• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược
  3. Trang 148

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 147
  • 148
  • 149
  • More pages
  • 173
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 147
  • 148
  • 149
  • More pages
  • 173
  • Sau

Nguyễn Tân

087

  • Tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Tân
  • Tên khác: Vũ Hòa
  • Năm sinh : 1931
  • Nơi sinh: Xã Yên Tân, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
  • Năm sinh : 2009
  • Thời gian bị bắt, tù đày: Năm 1949 bị bắt giam vào nhà tù Hỏa Lò (căng Ong), trại giam nhà Tiền Hà Nội. 1951 vượt ngục trở về đơn vị, tiếp tục đi chiến đấu, tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
  • Tác phẩm viết về tù đày: Mối tình trong tù ngục (NXB Công an nhân dân - Giải thưởng viết về đề tài An ninh tổ quốc của Bộ Công An và Hội nhà văn Việt Nam 1999-2002). Hai cuộc trèo tường vượt ngục Hỏa Lò.
  • Tác phẩm văn học khác: Con hào đẫm máu (NXB QĐND - 2003); Ụ thằng người (NXB QĐND - 2004): Chuyện ở đồi A1 (NXB Kim Đồng - 2004).
  • Chức vụ đã qua: Chiến sĩ Điện Biên Phủ, cấp bậc Trung sĩ (D251-E174-F316). Trưởng phòng kế hoạch Nhà máy dệt 10-10 sở Công nghiệp Hà Nội. Phó Ban liên lạc chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.

Người tù Hỏa Lò trở thành chiến sĩ giải phóng Điện Biên

Ngay sau khi Pháp đánh chiếm Hà Nội (12-1946), người Hà Nội rạt cả ra tản cư về Văn Trai, Cống Thần, Chợ Đại, (trước đây thuộc tỉnh Hà Đông, nay là ngoại thành Hà Nội) biến mấy cái chợ quê quán lá lèo tèo vùng này trở thành địa điểm giao lưu, buôn bán sầm uất. Đây là nơi cánh “bờ lờ” (buôn lậu) tuồn các mặt hàng dân sinh thiết yếu từ nội thành ra vùng tự do trong đó có cả những mặt hàng chiến lược mà Việt Bắc đang rất thiếu. Bên những cửa hàng Phở Hà Nội, cà phê “bít tất”, những hiệu tạp hóa bày bán đèn pin, bút máy, đồng hồ đeo tay, thuốc tân dược… phố Văn Trai có hiệu ảnh Nắng Thu, một cơ sở của Ban tình báo Hà Nội.

Từ hiệu ảnh Nắng Thu, Vũ Hòa, người nhỏ nhắn nên anh em trong đơn vị thường gọi Hòa “muỗi”, lọt vào Hà Nội hoạt động bí mật. Anh bị một tên phản bội báo cho mật thám đến bắt. Sau nhiều trận đòn tra khủng khiếp, Vũ Hòa bị tống vào Căng Oong nhà tù Hỏa Lò, chuyển về trại giam Nhà Tiền, rồi lại trở lại Căng Oong Căng Oong nói theo tiếng Pháp là trại giam số 1 (camp numéro un) là một phần của nhà tù Trung tâm Đông Dương (maison Centrale) dân ta quen gọi Hỏa Lò. Căng Oong cùng với trại giam Nhà Tiền (căng số 13) là nơi chuyên giam giữ “tù binh”. Những người này (bộ đội, dân quân du kích và cả dân thường mà đối phương bắt được trong nhiều trận càn quét) thường bị quân Pháp bắt theo ra trận, làm phu khuân vác súng đạn, mở đường, xây dựng đồn bốt…

Vũ Hòa ở tù nhiều năm, nói năng hoạt bát, thông thạo tiếng Pháp, nên dần dần được quản giáo tin cậy, cho phép đi lại tự do để làm một số việc vặt trong nhà tù.

Chính vì thế anh đã tạo điều kiện cho một số đồng đội trốn thoát khỏi trại giam. Dưới sự chỉ đạo của chi bộ nhà tù, ở Căng Oong, có lần các anh đã tổ chức cho 9 người tù thoát khỏi trại giam một cách êm thấm. Ở Nhà Tiền, các anh tìm cách “đánh tráo” danh sách tù nhân, nhờ đó nhiều cán bộ quan trọng được đối phương “phóng thích” vào các dịp lễ, tết.

Riêng Vũ Hòa thì vẫn cứ… yên tâm ở lại trong tù. Cho đến 1951, mới đến “lượt” anh. Một buổi trưa mùa hè, “được phép” ra phố mua bánh kẹo cho căng tin, Hòa đường hoàng đi trước mặt tên nhẻm (lính gác da đen), qua cổng chính. Một chiếc “bình bịch” đang nổ máy chờ bên hè đường phía tòa án, Hòa ung dung ngồi lên phía sau người cầm lái và cái xe lao vút đi.

Hòa trở về quân đội, tiếp tục hoạt động. Đơn vị anh được điều lên tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Trong khi đó, các bạn Hòa ở Căng Oong, Nhà Tiền tiếp tục sống trong tù, khi trại giam đông nghẹt, khi vơi loảng đi sau mỗi đợt hàng trăm người bị đẩy lên xe đi “ốp”, đi “công-voa” (tiếng Pháp: opération, Convoi. Đi ốp là đi mang vác súng đạn, lương thực phục vụ trong các cuộc lính Pháp tấn công, càn quét. Đi công-voa là đi làm khổ sai, sửa đường, lấp hào hố, xây dựng đồn bốt ở những nơi giặc mới chiếm đóng).

Từ tháng 3-1954, hàng trăm người tù khỏe mạnh ở Hỏa Lò, Nhà Tiền đã bị đẩy lên máy bay đi xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Khi quân ta nổ súng tiêu diệt các đồn Him Lam, Bản Kéo… Anh em “tù binh” được giải phóng chẳng những phấn khởi vì thoát tù, thoát chết mà còn sung sướng vì được bổ sung ngay vào các đơn vị chiến đấu, làm nhiệm vụ trinh sát, liên lạc, dẫn đường…

Vũ Hòa cùng đơn vị đánh chiếm đồi A1 “cái chìa khóa của Điện Biên Phủ”. Trận đánh vô cùng ác liệt, thương vong nhiều. Nhưng sau khi quân ta tiêu diệt lô cốt “Ụ thằng người” và cho nổ quả bộc phá tấn (một tấn thuốc nổ) có sức mạnh khủng khiếp, bọn lính cố thủ trong hầm ngầm choáng óc, rã rời. Ngay sau khi nhìn thấy những lá cờ trắng xuất hiện, Vũ Hòa cùng đơn vị lao thẳng vào khu trung tâm Mường Thanh. Giữa lúc anh mải xem tấm bản đồ quân sự của tướng De Castries treo trên tường hầm chỉ huy, thì chợt ngoảnh lại, Hòa nhận ra một người bạn tù chí cốt ở nhà Tiền. Mấy ngày sau anh còn gặp nhiều người nữa, bạn tù ở Căng Oong Hỏa Lò, trại giam Nhà Tiền hôm nay đều là chiến sĩ giải phóng Điện Biên. Anh gặp lại cả Vinh đen, bị đạn pháo cưa cụt một cánh tay. Vinh là kẻ phản bội đã dẫn mật thám bắt Hòa, sau đó được Hòa giáo dục, động viên, khi anh ta thoát khỏi nhà tù đã xin trở lại quân đội, lập công chuộc tội. Chuyện như trong tiểu thuyết nhưng đều là có thật đúng như đã xảy ra ngoài đời. Lại còn chuyện cô Hương, người bạn tù trải qua biết bao gian nan, sau này trở thành vợ của tác giả (Nguyễn Ngọc Tân, tức Vũ Hòa). Chuyện cô Tý, một nữ cán bộ cách mạng có đôi má lúm đồng tiền, sau nhiều lần bị hãm hiếp, cuối cùng đành chịu ép phải làm vợ tên quản ngục Legrand để cứu đồng đội. Chị mang tiếng “phản bội”, bị bạn tù khinh rẻ, đồng chí xa lánh và sau ngày miền Bắc giải phóng (1954) chị tự thấy mình “dơ dáy” nhất định từ chối những lời yêu thương của người tình cũ, cũng là một bạn tù trung kiên, một chiến sĩ Điện Biên dũng cảm…

Cuốn truyện dày 200 trang kể về anh tù binh Vũ Hòa trung kiên bất khuất - chiến sĩ Điện Biên Phủ anh hùng chính là truyện kể về một thời trai trẻ của bản thân tác giả, Nguyễn Tân.

Ngoài những bài thơ, bài báo, truyện viết về nhà tù, những cuộc vượt ngục ly kỳ dũng cảm, Nguyễn Tân viết nhiều về những kỷ niệm chiến trường Điện Biên Phủ: truyện Con hào đẫm máu, Ụ thằng người, Bão lửa đồi A1… Nguyễn Tân tâm sự “Tôi viết bởi tình yêu dành cho đồng đội”.

Trong một cuốn phim thời sự tài liệu của Đài truyền hình Hà Nội, người ta thấy cảnh Nguyễn Tân, một ông già đang ngồi lọc cọc gõ máy chữ trên hè đường góc ngã tư phố Nguyễn Du - Trần Bình Trọng. Thời ấy chưa có máy vi tính, phô-tô-cóp-pi. Những người dân oan khi cần làm đơn kêu cứu gửi các cơ quan có thẩm quyền xem xét, thường đến thuê mấy ông già về hưu ngồi ở góc phố. Các ông làm đơn, đánh máy ra nhiều bản.

Nguyễn Tân không kiếm sống bằng cái máy chữ của mình mà chủ yếu anh dùng đánh bản thảo các truyện, bài báo. “ Bao năm qua, tôi cũng như nhiều anh em chiến hữu ai cũng nhớ, cũng nghĩ nhưng chưa viết được ra…Chúng tôi không muốn tự nói về mình. Bây giờ tôi chợt hiểu ra sự khiêm nhường ấy của chúng tôi đã không phải với những người đã ngã xuống.”

Nguyễn Tân, nhà văn chiến sĩ, anh hiểu rõ trách nhiệm ngòi bút của mình trước những người hôm qua và với thế hệ mai sau.

Cùng gặp lại ở Điện Biên

Gần hai trăm tù binh của trại giam Nhà Tiền đưa đi phục vụ tấn công được giao cho tiểu đoàn lính Angiêri. Họ bị chia thành nhiều tốp nhỏ tử 10 đến 15 người và giao cho từng đại đội lính quản lý. Đoàn xe GMC vượt qua cầu Đume (Doumer-cầu Long Biên bây giờ) rồi rẽ vào sân bay Gia Lâm. Hơn một chục chiếc máy bay Đa-cô-ta hai động cơ chờ sẵn. Mỗi chiếc xe tải ghé đuôi vào một máy bay, cả tù và lính lên vẫn đủ chỗ ngồi.

Từng tốp ba chiếc máy bay lần lượt cất cánh rồi theo đội hình chữ A nhằm hướng tây bắc lao đi. Từ trên nhìn xuống, con sông Hồng như một dải lụa màu nâu nhạt uốn lượn giữa cánh đồng xanh bao la. Điểm xuyết đây đó những xóm làng nho nhỏ. Anh em tù tạm quên nỗi niềm trong ít phút để ngắm cảnh non sông xinh đẹp mà có dịp may được chiêm ngưỡng. Chỉ ít phút thế thôi, rồi máy bay lên cao dần. Tất cả chỉ còn là một biển mây trắng đục. Khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, máy bay dần dần hạ thấp độ cao. Phía dưới, một cánh đồng bát ngát hiện ra và xung quanh nhấp nhô nào là mỏm núi, vạt nương…Những con suối như những sợi dây bạc ngoằn ngoèo óng ánh nổi rõ trên nền mầu xanh xẫm của rừng già. Máy bay hạ cánh xuống một sân bay dã chiến mà đường băng được lót bằng những tấm ghi sắt móc nối liền với nhau, bánh xe lăn đến đâu thì tiếng loảng xoảng phát ra đến đấy. Xung quanh sân bay những cái lều bạt căng lúp xúp dày đặc. Khi máy bay đậu hẳn, từ trong các lều chui ra lúc nhúc nào lính nào tù quây lấy những chiếc Đa-cô-ta để nhận hàng. Hỏi ra mới biết đây là sân bay Mường Thanh ở Điện Biên Phủ.

Tiểu đoàn Angiêri theo con đường cái tiến về hướng bắc và dừng lại dưới chân một quả đồi. Gặp mấy người dân địa phương, Thảo hỏi thăm, họ chỉ quả đồi và nói bằng tiếng Thái “Pú Năng” nên không hiểu được là gì. Sau này anh mới biết đó là núi Năng, quân ta gọi là đồi Độc Lập. Qua một đêm ngủ trên mớ rơm rạ quơ vội giữa vạt ruộng, tất cả anh em tù binh dậy sớm theo tiểu đoàn lính lên đồi chặt cây, phát cỏ. Cả một quả đồi cây cối um tùm có khá nhiều động vật hoang dã chỉ sau một tuần trở thành trơ trụi, lá cây và cỏ bị đốt cháy hết, thân cây và những cành to được để lại dùng vào việc xây dựng công sự.

Hơn một tháng trôi qua nhanh chóng. Với sức làm việc cật lực của tiểu đoàn Angiêri và gần hai trăm tù binh, quả đồi đã biến đổi thành một tiền đồn khá vững chắc nằm sát cạnh con đường từ Lai Châu về Điện Biên, bảo vệ phía tây bắc sân bay Mường Thanh. Nhìn sang phía đông, cách đó không xa mấy cũng có một vị trí nữa. Đó là đồi Him Lam nằm sát đường 41 từ Tuần Giáo vào Điện Biên. Phía tây bên kia đường, lùi về sau hơn một cây số, địch bố trí thêm một vị trí nữa là đồn Bản Kéo. Như vậy cả ba vị trí Bản Kéo - Độc lập - Him Lam đứng theo thế chân kiềng hình thành một cụm cứ điểm rắn chắc gọi là phân khu bắc, một lá chắn thép bảo vệ toàn bộ phía bắc sân bay Mường Thanh nói riêng và cả lòng chảo Điện Biên nói chung.

Sau khi hoàn thành những phần việc chính, anh em tù binh có phần đỡ vất vả hơn. Họ cũng phải đào những cái hầm trú ẩn chắc chắn để bảo vệ cho chính bản thân mình.

Tình hình bắt đầu thay đổi. Máy bay, đại bác của địch ngày nào cũng dội bom, bắn phá bên kia con suối. Ban ngày khói bốc mù mịt, ban đêm lửa cháy sáng rực. Binh lính thuộc các đại đội cùng tiểu đoàn ở đây mở những cuộc đánh nống ra rừng và có lúc chúng đã tới sát chiến hào bộ đội ta. Rồi cũng đến lượt đại đội lính mà Thảo đang phục vụ. Sáu người tù binh phải vác đạn đi theo các khẩu đội súng cối và trọng liên 12li7. Sáu người nữa mang theo hai cáng tải thương đi theo thằng y tá, trong số này có anh bạn tù cùng mang ý định trốn với Thảo.

Bom, đạn pháo các loạt đổ xuống khu rừng suốt nửa tiếng đồng hồ. Tiếng nổ inh tai nhức óc. Các cỡ súng bộ binh bỗng nổ ran. Mấy tên lính ngã xuống. Thằng y tá nằm phủ phục, mặt úp tránh đạn. Thảo nằm trước nó một quãng có đến mười mét. Pháo của ta bắn chia cắt xuống khoảng ruộng phía sau lưng, khói mù mịt đến mức không còn trông thấy gì nữa. Đây là thời cơ tốt nhất. Thảo nghĩ vậy. Không chần chừ, anh vọt lên, nhanh chóng vượt qua con suối rồi ném cáng đi, tạt ngay vào rừng. Anh cắm đầu chạy, không cần biết đằng trước có gì và phía sau mình thế nào. Thảo gạt cây cối và lau lách ra lấy lối mà chạy, chạy mãi cho đến lúc không còn sức nữa, ngã khụyu xuống. Anh cố lê đến một gốc cây, ngồi tựa lưng vào đó mà thở. Hai người bạn cùng nhóm tải thương cũng vừa nhào tới, phục xuống bên anh. Mừng quá, chắc chắn thoát rồi mà lại không đơn độc. Đỡ mệt rồi, Thảo mới hỏi người bạn thứ hai: Sao cậu cũng chạy theo bọn mình? Anh ta nhoẻn miệng cười: Thấy các cậu nháy nhau trong đồn, tớ biết ngay nên bám sát. Thế là thoát rồi.

Ba người cắt rừng hướng về phía những đụn khói chỉ điểm của máy bay “bà già”, chắc chắn quân ta ở đấy. Và đúng là như vậy.

Trong một cái lán nhỏ, tham mưu trưởng trung đoàn cùng mấy cán bộ tác chiến, trinh sát ngồi quanh một một cái bàn. Bản sơ đồ cứ điểm Độc Lập trải rộng, chi chít những ký hiệu đánh dấu các trận địa cối, ụ đề kháng, hỏa lực… Thảo được phép thay mặt ba anh em báo cáo tình hình bố phòng của địch. Anh nói đến đâu, một cán bộ trinh sát lại chỉ vào sơ đồ để đối chiếu, chỗ nào chưa rõ hoặc không khớp thì hỏi lại và ghi vào sổ tay để hôm sau các anh sẽ cùng đưa ba người ra đài quan sát kiểm tra trên thực địa.

Một chiến sĩ trong quân phục chỉnh tề bước vào:

- Báo cáo tham mưu trưởng, tôi, Vũ Hòa, liên lạc viên tiểu đoàn xin được gặp.

Mọi người đều quay lại. Thảo nhìn anh chiến sĩ thấy ngờ ngợ, và rồi nhận ra người quen, mừng quá, Thảo reo lên:

- Hòa phải không?

Hòa đưa tay ra hiệu chào anh. Sau khi báo cáo với tham mưu trưởng xong, Hòa quay lai tiến đến nắm tay Thảo:

- Báo cáo với các anh đây là anh Thảo, cùng bị địch bắt giam ở trại tù binh Nhà Tiền với tôi trước đây…

… Sau 39 ngày đêm giành đi giật lại nhiều lần, đồi A1 bị tiêu diệt hoàn toàn. Đây cũng là trận đánh cuối cùng, kẻ địch không còn đủ lực đánh tiếp nữa.

Chiều hôm ấy, từ trên đồi A1 nhìn xuống, anh em ta chợt thấy trong khu trung tâm Mường Thanh có những lá cờ trắng làm bằng đủ mọi thứ sơ mi, may ô, vải nằm… thò ra từ các công sự dưới cánh đồng mỗi lúc một nhiều thêm. Rồi bỗng nhiên địch kéo ra đầy đường và tiến thẳng lên đồi A1. Đông quá, nhiều quá. Anh em lao vội vào vị trí chiến đấu, đồng loạt hướng nòng súng, sẵn sàng quét gục hết bọn chúng. Nhưng rồi mọi người thở phào vì nhận ra chúng đi tay không, đứa cởi trần, thằng chống nạng, có tên khỏe cõng một thằng què trên vai. Có đứa đã chuẩn bị trước nên đem theo cả một ba lô to tướng… Mặc dù anh nuôi vừa mang cơm đến và suốt từ sáng chưa ai có chút gì vào bụng nhưng chẳng ai đụng đến cơm.Vui mừng quên cả đói và mệt, anh em kéo xuống đường 41 rồi chẳng ai bảo ai cùng hướng về phía Mường Thanh. Người đông như đi xem hội. Tấp nập nhất là khu vực hầm Đờ Cát. Đã đến được đây anh nào mà chẳng cố chui vào căn hầm chỉ huy này xem nó ra sao. Trong hàng chục nghìn chiến sĩ quân đội ta hỏi có bao nhiêu người được diễm phúc chứng kiến quang cảnh chiến trường như thế này. Mặc dù chân khá đau nhưng Hòa cũng cố kiễng lên xem tấm bản đồ lớn toàn bộ khu căn cứ lòng chảo Điện Biên treo trong hầm Đờ Cát. Bỗng có người đặt tay lên vai anh, Hòa quay lại và thốt lên:

- Ôi! Anh Huỳnh!

Đúng là Huỳnh, người lớn tuổi nhất trong cái nhóm ba anh em ăn cùng mâm ở Căng Oong nhà tù Hỏa Lò hơn bốn năm về trước…

Nguyễn Tân

(Mối tình trong tù ngục)