Quê hương ông Phạm Văn Thụy là một vùng quê nghèo, xưa là tổng Thần Huống, huyện Thái Ninh nay thuộc xã Thái Học, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Dân làng sống thuần nông, các cụ thân sinh ra ông Thụy có 5 người con. Cụ ông mất sớm, cụ bà tần tảo cấy 4 sào ruộng, làm thuê làm mướn nuôi các con.
Khi lớn lên, Phạm Văn Thụy mang trong lòng tình yêu quê hương và ghi sâu mối thù với tội ác của phong kiến, đế quốc. Từ năm 1949, ông tham gia hoạt động cách mạng, làm giao thông liên lạc của huyện chuyên đưa công văn hỏa tốc, công văn mật đi các nơi thuộc khu Đằng Giang. Có lần bí mật mang theo tài liệu vượt qua bốt Cầu Sắt (bốt Cầu Sắt ở khoảng giữa sông Diêm Điền và sông Trà Lý, nơi có đường giao thông chạy qua) để đưa cho liên lạc đi tiếp, tới cánh đồng đầu làng, ông thấy hai người đàn bà tát nước cứ nhìn về phía ông mà giơ cao một chân lên, biết ám hiệu có động, ông mưu trí vòng ngay vào làng tránh khỏi bị bắt. Vượt qua được những thử thách của cách mạng cùng với nỗ lực phấn đấu của bản thân, năm 1948, ông đã được tổ chức bí mật kết nạp vào Đảng.
Hai bố con anh hùng Phạm Ngọc Tuyển.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Đồng bằng sông Hồng và Thần Đầu, Thần Huống quê hương ông tràn ngập khói lửa chiến tranh. Lúc này, ông Thụy trở về quê tham gia hoạt động trong đội du kích của xã ở trung đội chủ lực tập trung. Trung đội có hơn 30 người, chia thành 3 tiểu đội, được trang bị một số súng trường chiến lợi phẩm và mã tấu, gậy gộc. Trung đội du kích ăn ngủ tập trung ngày đêm cùng nhân dân rào làng chiến đấu, tối đến lại quấy rối nghi binh quân địch, đánh những trận nhỏ lẻ nhưng đã tạo thế để bộ đội chủ lực của Đại đoàn 320 tổ chức các trận đánh lớn. Trong đó có trận đánh thắng bốt chợ Cổng, bắt tù binh, thu vũ khí (cả khẩu pháo 105mm). Chính trong những ngày sôi động ấy, ông nhập ngũ vào bộ đội chủ lực, trở thành chiến sĩ trinh sát quân báo của Đại đoàn Đồng Bằng. Nhiệm vụ của ông được giao là thâm nhập vào cơ sở của ta trong vùng tề để trinh sát nắm tình hình địch đóng bốt tại Lộng Khê, Phụ Dực, Thái Bình, nơi án ngữ trên trục đường 10 là căn cứ rất quan trọng của địch.
Ở cơ sở trong làng làm nhiệm vụ nhưng cứ từ 10 đến 12 giờ đêm là ông phải trốn ra ẩn mình bên bờ sông Luộc. Trong một lần chưa kịp rời khỏi làng, ông bị địch bắt với quả lựu đạn bên người. Địch bắt ông và một người làm liên lạc cho văn phòng xã đội ven đường 10 dẫn về Setor NisGiang (khu vực) Ninh Giang, Hải Dương. Trong 6 ngày giam giữ và tra tấn không khai thác được gì ở ông, chúng lập án tù rồi chuyển ông ra giam giữ tại Trại giam Đoạn Xá, Hải Phòng. Bộ đội ta đánh sân bay Cát Bi, địch lo sợ cho an ninh của thành phố cảng Hải Phòng nên vội dùng tàu chuyển hơn 2.000 tù binh bằng đường biển ra đảo Phú Quốc. Ở đây, ông luôn đau đáu nhớ về đất liền, quê hương yêu dấu, nhớ người vợ hiền và con trai đầu lòng khôn nguôi… Trong tù, ông và đồng đội liên tục có những cuộc đấu tranh không mệt mỏi, đỉnh cao là những lần tuyệt thực đến 3 ngày dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của tổ chức bí mật trong tù, buộc giám thị nhà lao phải đáp ứng các yêu sách của tù nhân, không dám đánh đập, ngược đãi tù binh.
Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Geneva được ký kết, ông và đồng đội được đưa về trao trả tại bãi biển Sầm Sơn rồi chuyển về Trung đoàn 55, được cấp phát quân tư trang, an dưỡng, học tập. Sau đó, ông Thụy phục viên về quê hương, cùng cán bộ và nhân dân, bà con làng xóm thành lập tổ đổi công, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo đường lối của Đảng. Ông làm kế toán trưởng hợp tác xã của thôn, khi sáp nhập thành hợp tác xã lớn hơn, ông tham gia trong ban kiểm soát. Năm 1964, theo yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, ông được chuyển lên công tác tại Tổng công ty Công nghệ phẩm Thái Bình. Khi huyện Thái Ninh sáp nhập với huyện Thụy Anh thành huyện Thái Thụy, ông về công tác tại Công ty cấp III của huyện, đến năm 1982 thì nghỉ hưu.
Trước ngày bị địch bắt, tù đày, ông Thụy và vợ là bà Đỗ Thị Hoạt đã có con trai đầu là Phạm Văn Tửu. Khi trở về quê hương, ông bà lần lượt sinh thêm 5 người con. Cô con gái út bị bệnh mất năm 7 tuổi, còn 4 người con trai nối bước cha đều nhập ngũ trở thành chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam. Người con cả vào bộ đội, chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Người con thứ hai Phạm Ngọc Tuyển được sinh ra trong hòa bình ở miền Bắc, học xong phổ thông cũng xung phong nhập ngũ.
Trải qua nhiều cương vị công tác, từ năm 1995, Phạm Ngọc Tuyển gắn cuộc đời binh nghiệp của mình với ngành than vùng mỏ Quảng Ninh. Sau này, anh có gần 8 năm là Tổng giám đốc Tổng công ty Đông Bắc, góp phần cùng “binh đoàn than” làm nên một đơn vị anh hùng với những bước phát triển lớn mạnh vượt bậc. Với thành tích đặc biệt xuất sắc trong lãnh đạo chỉ huy, người lính giữa thời bình Phạm Ngọc Tuyển đã được phong quân hàm Thiếu tướng vào năm 2010 và được tuyên dương Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới năm 2015.
Trải qua thời binh lửa, người chiến sĩ Đại đoàn Đồng Bằng xưa Phạm Văn Thụy đã trao truyền tâm huyết cho người con trai và anh đã thành danh trên mặt trận mới...
Thiếu tướng, PGS, TS PHẠM TIẾN LUẬT