt qua mặt anh ta. “Đó là quầy vé. Nhưng như tôi đã nói, không còn vé nào đâu. Cô có thể gọi cho công ty của ông Kadesky nếu cô cần hỏi ông ấy chuyện gì đó.”

Sau khi anh ta đã đi, Kara đợi một lát, rồi rẽ qua góc lều và đi về phía lối vào sân khấu ở phía sau. Cô mỉm cười với tay bảo vệ và anh ta mỉm cười lại, chỉ liếc qua thắt lưng cô, nơi giờ đã có tấm thẻ của tay nhân viên Pháp - Canada, mà cô đã dễ dàng lấy ra khỏi thắt lưng anh ta khi cô chỉ và hỏi câu hỏi khá ngu xuẩn, nhưng giúp đánh lạc hướng tốt về quầy vé.

Nhớ quy tắc đấy nhé, cô nghĩ: Đừng bao giờ giỡn mặt với một người biết trò nhanh tay lẹ mắt.

Lúc đã ở trong phần sau sân khấu của khu lều lần nữa, cô giấu tấm phù hiệu vào túi và tìm được một nhân viên thân thiện hơn. Người phụ nữ này, Katherine Tunney, gật đầu cảm thông khi Kara giải thích những gì cô đang làm ở đó – rằng một cựu ảo thuật gia đang bị truy nã vì giết người đã được xác định là người mà ông Kadesky từng làm việc cùng từ rất lâu rồi. Người phụ nữ đã nghe nói tới những vụ giết người và mời Kara đợi tới khi nhà sản xuất quay lại sau bữa tối. Katherine cho Kara một tấm thẻ để ngồi trong một ghế VIP rồi bỏ đi làm việc lặt vặt, hứa rằng cô ta sẽ báo với bảo vệ để đảm bảo là ông Kadesky tới gặp Kara ngay khi ông ấy trở lại.

Trên đường đi ra chỗ ngồi, máy nhắn tin của cô reo lên một tiếng bíp khẩn cấp.

Cô thở gấp khi nhìn thấy số điện thoại, chạy tới một trụ điện thoại trả tiền, tay vẫn run rẩy, thực hiện cuộc gọi.

“Stuyvesant Manor,” bên kia đầu dây nói.

“Xin cho gặp Jaynene Williams.”

Một khoảng đợi dài.

“Chào?”

“Là tôi đây. Kara. Mẹ tôi không sao chứ?”

“Ồ, bà ấy ổn, cô bé. Nhưng tôi muốn nói với cô là – đừng hy vọng nhiều quá. Có thể sẽ chẳng được gì đâu. Nhưng vài phút trước, bà ấy tỉnh giấc và hỏi cô. Bà ấy biết hiện là tối Chủ nhật và bà ấy nhớ trước đó cô có ghé qua.”

“Ý chị là nhớ ‘tôi’, thực sự là tôi ấy hả?”

“Phải, tên thật của cô. Rồi bà ấy nhíu mày và nói, ‘Trừ khi bây giờ nó chỉ còn gọi nó bằng cái nghệ danh điên khùng đó, Kara.’”

Chúa ơi… Có khi nào bà đã minh mẫn trở lại?

“Và bà ấy nhớ tôi và hỏi xem cô ở đâu. Nói bà ấy có chuyện muốn kể với cô.”

Tim Kara đập mạnh.

Có chuyện muốn kể…

“Tốt hơn là tới đây sớm đi, cô bé. Có thể mọi chuyện ổn. Nhưng có thể không. Cô biết rồi đấy.”

“Tôi đang mắc kẹt một việc, Jaynene. Tôi sẽ tới đó ngay khi có thể.”

Họ gác máy và bấn loạn, Kara trở lại chỗ ngồi của cô. Sự căng thẳng tới mức không thể chịu nổi. Ngay lúc này mẹ cô có thể đang hỏi con gái bà ở đâu. Nhíu mày và thất vọng vì cô bé không có ở đó.

Xin làm ơn, cô cầu nguyện, lại nhìn về phía lối vào đợi Kadesky.

Vẫn không có gì.

Cô ước gì mình có thể chạm vào một cây đũa phép bằng gỗ hồ đào trên hàng rào kim loại méo mó trước mặt cô, chĩa nó vào cửa và làm tay sản xuất chương trình hiện ra ở đó.

Xin làm ơn, cô lại nghĩ, nhắm chiếc đũa thần tưởng tượng về phía lối vào. Làm ơn…

Lúc này vẫn không có gì. Rồi vài bóng người bước vào. Nhưng không có ai là Kadesky. Họ chỉ là ba phụ nữ mặc trang phục thời trung cổ và đeo mặt nạ mà biểu cảm bi thương trên khuôn mặt trái ngược với bước chân rộn rã của những diễn viên sắp sửa bắt đầu màn trình diễn buổi tối của họ.

***

Roland Bell đang đứng trong một tại những vực sâu của khu trung tâm Manhattan: đường Centre nằm giữa tòa nhà to lớn, ảm đạm trụ sở Tòa án Hình sự, trên đầu là cầu Than Thở, và một tòa nhà văn phòng không tên tuổi bên kia đường.

Vẫn không thấy dấu hiệu gì về chiếc Volvo của Charles Grady.

Anh lại xoay tròn như hải đăng lần nữa. Ở đâu, ở đâu, ở đâu?

Một tiếng còi vang lên bên cạnh, hướng lối vào cây cầu. Một tiếng hét.

Bell quay lại và bước vài bước về phía âm thanh đó, tự nhủ: Đánh lạc hướng chăng?

Nhưng không, đó chỉ là một vụ cãi cọ trên đường phố.

Anh quay lại, về phía lối vào tòa nhà Tòa án Hình sự, và thấy mình đang nhìn thẳng vào Charles Grady, người đang lững thững đi bộ dọc con đường, cách đó một dãy nhà. Tay công tố viên đang đi, cúi đầu xuống, chìm đắm trong suy nghĩ. Viên thanh tra chạy thật nhanh tới chỗ người đàn ông đó, kêu lên, “Charles! Nằm xuống! Weir đã trốn thoát!”

Grady dừng lại, nhíu mày.

“Nằm xuống!” Bell gọi không kịp thở.

Người đàn ông vừa được cảnh báo khom người xuống vỉa hè, giữa hai chiếc xe đang đỗ. “Có chuyện gì?” Anh hét lên. “Gia đình tôi!”

“Tôi đã đưa người tới chỗ họ,” viên thanh tra nói. Rồi anh nói với các khách bộ hành: “Tất cả mọi người! Cảnh sát đang làm việc! Rời khỏi con đường này ngay!”

Mọi người ngay lập tức tản ra.

“Gia đình tôi!” Grady kêu lên tuyệt vọng. “Anh chắc chứ?”

“Họ không sao.”

“Nhưng Weir...”

“Một vụ nổ súng giả trong trại tạm giam. Gã trốn ra và đang ở đâu đó quanh đây. Tôi đang cử một xe chống đạn tới.”

Lại quay lại, nheo mắt, anh quan sát hiện trường.

Roland Bell cuối cùng với tay sang chỗ Grady và đứng lên phía trên anh, lưng quay về cửa sổ tối đen của tòa nhà chính phủ bên kia đường.

“Ở yên chỗ đó, Charles,” Bell nói. “Chúng ta sẽ rời khỏi đây an toàn.” Và lôi chiếc bộ đàm khỏi thắt lưng của anh.

***


Chuyện gì vậy?

Hobbs Wentworth dõi theo mục tiêu của hắn phía dưới – tay công tố viên – đang lom khom trên vỉa hè đằng sau một người đàn ông mặc áo khoác thể thao, rõ ràng là cảnh sát.

Con ruồi trên ống ngắm của Hobbs di chuyển qua lại quanh lưng viên cảnh sát, tìm kiếm bất thành một góc bắn trúng Grady.

Tay công tố viên ở dưới thấp, gã cảnh sát đang đứng. Hobbs thấy có vẻ nếu bắn qua phần lưng thấp của viên cảnh sát, hắn có lẽ sẽ bắn trúng ngực trên của Grady do anh ta đang cúi lom khom. Nhưng nguy cơ là phát đạn đó sẽ đi chệch và Grady sẽ chỉ bị thương và lỉnh vào chỗ an toàn sau một chiếc xe hơi.

Chà, hắn sẽ phải ra tay thật nhanh. Tay cảnh sát đang nói chuyện trên bộ đàm. Sẽ có thêm cả trăm tên nữa chỉ trong một phút tới. Coi nào, con người sắc sảo, hắn tự nhủ với bản thân. Ta sẽ làm gì đây?

Phía dưới hắn, tên cảnh sát vẫn đang nhìn quanh, che chắn cho Grady, người ngồi xổm như một con chó tha mồi cái đang đi tè.

Được rồi. Hắn sẽ bắn tên cảnh sát ở phần thân trên, phần hông. Như thế nhiều khả năng tên cảnh sát sẽ ngã ra, làm lộ ra tên công tố viên. Khẩu Colt là súng bán tự động nên gã có thể bắn năm viên trong hai giây. Không hoàn hảo nhưng là cách tốt nhất mà Hobbs có thể nghĩ ra.

Hắn sẽ cho viên cảnh sát một khoảnh khắc nữa để bước ra hay tránh sang một bên.

Cả hai mắt hắn mở ra khi mắt phải nhìn chằm chằm qua ống ngắm, chĩa con ruồi thẳng vào lưng viên thanh tra và nghĩ rằng khi gã trở lại Canton Falls, hắn sẽ bịa một câu chuyện trong Thánh Kinh về việc này. Jesus sẽ đóng vai hắn và sẽ được vũ trang một cây cung trợ lực thượng hạng, sắp sửa mai phục một đám lính La Mã, những kẻ đã tra tấn người Công giáo. Julius Caesar sẽ trốn đằng sau một tên lính và nghĩ rằng mình an toàn, nhưng Jesus sẽ bắn xuyên qua tên lính đó và giết luôn thằng chó đẻ.

Một câu chuyện hay. Lũ trẻ sẽ khoái nó.

Tên cảnh sát vẫn đung đưa qua lại trước tay công tố viên.

Chà, thế thì, Hobbs nghĩ, bật chốt an toàn khẩu Colt lớn. Không còn thời gian nữa. Sẽ bị thiêu đốt trong lưu huỳnh, những tên La Mã giết người Công giáo.

Hắn nhắm đầu ruồi vào sau chân tên cảnh sát và bắt đầu chậm rãi nhấn cò, nghĩ rằng sự hối tiếc duy nhất của hắn là tên cảnh sát là người da trắng, không phải da đen.

Nhưng có một điều Hobbs Wentworth đã học được trong đời: ta hạ mục tiêu của mình như cách ta tìm ra chúng.