“Có tiền cũng không mua được tuổi thơ cơ cực.”
- Chu Quang Tiềm
Tuổi thơ nghèo đói chính là tài sản vô cùng quý giá của đời người. Đó là do số phận muốn dồn đẩy cây sinh mệnh của một con người kiên cường đâm rễ sinh trưởng. Gốc rễ càng ăn sâu thì trái ngọt ngày mai thu về sẽ càng nhiều.
THANH BẦN, TUỔI THƠ ĐƯỢM MÀU U ÁM
“Những ngày còn thơ mong chờ kỳ nghỉ, mong chờ tương lai, mong chờ khôn lớn.”
“Tuổi thơ” - LA ĐẠI HỰU
Nhậm Chính Phi nguyên quán ở thôn Nhậm Điếm, thị trấn Hoàng Trạch, huyện Phố Giang, thành phố Kim Hoa, tỉnh Chiết Giang. Hoàng Trạch là thị trấn lớn nhất của huyện Phố Giang. Thôn Nhậm Điếm vào cuối đời nhà Thanh (từ năm 1644 đến năm 1912) số hộ dân tuy không nhiều, song trai tráng cấy cày, đàn bà dệt vải, con người chất phác, xóm làng ấm yên.
Thôn Nhậm Điếm trước mặt có dòng sông Phố Giang xanh biếc, sau lưng có ngọn núi Quan Thạch hùng vĩ. Khắp nơi cỏ cây tre trúc, hoa nở chim ca, cảnh sắc quả thật vô cùng tươi đẹp.
Họ Nhậm là một dòng họ lớn trong thôn Nhậm Điếm. Ông nội của Nhậm Chính Phi tên là Nhậm Tam Hòa, từng là thợ chế biến lạp xưởng Kim Hoa có tiếng. Ngày ấy, khi còn làm thuê ở thị trấn Phố Giang cũ, ông đã tự tay làm ra loại lạp xưởng có lớp da vàng bóng, thịt hồng, mùi hương đậm đà. Nhờ món nghề này mà danh tiếng của ông truyền đi xa. Bởi vậy nên gia cảnh nhà Nhậm Tam Hòa thuộc hàng khá giả trong thôn. Ngôi nhà cổ của nhà họ Nhậm khi ấy là một tứ hợp viện khang trang, chỉ nguyên chuyện thợ mộc chạm cửa cũng ròng rã ba năm.
Nhậm Tam Hòa lấy vợ, sinh con trai đặt tên là Nhậm Mộc Sinh, tự là Ma Tốn. Sở dĩ ông đặt tên này cho con trai là mong muốn đời sau sẽ thông mình tài giỏi, không thua kém bất kì ai. Nhậm Ma Tốn tư chất thông minh, đọc sách, viết chữ, ghi nhớ rất nhanh. Nhậm Tam Hòa bởi vậy rất vui lòng. Vì muốn con trai có tương lai rộng mở, ông bèn gửi Nhậm Ma Tốn tới Bắc Bình1 học đại học.
1. Bắc Kinh
Nhậm Ma Tốn trở thành người đầu tiên của thôn Nhậm Điếm thi đỗ đại học, lúc bấy giờ việc này cũng vẻ vang chẳng khác nào được ghi danh bảng vàng thời cổ đại.
Nhậm Ma Tốn theo học Khoa Kinh tế của Đại học Dân tộc Bắc Bình. Trong thời gian học tập, ông còn gia nhập Đoàn thanh niên cộng sản, cùng với nhiều thanh niên nhiệt huyết trong trường tham gia phong trào xả thân kháng Nhật đang sục sôi lúc bấy giờ. Họ cùng nhau xuống đường diễu hành, hô vang khẩu hiệu. Thế nhưng, sự đời vô thường, cha mẹ Nhậm Ma Tốn sau đó lần lượt mắc bệnh qua đời, ông cũng mất đi nguồn chu cấp kinh tế nên buộc phải chia tay cuộc sống sinh viên. Nhậm Ma Tốn bỏ học trở về quê hương. Ông vào dạy học ở Trường dạy nghề thủy sản Định Hải, Chiết Giang, sau đó chuyển sang Trường Trung cấp Nông nghiệp Nam Kinh.
Tháng 12/1937, quân Nhật chiếm đóng Nam Kinh, vận mệnh quốc gia lâm nguy. Nhậm Ma Tốn mang trong mình lòng nhiệt huyết cứu quốc. Được sự giới thiệu của đồng hương Chiết Giang, ông đã tới nhà máy quân đội 412 của Quốc dân đảng làm kế toán. Đây là một công xưởng quân binh chuyên sản xuất mặt nạ phòng độc.
Nhậm Ma Tốn tuy làm việc trong nhà máy của Quốc dân đảng, song lại ủng hộ chủ trương “Toàn thể nhân dân đồng lòng kháng Nhật” do Đảng cộng sản kêu gọi. Trong công xưởng, ông không những tích cực tuyên truyền chống Nhật, mà còn tổ chức hội đọc sách, cùng mọi người thảo luận chuyện kháng Nhật. Không lâu sau, biểu hiện yêu nước của Nhậm Ma Tốn đã bị đặc vụ của Quốc dân đảng trong xưởng để mắt tới.
Do chiến cục xoay chuyển, nhà máy quân đội 421 phải dời tới Đồng Tử, Quý Châu. Năm 1944, Nhậm Ma Tốn nhận thấy tình hình bất ổn bèn viện lý do đưa gia quyến về quê sinh sống, rồi âm thầm rời khỏi công xưởng quân binh. Song đặc vụ của Quốc dân đảng đã bí mật theo dõi hành tung của ông, nhưng sau đó lại bắt nhầm người. Ngay ngày hôm sau, Nhậm Ma Tốn giả bệnh nhờ người trong làng đưa tới nhà ga Trịnh Gia Ổ, nhờ vậy mà thoát khỏi móng vuốt của bọn đặc vụ. Ông rời bỏ quê hương đến Quý Châu sinh sống từ đó.
Ở Quý Châu, để trốn khỏi sự truy sát của Quốc dân đảng, Nhậm Ma Tốn tạm lánh ở vùng núi huyện Trấn Ninh, khu An Thuận. Nơi đây có địa hình núi đá vôi điển hình, tạo nên dòng thác kỳ quan Hoàng Quả Thị nổi tiếng gần xa. Nhưng do lúc bấy giờ chưa được ngành du lịch hỗ trợ, nên đời sống của người dân nơi đây vẫn hết sức khó khăn.
Tình yêu là chất xúc tác làm đẹp cuộc đời. Cũng chính tại đây, Nhậm Ma Tốn gặp gỡ Trình Viễn Chiêu, năm ấy 17 tuổi. Hai người yêu nhau rồi tiến tới hôn nhân. Không lâu sau, ngày 25/10/1944, con trai đầu lòng của hai người chào đời. Ngày ấy tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, song đứa con ấy vẫn mang lại cho họ niềm vui sướng vô hạn.
Nhậm Ma Tốn là người có học vấn, ông bồng đứa trẻ đang khóc rồi nói với Trình Viễn Chiêu đang ở cữ trên giường: “Tôi phải đặt cho thằng bé một cái tên thật hay mới được”.
Trình Viễn Chiêu tiếp lời: “Thế mình muốn đặt cho nó tên gì nào?”
Nhậm Ma Tốn nghĩ ngợi một hồi, rồi đáp: “Gọi thằng bé là Chính Phi nhé!”.
“Cái tên này hay đấy”. Trình Viễn Chiêu đón lấy thằng bé đang nằm trong lòng chồng, rồi dỗ dành: “Con mẹ có tên rồi nhé, từ nay gọi con là Nhậm Chính Phi!”.
Trình Viễn Chiêu là người con gái lớn lên ở miền sơn cước, bản tính cởi mở, thật thà. Vùng núi Quý Châu tuy nghèo khó, song cha mẹ Trình vẫn cho bà học hết cấp ba. Về sau, chịu sự ảnh hưởng của chồng, bà tự học rồi trở thành giáo viên dạy toán.
Nhậm Ma Tốn và Trình Viễn Chiêu là đôi vợ chồng son sắt, sau khi kết hôn họ sinh được hai con trai, năm con gái, Nhậm Chính Phi là con cả. Gia đình chín người họ đều dựa vào đồng lương dạy học ít ỏi của hai người để duy trì cuộc sống. Không những vậy, Nhậm Ma Tốn hằng tháng còn phải gửi tiền sinh hoạt về cho gia đình ở quê.
Thời chiến loạn, người dân ở đâu cũng khổ cực. Cha mẹ tuy dạy cho anh em Nhậm Chính Phi những điều hay, nhưng lại không thể cho họ cuộc sống ấm no. Vì muốn bảy đứa con đều được học hành, hai vợ chồng dành dụm chắt bóp, chạy vạy tiền bạc khắp nơi. Cuộc sống tuy thiếu thốn đủ đường nhưng cũng không cảm thấy cực khổ.
TẤM GƯƠNG THẦN LỰC SỸ
“Xưa kia là kẻ bần nông, ngày nay một bước thành quan đại thần Làm trai cho đáng nên trai, vương hầu chức tước ai đời dâng cho.”
- Thần đồng thi
Nhậm Chính Phi học tiểu học ở một ngôi trường miền núi gần nhà. Ở đó, lớp học đơn sơ, điều kiện cũng vô cùng thiếu thốn. Mùa hè muỗi vờn, nóng nực lại ngột ngạt; sang mùa đông, tuy có lò sắt đốt củi sưởi ấm, song lớp học lọt gió, chẳng khác nào ngoài trời.
Nhậm Chính Phi lúc bấy giờ vẫn còn là một đứa trẻ ham chơi. Dần dà ông không còn hứng thú với việc học hành vất vả. Để cổ vũ tinh thần con, Trình Viễn Chiêu bèn kể câu chuyện “Thần lực sỹ” cho con trai nghe:
Thần trị vì của các vị thần - thần Zeus cùng nàng Alcmene xinh đẹp có với nhau một người con trai, đặt tên là Hercules. Người vợ khác của thần Zeus - Hera sinh lòng ghen tuông nên muốn giết hại Hercules.
Một hôm, Hera lén bỏ hai con rắn độc vào nôi của Hercules. Cậu bé Hercules giật mình tỉnh giấc, thấy hai con rắn độc đang há miệng tấn công, bèn vung tay tóm chặt lấy. Khi thần Zeus chạy đến thì rắn độc đã bị Hercules bóp chết.
Hercules kiên cường sống sót qua âm mưu hãm hại của Hera. Lớn lên, Hercules trở thành một thanh niên khỏe mạnh, thân hình cao to, vạm vỡ. Chàng trở thành vị anh hùng nức tiếng gần xa, còn được xưng danh là “Thần lực sỹ”.
Thấy cậu đã trưởng thành, mẹ của Hercules quyết định để chàng ra đi, xông pha đến vùng đất xa xôi. Không những để tránh khỏi những âm mưu cay độc của Hera, mà còn muốn cho chàng cơ hội tôi luyện qua gian nan, thử thách. Trước lúc lên đường, bà còn yêu cầu Hercules phải hoàn thành 12 nhiệm vụ khó khăn.
Kể tới đây, Trình Viễn Chiêu cố ý dừng lại. Nhậm Chính Phi không khỏi sốt sắng hỏi: “Hercules sau đó có hoàn thành được 12 nhiệm vụ kia không ạ?”.
Trình Viễn Chiêu quan sát vẻ tò mò của con trai, bèn tiếp lời: “Câu chuyện sau đó vô cùng li kì, nếu con muốn nghe tiếp, còn phải xem điểm thi thế nào đã, nếu đạt điểm cao mới được nghe tiếp!”.
Nhậm Chính Phi lúc đó tuy ham chơi, song lại rất hiểu chuyện. Bên ông luôn có người cha uyên bác, giàu nghị lực để noi gương, lại có người mẹ cần cù lương thiện chăm lo dạy bảo. Bằng nỗ lực của bản thân, ông luôn đạt thành tích cao lúc ở trường tiểu học. Cuối cùng, Nhậm Chính Phi cũng mang được kết quả học tập đáng tự hào về nhà, Trình Viễn Chiêu sau khi khen ngợi con trai đã kể tiếp câu chuyện “Thần lực sỹ”.
Hercules quyến luyến cáo biệt người thân. Bằng trí tuệ và sức mạnh vượt trội của mình, chàng đã cứu được thần Prometheus đang chịu sự trừng phạt vì đã ăn cắp ngọn lửa để trao cho nhân loại. Chàng còn lên núi tiêu diệt con sư tử hung dữ đã tàn sát vô số người dân vô tội.
Hercules khi tới thành Troia đã dùng trí tuệ của mình để được quốc vương nơi đây hứa ban cho 300 con bò. Nhưng vị quốc vương kia lại nuốt lời, thấy vậy Hercules bèn vung vũ khí lên, dẹp đuổi tên quốc vương xấu xa chuyên đàn áp dân chúng. Cuối cùng, chàng từng bước hoàn thành 12 chiến công hiển hách.
Để ăn mừng thắng lợi, Hercules đã mở thế vận hội tranh tài đầu tiên ở Olympic. Từ đó, tiếng tăm “Thần lực sỹ” được lan truyền khắp nơi...
Sau khi nghe xong câu chuyện này, Nhậm Chính Phi tuy nhỏ tuổi nhưng cũng hiểu được ngụ ý răn dạy của mẹ: Thần lực sỹ sở dĩ nổi tiếng là bởi ông đã làm rất nhiều chuyện tốt đẹp cho loài người. Cậu thầm hạ quyết tâm, nhất định phải nỗ lực học tập, mai sau lớn lên cũng sẽ làm những việc lớn giúp ích cho nhân loại giống như “Thần lực sỹ”, chỉ có như vậy mới có được giá trị của cuộc đời, cùng niềm vinh quang của kẻ chiến thắng.
ĐẠI HỌC, BƯỚC NGOẶT CUỘC ĐỜI
“Người ta yêu thích vẻ đẹp lúc hoa nở!
Nào đâu biết những gió dập mưa vùi hoa trải qua.”
- BĂNG TÂM
Con đường học hành của Nhậm Chính Phi đầy rẫy những gian truân, ông thường xuyên phải chịu cảnh ăn không đủ no, mặc không đủ ấm.
Địa hình của Quý Châu chủ yếu là cao nguyên, “trời khó nắng ba hôm, đất khó tìm nơi phẳng”. Bởi vậy nơi đây vốn không thích hợp cho nghề nông, nhiều vùng còn không thể tự túc về lương thực.
Khi phong trào “Đại nhảy vọt” diễn ra, do các địa phương làm giả báo cáo sản lượng, nên sau khi giao nộp cho chính quyền số lượng lớn lương thực, các bếp ăn công cộng ở nông thôn chỉ còn lại lượng lương thực ít ỏi để cung cấp cho người dân. Năm 1960, Quý Châu xuất hiện nạn đói nghiêm trọng. Nhưng một số lãnh đạo vì tư lợi cá nhân, vẫn báo cáo lên cấp trên “kinh nghiệm tiên tiến”, lập ra các bếp ăn lớn trên toàn tỉnh. Lời nói dối lặp lại nhiều lần sẽ trở thành sự thật. Song đứng trước nạn đói, lời nói dối bị che đậy bằng “chân lý” kia đã mau chóng bị phơi bày. Năm 1961, kế hoạch bếp ăn lớn nông thôn ở Quý Châu rơi vào bế tắc, không thể duy trì.
Năm đó, Nhậm Chính Phi 18 tuổi, đang theo học trường cấp ba trong thị trấn. Lòng hiếu học có thể khiến ông say sưa vùi đầu vào sách vở để tiếp thu tri thức, giúp nuôi dưỡng tinh thần nhưng không khỏa lấp được chiếc bụng rỗng. Ba năm trung học, niềm ước ao lớn nhất của Nhậm Chính Phi là được ăn một chiếc bánh bao bột mì trắng.
Dù cuộc sống khó khăn nhưng cha mẹ ông vẫn cố gắng cho bảy đứa con đi học, những mong sau này trở thành nhân tài có ích cho xã hội. Vì muốn tiết kiếm tiền cho Nhậm Chính Phi học đại học, Trình Viễn Chiêu tuy đắn đo nhưng rồi quyết định nghiêm túc thực hành “chế độ phân chia khẩu phần ăn” trong gia đình. Chế độ chia phần ăn hay ở chỗ tuy không được ăn no nhưng ai cũng sống được qua ngày.
Để chiến đấu với cái đói, mẹ Nhậm đã dẫn bọn trẻ lên núi hái trái gai đỏ, lấy gốc cây rau dại xay nước, lấy hạt sồi đem xay thành bột làm thức ăn. Song có một thứ không cứu đói được, đó chính là quả thầu dầu, thứ này cứ hễ ăn nhiều là bị đau bụng.
Về sau nhà họ Nhậm còn khai hoang một thửa đất để trồng bí đỏ. Trong lúc gieo trồng, họ còn vô tình phát hiện ra những gốc chuối rừng lớn mọc cạnh mảnh đất hoang có thể luộc ăn.
Mỗi tối, Nhậm Chính Phi cùng các em vây quanh bếp lửa, trực chờ mẹ luộc gốc chuối rừng hoặc bí đỏ. Những thứ này tuy thiếu dinh dưỡng, ăn xong chẳng mấy chốc lại đói ngay, song bầu không khí gia đình đầm ấm khiến những thứ ấy lại trở nên ngon lành.
Nhậm Chính Phi đang ở tuổi ăn tuổi lớn, hằng ngày phải mang chiếc bụng đói đến trường nên thành tích học tập của ông vì thế mà không ổn định. Hồi cấp hai, còn ít tuổi, nhu cầu thức ăn cũng ít, nên cảm giác đói chưa dữ dội, ông vẫn đủ sức chuyên tâm học tập, thế nên thành tích mới tốt như vậy. Khi học lên cấp ba, nhu cầu cơ thể tăng, bị đói lả, hoa mắt, khiến thành tích học tập của ông lên xuống thất thường.
Hồi lớp 11, ông phải nhiều lần thi lại mới được lên lớp. Năm cuối cấp, vì muốn lấy sức ôn thi đại học, ông đã nghĩ ra một cách là lấy cám gạo trộn với rau, rồi bỏ vào trong nồi nướng thành bánh.
Bánh cám gạo vừa vừa đắng vừa chát, lại khô khốc nên rất khó nuốt. Lúc Nhậm Chính Phi dùng thứ này chống đói đã bị Nhậm Ma Tốn phát hiện. Ông hốt hoảng nói: “Chính Phi, con đừng ăn thứ đó, ăn vào hại người lắm!”.
Nhậm Chính Phi giả vờ nói: “Có sao đâu, con còn trẻ, khỏe lắm ạ!”.
Nhậm Ma Tốn kéo tay con trai, liên tục lắc đầu xót xa. Trình Viễn Chiêu vì muốn bổ sung dinh dưỡng cho Nhậm Chính Phi, buổi sáng hằng ngày đều nhét cho ông một chiếc bánh ngô nhỏ, rồi căn dặn ông nhất định phải chuyên tâm ôn luyện để thi đỗ đại học.
Có công mài sắt có ngày nên kim, không chịu gục ngã trước khó khăn, Nhậm Chính Phi cuối cùng cũng thi đỗ vào Học viện Xây dựng Trùng Khánh. Học viện Xây dựng Trùng Khánh được thành lập vào tháng 10/1952, đến năm 1994 trường đổi tên thành Đại học Xây dựng Trùng Khánh. Học viện Xây dựng Trùng Khánh không chỉ có lực lượng nhà giáo hùng hậu, mà thiết bị thực nghiệm cũng hết sức đầy đủ, là một trong tám trường đào tạo ngành xây dựng nổi tiếng của Trung Quốc.
Nhậm Chính Phi thuận lợi thi đỗ đại học, điều này chứng tỏ ông không còn là một cậu bé, mà đã trở thành một chàng thanh niên kiên cường. Đã đến lúc chàng thanh niên ấy phải đối mặt với phong ba, thử thách. Trình Viễn Chiêu tự tay may cho con trai hai chiếc áo mới. Khi nhận hai chiếc áo mới từ tay mẹ, ông không khỏi xúc động, nghẹn ngào.
Ngày ấy kinh tế quốc gia còn khó khăn, phiếu vải phát cho các hộ dân cũng hạn chế. Để có được hai chiếc áo này, có lẽ các em của Nhậm Chính Phi phải mặc quần áo cũ, cả nhà có lẽ phải thắt lưng buộc bụng trong thời gian dài.
Nhưng vẫn còn một thứ cần phải chuẩn bị, đó là chăn ấm. Chuyện này không làm khó được Trình Viễn Chiêu. Bà nhặt số chăn mà học sinh đã tốt nghiệp bỏ lại đem về giặt rồi vá chúng lại thành một tấm chăn sạch sẽ.
Hai chiếc áo cùng tấm chăn ấy đã gắn bó với Nhậm Chính Phi năm năm, mãi cho tới khi cuộc sống đại học ở Trùng Khánh của ông kết thúc.