THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN − một bộ phim phiêu lưu dài tập chiếu ban ngày của giới nhà giàu − sẽ không phải là thị trường chứng khoán nếu không có những thăng trầm. Bất kỳ ai ngồi ghế lãnh đạo từng say mê các truyền thuyết Phố Wall hẳn đã nghe đoạn đối đáp mà người ta đồn là của J. P. Morgan cha1 khi một người quen ngây ngô hỏi nhân vật vĩ đại này về việc liệu thị trường sẽ diễn biến như thế nào. Morgan trả lời tỉnh queo: “Lên-xuống rồi lại xuống-lên!” Và còn nhiều đặc trưng khác. Bên cạnh những mặt lợi và mặt hại của những sàn giao dịch chứng khoán − mặt lợi: tạo ra một dòng vốn tự do để đầu tư mở rộng sản xuất; mặt hại: tạo ra một con đường quá đỗi dễ dàng cho những người cả tin, thiếu thận trọng và kém may mắn đánh mất tiền − sự phát triển những sàn giao dịch này đã tạo ra một hệ thống hành vi xã hội có đủ các tập quán, ngôn ngữ cùng những phản ứng có thể dự đoán được trước từng sự kiện cụ thể. Ngoạn mục nhất là tốc độ bung nở hết cỡ của hệ thống hành vi này sau sự kiện sàn giao dịch chứng khoán lớn đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1611 trên một khoảng sân không mái che ở Amsterdam và mức độ mà hệ thống này duy trì (tất nhiên, cùng với những biến thể) trên Sở Giao dịch Chứng khoán New York vào thập niên 1960. Giao dịch chứng khoán ở Mỹ ngày nay là một ngành kinh doanh khổng lồ với hàng triệu ki-lô-mét đường dây điện báo riêng, các máy tính có thể đọc và sao chép niên giám điện thoại thành phố Manhattan trong 3 phút, và trên 20 triệu cổ đông, dường như đối lập hoàn toàn với cảnh tượng một nhúm người Hà Lan đội mưa cò kè mua bán với nhau vào hồi thế kỷ XVII. Nhưng, những biểu hiện thì vẫn giống nhau. Sàn chứng khoán đầu tiên tình cờ trở thành một phòng thí nghiệm, nơi người ta khám phá ra những phản ứng mới của con người. Tương tự, Sở Giao dịch Chứng khoán New York cũng là một “ống nghiệm” xã hội học, muôn đời đóng góp vào quá trình tự giác ngộ của loài người.
1 J. P. Morgan(1837-1913): Nhà kinh doanh, tài chính, từ thiện và sưu tập nghệ thuật người Mỹ, có vai trò to lớn trong nền tài chính và công nghiệp Hoa Kỳ cuối thế kỷ XIX. (BT)
Hành vi của những người Hà Lan tiên phong trong kinh doanh chứng khoán được khéo léo ghi chép lại trong cuốn sách có tựa đề Confusion of Confusions (Rắc rối của những rắc rối) của tác giả Joseph de la Vega, một nhà đầu cơ tại thị trường Amsterdam, được xuất bản lần đầu năm 1688, và được Trường Kinh doanh Harvard cho dịch sang tiếng Anh và in lại cách đây vài năm. Về hành vi của những nhà đầu tư và môi giới chứng khoán Mỹ ngày nay – như tất cả những nhà kinh doanh chứng khoán khác, các đặc trưng của họ thường bị thổi phồng trong những giai đoạn khủng hoảng – ta có thể làm sáng tỏ bằng việc xem xét những hoạt động của họ trong suốt tuần cuối cùng của tháng Năm năm 1962, thời điểm mà thị trường chứng khoán trải qua những biến động mạnh. Vào thứ Hai, ngày 28 tháng Năm, chỉ số Dow-Jones trung bình của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu (được tính trong mỗi ngày giao dịch, từ năm 1897) giảm tới 34,95 điểm, hay nói cách khác, giảm nhiều hơn bất kỳ ngày giao dịch nào khác trừ ngày 28 tháng Mười năm 1929 với mức sụt giảm 38,33 điểm. Khối lượng giao dịch ngày 28 tháng Năm là 9,35 triệu cổ phiếu – mức doanh thu trong ngày lớn thứ bảy trong lịch sử thị trường chứng khoán. Vào thứ Ba ngày 29 tháng Năm, sau một buổi sáng báo động khi hầu hết các cổ phiếu tụt giảm xuống mức thấp hơn nhiều so với mức giá đóng cửa của buổi chiều thứ Hai, thị trường bất ngờ đổi hướng, tăng vọt đến mức kinh ngạc, và kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow-Jones tăng khá cao, tận 27,03 điểm, tuy chưa phải là mức phá kỷ lục. Mức tăng kỷ lục hay gần chạm kỷ lục của ngày thứ Ba này nằm ở khối lượng giao dịch; 14,75 triệu cổ phiếu được trao tay, tạo nên doanh số một ngày cực lớn, chỉ đứng sau ngày 29 tháng Mười năm 1929 với hơn 16 triệu cổ phiếu được giao dịch. (Sau này, vào thập niên 1960, 10 triệu, 12 triệu, hay thậm chí 14 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày là phổ biến. Kỷ lục năm 1929 bị phá vỡ vào ngày 1 tháng Tư năm 1968, và trong mấy tháng tiếp sau đó, kỷ lục mới liên tiếp được thiết lập). Rồi đến thứ Năm ngày 31 tháng Năm (thứ Tư là ngày nghỉ Lễ Chiến sĩ trận vong) chu trình hoàn tất; chỉ số Dow-Jones trung bình tăng 9,40 điểm với 10,71 triệu cổ phiếu được giao dịch (khối lượng lớn thứ năm trong lịch sử chứng khoán), nhỉnh hơn số điểm trước khi bắt đầu xảy ra cơn kích động.
Cuộc khủng hoảng chỉ kéo dài ba ngày, nhưng ai cũng biết, phần mổ xẻ còn kéo dài hơn. Một trong những quan sát mà de la Vega đúc rút về các thương nhân Amsterdam là họ “rất khôn khéo bịa ra lý do” cho sự tăng hay giảm giá đột ngột của cổ phiếu, và chắc chắn các chuyên gia Phố Wall cần vận hết trí tuệ mới có thể lý giải vì sao ngay giữa một năm thịnh vượng như thế, thị trường đột nhiên tụt dốc thảm hại tới mức giảm sâu thứ hai trong lịch sử tính tới thời điểm đó. Ngoài việc tìm cách giải thích – mà một trong những nguyên nhân hàng đầu thường được cho là do Tổng thống Kennedy thẳng tay dập tắt kế hoạch tăng giá của ngành thép vào tháng Tư − không thể tránh khỏi việc các cuộc mổ xẻ thường so sánh tháng Năm năm 1962 với tháng Mười năm 1929. Riêng con số về biến động giá cả và khối lượng giao dịch cũng đủ để người ta đi đến sự so sánh này, cho dù hai ngày kinh hoàng tồi tệ nhất trong hai tháng ấy là 28 và 29 không hề trùng nhau theo lối ma mị hay có điềm báo trước như một số người nghĩ. Nhưng nhìn chung phải thừa nhận, những điểm tương phản giữa hai thời điểm ấy có sức thuyết phục hơn những điểm tương đồng. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1962, những quy định về phương thức giao dịch và những hạn chế vay tín dụng đối với khách mua cổ phiếu đã khiến cho người ta khó lòng − nếu không nói là không thể − nướng sạch tiền vào chứng khoán. Tóm lại, hình dung từ của de la Vega về thị trường chứng khoán Amsterdam vào những năm 1680 − ông gọi nó là “ổ cờ bạc” mặc dù rõ ràng là ông yêu nó − gần như không mấy phù hợp cho thị trường New York trong thời kỳ 33 năm giữa hai lần sụp đổ.
Vụ sụp đổ năm 1962 không phải đến mà không báo trước, cho dù rất ít nhà quan sát đọc được chính xác những cảnh báo ấy. Ngay thềm năm mới, cổ phiếu đã bắt đầu sụt giảm dần đều, và tốc độ này tăng dần đến độ mà tuần giao dịch trước đó − từ ngày 21 tháng Năm đến ngày 25 tháng Năm − là tuần tồi tệ nhất của Sở Giao dịch kể từ tháng Sáu năm 1950. Vào buổi sáng thứ Hai ngày 28 tháng Năm, các nhà môi giới và nhà buôn chứng khoán đã có lý do để suy tư. Cổ phiếu đã chạm đáy chưa? Hay sắp sửa chạm? Nhìn lại thì thấy có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau. Dịch vụ tin Dow-Jones, với công việc là cung cấp tin tức tài chính tâm điểm cho người đăng kí qua máy điện báo, phản ánh sự lo ngại nhất định trong khoảng thời gian từ lúc bắt đầu phát tin vào lúc 9 giờ cho tới khi Sở Giao dịch mở cửa lúc 10 giờ. Trong một tiếng đồng hồ này, băng tin rộng (như người ta thường gọi bản tin Dow-Jones in theo chiều dọc giấy khổ 15x0,6 cm để phân biệt với băng tin báo giá của Sở Giao dịch được in theo chiều ngang và chỉ dài 1,9 cm) bình luận rằng, nhiều nhà kinh doanh chứng khoán đã bận rộn cả cuối tuần với việc gửi yêu cầu đến các khách hàng mua chịu sở hữu những cổ phiếu đang xuống giá cần bổ sung thế chấp ngay. Bản tin này nhận xét rằng kiểu bán tống bán tháo vội vã tuần trước là “hành động đã nhiều năm nay xa lạ với Phố Wall”. Bản tin này tiếp tục đưa ra một số tin thương mại đáng khích lệ như Công ty Westinghouse vừa nhận được một hợp đồng mới với Hải quân. Tuy nhiên, như de la Vega đã nói, trên thị trường chứng khoán, “những tin tức [kiểu như vậy] thường chẳng có mấy giá trị”, trong ngắn hạn, tâm trạng nhà đầu tư mới là điều đáng nói.
Tâm trạng này trở nên rõ nét chỉ trong vài phút sau khi thị trường mở cửa. Lúc 10 giờ 11 phút, băng tin thông báo “lúc mở cửa, giá cổ phiếu hỗn hợp và giao dịch nhộn nhịp vừa phải”. Đây là một thông tin mang tính trấn an, vì “hỗn hợp” có nghĩa là vừa có tăng vừa có giảm, và với một thị trường sụt giá thì nói chung tình hình sẽ ít rủi ro hơn nhiều nếu khối lượng giao dịch chỉ ở mức vừa phải chứ không quá lớn. Nhưng niềm an ủi này không kéo dài, vì đến 10 giờ 30 phút, băng tin của Sở Giao dịch (ghi giá và số lượng cổ phiếu của mỗi giao dịch diễn ra trên sàn) không những vẫn ghi các mức giá thấp hơn, mà với tốc độ tối đa 500 ký tự/ phút, còn đăng trễ tận 6 phút. Sự chậm trễ của băng tin cho thấy, rõ ràng chiếc máy đã không thể bắt kịp những giao dịch đang diễn ra tít mù. Thường thì khi một giao dịch trên sàn của Sở Giao dịch ở số 11 Phố Wall hoàn tất, một nhân viên của Sở sẽ ghi lại chi tiết lên một mẩu giấy và gửi nó qua ống khí nén tới một căn phòng trên tầng 5 của tòa nhà, ở đây, một nhân viên nữ sẽ đánh máy mẩu giấy vào máy điện báo để truyền đi. Quãng thời gian chờ từ 2 đến 3 phút từ khi có giao dịch trên sàn và khi giao dịch xuất hiện trên băng tin là bình thường, và không được Sở Giao dịch xem là “trễ”; khái niệm “trễ”, theo ngôn ngữ của Sở Giao dịch, chỉ được sử dụng để mô tả một khoảng trễ thêm 2-3 phút nữa tính từ khi tờ phiếu bán hàng lên được đến tầng 5 và được chiếc máy điện báo ghi nhận. (De la Vega phàn nàn: “Các thuật ngữ trên sàn chứng khoán không được lựa chọn cẩn thận.”) Băng tin thường xuyên xảy ra tình trạng “trễ” một vài phút vào những ngày giao dịch tấp nập, nhưng từ năm 1930, khi loại máy điện báo thịnh hành vào năm 1962 được lắp đặt, thì những vụ trễ lâu cực kỳ hiếm khi xảy ra. Ngày 24 tháng Mười năm 1929, khi băng tin bị trễ 246 phút, máy đang in với tốc độ 285 ký tự/phút; từ tháng Năm năm 1962 trở về trước, khoảng trễ lớn nhất từng xảy ra trên chiếc máy mới là 34 phút.
Rõ ràng giá cổ phiếu đang giảm và giao dịch đang tăng lên, nhưng tình thế chưa đến nỗi tuyệt vọng. Tính tới 11 giờ thì có thể xác nhận là chiều hướng sụt giảm của tuần trước vẫn tiếp tục diễn ra với tốc độ giảm dần đều. Nhưng khi nhịp độ giao dịch tăng lên, độ trễ của băng tin cũng tăng lên. Lúc 10 giờ 55 trễ 13 phút, lúc 11 giờ 14 trễ 20 phút, lúc 11 giờ 35 trễ 28 phút, lúc 11 giờ 58 trễ 38 phút, lúc 12 giờ 14 trễ 43 phút. (Để chí ít ra cũng thêm thắt một chút thông tin cập nhật lên băng tin mỗi khi tin bị trễ từ 5 phút trở lên, Sở Giao dịch thỉnh thoảng lại dừng tiến trình bình thường để chèn vào đó các tin nhanh hoặc bảng niêm yết giá hiện tại của một vài cổ phiếu dẫn đầu. Tất nhiên, thời gian cho việc này càng tăng thêm độ trễ). Tổng kết giữa trưa về chỉ số công nghiệp trung bình Dow-Jones cho thấy chỉ số này giảm 9,86 điểm.
Những dấu hiệu hoảng loạn tập thể bắt đầu xuất hiện vào giờ ăn trưa. Một dấu hiệu là từ 12 giờ tới 2 giờ, thời điểm thị trường luôn ế ẩm nhất, không chỉ giá cổ phiếu tiếp tục đà giảm mà khối lượng giao dịch vẫn tiếp tục tăng lên, gây ra tác động tương ứng trên băng tin. Khi chỉ còn vài phút là kim đồng hồ nhảy sang 2 giờ chiều, độ trễ băng tin là 52 phút. Việc người ta mang cổ phiếu đi bán vào cái giờ lẽ ra đang ngồi ăn trưa được xem là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng. Một điềm báo thuyết phục không kém nữa là điềm báo về một cơn thịnh nộ sắp bùng nổ tại văn phòng trên Quảng trường Thời đại (số 1451 Đại lộ Broadway) của Công ty Merrill Lynch, Pierce, Fenner & Smith, gã khổng lồ Gargantua1 của ngành môi giới chứng khoán mà ai cũng công nhận. Văn phòng này phải chịu một kiểu quấy rầy rất kỳ quái: nằm ngay ở vị trí trung tâm nhất nên cứ vào giờ ăn trưa hằng ngày nơi đây được viếng thăm bởi một lượng không nhỏ những vị khách mà giới môi giới gọi là “người đi dạo” – những người chơi cổ phiếu rất nhỏ, họa hoằn nếu có, còn chủ yếu là những kẻ hiếu kỳ đến tham quan bầu không khí của một văn phòng môi giới với những con số nhảy nhót lên xuống, đặc biệt trong những đợt khủng hoảng trên thị trường chứng khoán. (“Nhìn thoáng là đọc vị được ngay ai vào xem cho vui, ai chơi máu me thật.” − de la Vega). Từ kinh nghiệm lâu năm của mình, Samuel Mothner, vị giám đốc điềm đạm người Georgia của văn phòng này, đã nhận ra tương quan mật thiết giữa mức độ quan tâm hiện tại của công chúng đối với thị trường và số lượng “người đi dạo” tại văn phòng của ông, và vào trưa ngày 28 tháng Năm, đám người này xuất hiện đông đến mức, theo trực giác đã qua tôi luyện của ông, giống như một đàn hải âu báo bão.
1 Gã khổng lồ Gargantua: Một nhân vật trong tác phẩm Gargantua và Pantagruel của nhà văn Pháp nổi tiếng thời Phục hưng François Rabelais.
Những rắc rối của Mothner, cũng giống như rắc rối của những người môi giới từ San Diego đến Bangor, không chỉ dừng lại ở những dấu hiệu và điềm báo xấu. Một quá trình bán tống ồ ạt đã diễn ra rồi. Trong văn phòng của Mothner, số lệnh khách hàng đặt nhiều gấp năm sáu lần so với mức trung bình, và gần như toàn bộ trong đó đều là lệnh bán. Trên bình diện chung, người môi giới đang kêu gọi khách hàng bình tĩnh và vẫn giữ cổ phiếu, ít nhất cho tới thời điểm hiện tại, nhưng không thể thuyết phục đại bộ phận khách hàng. Một văn phòng Merrill Lynch khác ở trung tâm thành phố, số 61 đường West 48, nhận được một bức điện ngắn gọn của một khách hàng giàu có sống ở Rio de Janeiro: “Hãy bán hết cổ phiếu của tôi đi.” Không còn thời gian để thương lượng từ xa về việc hoãn bán, Merrill Lynch không có lựa chọn nào khác ngoài việc thực hiện lệnh. Đến đầu giờ chiều, các đài phát thanh và truyền hình đánh hơi được tin này, cho dừng chương trình thường lệ để đăng tin nóng về tình hình. Một ấn phẩm của Sở Giao dịch khi ấy đã bình luận với giọng điệu khó chịu: “Mức độ chú ý những bản tin này dành cho thị trường chứng khoán càng làm các nhà đầu tư lo lắng.” Và rắc rối mà các nhà môi giới gặp phải khi thực hiện một cơn lũ lệnh bán ra lúc này càng thêm trầm trọng hơn gấp bội phần vì vấn đề kỹ thuật. Độ trễ băng tin, mà tính đến 2 giờ 26 phút đã lên tới 55 phút, có nghĩa rằng gần như các máy điện báo đang phát đi giá cổ phiếu của một giờ trước đó, và trong nhiều trường hợp, giá này cao hơn giá hiện hành từ từ 1 đến 10 đô-la/cổ phiếu. Một người môi giới khi nhận được lệnh bán từ khách hàng gần như sẽ không thể báo ngay cho khách mức giá dự kiến. Một số công ty môi giới đang cố gắng khắc phục độ trễ này bằng cách sử dụng hệ thống báo cáo tạm thời của riêng họ, trong đó có Merrill Lynch. Các nhà môi giới của Merrill Lynch sau khi hoàn tất một vụ giao dịch, nếu không quên và có thời gian, sẽ hét to kết quả vào chiếc điện thoại ở góc mỗi tầng được kết nối với một chiếc loa đặt tại trụ sở chính của công ty, số 70 đường Pine. Đương nhiên, phương pháp ngẫu hứng như thế khó tránh khỏi sai sót.
Trên sàn giao dịch, không hề có dấu hiệu phục hồi nào hết, mà chỉ có chuyện toàn bộ cổ phiếu đều sẽ sụt nhanh và đều, với khối lượng giao dịch lớn. Như de la Vega hẳn sẽ mô tả tình huống này – mà thực ra là ông mô tả văn vẻ một tình huống tương tự – “Gấu [tức là người bán] đang chết lặng trong sợ hãi, lo lắng và bồn chồn. Thỏ biến thành voi, những cuộc cãi lộn tại quán rượu biến thành những cuộc nổi loạn, những bóng mờ với họ là dấu hiệu của sự hỗn loạn.” Một khía cạnh không kém phần lo ngại là các cổ phiếu bluechip hàng đầu, đại diện cho cổ phần tại các công ty lớn nhất nước Mỹ, đang nằm ngay giữa đà giảm. Thực vậy, American Telephone & Telegraph − công ty lớn nhất và có số cổ đông lớn nhất trong số các công ty − đang dẫn toàn bộ thị trường lao xuống dốc. Với khối lượng cổ phiếu giao dịch lớn hơn bất kỳ cổ phiếu nào trong số 1.500 loại đang giao dịch tại Sở (giá phần lớn các cổ phiếu đó chỉ bằng phần nhỏ giá cổ phiếu Telephone), Telephone đang bầm dập với từng đợt sóng bán ra khẩn cấp liên tiếp trong suốt cả ngày, cho tới 2 giờ chiều thì dừng ở 104, 75 − giảm 6,875 trong cả ngày − và vẫn tiếp tục giảm. Luôn giữ vai trò gần như đầu đàn, Telephone được theo dõi chặt chẽ hơn bao giờ hết, và chỉ cần cổ phiếu này giảm một phần nhỏ của một điểm cũng đủ báo hiệu sự sụt giảm sâu hơn trên toàn bộ thị trường. Trước 3 giờ, cổ phiếu I.B.M. giảm 17,5 điểm; cổ phiếu Standard Oil ở New Jersey, vốn luôn miễn nhiễm với những đợt sụt giảm chung, đã giảm 3,25; và cổ phiếu Telephone cũng đã tụt nhanh một lần nữa, xuống còn 101,125. Ấy thế mà vẫn chưa thấy đáy ở đâu.
Tuy nhiên, không khí trên sàn giao dịch, như những người có mặt ở đó mô tả là chưa điên loạn − hay, chí ít, mọi cơn điên loạn đều được kiểm soát rất tốt. Nhiều nhà môi giới vi phạm quy định cấm chạy trên sàn của Sở Giao dịch, và một số gương mặt toát lên những biểu cảm mà một quan chức Sở Giao dịch bảo thủ mô tả là “nghiêm trọng”, song vẫn có những chuyện trêu chọc, đùa cợt, công kích nhau như thường lệ. (“Bông đùa... tạo nên điểm hấp dẫn chính cho ngành này.” − de la Vega.) Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. “Tôi nhớ nhất là cảm giác rệu rã hết cả người,” một nhà môi giới trên sàn nói. “Trong ngày xảy ra khủng hoảng, có khi chúng tôi đi đi lại lại trên sàn khoảng 16-17 km − đo bằng máy đếm bước hẳn hoi − nhưng không phải chỉ kiệt sức vì khoảng cách, mà còn bởi va chạm cơ thể. Người người xô đẩy, trèo quẹo qua người nhau. Rồi thì cả mớ âm thanh − những tiếng xuýt xoa thường thấy khi giá sụt. Mức sụt giảm càng mạnh thì những tiếng xuýt xoa này càng to. Khi thị trường lên, thì mớ âm thanh ấy lại khác hẳn. Khi đã quen được với sự khác biệt này thì nhắm mắt lại anh cũng có thể biết thị trường đang như thế nào. Dĩ nhiên, vẫn tiếp diễn những trò đùa bỡn, nhưng có thể hơi gượng gạo hơn bình thường một chút. Ai cũng bình phẩm chuyện chúng tôi reo hò khi tiếng chuông reo lên báo hiệu đóng cửa thị trường lúc 3 giờ 30. Thực ra, chúng tôi không reo hò vì thị trường xuống giá. Chúng tôi reo hò vì đã kết thúc rồi!”
Nhưng có thật là đã kết thúc? Câu hỏi này vẫn làm trăn trở cả Phố Wall và giới đầu tư cả nước Mỹ suốt buổi chiều và buổi tối hôm ấy. Buổi chiều, chiếc máy điện báo ì ạch của Sở Giao dịch lọc cọc lọc cọc ghi lại nghiêm túc giá các cổ phiếu đã lạc hậu từ lâu. (Tại thời điểm đóng cửa, độ trễ là 69 phút, và đến 5 giờ 58 phút mới in xong những giao dịch trong ngày). Nhiều nhà môi giới bám trụ ở Sở Giao dịch cho đến 5 giờ chiều, sắp xếp chi tiết giao dịch, sau đó về lại phòng làm việc của mình để làm quyết toán. Những gì băng tin đưa ra, khi cập nhật xong, thì rặt tin buồn. Giá đóng cửa cổ phiếu Telephone là 100,625, giảm 11 trong cả ngày. Philip Morris là 71,5, giảm 8,25, Campbell Soup là 81, giảm 10,75. I.B.M. là 361, giảm 37,5, v.v. Tại các văn phòng môi giới, nhân viên luôn tất bật, nhiều người bận bịu thâu đêm với đủ thứ việc đặc biệt, mà cấp bách nhất là việc gửi đi các lệnh yêu cầu ký quỹ bổ sung. Lệnh này là yêu cầu thế chấp bổ sung đối với khách hàng đã vay nợ từ người môi giới để mua cổ phiếu nhưng hiện tại số cổ phiếu ấy của họ có giá trị thấp hơn khoản họ đã vay. Nếu khách hàng không sẵn lòng hoặc không có nguồn lực để ký quỹ bổ sung theo lệnh, nhà môi giới của người đó sẽ bán các cổ phiếu ký quỹ càng sớm càng tốt; việc bán ra như vậy có thể làm các cổ phiếu khác sụt giá sâu hơn, kéo theo nhiều lệnh gọi ký quỹ bổ sung, dẫn đến tình trạng cổ phiếu bán ra ào ạt hơn, và cứ thế cứ thế theo đà kéo nhau tụt xuống hố. Năm 1929, cái hố này không có đáy vì khi ấy chưa có lệnh hạn chế của liên bang về tín dụng thị trường chứng khoán. Kể từ đó, người ta đặt hạn mức cho nó, nhưng thực tế thì những yêu cầu tín dụng vào tháng Năm năm 1962 vẫn chỉ ở mức một khách hàng có thể sẽ nhận được lệnh gọi ký quỹ bổ sung khi cổ phiếu người ấy mua ký quỹ đã rớt giá xuống khoảng 50-60% so với giá trị tại thời điểm mua. Tại thời điểm đóng cửa giao dịch vào ngày 28 tháng Năm, gần như cứ 4 cổ phiếu thì có 1 cổ phiếu sụt giá như vậy so với mức cao của nó vào năm 1961. Sở Giao dịch ước tính trong khoảng thời gian từ 25 đến 31 tháng Năm, có 91.700 lệnh gọi ký quỹ bổ sung được gửi đi, chủ yếu bằng điện tín. Có thể suy luận rằng phần lớn những lệnh này được thực hiện vào buổi chiều, buổi tối, hoặc suốt đêm chứ không phải chỉ trong nửa đêm ngày 28 tháng 5. Nhiều khách hàng lần đầu nghe được tin về cuộc khủng hoảng − hay lần đầu nhận thức được sức mạnh gần như ma quái của nó − là khi bị đánh thức bởi một lệnh gọi ký quỹ bổ sung khi bình minh của ngày thứ Ba còn chưa tới.
Nếu hiểm họa từ hệ lụy của việc bán ký quỹ năm 1962 còn xa mới bằng hồi 1929, thì hiểm họa từ một hướng khác − việc các quỹ tương hỗ bán cổ phiếu ra − còn nghiêm trọng hơn gấp tỷ tỷ lần. Quả vậy, nhiều chuyên gia Phố Wall hiện nay cho biết, ở đỉnh điểm của đợt khủng hoảng tháng Năm, mới nghĩ đến tình hình của các quỹ tương hỗ thôi là họ đã rùng mình. Hàng triệu người Mỹ đã mua cổ phiếu của các quỹ tương hỗ trong tầm hai thập kỷ trước đều biết rằng các quỹ này mở đường cho các nhà đầu tư nhỏ quy hết nguồn lực của họ về một bàn tay quản lý chuyên nghiệp; các nhà đầu tư nhỏ mua cổ phiếu của một quỹ, và quỹ này sử dụng tiền đó để mua cổ phiếu và sẵn sàng thanh toán hoàn trả giá trị cổ phiếu cho nhà đầu tư theo giá trị tài sản lưu động của các cổ phiếu ấy bất cứ khi nào người ấy muốn. Khi thị trường chứng khoán sụt giảm nghiêm trọng, ta có thể lý giải thế này: Các nhà đầu tư nhỏ sẽ muốn rút tiền ra khỏi thị trường chứng khoán, và do đó, sẽ yêu cầu hoàn trả giá trị cổ phiếu của mình; để huy động tiền mặt đủ đáp ứng các yêu cầu hoàn trả này, các quỹ tương hỗ sẽ phải bán một số cổ phiếu; những đợt bán này sẽ dẫn tới việc thị trường chứng khoán tiếp tục sụt giảm sâu hơn, khiến càng nhiều người nắm giữ cổ phiếu của quỹ đòi hoàn trả − và thế là lại rơi xuống cái hố không đáy phiên bản mới. Cả giới đầu tư còn rùng mình khiếp hãi hơn trước khả năng này bởi thực tế là mức độ khuếch đại tình trạng suy thoái thị trường của các quỹ tương hỗ chưa từng được đánh giá. Từ chỗ gần như không tồn tại vào năm 1929, các quỹ này đã gây dựng được một khối tài sản đáng kinh ngạc đến 23 tỷ đô-la vào mùa xuân năm 1962, và trong khoảng thời gian đó thị trường chưa bao giờ sa sút mạnh như lúc này. Rõ ràng, nếu lúc này 23 tỷ đô-la tài sản, hay một phần đáng kể của con số đó được tung ra thị trường, nó có thể gây ra một vụ sụp đổ khiến cho vụ năm 1929 chỉ là cú trượt chân. Charles J. Rolo, một nhà môi giới chín chắn, từng là một người điểm sách cho tờ Atlantic trước khi gia nhập văn phái Phố Wall năm 1960, nhớ lại nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng dạng lốc xoáy do các quỹ gây ra cùng với việc dân tình hoàn toàn mù mờ về việc nguy cơ ấy đã đến hay chưa “đáng sợ đến nỗi người ta thậm chí còn không nhắc tới chủ đề này.” Là một người mà độ nhạy cảm văn chương vẫn trụ vững trước sự thô bỉ nức tiếng của ngành kinh tế, Rolo có lẽ là một nhân chứng nhìn thấy nhiều khía cạnh khác nhau của tâm trạng con người trong khu thương mại Phố Wall lúc chập choạng tối ngày 28 tháng 5. Sau này ông kể: “Có cái gì đó thật hão huyền. Theo chỗ tôi biết thì không một ai mảy may biết đáy sẽ tụt xuống tận đâu. Vào thời điểm đóng cửa của ngày hôm đó, chỉ số trung bình Dow-Jones giảm gần 35 điểm, xuống còn khoảng 577. Ngày nay ở Phố Wall người ta vẫn kín đáo phủ nhận điều này, nhưng hồi ấy nhiều vị chóp bu có nói về cái đáy 400 điểm − mà nếu như thế hẳn sẽ là một thảm họa. Người ta nghe thấy hai chữ “bốn trăm” được lặp đi lặp lại, thế nhưng nếu bây giờ hỏi lại, họ sẽ nói là “năm trăm”. “Và cùng với những sự e dè đó là một cảm giác tuyệt vọng sâu sắc rất đặc trưng trong giới môi giới. Chúng tôi biết rằng khách hàng của mình − không phải tất cả đều giàu có − đã phải chịu tổn thất lớn từ các hành động của chúng tôi. Nói thật nhé, đánh mất tiền của người khác rất khó chịu! Hãy nhớ rằng điều này xảy ra sau khoảng 12 năm cổ phiếu liên tục tăng giá. Sau hơn một thập kỷ dù ít dù nhiều mang lại lợi nhuận liên tục cho bản thân và khách hàng của mình, anh nghĩ rằng mình khá giỏi. Anh đang ở đỉnh cao. Anh kiếm ra tiền, và thế là xong. Cuộc khủng hoảng làm lộ ra một nhược điểm. Nó làm cho người ta gần như mất phần nào sự tự tin, mà như thế thì khó mà nhanh chóng hồi phục.” Có vẻ như bấy nhiêu là quá đủ để một nhà môi giới ước ao rằng giá như họ tuân theo nguyên tắc vàng của de la Vega: “Không bao giờ khuyên ai mua hay bán cổ phiếu, bởi vì khi đã không còn sáng suốt thì ngay cả một lời khuyên nhân từ nhất cũng có thể gây hậu quả khôn lường.”
Sang đến sáng thứ Ba thì quy mô thua lỗ của thứ Hai đã trở nên quá rõ ràng. Người ta tính ra rằng, số lỗ trên giấy tờ lên tới 20,8 tỷ đô-la trên toàn bộ cổ phiếu niêm yết ở Sở Giao dịch. Đây là con số kỷ lục của mọi thời đại, ngay cả ngày 28 tháng Mười năm 1929 cũng chỉ lỗ 9,6 tỷ đô-la, nhưng mấu chốt của điểm tưởng như mâu thuẫn này nằm ở chỗ tổng giá trị của các cổ phiếu niêm yết tại Sở hồi năm 1929 nhỏ hơn rất nhiều so với tổng giá trị của năm 1962. Kỷ lục mới này cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc gia của Mỹ − cụ thể là gần 4%. Trên thực tế, có thể ví như chỉ trong một ngày, nước Mỹ mất đi tổng giá trị sản phẩm của hai tuần. Và, tất nhiên, việc này tác động đến thị trường nước ngoài. Tại châu Âu, chênh lệch múi giờ dẫn tới việc người ta phản ứng với Phố Wall chậm mất một ngày nên thứ Ba mới xảy ra khủng hoảng; 9 giờ sáng hôm đó tại New York, tức là đã gần kết thúc ngày giao dịch tại châu Âu, gần như tất cả các sàn giao dịch hàng đầu châu Âu đang chứng kiến những đợt bán tống bán tháo, mà nguyên nhân đích thị là cuộc khủng hoảng tại Phố Wall. Milan lỗ nhiều nhất trong 18 tháng trở lại. Brussels thiệt hại nhiều nhất tính từ năm 1946, khi Trung tâm chứng khoán được mở cửa trở lại sau chiến tranh. Luân Đôn trải qua cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong vòng ít nhất là 27 năm. Ở Zurich, đầu giờ sáng có tới 30% được bán tháo, nhưng thiệt hại đang giảm dần khi những người săn cổ phiếu giá rẻ bắt đầu nhảy vào thị trường. Và luồng phản ứng dữ dội khác − không trực tiếp bằng, nhưng về khía cạnh con người lại nghiêm trọng hơn rõ rệt − có thể thấy ở một số nước nghèo hơn. Ví dụ, trên thị trường hàng hóa New York, với mỗi đợt xuất khẩu tháng Bảy, giá đồng giảm 0,44 xu mỗi cân Anh. Số tiền thiệt hại có vẻ không đáng kể, nhưng lại là vấn đề sống còn với một đất nước nhỏ bé phụ thuộc nặng nề vào xuất khẩu đồng. Trong cuốn sách The Great Ascent (Cú lội dòng ngoạn mục), Robert L. Heilbroner đã nêu một ước tính rằng, chỉ cần giá đồng trên thị trường New York giảm mất một xu thì ngân khố của Chile đã tổn thất tới 4 triệu đô-la; theo phép tính này, riêng với đồng không thôi, Chile đã tổn thất tới 1,76 triệu đô-la.
Nhưng có lẽ việc biết những gì đã xảy ra không tồi tệ bằng nỗi lo rồi đây không biết sẽ còn xảy ra chuyện gì nữa. Tờ Times bắt đầu một bài xã luận khiến người ta nôn nao với tuyên bố rằng “hôm qua cái gì đó tựa động đất đã tấn công vào thị trường chứng khoán”, rồi sau đó dành gần nửa cột báo để cổ vũ tinh thần bằng lời khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Bất chấp những lên xuống của thị trường chứng khoán, chúng ta đang và sẽ vẫn làm chủ số phận kinh tế của mình.” Băng tin Dow-Jones − sau giờ mở cửa vào lúc 9 giờ với lời chào vui vẻ quen thuộc “Chào buổi sáng” − gần như ngay lập tức đi vào những báo cáo đầy lo lắng về tin tức thị trường từ nước ngoài, và đến 9 giờ 45 phút, tức là chỉ còn 15 phút nữa là tới giờ mở cửa sàn giao dịch, cũng đang hoang mang tự hỏi: “Khi nào thì việc bán phá giá cổ phiếu mới dừng lại?” Chưa đâu, tờ này kết luận; mọi dấu hiệu dường như đều chỉ ra rằng áp lực bán ra “còn lâu mới hết”. Khắp giới tài chính, những tin đồn xấu xí lan tràn về tình trạng sắp phá sản của nhiều công ty chứng khoán càng làm trầm trọng thêm bầu không khí vốn đã ảm đạm. (“Việc trông ngóng một sự kiện để lại ấn tượng còn sâu sắc hơn nhiều... so với chính sự kiện ấy.” — de la Vega). Cho dù những lời đồn thổi này sau đó được chứng minh là giả thì lúc ấy cũng chẳng có tác dụng gì. Tin tức về cuộc khủng hoảng chỉ trong một đêm đã lan rộng khắp từng thành phố trên nước Mỹ, và thị trường chứng khoán đã trở thành mối bận tâm của cả nước. Tại các văn phòng môi giới, tổng đài bị nghẽn vì những cuộc gọi đến, khu vực khách hàng ken đặc khách vãng lai, và nhiều chỗ thì đông nghịt phóng viên truyền hình. Tại Sở Giao dịch, ai làm việc tại sàn đều đến từ sớm, sẵn sàng trực chiến đối phó với cơn bão đã được dự báo, và đội ngũ nhân viên văn phòng trên các tầng cao hơn của số 11 Phố Wall được huy động giúp phân loại từng núi lệnh. Vào giờ mở cửa, hành lang đón khách chật như nêm, tới mức những chuyến tham quan có người hướng dẫn như thường lệ bị tạm hoãn hôm đó. Chen chân vào được hành lang buổi sáng ngày hôm ấy là một tốp học sinh lớp 8 của trường Corpus Christi ở phố West 121; Xơ Aquin, giáo viên của lớp phân trần với phóng viên rằng, từ hơn hai tuần trước, nhóm học sinh của cô đã chuẩn bị cho chuyến tham quan này với việc đầu tư chứng khoán giả định, mỗi em đầu tư một số tiền giả định là 10.000 đô-la. “Bọn chúng lỗ hết sạch tiền”, Xơ Aquin nói.
Theo hồi ức của nhiều người buôn bán chứng khoán kỳ cựu, kể cả một số người sống sót qua được cuộc khủng hoảng năm 1929, sau khi sàn giao dịch mở cửa là 90 phút đen tối nhất. Trong mấy phút đầu tiên, tương đối ít cổ phiếu được giao dịch, nhưng sự trầm lắng này không có nghĩa là mọi người đang bình tĩnh tính toán, mà trái lại, nó phản ánh áp lực bán ra lớn đến nỗi tạm thời làm tê liệt hoạt động. Để giảm thiểu những cú thay đổi giá đột ngột, Sở Giao dịch yêu cầu phải có một quan chức trên sàn trực tiếp cấp phép cho mỗi giao dịch nếu mức giá chênh lệch so với mức giá trước từ 1 hoặc hơn 1 điểm cho cổ phiếu có giá dưới 20 đô-la, hoặc 2 hoặc hơn 2 điểm cho cổ phiếu có giá trên 20 đô-la. Hiện tại, người bán đông như kiến, còn người mua thì hiếm hoi như lá mùa thu, cho nên hàng trăm cổ phiếu sẽ phải mở bán với mức giá chênh lệch lớn như thế hoặc lớn hơn thế, do đó không thể tiến hành giao dịch những cổ phiếu này chừng nào chưa tìm được một quan chức phụ trách sàn giữa đám đông đang hò hét kia. Với những cổ phiếu then chốt, như I.B.M., sự chênh lệch giữa số lượng người bán và số lượng người mua lớn đến nỗi không thể thực hiện giao dịch ngay cả khi được cấp phép, và chẳng thể làm gì ngoài việc chờ đợi cho đến khi triển vọng có được giá hời nhử thêm người mua tham gia vào thị trường cho đủ lượng. Bảng tin Dow-Jones, dường như cũng bị choáng váng, cà giật đưa ra thông báo giá cổ phiếu ngẫu nhiên và những mẩu tin tức, và vào lúc 11 giờ 30 phút, bảng tin thông báo rằng “ít nhất bảy” cổ phiếu ở Sở Giao dịch Chứng khoán New York vẫn chưa mở bán. Sau này, khi bức màn được vén lên, con số thực tế rõ ràng còn lớn hơn thế nhiều. Trong khi đó, chỉ số trung bình Dow-Jones rớt thêm 11,09 điểm ngay trong giờ giao dịch đầu tiên, và giá trị chứng khoán bị lỗ của ngày thứ Hai đã tăng vài tỷ đô-la, và cơn hoảng loạn càng trầm trọng.
Và cùng với cơn hoảng loạn, sự hỗn loạn đến gần. Người ta có thể nói nhiều điều về ngày thứ Ba, 29 tháng Năm, song người ta sẽ ghi nhớ mãi đó là ngày chứng kiến tình trạng gần như sụp đổ hoàn toàn của tổ hợp phương tiện kỹ thuật phức tạp, tự động, siêu việt, phục vụ cho việc giao dịch chứng khoán toàn quốc tại một đất nước khổng lồ, nơi gần như cứ 6 người trưởng thành thì có một người chơi chứng khoán. Nhiều lệnh được thực hiện ở mức giá khác xa mức giá đã thỏa thuận với khách đặt lệnh; nhiều lệnh bị thất lạc trong quá trình truyền đi, hoặc lẫn lộn trong núi giấy tờ phủ ngập sàn giao dịch và không bao giờ được thực hiện. Đôi khi các công ty môi giới gặp trở ngại trong việc thực hiện lệnh giao dịch chỉ vì không thể liên lạc được với những người ở trên sàn. Càng về cuối ngày, những kỷ lục về khối lượng giao dịch của ngày thứ Hai không chỉ bị phá vỡ mà còn bị biến thành một con số tầm thường; một chỉ số nữa là độ trễ lúc đóng cửa trên bảng tin của Sở vào ngày thứ Ba là 2 giờ 23 phút, so với 1 giờ 9 phút ngày thứ Hai. Cứ như điềm báo trời cho, Merrill Lynch, công ty xử lý hơn 13% giao dịch mở bán công khai ở Sở, vừa mới lắp đặt một chiếc máy tính 7074 mới − thiết bị này cho phép sao chép toàn bộ niên giám điện thoại chỉ trong vòng 3 phút − và nhờ sự hỗ trợ của thiết bị này, Merrill Lynch đã ghi chép lại được hết các số liệu giao dịch. Một hệ thống mới và được lắp đặt kịp thời khác của Merrill Lynch là hệ thống chuyển mạch điện báo tự động, to bằng nửa khu phố và được dự định dùng để đẩy nhanh liên lạc giữa các văn phòng khác nhau của công ty. Các công ty khác kém may mắn hơn, và một số trong đó chìm trong hoang mang đến nỗi, nghe nói, một số nhà môi giới đã quá mệt mỏi sau khi cố lấy bảng báo giá chứng khoán mới nhất hoặc cố kết nối với cộng sự ở sàn mà không được đành buông xuôi, bỏ ra ngoài uống nước. Cách ứng xử kém chuyên nghiệp như vậy có thể lại đã cứu cho khách hàng của họ một khoản tiền lớn.
Nhưng đỉnh điểm của sự trớ trêu hôm đó chắc chắn sinh ra từ diễn tiến của bảng tin trong giờ ăn trưa. Ngay trước giờ trưa, cổ phiếu xuống mức thấp nhất, chỉ số trung bình Dow-Jones giảm 23 điểm. (Tại thời điểm đen tối nhất, điểm trung bình đạt 553,75 − khoảng cách an toàn so với mốc 500 điểm mà gần đây các chuyên gia khẳng định là mức đáy tuyệt đối.) Sau đó, cổ phiếu bắt đầu phục hồi đột ngột mạnh mẽ đến ngỡ ngàng. Lúc 12 giờ 45 phút − thời điểm này sự phục hồi đã biến thành một cuộc tranh cướp điên cuồng để mua vào − băng tin trễ 56 phút; vì vậy, bên cạnh gợi ý thoáng qua từ vài biểu giá chớp nhoáng, bảng tin vẫn miệt mài báo cho cộng đồng chứng khoán cơn hoảng loạn bán ra trong khi cái thực sự đang diễn ra là cơn hoảng loạn mua vào.
Cú quay đầu ngoạn mục vào lúc cuối giờ sáng diễn ra theo cách hẳn có thể sẽ hấp dẫn ngài de la Vega lãng mạn: đột ngột và khá kịch tính. Vai chính là cổ phiếu American Telephone & Telegraph, cũng giống như ngày hôm trước, được đông đảo mọi người theo dõi và đang chi phối rõ nét toàn bộ thị trường. Nhân vật chủ chốt, do đặc thù công việc của ông, là George M. L. La Branche, Jr., cộng sự cao cấp của Công ty La Branche và Wood & Cộng sự, hãng đang giữ vai trò chuyên gia tại sàn của Telephone. (Chuyên gia tại sàn là những người môi giới hay đại lý có trách nhiệm duy trì trật tự thị trường đối với các cổ phiếu cụ thể mà họ được phân công. Trong quá trình thực hiện trách nhiệm của mình, họ thường có một nhiệm vụ kỳ lạ là liều đánh cược tiền của chính mình dựa trên suy xét sáng suốt của chính họ. Gần đây nhiều cơ quan chức năng, trong nỗ lực nhằm làm giảm yếu tố sai sót do con người gây ra trên thị trường, đã cố gắng tìm cách thay thế các chuyên gia bằng máy móc nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Chướng ngại lớn nhất dường như là vấn đề: nếu các chuyên gia “máy móc” ra quyết định sai thì ai sẽ chịu trách nhiệm về những tổn thất đó?) La Branche, 64 tuổi, người thấp, tóc muối tiêu, hoạt bát, sắc sảo, rất thích khoe chiếc chìa khóa “hàng hiếm” ông được Hội học thuật Phi Beta Kappa trao tặng mà ít người ở Sở Giao dịch có được. Ông là chuyên gia từ năm 1924, và công ty của ông là chuyên gia của Telephone từ cuối năm 1929. “Sinh cảnh” đặc trưng của ông, nơi ngày ngày ông bám rễ ở đó suốt 5 tiếng rưỡi, là ở ngay trước mặt Trạm 15, tại một góc của Sở bị che khuất nếu nhìn từ hành lang vào và thường được gọi là Ga-ra. Ở đó, chân xuống tấn thật vững để ngăn mọi làn sóng đột ngột người-sẽ-mua hoặc người-sẽ-bán, ông hay có tư thế tay cầm bút chì đặt kiểu suy tư trên một cuốn sổ cái tờ rời trông rất lôi thôi, trong đó ghi chép tất cả các lệnh mua- bán cổ phiếu Telephone còn tồn đọng ở nhiều mức giá khác nhau. Chẳng ngạc nhiên, cuốn sổ đó được gọi là sổ Telephone. Tất nhiên, La Branche ở tâm của cơn náo động trong cả ngày thứ Hai đó, khi Telephone dẫn thị trường đi xuống. Là một chuyên gia, ông đã đứng mũi chịu sào như một chiến binh – hay theo cách nói ví von bay bướm hơn của ông, là “ngoi ngóp như cái nút chai trên những con sóng cuồn cuộn của đại dương”. “Telephone cũng không khác gì một đại dương”, sau này La Branche tâm sự. “Đại dương đang hiền hòa, đột nhiên, một cơn gió lớn ào đến và cuộn lên một làn sóng khổng lồ. Làn sóng ập đến nhấn chìm mọi người, sau đó thì rút đi. Anh phải sống chung với nó. Anh không thể chống lại nó, không hơn gì Vua Canute1.” Sáng thứ Ba, sau vụ nhấn chìm làm giảm tới 11 điểm, con sóng lớn vẫn tiếp tục cuồn cuộn; chỉ riêng việc phân loại và khớp đống lệnh ào ào đến vào lúc nửa đêm − đấy là chưa kể việc tìm kiếm một quan chức Sở Giao dịch để xin cấp phép − đã kéo dài tới mức giao dịch Telephone đầu tiên mãi gần một giờ sau khi Sở Giao dịch mở cửa mới thực hiện được. Khi Telephone nhảy vào cuộc chơi, lúc 11 giờ kém 1 phút, giá của nó là 98,5, giảm 2,125 so với mức đóng cửa hôm thứ Hai. Đâu đó chừng 45 phút tiếp theo, trong khi thế giới tài chính đang chống mắt dõi theo giống như một anh thuyền trưởng theo dõi phong vũ biểu trong một cơn bão, cổ phiếu Telephone dao động giữa mức 99 (đạt được trong những lúc tăng nhẹ trở lại) và mức 98,125 (sau này mới biết là đáy của nó). Có ba lần cổ phiếu này rơi xuống 98,125, xen giữa là những lần tăng trở lại − La Branche đã nói về chuyện này như thể nó có một ý nghĩa thần kỳ hoặc huyền bí. Mà có lẽ cũng thần kỳ và huyền bí thật; dù sao đi nữa, sau lần trượt giá thứ ba, người mua cổ phiếu Telephone bắt đầu xuất hiện ở Trạm 15, lúc đầu rải rác và rụt rè, sau đó càng ngày càng đông và hung hăng hơn. Vào lúc 11 giờ 45 phút, các cổ phiếu được bán với giá 98,375; một vài phút sau đó, ở mức 99; lúc 11 giờ 50 phút, ở mức 99,375; và cuối cùng, lúc 11 giờ 55 phút, ở mức 100.
1 Vua Canute, Anh quốc, cai trị đầu thế kỷ XI. Theo sử gia Henry xứ Huntingdon, vua Canute là người rất khiêm tốn. Có lần vua làm một việc lạ lùng, đó là tập hợp tất cả quần thần ở bờ biển, rồi dõng dạc ra lệnh sóng biển phải ngưng đập vào bờ. Nhưng lệnh vua ban ra mà sóng biển không ngừng đập vào bờ, làm vua bị ướt hết. Sau đó, ngài nói: Quyền hành của tôi chẳng có giá trị. Chỉ một mình Chúa là Đấng Tạo hóa mới có quyền trên trời dưới đất, mới được mọi người tôn vinh quý trọng. Còn tôi, tôi chỉ là tạo vật thấp hèn của Người. (ND)
Nhiều nhà bình luận đã bày tỏ quan điểm rằng, đợt bán Telephone đầu tiên với mức 100 đánh dấu cột mốc mà từ đó toàn bộ thị trường bắt đầu chuyển hướng. Vì Telephone là một trong những cổ phiếu được xuất hiện chớp nhoáng trên bảng điện trong thời gian băng tin phát trễ, cộng đồng tài chính nắm được thông tin về giao dịch gần như ngay tức thì, và vào đúng thời điểm mà những tin khác họ nghe được đều là những tin tức rất xấu; thế là, việc Telephone lấy lại được 2 điểm và tình huống đơn thuần là may-rủi − tác động tâm lý từ con số 100 tròn trịa, may mắn − kết hợp với nhau đã thay đổi tình hình. La Branche, dù đồng tình rằng sự tăng giá của Telephone đóng góp rất nhiều vào xu hướng cùng tăng trở lại, không nhất trí ở điểm giao dịch nào là giao dịch quyết định. Theo ông, đợt đầu tiên bán ra với mức giá 100 không phải là bằng chứng đầy đủ về sự phục hồi lâu dài, vì chỉ có một lượng nhỏ cổ phiếu (theo ông nhớ là 100). Ông biết rằng trong sổ của mình có các lệnh bán ra gần 20.000 cổ phiếu Telephone với mức giá 100. Nếu không còn người có nhu cầu mua cổ phiếu ở mức giá ấy, trong khi vẫn còn tồn lượng cổ phiếu trị giá tới hai triệu đô-la, giá của Telephone sẽ giảm một lần nữa, có thể sẽ xuống mức 98,125 lần thứ tư. Và một người đàn ông như La Branche, quen tư duy bằng ngôn ngữ hàng hải, có thể đã liên tưởng lần đi xuống thứ tư giống như hành động sau cùng.
Điều đó đã không xảy ra. Một số giao dịch nhỏ với giá 100 diễn ra liên tục, kế tiếp là một số giao dịch nữa với quy mô lớn. Tổng cộng khoảng một nửa chỗ cổ phiếu tồn ở mức giá đó đã được giải phóng khi John J. Cranley, cộng sự tại sàn của Dreyfus & Co., kín đáo lách vào đám đông tại Trạm 15 và trả giá 100 cho 10.000 cổ phiếu Telephone − vừa đủ để giải phóng hết số tồn kho, và như thế, dọn đường cho giá tăng thêm. Cranley không nói ông mua trên danh nghĩa của công ty, của khách hàng, hay của quỹ Dreyfus − một quỹ tương hỗ mà Dreyfus & Co. quản lý thông qua một trong các công ty con của nó; quy mô của lệnh mua này gợi ý rằng người chủ ở đây là quỹ Dreyfus. Dù sao đi nữa, La Branche chỉ cần hô “bán”, và ngay sau khi hai người này ghi lại giao dịch là giao dịch được hoàn tất. Và thế là không thể mua Telephone ở mức giá 100 nữa.
Đã từng có một tiền lệ trong lịch sử (dù không phải từ thời của de la Vega) khi mà chỉ một giao dịch chứng khoán lớn ở Sở Giao dịch đã chuyển hướng được thị trường, hoặc được thực hiện với chủ đích đó. Lúc 1 giờ 30 phút ngày 24 tháng Mười năm 1929 − cái ngày khủng khiếp đã đi vào lịch sử tài chính là ngày thứ Năm đen tối − Richard Whitney, khi ấy là quyền giám đốc của Sở Giao dịch và có lẽ là nhân vật nổi tiếng nhất trên sàn, hùng hổ (một số người nói là “hùng dũng”) tiến đến trạm giao dịch cổ phiếu U.S. Steel, và trả giá 205 − giá của đợt bán cuối cùng − cho 10.000 cổ phiếu. Thế nhưng có hai sự khác biệt cốt yếu giữa giao dịch năm 1929 và năm 1962. Thứ nhất, việc Whitney trả giá khoa trương là một nỗ lực có tính toán nhằm tạo ra hiệu ứng, còn hành động trả giá của Cranley được tiến hành không phô trương mà rõ ràng chỉ là một động thái để mua được rẻ cho quỹ Dreyfus. Hai là, sau giao dịch năm 1929 chỉ diễn ra một đợt tăng trở lại chớp nhoáng − những thua lỗ của tuần sau đó khiến cho ngày thứ Năm đen tối chẳng qua mới chỉ là xám xịt mà thôi − còn sau giao dịch năm 1962 diễn ra một sự phục hồi thực sự vững chắc. Bài học rút ra có thể là: những động thái tâm lý trên sàn giao dịch phát huy hiệu quả nhất khi chúng vừa không có chủ đích vừa không thực sự cần thiết. Nhưng dù sao sự hồi phục chung cũng đã bắt đầu gần như ngay lập tức. Sau khi bứt khỏi mốc 100, Telephone bứt phá điên cuồng: lúc 12 giờ 18 phút, cổ phiếu này được giao dịch ở mức 101,25; lúc 12 giờ 41 phút là 103,5; và lúc 1 giờ 05 phút là 106,25. General Motors nhích từ 45,5 lúc 11 giờ 46 phút lên 50 lúc 01 giờ 38 phút. Standard Oil của New Jersey nhích từ 46,75 lúc 11 giờ 46 phút lên 51 lúc 1giờ 28 phút. U.S. Steel nhích từ 49,540 phút lên 52,375 lúc 1 giờ 28 phút. I.B.M., đi theo lối riêng, là trường hợp kịch tính nhất trong số cổ phiếu này. Cả buổi sáng, cổ phiếu của I.B.M. không được giao dịch bởi vì số lệnh bán ra chiếm ưu thế áp đảo, và người ta dự đoán mốc giá mở bán của I.B.M rất khác nhau, dao động từ giảm 10 điểm cho đến giảm 20 hoặc tới 30 điểm; bây giờ lệnh mua xuất hiện ồ ạt đến nỗi khi đã đủ điều kiện kỹ thuật khả thi cho phép tiến hành giao dịch, ngay khi đồng hồ vừa điểm 2 giờ, giá cổ phiếu mở bán tăng 4 điểm với khối lượng khổng lồ 30.000 cổ phiếu. Lúc 12 giờ 28 phút, chưa đầy nửa giờ sau vụ giao dịch Telephone quy mô lớn, bản tin Dow-Jones chắc chắn đã có đầy đủ thông tin về những gì xảy ra để tuyên bố dứt khoát: “Thị trường đã lên giá mạnh.”
Và đúng thế thật, có điều tốc độ của cú lội ngược dòng mang lại thêm nhiều điều trớ trêu. Khi băng tin rộng có dịp đăng một mục tin tức mở rộng, chẳng hạn như tường thuật bài phát biểu của một nhân vật quan trọng, nó thường chia nhỏ tin đó thành các đoạn ngắn, để có thể phát ngắt quãng, chừa thời gian cho các tin tức điểm như những cập nhật mới nhất từ sàn giao dịch. Đầu giờ chiều ngày 29 tháng Năm, bài phát biểu của H. Ladd Plumley, chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia cũng được xử lý như vậy, bắt đầu được phát trên băng tin Dow-Jones lúc 12 giờ 25 phút, hay gần như đúng lúc cùng nguồn tin đó tuyên bố thị trường đã lên giá mạnh. Vì bài phát biểu được chia nhỏ ra từng phần trên băng tin rộng, nó tạo ra một hiệu ứng vô cùng kỳ lạ. Băng tin mở đầu với tường thuật rằng Plumley kêu gọi “đánh giá kỹ lưỡng tình trạng mất lòng tin trong kinh doanh ngày nay.” Đến đây, tin bị ngắt vài phút để nói về giá cổ phiếu, tất cả các cổ phiếu đều tăng cao rõ rệt. Sau đó, băng tin trở lại với Plumley − bắt đầu vào vai hăng hái hơn − đổ lỗi sự tụt giảm nhanh chóng của thị trường chứng khoán cho “tác động ngẫu nhiên của hai yếu tố làm xáo trộn lòng tin: kém lạc quan trong kỳ vọng về lợi nhuận và việc Tổng thống Kennedy quyết cấm cản việc tăng giá thép”. Sau đó, băng tin lại gián đoạn một khoảng dài hơn, đầy ắp sự kiện và con số trấn an. Cuối cùng, Plumley lại trở lại trên băng tin, hăng hái với chủ đề của mình, mà lúc này đã mang giọng điệu: “Tôi đã bảo rồi mà!” “Chúng ta đã có một minh chứng thật tuyệt rằng ‘môi trường kinh doanh phù hợp’ đâu phải sáo ngữ của đại lộ Madison mà là một hiện thực đáng ao ước,” băng tin dẫn lời ông này. Suốt đầu giờ chiều, mọi chuyện cứ tiếp diễn như vậy; hẳn là một thời gian chếnh choáng cho những người theo dõi bản tin Dow-Jones, họ có thể vừa nhâm nhi trứng cá muối mừng tin giá cổ phiếu lên, vừa thích thú nhấp từng ngụm sâm-panh nghe những lời chỉ trích của Plumley dành cho chính quyền Tổng thống Kennedy.
Trong một tiếng rưỡi cuối cùng của ngày thứ Ba, tốc độ giao dịch tại Sở diễn ra điên cuồng nhất. Khối lượng giao dịch được ghi lại sau 3 giờ (có nghĩa là, trong nửa giờ cuối cùng của ngày giao dịch) lên đến hơn bảy triệu cổ phiếu − con số mà trọn vẹn một ngày giao dịch vào những thời điểm được coi là bình thường trong năm 1962 cũng chưa từng đạt tới. Khi tiếng chuông đóng cửa vang lên, lại một tràng reo hò từ sàn − và lần này người ta la to hết cỡ còn hơn cả hôm thứ Hai vì chỉ số trung bình Dow Jones lấy lại được 27,03 điểm, có nghĩa là gần 3/4 thiệt hại của ngày thứ Hai đã được bù; trong số tiền 20,8 tỷ đô-la vèo biến mất vào ngày thứ Hai, 13,5 tỷ đô-la đã xuất hiện trở lại. (Những con số phấn khởi này mãi đến tận mấy giờ đồng hồ sau khi đóng cửa mới được đưa ra, nhưng những người sành sỏi trong nghề chứng khoán được trời ban cho trực giác bản năng để đưa ra những thống kê chính xác đáng ngạc nhiên; một số trong đó nói rằng vào giờ đóng cửa hôm thứ Ba, họ chắc mẩm trong bụng là chỉ số Dow-Jones tăng trên 25 điểm, và không cần bàn cãi gì về tuyên bố này.) Tâm trạng khi ấy là vô cùng hân hoan, nhưng ba mươi chưa phải là Tết. Vì khối lượng giao dịch đang nhiều lên, nên máy điện báo cứ tích tích, đèn cứ thắp thâu đêm, còn muộn hơn cả so với hôm thứ Hai. Băng tin trên Sàn cho đến mãi tận 8 giờ 15 phút mới in ra giao dịch cuối cùng trong ngày, tức là 4 giờ 45 phút sau khi giao dịch xảy ra. Ngày hôm sau là Lễ Tưởng niệm chiến sĩ trận vong, thị trường chứng khoán nghỉ làm việc. Những chuyên gia lão luyện của Phố Wall cho rằng, tình cờ ngày nghỉ trùng vào lúc cuộc khủng hoảng đang lên đến đỉnh điểm, chính là cơ hội để xoa dịu những cảm xúc đang sôi trào, và đây có thể chính là nhân tố lớn nhất giúp ngăn chặn cuộc khủng hoảng không biến thành một thảm họa. Một sự thật không thể phủ nhận là sự kiện này mang đến cho Sở Giao dịch Chứng khoán và các tổ chức thành viên của Sở − tất cả các tổ chức này đã được chỉ đạo phải bám trụ trạm chiến đấu của họ trong kỳ nghỉ − cơ hội để bắt đầu thu dọn tàn cuộc và hồi phục.
Ảnh hưởng quái quỷ từ việc băng tin bị trễ cần phải được giải thích với hàng ngàn khách hàng ngây thơ vẫn nghĩ rằng họ đã mua cổ phiếu U.S. Steel với một cái giá, ví dụ là 50, rồi sau đó mới biết là họ phải trả tới 54 hay thậm chí 55. Khiếu nại của hàng ngàn khách hàng khác không thể dễ dàng giải đáp. Một công ty môi giới phát hiện ra rằng, hai lệnh họ gửi lên sàn vào cùng một thời điểm – một để mua Telephone với giá hiện hành, một để bán ra cùng số lượng ấy và cũng với giá hiện hành – đã dẫn đến việc người bán nhận được 102 cho mỗi cổ phiếu còn người mua phải trả 108. Quá choáng váng trước tình huống gây nghi ngờ về giá trị của quy luật cung – cầu, công ty môi giới tiến hành điều tra, và phát hiện ra rằng, trong lúc rối ren, lệnh mua đã tạm thời bị thất lạc và khi nó đến được Trạm 15 giá cổ phiếu đó đã tăng 6 điểm. Sai sót này không phải do lỗi của khách hàng, nên công ty môi giới phải bồi thường cho khách hàng số tiền chênh lệch. Về phía Sở Giao dịch Chứng khoán, họ có một loạt vấn đề phải đối phó vào hôm thứ Tư, trong đó có việc lo tiếp đãi một đoàn của Tập đoàn truyền thông Canada, những người này quên mất là ngày 30 tháng Năm Hoa Kỳ nghỉ lễ nên vẫn từ Montreal bay sang để ghi hình những hoạt động ngày thứ Tư tại Sở Giao dịch. Đồng thời, các quan chức Sở Giao dịch cũng đang phải xem xét vấn đề trễ đầy tai tiếng của băng tin hôm thứ Hai và thứ Ba, mà ai nấy đều nhất trí cho là trọng tâm − hay đúng ra là nguyên nhân − gây nên cuộc khủng hoảng kỹ thuật gần như là thảm họa trong lịch sử. Những gì Sở Giao dịch tự biện hộ cho mình chẳng khác nào Sở phàn nàn rằng cuộc khủng hoảng đến quá sớm, sớm tận hai năm. “Sẽ là sai lầm khi cho rằng tất cả các nhà đầu tư đều được phục vụ với tốc độ và hiệu quả bình thường với các trang thiết bị hiện có,” Sở Giao dịch thừa nhận, với một sự bảo thủ đặc trưng, và bổ sung thêm là một máy điện báo với tốc độ gần gấp đôi chiếc máy hiện tại dự kiến sẽ được lắp đặt trong năm 1964. (Trên thực tế, chiếc máy điện báo mới và nhiều thiết bị tự động hóa khác được lắp đặt gần như đồng thời và đúng lúc tỏ ra hiệu quả khác thường tới mức nhịp độ giao dịch ngoạn mục của tháng Tư năm 1968 được xử lý với độ trễ gần như bằng 0). Việc cơn bão năm 1962 tấn công trong khi hầm tránh bão vẫn chưa xây xong được Sở đúc kết là “khá trớ trêu.”
Vẫn còn rất nhiều nguyên nhân để người ta phải lo ngại vào sáng thứ Năm. Sau một thời kỳ hoảng loạn bán ra, thị trường thường hồi phục đáng kể và sau đó lại trượt dài. Nhiều nhà môi giới nhớ lại ngày 30 tháng Mười năm 1929 − ngay sau đợt sụt giảm kỷ lục mọi thời đại kéo dài suốt hai ngày, và ngay trước khi xảy ra đợt trượt dốc thảm họa kéo dài trong nhiều năm và trù bị cho đại suy thoái − chỉ số Dow-Jones tăng 28,40 điểm, thể hiện chiều tăng đáng ngại tương tự lúc này. Nói cách khác, thị trường đôi lúc vẫn bị cái bệnh mà theo lâm sàng de la Vega gọi là “nhu động ngược” − xu hướng tự đảo ngược, sau đó lại đảo ngược cái ngược trước đó, và cứ tiếp tục như thế. Người theo thuyết nhu động ngược trong phân tích chứng khoán có thể kết luận rằng thị trường hiện nay lại chuẩn bị lao dốc. Tất nhiên, theo những gì diễn ra thì nó lại không như thế. Thứ Năm là ngày cổ phiếu tăng giá ổn định, có trật tự. Chỉ vài phút sau khi mở cửa lúc 10 giờ, băng tin rộng thông báo các nhà môi giới ở khắp mọi nơi đang ngập trong các lệnh mua, mà nhiều lệnh đến từ Nam Mỹ, châu Á, và các nước Tây Âu bình thường vẫn tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán New York. “Lệnh vẫn đổ vào từ mọi hướng,” băng tin rộng hồ hởi công bố ngay trước khi kim đồng hồ nhích sang 11 giờ. Số tiền đã mất như có phép màu xuất hiện trở lại, và còn nhiều tiền nữa tiếp tục đổ về. Khi chỉ còn vài tích tắc là bước sang 2 giờ, băng tin Dow-Jones, từ trạng thái hưng phấn chuyển sang lãnh đạm, ngừng chạy báo cáo thị trường để chèn vào đó một lời nhắc về dự kiến trận đấu quyền anh giữa Floyd Patterson và Sonny Liston. Thị trường châu Âu, phản ứng đồng điệu với thị trường New York khi lên cũng như khi xuống, đã tăng mạnh. Giá quyền chọn giao sau mặt hàng đồng trên thị trường New York đã lấy lại hơn 80% giá trị mất trong ngày thứ Hai và sáng thứ Ba, vì vậy ngân khố của Chile gần như đã được giải cứu. Chỉ số công nghiệp Dow-Jones lúc đóng cửa đạt 613,36 − có nghĩa là thiệt hại của tuần trước đó gần như đã bị xóa sổ hoàn toàn, chỉ còn rất ít. Cuộc khủng hoảng đã qua. Theo cách nói của Morgan thì thị trường đã lên-xuống rồi lại xuống-lên; còn theo cách nói của de la Vega, đây chính là minh chứng của thuyết “nhu động ngược”.
Suốt mùa hè năm đó, và thậm chí sang năm sau, các nhà phân tích chứng khoán cùng các chuyên gia khác đưa ra những lý giải về chuyện đã xảy ra, và tính logic, tính nghiêm túc và tính chi tiết của những “chẩn bệnh” ấy lớn đến nỗi chúng chỉ bị mất đi một chút sức thuyết phục bởi thực tế là trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng hầu như không có tác giả nào trong số đó nhận ra, dù chỉ một chút, chuyện gì sắp diễn ra. Có lẽ bản báo cáo mang tính học thuật và chi tiết nhất về việc ai là người thực hiện vụ bán ra châm ngòi cho cuộc khủng hoảng là bản báo cáo của chính Sở Giao dịch Chứng khoán New York, Sở đã lập tức triển khai gửi bản câu hỏi điều tra chi tiết tới thành viên của mình, cả cá nhân lẫn doanh nghiệp, ngay sau khi cơn chấn động qua đi. Sở tính toán rằng, trong ba ngày diễn ra khủng hoảng, khu vực nông thôn của nước Mỹ tham gia thị trường tích cực hơn hẳn mọi khi; nhà đầu tư nữ bán ra lượng cổ phiếu nhiều gấp 2,5 lần so với nhà đầu tư nam; các nhà đầu tư nước ngoài tham gia tích cực hơn thường lệ, chiếm 5,5% tổng khối lượng giao dịch, và là những người bán ra nhiều; và đáng chú ý nhất là đối tượng mà Sở Giao dịch gọi là “cá nhân công khai” − tức là các nhà đầu tư cá nhân, phân biệt với những nhà đầu tư tổ chức − đóng một vai trò lớn đến kinh ngạc trong toàn bộ sự việc, chiếm một tỷ lệ lớn chưa từng có là 56,8% tổng khối lượng giao dịch. Chia nhỏ đối tượng “cá nhân công khai” theo nhóm thu nhập, Sở Giao dịch tính toán rằng những người mà tổng thu nhập gia đình hơn 25.000 đô-la/năm là những người bán ra số lượng lớn nhất và dứt khoát nhất, còn những người có tổng thu nhập gia đình dưới 10.000 đô-la, sau khi bán ra vào thứ Hai và sáng thứ Ba, đến thứ Năm lại mua quá nhiều cổ phiếu đến nỗi tính gộp ba ngày thì thực ra họ lại là người mua ròng. Ngoài ra, theo những tính toán của Sở Giao dịch, khoảng một triệu cổ phiếu − tương đương 3,5% tổng lượng giao dịch trong ba ngày − được bán ra bởi các yêu cầu ký quỹ bổ sung. Tóm lại, nếu có một đối tượng đóng vai kẻ ác, có vẻ như đấy phải là nhà đầu tư tương đối giàu và không làm trong ngành chứng khoán − và, rất có thể lại là phụ nữ ở nông thôn, hoặc ở nước ngoài, nhiều khả năng đã chơi chứng khoán bằng tiền vay mượn.
Thật ngạc nhiên, vai người hùng lại do một thế lực đáng sợ nhất trong số các thế lực chưa được kiểm chứng trên thị trường thủ vai: các quỹ tương hỗ. Số liệu thống kê của Sở Giao dịch cho thấy, vào thứ Hai, khi giá đang tụt giảm mạnh, các quỹ này mua vào lượng cổ phiếu nhiều hơn số họ bán ra, còn vào thứ Năm, khi các nhà đầu tư nói chung đang giành nhau để mua được cổ phiếu, thì các quỹ hỗ tương, sau khi cân nhắc, đã bán ra 375.000 cổ phiếu; hay nói cách khác, không những không làm gia tăng biến động của thị trường, các quỹ này còn thực sự đóng vai trò như một lực lượng bình ổn thị trường. Chính xác thì hiệu ứng tốt lành bất ngờ từ trên trời rơi xuống này xảy ra như thế nào vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Vì chưa thấy ai nói rằng các quỹ ấy hành động chỉ vì tinh thần vì nước vì dân trong cuộc khủng hoảng, ta có thể mạnh dạn nhận định rằng các quỹ này mua vào trong ngày thứ Hai bởi vì sếp các quỹ ấy đánh hơi thấy giá hời, và bán ra vào thứ Năm bởi vì họ chớp thấy có cơ hội kiếm lời. Còn đối với vấn đề thanh toán hoàn trả, như người ta đã từng lo sợ, có rất nhiều cổ đông của quỹ tương hỗ yêu cầu được hoàn trả hàng triệu đô-la tiền mặt khi thị trường sụp đổ, nhưng dường như các quỹ tương hỗ có sẵn quá nhiều tiền mặt đến mức, trong hầu hết trường hợp, họ có thể hoàn trả hết tiền cho cổ đông mà không cần phải bán ra nhiều cổ phiếu. Nếu xét thành một tập thể, các quỹ này đã chứng tỏ họ rất giàu mạnh và được quản lý cẩn trọng đến nỗi họ không chỉ vượt qua được giai đoạn bão tố, mà vô tình có thể làm được điều gì đó để giảm bớt tính chất khốc liệt của cơn bão. Liệu trong những cơn bão ở tương lai, những điều kiện giống như thế có tồn tại hay không thì đã và đang là một câu chuyện khác.
Trong phân tích cuối cùng, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng năm 1962 vẫn là điều bí ẩn; chỉ biết rằng nó đã xảy ra, và một điều tương tự như thế có thể xảy ra một lần nữa. Như một nhà tiên tri luống tuổi, giấu tên của Phố Wall gần đây nhận định: “Tôi quả có lo ngại thật, nhưng chưa bao giờ nghĩ nó sẽ là một vụ 1929 nữa. Tôi chưa bao giờ nói chỉ số Dow-Jones sẽ xuống đến 400. Tôi đã nói là 500. Điều quan trọng bây giờ là, trái ngược với năm 1929, chính phủ, hoặc Cộng hòa hoặc Dân chủ, nhận ra rằng cần phải quan tâm tới các nhu cầu của doanh nghiệp. Sẽ không bao giờ có ‘người bán táo’ trên Phố Wall nữa1. Về chuyện liệu những gì đã xảy ra vào tháng Năm có thể xảy ra một lần nữa hay không, thì dĩ nhiên là có thể. Tôi nghĩ rằng người ta có thể sẽ thận trọng hơn được một, hai năm, rồi sau đó chúng ta lại có thể chứng kiến một cuộc đầu cơ khác và rồi dẫn tới một cuộc khủng hoảng khác, và cứ như thế cho đến khi Chúa Trời làm cho con người bớt tham lam đi.”
1 Thời kỳ đầu của cuộc Đại khủng hoảng diễn ra từ năm 1929 tới tận đầu thập niên 1940 trên toàn cầu, Hiệp hội Vận chuyển táo quốc tế (International Apple Shippers Association) của Mỹ quyết định bán táo chịu cho người dân mua để mang đi bán. Ngóc ngách phố phường đều thấy những người bán táo 5 xu, thậm chí cả một số triệu phú sa cơ cũng bán loại táo 5 xu này. Năm 1930, chỉ riêng ở New York đã có tới 6.000 người bán táo. (ND)
Hay như de la Vega nói: “Thật ngớ ngẩn khi nghĩ rằng anh có thể rút khỏi sàn chứng khoán một khi anh đã được nếm vị ngọt ngào như mật của nó.”