(1750 - 1805)
... Trường Phái Hầu là Lê Quýnh vâng mệnh ở lại trong nước chiêu dụ hào kiệt các địa phương để lo việc khôi phục. Khang An trát cho đòi Quýnh và bọn Trịnh Hiển, Lý Nhu Đạo, Lê Doãn Thực... tất cả gồm vài chục người sang đất Trung Quốc để bàn việc nước. Lúc họ tới nơi, An chẳng hỏi han gì, chỉ bàn về việc gọt đầu, dóc tóc và đổi đồ mặc mà thôi.
Quýnh biết An dối trá, giận lắm, nói:
- Đòi ta đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì mà chỉ toàn bảo gọt đầu, dóc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi.
Khang An biết là không thể ép buộc được, bèn sai an trí họ ở Quảng Tây.
Hoàng Lê nhất thống chí (Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch dịch. NXB Văn Học – 1970)
Tiết tháo của một vong thần
Ta họ Lê, tên là Quýnh, quê làng Đại Mão, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An xứ Giang Bắc. Đời đời học đạo Nho. Năm hăm mốt tuổi bổ văn quán nho sinh. Vì phụ ấm, được hàm Hiển cung đại phu. Năm hăm lăm tuổi về để tang cha. Mùa hè năm ấy (1774) trong nước nhiều sự lôi thôi ta bèn ở nhà hầu mẹ... Chưa bao lâu hoàng đế nhà Lê mất, cháu tự tôn là Duy Khiêm nối ngôi, cải nguyên Chiêu Thống Ta vâng mệnh đi phủ dụ miền Giang Bắc, xếp công việc xong xuôi, về được phong tước Bá. Năm Đinh Mùi Nguyễn Huệ tiến hiệu Quang Trung, sai tì tướng Vũ Văn Nhậm ra chiếm Kinh. Vua chạy trốn lên phía bắc, Quýnh đem quân nhà và gia nhân theo kịp nơi vua trú ở Vân Phong rồi hộ giá vừa đánh vừa chạy. Các cựu thần, thế tộc, phiên mục, thổ hào nhóm họp khá đông. Quân khí phấn chấn, Quýnh được phong Trường Phái hầu. Thời ấy Thái hậu cùng Nguyên phi, Nguyên tử đều ở Thái Nguyên. Vua lấy làm lo, bèn sai Quýnh và Nguyễn Quốc Đống đi tìm. Lên đến nơi thấy quân thưa tướng ít. Quân Tây Sơn đang tiến lại gần. Bèn mời thái hậu qua Cao Bằng.
Bèn có chuyện Bắc hành.
Trên đây là lời mở đầu cuốn Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh. Bắc hành tùng ký (ghi chép về hành trình tháp tùng (vua) lên phía Bắc, đến Bắc quốc (nước Tàu). Tùng, nghĩa là theo, còn gọi là tòng, vì thế có bản chép “Lê Quýnh tòng vong” (vong: mất, chết). Lê Quýnh theo vua Lê Chiêu Thống (đã mất ngai vàng) rồi chết ở Bắc Kinh, Quýnh đưa hài cốt (vong hồn, vong linh) vua về nước.
Đọc Bắc hành tùng ký ta có thể biết thêm về một giai đoạn lịch sử đất nước mà Lê Quýnh gọi là “nhiều sự lôi thôi”, biết thêm cả những bang giao ngày ấy giữa hai nước Việt - Trung, nhưng chủ yếu và xúc động hơn cả là những trang tác giả ghi lại tình cảnh mình cùng bè bạn trong cảnh tù đày mà nổi bật là cuộc đấu trí, đấu lý lâu dài, hết sức kiên quyết mà mềm mỏng để giữ trọn một điều: tôi là người Việt Nam, trong hoàn cảnh này “đầu có thể chặt, tóc không thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi”quyết giữ cái gốc người Nam.
Bắc hành tùng ký có những chương Đáp lệnh Phúc An Khang, Giải đi Yên Kinh, Ở ngục Bắc Sở... Kể chuyện khi bị giam tại Doanh Hỏa khí, Doanh An Nam, lúc được tạm tha rồi bắt tù trở lại... Mở đầu là hành trình 4 tháng đầu tiên sang Bắc quốc, đoàn Lê Quýnh từ ải Nam quan đến châu Ninh Minh rồi bị đưa đi phủ Khánh Viễn. Bắc hành tùng ký có những trang kể về sự đày ải, thủ đoạn mua chuộc dụ đỗ nhằm khuất phục ý chí người tù, đồng thời đây cũng là những đoạn thể hiện bản lĩnh của một người trí thức, nhà thơ, một tính cách khôn ngoan ở “kèo dưới” mà đối đáp trôi chảy dùng ngay điển tích văn chương quý quốc “gậy ông đập lưng ông”, khiến đối phương phải bỏ cuộc mà không mếch lòng. Dưới đây là mấy đoạn trích:
... Tháng 3 năm Canh Tuất (1790) đến bộ Hình. Tháng 5 quan đề thẩm, các vị Trung đường bảo rằng: Nếu cắt tóc, cải trang thì sẽ cho nhập hiệu cờ (là thân binh của triều Thanh). Chúa các anh đã được ban hàm quan tam phẩm. Rồi cũng sẽ cho các anh hàm ngũ phẩm hoặc lục phẩm, các anh có bằng lòng không?
Bọn Quýnh trả lời rằng Vua và cha mẹ tuy khác nhưng trung và hiếu không thể trọn vẹn cả hai. Lúc còn làm con thì đổi hiếu làm trung, khảng khái phò cái chí lớn. Khi thế đã không làm gì được, tiến không thể vẹn trung thì thoái mà lo sự hiếu. Nay được Thiên triều đã dạy lấy trung hiếu để trị thiên hạ. Nếu bọn tôi chỉ mưu tiện lợi cho mình mà ở lại đây thì trung hiếu đều hỏng, lòng tựa chim muông, Thiên triều sao lại dùng giống ấy? Và hàm quan chỉ cho kẻ hiền, chức vị chỉ cho kẻ giỏi, tước để đền công, lộc để khuyến trung. Bọn Quýnh đã không che chở cho chủ trong cơn nạn thì không những không hiền, không giỏi mà còn không công, không trung. Vậy tước lộc không dám mong, không phải là sở nguyện.
... Tối đến thấy chúa cũ (vua Lê) tới. Các quan lớn Thanh lấy lời khéo dỗ vua bảo bọn Quýnh cắt tóc. Quýnh khóc, lạy mà nói rằng: Bọn Quýnh sống làm tôi nhà Lê, chết làm ma nhà Lê. Ngoài ra thì không phải sở nguyện.
Lại được các quan lớn dạy rằng: Mệnh chúa anh các anh cũng không theo. Ấy là đạo của kẻ làm tôi sao?
Quýnh trả lời rằng: Bổn phận kẻ làm tôi thờ vua vốn phải theo mệnh nhưng cũng phải theo cái lẽ buộc đừng theo. Nay cái mệnh bảo cắt tóc, ở miệng thì là mệnh nhưng trong tâm thì không phải là mệnh. Bọn Quýnh nguyện theo cái mệnh trong tâm chúa mình. Chúa cũng bất đắc dĩ mới làm sự các ngài yêu cầu đó mà thôi.
Rồi bọn Quýnh lại bị giao cho Bắc sở thuộc bộ Hình nghiêm giam, chia ra mỗi nơi hai người, cấm không được qua lại với nhau.
Những trang tiếp theo đều là những trang khiến người đọc rơi nước mắt.
... Tháng 6 lại thấy các bầy tôi hộ tùng chúa cũ là Đinh Nhã Hành, Phạm Như Tùng, Nguyễn Quốc Đông được các quan Thanh bảo đến (Đây là những người đã chịu cắt tóc, đổi áo) Đinh Nhã Hành nói đây là chúng tôi thừa dịp thuận tiện mà đến thăm nhau thôi.
Quýnh bèn đáp lại rằng: Các ông và bọn tôi, đường lối khác nhưng lòng thì đồng. Nếu ai cũng như tôi thì ai kẻ hầu vua. Nếu ai cũng như các ông thì ai giữ tiết?
Đến tháng 11 quan của hiệu cờ Nhương Hoàng đem con Lê Quýnh là Lê Doãn Thuyên tới. Quan bảo Quýnh rằng: “Cạo đầu thì vua tôi cha con sẽ đoàn tụ vui vẻ cùng nhau.”
Quýnh đáp rằng: Tôi không dám lấy việc riêng mình mà bởi nghĩa công. Xin các ngài lượng cho. Lại quay về Doãn Thuyên nhủ bảo rằng: Ta đã bằng lòng cho mày cạo tóc để theo vua ta. Mày nên hết lòng hầu hạ như vậy còn ở lâu dưới gối ngài. Ta không hối hận đâu. Mày hãy nghe ta bảo. Hãy về đi, đừng khóc nữa.
... Quan Hộ đường đề thẩm chức thượng thư Hồ Quý Đường bảo rằng: Chúng anh nếu không cạo tóc thì sẽ chết già trong ngục, chôn thây theo sổ nhà tù. Cắn rốn hối hận không kịp.
Thấm thoắt Lê Quýnh và 3 người trung tín nhất (Lê Doãn Trị, Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo) đã ở tù tám năm. Đón xuân mới Mậu Ngọ (1798) trong nhà giam, Lê Quýnh viết một tờ trình quan coi ngục:Quýnh là kẻ đại phu của nước mất, vốn không thể lo sự sống còn. Còn như ba người kia đã đi theo Quýnh vướng chung một nạn. Từ rày về sau nếu trong ăn nói cư sử hoặc có điều gì chưa đến nơi đến chốn thì xin chỉ đưa một mình Quýnh ra hỏi tội. Lễ để giàn xếp, phép để cai trị. Như thế là phải.
Trong những ngày bị giam cầm, Lê Quýnh không biết tin vua Lê Chiêu Thống chết. Cũng phải mấy năm sau ông mới biết các vong thần nhà Lê cùng đi với mình bị chia rẽ lưu đày mỗi người một nơi từ Hắc Long Giang, Cát Lâm, Phụng Thiên, Nhiệt Hà, Y Lê... Nhưng con trai Quýnh là Lê Doãn Thiêm thì 3, 4 lần được kẻ thù đưa tới ngục để lung lay ý chí người cha, tất nhiên họ không đạt kết quả. Khi biết tin Thái hậu mất, Lê Quýnh và ba người bạn tù soạn bài văn tế trong nhà giam khóc mà cúi lạy khiến những người coi ngục đều cảm động. Cuối cùng vua quan nhà Thanh phải nới lỏng việc giam cầm. Điều quan trọng là tình hình bên nước nhà đã thay đổi: Chiến thắng Đống Đa lừng lẫy tiêu diệt 20 vạn quân Thanh. Sau khi nhà Tây Sơn đổ, vua Nguyễn Gia Long lên ngôi, đánh tiếng cho sứ sang đề nghị công nhận quốc hiệu...
Ngày 25 tháng 7 năm Quý Hợi (1803) chợt nghe tin sứ bộ của nước nhà do Trịnh Hoài Đức dẫn đầu đã tới Yên Kinh, và trong đoàn có thành viên Lê Doãn Tắc là con đầu của Lê Quýnh. Từ doanh Hỏa khí Lê Quýnh chạy một mạch đến cửa nam thành Trạc châu. Cha con gặp nhau mừng tủi kêu khóc, nước mắt ròng ròng khiến người xúm đông “náo loạn cả đường phố”.
Cuối cùng, sau 13 năm bị giam giữ tù đày, Lê Quýnh và những người bạn tòng vong được trở về nước, vẫn tóc dài áo rách như lúc ra đi, mang theo hài cốt vua Lê về chôn ở Thanh Hóa. Đó là Năm Giáp Tý (Gia Long thứ ba, 1804).
Lê Quýnh về nghỉ ở nhà, năm sau thì mất, thọ 55 tuổi.
Ngoài cuốn Bắc hành tùng ký, Lê Quýnh còn mang theo về nước Bắc sở tự tình phú và một tập gồm 30 bài thơ chữ Hán.
Bài phú Bắc sở tự tình do Lê Quýnh làm trong đêm rằm nguyên tiêu năm Kỷ Mùi (1799) “phòng giam không lửa trăng giọi không đèn”, viết thành 384 chữ. Viết xong dán lên tường nhà giam, quan lang trung bộ Hình là Kim Quang Địa “thấy đọc mà than thở” Sau này, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã dịch và chú thích, có những câu:
Lầm cơ nên biến khôn lường, làm việc thì tình sao tỉnh?/ Vạn dặm từng qua đông tuyết gội, đầu không cạo mà tự sờn; mười năm đành chịu gió bấc pha, mũ chưa hư mà tự rách./ Ôi từ xưa ai mà chẳng chết, muốn kết phận sợ tổn lòng nhân; Vả làm người ai chẳng vui sinh, muốn tòng quyền e càng hại nghĩa./Minh bạch những theo chân lý, chê bai sao cấm miệng người./Tống Trân, Bùi Bá Kỳ đời trước tù Bắc tỏ niềm trung, Duy Liêu, Lê Quang Bí người đâu, về Nam tròn khí tiết./Mà nay: Sống thừa còn chưa chết. Đầu bạc lúc nào về?Lồng lộng trời kia, sao mà cực thế!
Về cuộc đời Lê Quýnh, sau khi đọc, dịch ra quốc ngữ và chú thích các tác phẩm của người tù Yên Kinh, giáo sư Hoàng Xuân Hãn có lời bình:
... “Thời cùng, tiết nãi hiện” (khi vận nước hết thì khí tiết nhân dân tỏ rõ). Ngày nay cũng như ngày xưa dân ta đã tỏ cái khí tiết bất khuất đối với mọi lý tưởng vì nước, vì dân, vì tinh thần, vì tư tưởng. Việc Lê Quýnh không chịu cắt tóc, đành chịu ngục tù, thật ra chỉ là việc mọn, nhưng nó tỏ tinh thần dân ta đời đời không chịu khuất phục, không chịu mất dân tộc tính. Vậy đó nên ghi và đáng được nhắc lại.
Thơ viết trong nhà tù Yên Kinh của Lê Quýnh:
Tháng tư cảm tác1
Nhà giam chật chội nóng như nung
Ngâm ngợi cho khuây nỗi khốn cùng
Gió bụi thất thường không nhụt chí
Bão giông dữ dội chẳng thay lòng
Tiếng gà gáy sớm mưu qua ải
Chém đá ghi sâu nhục mắc tròng
Tích cũ Trùng Hưng lần nữa mở
Gặp thời cơ đến quyết xung phong.
(Nguyễn Duy Hợp dịch)
1 Tháng tư năm Tân Hợi 1791. Tích xưa Mạnh Thường quân bị vua nước Tấn giam, nửa đêm vượt ngục qua ải Hàm Cốc có người gia khách giả tiếng gà gày thế là khắp nơi gà gáy theo, tưởng trời đã sáng, quân canh mở cổng thành, Mạnh Thường Quân đi thoát. Lê Quýnh hy vọng nhà Lê được trung hưng lần nữa.
Lên tuổi 50 cảm tác
Mới đó thanh niên đã bạc đầu
Than ôi ngày tháng nước trôi mau
Bạn chơi để chỏm nay còn mấy
Giữ tóc riêng ta phải tống lao
Hơn chục năm tù đời đã nửa
Thiên thu - nhất nhật tính làm sao
Ví bằng được thọ như Bành tổ
Thì cũng về cùng đất đã lâu.
(Nguyễn Duy Hợp dịch)
Viếng mộ chúa, cảm tác
Nhà giam như ngục cửa u1
Loanh quanh mà vẫn là tù Yên Kinh
Mây sầu phủ kín Tây doanh2
Lệ nhòa bến Bắc đọng thành tuyết băng
Cương thường đất giữ đạo hằng
Nắm xương rồi sẽ đến năm tháng về
Tóc đen răng nhuộm đề huề
Bởi lòng son sắt chẳng hề nát tan.
(Nguyễn Duy Hợp dịch)
1 Ngục cửu u: Ngục sâu và tối nhất ở Âm phủ.
2 An Nam Tây doanh: nơi vua Lê Chiêu Thống bị giữ, Dinh Hỏa khí: nơi Lê Quýnh bị tù. Bắc Tân: nơi có mộ vua Lê.
*
* *
Trong Bắc hành tùng ký, có ghi chú nhiều nhà nho yêu nước, đồng thời là những nhà văn, nhà thơ Việt Nam nổi tiếng bị tù ở Bắc Quốc:
Lê Doãn Trị cùng với Lê Quýnh, không chịu cắt tóc đổi áo nên bị chính quyền nhà Thanh giam 13 năm ở Yên Kinh.
Trịnh Hiến cùng với Lê Quýnh, không chịu cắt tóc đổi áo nên bị chính quyền nhà Thanh giam 13 năm ở Yên Kinh.
Lý Bỉnh Đạo cùng với Lê Quýnh, không chịu cắt tóc đổi áo nên bị chính quyền nhà Thanh giam 13 năm ở Yên Kinh.
Phạm Như Tùng trong đoàn tòng vong vua Lê, bị an trí ở Hắc Long Giang.
Nguyễn Quốc Đống trong đoàn tòng vong vua Lê, bị an trí ở Cát Lâm.
Lê Hân trong đoàn tòng vong vua Lê, bị an trí ở Phụng Thiên.
Nguyễn Huy Hiển, Nguyễn Viết Triệu trong đoàn tòng vong vua Lê, bị an trí ở Nhiệt Hà.
Hoàng Ích Hiểu trong đoàn tòng vong vua Lê, bị an trí ở Y Lê một nơi xa nhất, gần Sibêri nước Nga.
Nguyễn Mậu Nễ chết ở Liễu Châu.
Nguyễn Đồng chết ở Nam Ninh.
Bùi Bá Kỳ Lúc đầu sang cầu viện nhà Minh đánh Hồ Quý Ly, sau giác ngộ bị bắt giam, chết ở Bắc Kinh.
Trịnh Duy Liên được chúa Nguyễn (Nguyễn Kim) sai đi sứ cầu phong, bị vua Minh an trí ở Quảng Đông.
Lê Quang Bí, tiến sĩ, được nhà Mạc cử đi sứ, bị vua Minh giam 19 năm. Về nước, được phong chức Tô Xuyên hầu để ví với Tô Vũ nhà Hán.