
Viết ở Sài Gòn những năm ấy…
Từ những năm 1940 Lý Văn Sâm đã bắt đầu nổi tiếng với nhiều truyện ngắn in trên Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội, những truyện đường rừng đặc sắc… Năm 1945, ông gia nhập Thanh niên Tiền Phong, tham gia cách mạng tháng Tám, giành chính quyền ở địa phương, làm cán bộ ty tuyên truyền tỉnh Biên Hòa. Sau đó, ông tham gia kháng chiến. Năm 1946 ông bị thực dân Pháp bắt một thời gian, quản thúc tại xã Bình Phước (Biên Hoà). Ra tù, ông hoạt động công khai ở Sài Gòn vừa viết văn viết báo, vừa bí mật tham gia công an đặc biệt Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông ký tên thật Lý Văn Sâm và các bút hiệu Huyền Sâm, Mộc Tử Lang, Anh Minh… trên các tờ Việt Bút, Tiếng Chuông, Lẽ Sống…
Đây là những năm Lý Văn Sâm sống và viết hết sức vất vả, khổ cực. Theo ông kể lại: “Do công việc đòi hỏi, nên tôi phải sống trong bàu không khí có tiếng máy in chạy suốt ngày đêm. Tôi nằm trên đống giấy in cao ngất, lăn trở suốt đêm trong chiếc mùng vá chằng chịt. Tôi có cảm giác như mình bị bọn mật vụ tra tấn. Tiếng máy in chạy lổn cổn, cái cần lật giấy “tiềm tiệp” thâu canh.”
Nào chỉ đói nghèo, gian khổ mà còn lo địch theo dõi, đề phòng bị bắt bớ.
Lý Văn Sâm tâm sự: Trong lòng địch “viết văn viết báo là phải có cách luồn lách ngòi bút qua mắt kiểm duyệt… Mục đích của người viết là làm sao đưa được trót lọt nội dung yêu nước vào bài viết của mình. Bạn đọc sẽ tiếp nhận cái cốt lõi, cái tinh túy, cái ý hình của truyện”1. Có thể kể tên những bài báo, truyện ngắn, truyện dài Lý Văn Sâm sáng tác trong thời gian này; Thèm một ngọn đèn (để soi sáng căn nhà nghèo trống trải, soi sáng những tâm hồn bơ vơ lạc lõng) Ngàn sau sông Địch (truyện cổ nước Tàu, nhưng ai cũng hiểu là những thái tử Đan - người ở lại và Kinh Kha, những chàng trai quyết chí ra đi kháng chiến). Đàn cò trắng là truyện kể về một đàn cò trắng dồn về làm tổ trên bến sông rồi bị “bão tố” làm cho tan tác và mọi người mong đợi ngày đàn cò trắng sớm trở về.
1 Về một truyện ngắn cách đây 36 năm - Báo Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh số ra ngày 18-10-1985.
“Đàn cò trắng bay về đâu? Từ khi đàn cò không về nữa thì những thân cây dừa ven sông lần lượt bị bọn người lạ mặt đốn ngã. Đồn lũy mọc giăng giăng theo bờ sông. Và đêm đêm tiếng súng bắn tỉa của những người bị tước đoạt quê hương vẫn vang lên như một lời thách thức.”
Đáng chú ý là truyện Tâm tình của một cây bút. Đây là tâm sự của một cây bút tưởng đã bị bỏ rơi hay bị đẩy vào tủi nhục khi chủ nó lâm cảnh tù tội. Nhưng không… “Nó lại được nhảy múa… như con ngựa lồng”. Cây bút ấy là hình ảnh của chính anh- Lý Văn Sâm. Anh thoát lên được Sài Gòn, sống và viết… Bởi đã có “ngọn đèn” soi sáng Đó là hình ảnh quê hương tươi đẹp của anh trên bờ sông Đồng Nai bị bom địch tàn phá. Hình ảnh những người quê hương sắt son chung thủy với kháng chiến. Những người trong vùng giặc tạm chiếm luôn hướng theo người ra đi, trông chờ, mong mỏi, đinh ninh ngày gặp lại.
Rõ ràng viết như thế, là người viết ký sẵn bản án để bị bắt, tra tấn, tù đày. Quả nhiên, năm 1950 Lý Văn Sâm đang làm quản lý cho báo Cộng Đồng thì bị lùa vào Khám lớn Sài Gòn.
Ra khỏi trại giam, Lý Văn Sâm ra luôn chiến khu kháng chiến...
Sau Hiệp nghị Genève 1954 Lý Văn Sâm lại được phân công về thành phố hoạt động hợp pháp trên lĩnh vực văn nghệ, báo chí. Lại bút hiệu mới: Bách Thảo Sương… xuất hiện trên các báo Nhân Loại, Công Lý, Gọi Đàn… Truyện ngắn Chuông rung trên tháp đổ báo hiệu sự xụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm vừa ra mắt bạn đọc cũng là lúc kẻ thù lùa anh vào “Trung tâm cải huấn Tân Hiệp” (Biên Hòa).
Tròn một năm (từ 12/1955 đến 12/1956) sống trong nhà tù “kiểu mẫu” nổi tiếng man rợ của chế độ Sài Gòn. Cuối năm 1956 ông tham gia phá trại giam, vượt ngục ra vùng giải phóng tiếp tục hoạt động cách mạng…
Trước hết, có thể nói Lý Văn Sâm là nhà văn của Đồng Nai. Ông hiểu biết sâu sắc đất nước, con người Đồng Nai. Cảnh thiên nhiên Đồng Nai trong trang văn của Lý Văn Sâm đẹp, giàu chất thơ và thắm thiết tình quê hương. Bối cảnh thiên nhiên ấy tạo nên chất lãng mạn của ngòi bút Lý Văn Sâm, cũng là yếu tố làm nên giá trị riêng của Lý Văn Sâm. Người Đồng Nai hôm nay đọc Lý Văn Sâm có cái hạnh phúc như đang được sống với một vùng đất hết sức phong phú về cảnh vật, con người cùng với những nền tảng lịch sử, văn hoá có chiều sâu nhân văn (Thần Ngư Động, Xác Mu Mi Trên Núi Đá, Mũi Tổ, Chuyện Một Đàn Cò Trắng, Rồng Bay Trên Nóc Gia Nhang, Vợ Tôi Người Dân Tộc Thiểu Số, Chuyện Người thổi sáo ở Bến Xuân)... Tư tưởng chủ đạo của Lý Văn Sâm là ý thức độc lập tự do, là tinh thần yêu nước, yêu quê hương cháy bỏng, là niềm tự hào chiều sâu nhân văn và mơ ước, tin tưởng về một ngày mai tươi đẹp hơn: “Khi nước nhà được độc lập và xã hội Việt Nam được đứng trong chế độ mới thì đời sống của mọi tầng lớp dân chúng tự nhiên phải thay đổi hắn” (Sóng vỗ xa bờ). Tất nhiên tư tưởng của Lý Văn Sâm không được thể hiện công khai. Điều này có thể lý giải. Ông viết ở Sài Gòn, trong tai mắt của kẻ địch, chỉ một sơ hở là bị địch bắt ngay. Lại cộng thêm với “lý lịch” dân kháng chiến cũ, đã mấy lần vào tù ra khám bị mật vụ theo dõi thường xuyên… Nghe Lý Văn Sâm kể về những truyện viết và những kiểu “lách” của anh thấy nhiều điều rất ngộ, rất vui. Lý Văn Sâm tài hoa ở câu văn, tài hoa ở nghệ thuật. Ông có nhiều nhân vật tài hoa kiểu “tráng sĩ - nghệ sĩ”, người tù thi sĩ… Nhưng với Lý Văn Sâm, những “nhân vật” mà ông tha thiết là những ông bác, bà thím một lòng một dạ với cách mạng, những cô gái kiên trinh che chở, nuôi dưỡng cán bộ trong đó có cô gái Sê Tiếng tên gọi Cà Ngá (Cà Ngá). Một cô gái khác tên gọi Thủy Tiên mà bao nhiêu năm bặt tin, hình ảnh vẫn chẳng phai mờ (Chuyện ấy đã qua rồi). Và Lý Văn Sâm viết về những người bạn thân thiết của mình: Chân dung một nhà thơ đã khuất (nhà thơ Trường Thắng, hi sinh năm 1974) Mồ anh hoa nở (Viết về nhà báo Vũ Tùng, hi sinh năm 1965). Trong bài Huỳnh Văn Nghệ, chiến sĩ -thi sĩ, Lý Văn Sâm kể lại chi tiết bà má Tân Uyên (quê Lý Văn Sâm) tự tay châm lửa đốt nhà để tiêu thổ kháng chiến (Nhà má có ra tro/Con càng lo đánh giặc/Nhưng mà má chỉ tiếc/Cái ống ngoáy trầu thôi/(Bằng đồng chùi sang dói)/Vội vàng lúc chạy giặc/Không kịp mang theo người) Từ chiến khu Đất Cuốc, anh Tám Nghệ đã gửi về cho mẹ một cái ống ngoáy trầu thật đẹp, sáng bóng, làm bằng vỏ đạn, kèm theo bài thơ có mấy câu trích trên đây…
Và Lý Văn Sâm viết hồi ký về những ngày trong tù, những người bạn tù. Đáng nhớ nhất là những dòng anh viết về cuộc phá trại giam Tân Hiệp, có chi tiết nhắc tới người bạn, nhà thơ Dương Tử Giang, đã hi sinh anh dũng ngay giữa lúc cùng đồng đội lao qua cổng trại giam. Lý Văn Sâm kể: Buổi chiều trước khi vượt ngục, hai anh kẹp tay nhau đi quanh trại. Dương Tử Giang thì thầm dặn: “Trong hai thằng mình, một đứa hi sinh thì thằng còn lại phải sống bằng tiềm lực của hai đứa cộng lại”.