Con sông Mạ của tôi
Có một dòng chảy do đất trời sinh tạo từ mấy trăm triệu năm về trước, thuở hồng hoang chưa có bóng người vẫn còn dài rộng, sung mãn đến hôm nay. Bắt đầu từ một nét đứt gãy địa chất ở vùng đất phía bắc tỉnh Quảng Bình bây giờ, một địa hào đã được tạo nên để trên bản đồ Tổ quốc, nơi eo thắt nhất của miền Trung nắng gió bão lũ dữ dằn có đường nét quanh co của sông Gianh. Tôi gọi đấy là con sông Mạ (Mẹ) của vùng đất mình sinh ra, nằm thắt thẻo van vát ở phía nam đèo Ngang tựa như sông Cái giữa châu thổ Hồng Hà mênh mang trù phú vậy. Tôi không vô cớ khi viết thế vì thời xa xưa sông Gianh mang tên khác, chữ nghĩa sang trọng có đủ ba âm tiết Đại Linh Giang.
Trong tâm thức của ông cha thì rõ ràng đây là một con sông thiêng lớn. Sự kỳ vĩ, linh thiêng của sông núi là hồng phúc của ai được sinh ra và lớn lên trên đó; bao hiền tài xưa nay mấy kẻ không được hấp thu từ huyết mạch khí chất của non nước quê nhà. Sông núi quê hương mang trong nó những huyệt mạch bí ẩn, huyền diệu không thể giải thích được và dường như đã can dự sâu sắc vào diện mạo, sinh khí, hồn vía của một vùng đất để có những tinh hoa, nổi bật trong cộng đồng dân cư quần tụ ở đó. Địa linh nhân kiệt là câu thường nghe, ngẫm ngợi càng kỹ càng thấy có lý; vũ trụ bao la đan dệt chằng chịt muôn vàn mối quan hệ qua lại, hữu hình và vô hình, đủ cả.
Sông Gianh nối hai phương mặt trời lặn - mọc, nguồn chính khởi thủy từ núi Cô Pi cao 2.017 mét trong vạn lý Trường Sơn trùng trùng điệp điệp ở miền tây Quảng Bình, khi thao thác, khi thong dong chảy qua các huyện thị Minh Hóa, Tuyên Hóa, Quảng Trạch, Ba Đồn, Bố Trạch để cuối cùng hòa nhập với biển Việt mênh mang ở phía đông qua cửa Gianh thuộc hai xã Quảng Phúc (bờ Bắc), Thanh Trạch (bờ Nam). Con sông dài chừng 160 cây số, uốn khúc quanh co nằm gần trọn trong vùng đất phía bắc của tỉnh Quảng Bình. Không thể không thương yêu đến diết da một dòng sông như thế.
Sông Gianh là một phần của đời tôi, dĩ nhiên là vậy rồi. Đời sông thì dài, đời người quá ngắn nhưng cũng đều có những nông sâu, bồi lở cả. Lưu vực sông tương đối ổn định còn lưu vực người chẳng ai biết trước được dài rộng đến đâu. Đến lúc nào đó sông sẽ nói về người, ví dụ khi người đã thành hạt bụi trong cõi mung lung chẳng hạn, còn bây giờ người sẽ nói về sông như một sự tri ân chân chất.
Phần sông Gianh thuộc quê mẹ của tôi (xã Thanh Trạch, huyện Bố Trạch) chỉ là một đoạn ngắn ở cuối hạ lưu, khiêm nhường đóng khung trong phạm vi từ chỗ nó tiếp nhận thêm dòng chảy của rào (sông) Chùa, phía bờ Nam đến cửa biển cùng tên. Ngược lên phía thượng nguồn dăm đến bảy cây số gì đó, sông Gianh chảy qua thị xã Ba Đồn, nơi cha tôi cất tiếng khóc chào đời vào năm Ất Hợi (1935). Tuy thế, khi nghĩ về sông núi quê nhà tôi vẫn chưa bao giờ quên niềm kiêu hãnh hồn nhiên Đại Linh Giang được bốn nguồn rào góp nước mà thành. Mỗi nguồn rào được định danh bằng một tên và có điểm phát nguyên riêng biệt. Nhánh chủ là nguồn Nậy, dân quê tôi thường gọi rào Nậy khởi thủy từ những đỉnh núi cao của dãy Trường Sơn ở vùng biên giới Việt - Lào, thuộc huyện Tuyên Hóa phía tây bắc tỉnh Quảng Bình chảy theo hướng đông nam về biển cả. Nguồn Trổ, còn gọi là rào Trổ, phát nguyên từ hệ quần sơn Mồng Gà - Đèo Ngang giữa Hà Tĩnh và Quảng Bình chảy theo hướng nam, nhập lưu với rào Nậy ở Minh Cầm. Nguồn Nan (rào Nan) bắt đầu từ những đỉnh núi cao ở Trường Sơn phía tây Tuyên Hóa; nguồn Son (rào Son) thì phát nguyên từ vùng núi tây Bố Trạch cả hai cùng mải miết chảy theo hướng đông về nhập lưu với nguồn Nậy ở vùng La Hà - Văn Phú mà ra biển. Bốn nguồn rào góp nước cho một sông Gianh càng xuống hạ lưu càng bát ngát, càng gần biển càng dạt dào sóng vỗ.
Sông có khúc, người có lúc, lời cổ nhân chẳng hề sai chút nào. Mỗi khúc sông là một làng quê, bến mưa bến nắng, bến đục bến trong, gắn bó với bao kiếp người thăng trầm chìm nổi. Ký ức làng xã còn cất giữ cho sông bao câu chuyện lịch sử, những áng thơ văn lấy cảm hứng từ sông. Mỗi lần về nơi mình sinh ra, thong thả bước trên bờ sông trong tôi dâng lên bao cảm xúc bồi hồi. Không biết bao nhiêu lớp người đã xa khuất rồi, cứ theo cái cữ Nhân sinh thất thập cổ lai hy thì kẻ vắng mặt đông đúc hơn người đang hít thở khí trời hàng trăm, hàng nghìn lần. Đó là chưa kể muôn vàn cái chết không theo quy luật sinh lão bệnh tử vì đây là vùng đất binh đao giặc giã, bão lũ giông gió triền miên. Nếu bắt đầu tính từ cái thời vùng đất tôi sinh ra nằm trong mười lăm bộ của nước Văn Lang - Hùng Vương. Rồi nghìn năm phong kiến phương Bắc đô hộ, xã tôi thuộc về huyện Tượng Lâm, quận Nhật Nam của Âu Lạc. Lại thêm, vào năm 192, dưới thời nhà Hán, Khu Liên, người huyện Tây Quyển cùng nhân dân Chăm nổi dậy đánh đuổi người phương Bắc ra khỏi đất Nhật Nam dựng lên nước Lâm Ấp kéo dài từ Bình Thuận đến Hoành Sơn bây giờ. Nước Lâm Ấp có 5 châu là Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, Châu Ô và Châu Lý. Xã Thanh Trạch lúc ấy thuộc châu Bố Chính của nước Lâm Ấp độc lập hùng cường mà theo sử sách ghi lại là có quân đội mạnh đủ cả bộ binh, thủy binh, tượng binh thường xuyên vượt đèo Ngang đánh phá các quận Cửu Chân, Giao Chỉ của đất Giao Châu đang còn chịu sự thống trị của người phương Bắc.
Từ thế kỷ II đến thế kỷ XI, Quảng Bình là địa đầu của vương quốc Chăm Pa. Đại Linh Giang tiếp tục chứng kiến dòng chảy lịch sử dân tộc. Mùa xuân Kỷ Dậu năm 1069, danh tướng Lý Thường Kiệt dẫn đạo quân tiên phong Nam tiến. Dải đất từ đèo Ngang đến Cửa Việt trong đó có Quảng Bình được trở về với Đại Việt như xưa. Năm 1075, vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đi tuần tra biên thùy, vẽ địa đồ hình sông thế núi của cả ba châu nhưng đổi tên châu Địa Lý thành Lâm Bình. Vùng đất Quảng Bình như bây giờ được chính thức đưa vào bản đồ nước ta.
Năm tháng nối nhau, sông Gianh hiền lành hay dữ dội theo hai mùa mưa nắng, lên xuống cùng con nước thủy triều, mặc nhiên chứng kiến dòng chuyển động nhân tình thế thái của các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê với nhiều cuộc di dân từ ngoài Bắc vào vùng đất nam Hoành Sơn ngày càng đông đúc. Dấu chân Đại Việt hành tiến về Nam, ngón Giao Chỉ in vào cát bụi đường trường gian nan không kể xiết. Bao nhiêu gương mặt sạm sụa nắng gió đã soi xuống Linh Giang. Bao nhiêu bàn tay gân guốc thô tháp đã vốc nước Linh Giang lên rửa mặt. Đến lượt tôi, hình dung ra tiền nhân khai khẩn bằng những liên tưởng vô cùng xa xăm, đặt hoang vu cỏ cây muông thú bên cạnh thưa thớt bóng người với lòng biết ơn vô hạn.
Danh xưng của vùng miền này cũng không mấy cố định; năm 1491, nhà Lê định lại bản đồ giang sơn, đặt tên cho dải đất từ phía nam dãy Hoành Sơn đến Hải Vân là Thuận Hóa. Như vậy, xã Thanh Trạch của tôi thời ấy hiển nhiên thuộc xứ Thuận Hóa rồi. Đến thời Trịnh - Nguyễn phân tranh lại thêm sự đổi thay nữa, châu Bố Chính (gồm huyện Quảng Trạch, thị xã Ba Đồn và huyện Bố Trạch bây giờ) được chia thành hai châu Bố Chính Nội và Bố Chính Ngoại. Xã tôi thời kỳ đó có tên là Bồ Khê thuộc về Bố Chính Nội đặt dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn. Chưa yên đâu. Năm 1831, vua Minh Mạng đổi châu Bố Chính Nội thành huyện Bố Trạch. Cái tên huyện quen thân ấy may mắn thay, còn được giữ nguyên cho đến bây giờ.
Nhưng, nghe đâu khi thị xã Hoàn Lão được chính thức thành lập trong một ngày gần đây thì Thanh Trạch sẽ trở thành một phường của đơn vị hành chính đó. Huyện Bố Trạch vẫn còn nhưng nghiễm nhiên xã tôi không còn thuộc về đó nữa. Tên huyện Bố Trạch gắn liền với tôi trên sáu mươi năm kể từ khi tôi cất tiếng khóc chào đời oe oe trên cát trắng quê nhà cho đến hôm nay làm người hưu trí sống giữa Thủ đô. Trong dòng khai quê quán của mình không còn huyện Bố Trạch sau tên xã nữa; tôi thực sự bùi ngùi về điều đó. Sông núi vẫn còn đây mà địa danh cấp huyện đã khác. Buồn! Hỏi không buồn sao được chứ, khi cái tên Bố Trạch đã đồng hành với mình bấy nhiêu năm qua.
*
Giờ đây về quê thật dễ, tôi có thể đi ô tô, tàu hỏa, máy bay nếu thấy cần. Chập choạng tối lên xe thì tinh mơ sáng hôm sau đã có mặt ở quê rồi. Quốc lộ 1A được mở rộng nâng cấp thênh thang bốn làn xe chạy. Qua sông không phải lụy phà. Phà Bến Thủy cũng như Phà Gianh một thời nổi tiếng là Phà giam được thay thế bằng những nhịp cầu hoành tráng. Những đèo dốc quanh co, chênh vênh bây giờ chỉ dành cho khách du lịch nếu muốn trải nghiệm. Đèo Tam Điệp, đèo Ngang đã có hầm đường bộ lung linh ánh điện. Đi tàu hỏa thì xuống ga Đồng Hới, một trong những ga chính của miền Trung. Sân bay Đồng Hới sẽ đón bạn khi muốn vô Quảng Bình bằng đường không.
Con cháu về quê bây giờ không còn cực nhọc, chen chúc như thời chưa xa mấy. Còn cái thời xa thăm thẳm so với tuổi tôi năm nay đã bước qua ngưỡng lục tuần thì con đường thiên lý Bắc Nam hình như là độc đạo. Con đường hành binh hay di cư dọc dải đất cong cong hình chữ S chắc chắn là chỉ có một và khi khai mở đắp đào người xưa cố tránh núi cao rừng rậm hiểm trở. Vậy thì, sự lựa chọn khôn ngoan nhất không có gì khác là bám bờ biển mà đi. Nhờ thế mà nơi tôi sinh ra ở cuối dòng Linh Giang có cơ hội in dấu tích của các minh chủ, danh tướng, danh nhân Đại Việt một thời. Những dấu tích lịch sử, văn hóa gắn liền với chiến công, tác phẩm của các ngôi sao Việt.
Cửa Linh Giang
Lý Thường Kiệt, danh tướng thời Lý, người tương truyền đã viết ra bài thơ Thần bất hủ Nam quốc sơn hà bên sông Như Nguyệt đã có đôi lần đến đây. Khi thì dẫn đầu đạo quân tiên phong vô Nam để bình Chiêm sau khi đã đánh tan giặc Tống. Khi thì theo lệnh vua đi tuần tra vẽ lại địa đồ cương vực. Thời ông cưỡi ngựa ghìm cương phóng tầm mắt ra biển cả cửa sông chắc còn hoang phóng lắm. Xứ Lâm Bình (tên mới châu Địa Lý) lúc đó chắc hẳn là thuộc cõi bờ xa xôi rồi.
Theo Đại Nam nhất thống chí, năm 1471, vua Lê Thánh Tông dẫn quân đi đánh Chiêm Thành, khi ghé qua cửa biển này đã làm bài thơ Linh Giang hải tấn. Thơ còn lưu lại đến mai sau. Phiên âm từ chữ Hán là:
Sơn bảo bồi hoàn hải diểu di
Bố Chinh tùng cổ hiệu hoang thùy.
Tịnh hà thôn lạc mao vi ốc
Triệt phố quan tân trúc tác kỳ
Nữ thượng phong yêu khoa yển vãn
Dân điều quých thiệt ngũ thù ly
Ký Nam thánh hóa hoằng nhu viễn
Khẳng hạn phong cương ngoại đạo vi.
Bức tranh về một vùng cửa sông hiện lên thật rõ nét, có núi có sông, có biển có người, có cây cỏ có chim muông, có cờ bay có gái đẹp, có cảnh có tình. Đặc biệt có cả tâm hồn, chí khí, tầm nhìn xa trông rộng của một minh chủ thời hưng thịnh. Cửa biển Linh Giang có:
Núi ôm bao bọc biển nước mênh mang xa mờ
Châu Bố Chinh từ xưa là miền biên thùy
xa cách hoang vắng
Nhà cửa trong làng xóm theo dọc sông đều lợp tranh
Từng đoạn ven sông nơi bờ quan ải tre đứng cao làm cờ
Con gái ưa thắt lưng ong cho là đẹp
Dân thì nói líu lo ríu rít như tiếng chim quých
Bậc thánh nhân đi giáo hóa đến miền Nam
để vỗ về phương xa
Không vì ngoài biên cương hiểm trở mà bỏ người dân
nơi hải đảo này.
(Dịch nghĩa)
Cụ Nguyễn Đình Diệm đã dịch rất hay bài thơ này:
Núi bọc xung quanh biển mịt mờ
Bố Chinh ngày trước vẫn hoang sơ
Ven sông làng xóm nhà tranh cỏ
Khuất bến tre pheo dựng cột cờ
Gái thắt lưng ong khoe yểu điệu
Dân hòa giọng quých nói líu lo
Trời Nam đã rưới ơn mưa móc
Chẳng phải xa xôi bỏ cõi bờ.
Hóa ra con gái vùng này thời xa lắc xa lơ đã duyên dáng đến thế rồi ư! Gái thắt lưng ong khoe yểu điệu. Những yểu điệu thục nữ cuối Linh Giang đã hồn nhiên làm xiêu lòng bao khanh tướng văn nhân. Cũng lạ cho ông vua Lê Thánh Tông, việc nước việc quân bộn bề ngổn ngang như thế mà khi đi qua cửa biển Linh Giang mịt mờ khói sóng vẫn để mắt tới tấm lưng ong thon thắt nõn nà của các cô gái miền phên dậu này. Minh chủ cũng là thi nhân, người cầm gươm chỉ huy ba quân đánh giặc cũng là người múa bút ngợi ca vẻ đẹp non sông, con người Đại Việt. Thật là hồng phúc cho trăm họ xa gần.
Con chim quých là con chim gì đến bây giờ tôi cũng chưa biết. Nhưng chắc chắn nó có giọng hót ríu rít líu lo. Líu lo ríu rít tựa như giọng nói của dân quê tôi vậy. Hiện nay, ngôn ngữ cổ vẫn còn tồn lưu trong những thôn mạc xứ Lâm Bình xưa khá nhiều. Cái thứ phương ngữ Quảng Bình đó, tôi rất thích sử dụng mỗi khi về quê dù ai đó cho rằng trọ trẹ. Tôi yêu đau đáu cái trọ trẹ quê mình. Bắt đầu từ đâu nhỉ? Có lẽ, từ câu ru của mạ từ hồi anh em tôi còn bé:
Thương chồng nấu cháo le le
Nấu keng bôông bín, nấu chè đậu đen.
Keng bôông bín là canh bông bí đó các bạn nhé! Thời bà nội, bà ngoại tôi chưa thành người thiên cổ đều dùng toàn từ địa phương. Em gái tôi bây giờ cũng thế, nói đặc sệt tiếng quê.
Ngôn ngữ mang sắc thái âm điệu bản địa đã theo tôi đi xa, dẫu không dùng vào mục đích giao tiếp nhưng nó mãi còn nguyên vẹn trong tôi. Có dịp, tôi lại mở cái kho ngôn ngữ trọ trẹ ra khoe với thiên hạ như trường hợp đoạn thơ trong trường ca Sinh ở cuối dòng sông này:
Cái sân mạ gọi cái cươi
Vắt lên là bặn, ngái ngôi chẳng gần
Xeng mầm là ngọn mầm xanh
Gốc là côộc, rễ cây thành rẹn cây
Chạc là để gọi thay dây
Tơ hồng trời buộc đó đây một miền
Thương anh thì bảo thương eng
Út ơi, tiếng chị gọi em ngọt ngào
Con sông ngăn cách hóa rào
Lịp là chiếc nón đội vào chung chiêng
Mô, tê, răng, rứa, đất miềng
Tiếng quê tiếng mạ ở miền chắt chiu…
Có một câu thơ mang tầm nhìn xa rộng trong kế sách giữ nước của vua Lê Thánh Tông. Đó là Khẳng hạn phong cương ngoại đạo vi, không vì ngoài biên cương hiểm trở mà bỏ người dân nơi hải đảo này. Muốn giữ nhà phải rào chắc phên dậu, muốn giữ nước phải chăm lo hải đảo biên thùy. Biển đảo là không gian sinh tồn của dân Việt, xưa đã vậy, nay càng phải vậy. Không thể nào khác được!
Chưa hết những bài thơ viết về Linh Giang của các bậc tiền nhân. Mỗi bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh khác nhau nhưng hình như nó đều có cái man mác, mênh mang, phảng phất u hoài. Khi còn phục vụ trong nhà Lê, nhà thơ Phan Huy Ích trong một lần theo lệnh vua đi công cán Thuận Hóa vào năm 1774 đã có thi phẩm Độ Đại Linh Giang viết theo thể tứ tuyệt, rằng:
Chinh phàm phiêm phiếm quá Gianh Hà
Ứng tiết trung lưu thính trạo ca
Nhị bách niên lai y đái trở
Hướng Kim nhất vĩ thiếp tình ba.
Hậu thế đọc lên đủ hình dung ra cảnh vật, lòng người:
Cánh buồm lênh đênh qua sông Gianh
Cầm cờ tiết giữa dòng nghe khúc đò đưa
Đã hai trăm năm con sông dải áo ngăn cách
Mà nay một lá thuyền bình yên trong sóng lặng.
(Dịch nghĩa)
Hai trăm năm này là thời gian Trịnh - Nguyễn phân tranh. Sách sử chép lại rành rành: Năm 1558, dưới triều Lê Trung Hưng, Nguyễn Hoàng được chính thức bổ nhiệm làm trấn thủ châu Thuận Hóa. Ông đưa gia tộc xuôi về Nam cùng với câu Sấm ký được cho là của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân. Từ nhỏ đến lớn, từ ít đến nhiều, từ yếu đến mạnh, thế lực họ Nguyễn dần dà tăng lên cho đến lúc trở thành một đối trọng nghiêng ngả với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài. Cuộc tranh chấp giữa Đàng trong với Đàng ngoài kéo dài đằng đẵng hai thế kỷ. Quãng thời gian không thể gọi là ngắn. Mặc nhiên, Linh Giang trở thành giới tuyến của hai thế lực phong kiến có số má lừng lững ở đôi miền Bắc - Nam. Linh Giang trở thành biểu tượng chia cắt non sông trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến loạn, rối ren. Nỗi khổ đau chồng chất lên dân đen trăm vùng, đọc lại câu ca dao thời loạn ấy vẫn còn thấm thía xót xa:
Ai làm cho vợ xa chồng
Cho con xa mẹ, cho lòng ta đau…
Nỗi buồn ấy đâu dễ biến tan trong lòng người. Mọi cuộc chiến tranh chấm dứt nhưng dư âm của nó còn kéo dài rất lâu. Đôi khi còn lâu hơn cả một đời người nếu may mắn được sống sót sau nạn binh đao khốc liệt. Nó len vào giấc ngủ, loảng xoảng tiếng gươm khua ngựa hí, tiếng thét hờn căm, tiếng bom đạn ùng oàng, tiếng những linh hồn trăn trở bên bầm dập cỏ cây. Không gian của thời hậu chiến mang nhiều hoài niệm sầu não bi thương. Đại thi hào Nguyễn Du, người viết ra Truyện Kiều từ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng nổi tiếng thế giới cũng đã để lại cho Linh Giang một bài thơ cảm hoài có tên Độ Linh Giang:
Bình sa tận xứ thủy tiên phù
Hạo hạo yên ba cổ độ thu
Nhất vọng tân nhai thông cự hải
Lịch triều cương giới tại trung lưu
Tam quân cựu bích phi hoàng diệp
Bách chiến tàn hài ngọa lục vu
Bắc thướng thổ dân mạc tương tị
Táp niên tiền thị ngã đồng chu.
Nghĩa bài thơ thế này:
Bãi cát bằng chạy dài tận nơi nước và trời gặp nhau
Mênh mông bến đò cũ khói sóng mùa thu
Bến bờ nhìn thông suốt biển rộng
Biên giới các triều đình đã vạch ra giữa dòng
Ba quân nơi thành cũ ngày nay lá vàng rụng
Trăm trận đánh xương tàn nằm phơi nơi hoang vu
xanh ngắt
Người dân bờ Bắc chẳng còn phải ngần ngại
Vòng quanh hằng năm trước đã cùng đồng thuyền.
Thế đấy, núi sông có tạm thời chia cắt nhưng lòng dân có bao giờ cắt chia đâu chứ. Khát vọng thống nhất non sông, hòa hợp dân tộc muôn đời là ước mong lớn nhất của nhân dân. Thời nào cũng chung khát khao, ước vọng ấy. Nó thật giản dị nhưng cũng khó khăn biết bao. Đất nước Việt Nam đã có mấy lần cát cứ, cắt chia. Tuy nhiên, như lịch sử đã minh chứng nội xâm hay ngoại xâm mưu toan chia cắt giang sơn này cuối cùng đều bị thất bại.
Nhấp nhô Đá Nhảy
Ngoài Bắc vào, qua đèo Ngang chừng hai mươi lăm cây số sẽ đến Thanh Trạch quê tôi. Trong Nam ra, tới giữa đỉnh đèo Lý Hòa là đã đặt chân lên quê hương tôi rồi đó. So với đèo Ngang thì đèo Lý Hòa chỉ là em út nhưng nhắc đến nó du khách trong, ngoài nước cũng có khá nhiều người biết tới. Bởi nằm dưới chân đèo Lý Hòa có bãi tắm Đá Nhảy, một trong những thắng cảnh nổi tiếng ở Quảng Bình. Núi lấn ra biển, ở dưới chân có nhiều mỏm đá, cột đá nhấp nhô trên mặt nước như đang nhảy nhót, đùa giỡn với sóng biển vỗ vào trắng xóa. Có lẽ vì thế mà người ta đặt tên cho nó là núi Đá Nhảy chăng. Bãi cát thoai thoải, trắng mịn kéo dài từ đây cho đến cửa Gianh là nơi tắm biển, nghỉ mát đầy hấp dẫn.
Núi Đá Nhảy có tên chữ Hán là Hải Cốt. Nhất hoang nhàn tại Hải Cốt xứ ước nhị mẫu dư. Địa bạ xã Bồ Khê (tên cũ của Thanh Trạch) ghi rành rành thế. Tuy vậy, có một thời không lâu lắm hai xã Thanh Trạch và Hải Trạch (nam Lý Hòa) tranh chấp nhau bãi Đá Nhảy này. Tôi ở Thủ đô nghe tin dữ. Chẳng biết thực hư thế nào. Tỉnh, huyện rồi cả Trung ương nữa phải đứng ra phân định, cuối cùng Đá Nhảy vẫn thuộc về địa phận xã tôi.
Thực ra Đá Nhảy chỉ là một hòn thuộc dãy núi Lệ Đệ vốn chặn cắt miền nam hạ lưu sông Gianh thành đôi. Giống như đèo Ngang cắt đôi Hà Tĩnh, Quảng Bình vậy đó.
Đèo Ngang hai mái chân vân
Nửa nhớ thương Hà Tĩnh, nửa ái ân Quảng Bình.
Ai đó ngày xưa đã lấp lửng, băn khoăn rứa hở trời? Cái thói đa tình của người Quảng Bình hầu như chẳng hao vơi bao giờ. Con gái sông Gianh thường xinh, con gái sông La cũng nỏ mấy kém cạnh nên mới có nửa thương bên này, nửa nhớ bên kia. Thương thương nhớ nhớ, nhớ nhớ thương thương, trai gái muôn đời nay vẫn muốn vin vào sông núi để thổ lộ lòng mình.
Mỗi bận về quê, khi xe qua cầu Gianh, tôi phóng tầm mắt về phía đông, nhận ra một khoảng trống mờ mờ ở cuối nguồn đó là cửa biển và sau đó chuyển dịch tầm nhìn qua hướng nam một cung khoảng ba mươi độ sẽ bắt gặp dãy núi Lệ Đệ thân thương. Núi Lệ Đệ đã được Lê Quý Đôn nhắc tới mấy lần trong sách Phủ biên tạp lục: ... sang sông đến bờ phía nam là bến Cao Lao, thuộc châu Nam Bố Chính, qua xã Cao Lao, vượt núi dài Lệ Đệ mười mấy dặm, độ một canh rưỡi thì đến Diên Phúc, gọi là Mục Dưỡng. Trang này trước nộp thuế sắt, hỏi lấy sắt ở đâu thì nói lấy ở núi Lệ Đệ… hay: Từ xã Lũ Đăng đi theo bờ sông, qua các xã Phan Long, An Bài, Trung Hòa, qua sông Gianh đến xã Thanh Hà, châu Nam Bố Chính, theo bờ biển đi qua chân núi Lệ Đệ, theo bãi cát trắng của bờ biển mà đến xã Lý Hòa… hoặc: Núi Lệ Đệ, trên đầu nguồn đến bờ biển, dẫu không cao lắm nhưng liên tục hơn trăm ngọn, thực chắn ngang đường Thuận Hóa…
Lệ Đệ không cao bằng đèo Ngang, vắt ngang từ đông sang tây với nhiều ngọn núi nhấp nhô hình bát úp. Trong đó có núi chủ của xã tôi là hòn Cốt Lầu cao 233 mét. Núi này còn được gọi bằng những cái tên dân dã khác như Hòn Vắt, Hòn Bung. Năm 1885, thực dân Pháp đánh Quảng Bình, lập đồn ở xã tôi và xây đài quan sát trên núi Cốt Lầu để phòng canh quân Cần Vương của vua Hàm Nghi đổ xuống từ Tuyên Hóa nên nghe đâu dân gọi núi Cốt Lầu là núi Lầu Tây. Thời cửa Gianh chưa xây hải đăng, ngư dân không có la bàn thì núi Cốt Lầu trở thành điểm định hướng cho người đi biển. Núi Cốt Lầu thời xa xưa là rừng già có nhiều cây lim, cây táu cây sến, toàn gỗ tốt cả. Lòng núi chứa nhiều quặng sắt, theo sách cổ thì thời Chúa Nguyễn tại đây có tới năm chục lò nung. Hàng năm, dân phải nộp sắt cho triều đình.
Ngoài trấn sơn Cốt Lầu, quê tôi còn có các ngọn núi khác như hòn Mái Am, cao chừng 213 mét hình dáng giống cái đầu voi trên dựng một am thờ (vì thế mà dân đặt tên là núi Mái Am chăng?), hòn Bàu Vũng Nước ở chóp có vũng nước lớn trong vắt bốn mùa không bao giờ cạn, núi Đá Mài có độ cao 193 mét ở trên đỉnh hầu như bằng phẳng có nhiều tảng đá bạc trắng… Mái núi Đá Mài khi đổ về phía tây nam chạm vào Khe Ngọc mà ở phía thượng nguồn của nó có một hốc đá đựng nước nhỏ xuống tí tách suốt ngày đêm từ lòng núi được gọi là Giếng Ngọc. Nước Giếng Ngọc trong suốt, mát ngọt như là một đặc ân của sơn thần ban cho dân xã tôi. Thời trước, dân Thanh Trạch thường dùng nước Giếng Ngọc trong các dịp lễ cúng bái thần linh hay kỵ giỗ ông bà cha mẹ.
Giếng Ngọc gắn với một truyền thuyết về tình yêu lâm ly, bi thảm. Công chúa Ngọc Hoa yêu một viên tướng của triều Nguyễn. Viên tướng này khi đi sứ ở Thăng Long đã bị Chúa Trịnh bắt giữ lại không cho về. Ngọc Hoa nghe tin dữ, đau khổ tột cùng, bèn vượt đường xa từ Kinh đô Huế ra tận sông Gianh tìm người yêu. Sông Gianh ngăn cách đôi miền, bên ni bên nớ sóng nước mênh mang, sương khói mịt mùng chặn giữ bước chân người đẹp. Trông về phương Bắc xa xa chỉ thấy Hoành Sơn giăng giăng một bức tường thành, mây phủ trắng đỉnh đèo hiu hắt, chẳng thấy đâu bóng hình quen thuộc. Ngày này qua ngày khác, nàng ra bờ Nam sông Gianh ngóng đợi tin chàng và sự vô vọng cứ đầy lên chất ngất. Ngọc Hoa không trở về Huế nữa mà tìm vào chùa Bàu Sen nằm cuối sông Gianh, rút trâm xuống tóc quy y theo Phật. Nam mô a di đà Phật, tưởng rằng mọi chuyện đã yên, cõi tục không còn vướng víu nữa, nào ngờ hình bóng người thương yêu vẫn chẳng thể nào xa khuất được. Ngày ngày, nàng vẫn leo lên núi Đá Mài, kiễng chân ngóng vọng về phương Bắc, chờ mong ngày tái hợp với người chồng chưa cưới. Hơi thở cuối cùng rời khỏi thân thể nàng, giọt máu cuối cùng ngừng chảy trong nàng, tướng lĩnh trẻ trung vẫn biền biệt không về. Núi Đá Mài đã liệm nàng trong một bầu sương trắng ngần như ngọc. Những viên ngọc lung linh và mát lạnh. Dân làng tôi thương xót nàng vô kể nên đã đặt tên cho khe nước ở Đá Mài là Khe Ngọc. Giếng nước ở chân núi cũng mang tên Giếng Ngọc từ đó. Có một câu ca còn truyền lại tới bây giờ:
Giếng Ngọc, nơi nàng lấy nước uống
Mái Ngọc, nơi nàng đứng trông chồng…
Quê mẹ của tôi có sông núi, ruộng đồng và biển cả. Sông Gianh, núi Lệ Đệ, Biển Đông đã in dấu trong tâm hồn tôi. Cả những cánh đồng không lấy gì rộng rãi, bùn đen pha cát trắng nằm kẹp giữa chân núi và đường quốc lộ hay bờ biển cũng là niềm thương nhớ của tôi. Cây mạ cắm xuống, chịu nắng chịu gió, thân còi cọc, hạt mỏng lép không mang lại no ấm cho người làm nông. Người ta làm ruộng cũng chỉ cầm chừng, gặp lúc mưa gió thuận hòa họa may có hạt lúa trong bồ góp vào với khoai sắn qua từng bữa đói bữa no. Dân ruộng có người đã bỏ đất sắm thuyền mảng đi lộng, cũng chỉ quanh quẩn gần bờ thôi, tiền ít lấy đâu tàu lớn để vươn khơi. Một ít làm nghề nề, nghề mộc, giỏi giang thì thành chủ thành thầy, làng nhàng thì cam phận thợ chính, thợ phụ. Thế cũng qua tháng, qua năm chẳng có ai chết đói.
Mấy năm gần đây, xã tôi đua nhau đi lao động nước ngoài. Bằng mọi con đường, hợp pháp hay bất hợp pháp. Du lịch, du học đôi khi chỉ là cái vỏ che đậy con đường mưu sinh, làm giàu. Châu Á, châu Âu, châu Mỹ, châu Đại Dương đều có dân Thanh Trạch góp mặt. Chủ yếu là đi làm thuê. Làm thuê nhưng có tiền, đôi khi nhiều tiền nên ai cũng ham. Tiền từ nước ngoài chảy về quê, nhà tầng đua nhau mọc lên, ô tô con lác đác xuất hiện và ngày càng nhiều hơn. Đàn bà con gái váy ngắn váy dài, môi son má phấn. Nhà hàng, nhà nghỉ, quán karaoke nhan nhản…
Lắng lòng với biển
Thôi, tôi phải chấm dứt ngay cái sự lan man để lắng lòng mình lại với biển quê nhà. Bố mẹ tôi không có ai làm nghề biển. Tại sao tôi luôn hằng nghĩ mình là đứa con của biển cả bao la. Biển và cát xuất hiện trong những trang viết của tôi khá nhiều. Đã có:
Của riêng tôi một ngày tháng tư cát trắng oa oa
tôi cất tiếng khóc trước mặn mòi biển cả
trong căn nhà lợp lá
nước mắt mẹ tôi chảy khuyết cánh buồm…
Đã có:
Cát đi mãi chẳng thành đường
tôi đi theo lối mẹ thường hát ru…
Thuở bé, đêm đêm tôi nghe tiếng sóng biển ì ầm đung đưa, đung đưa. Những hôm biển động sóng ầm ào không dứt, nghe như có hàng ngàn nhịp trống đang hòa vào nhau. Sáng, tôi nhìn ra bao la, mặt trời nhô lên đỏ rực, những chấm buồm xa xa trông như các mầm lá vừa nhú lên trên nước. Chiều tối, trời chi chít sao kê sao vừng, mùi cá nướng thơm phức khắp làng. Năm, sáu tuổi chúng tôi đã “nghiện” món cá trích nướng than củi chấm nước mắm cốt pha ớt tỏi cay xè. Bánh đa nướng bẻ ra từng miếng một giòn tan. Chao ôi, biển của tôi, có trong mỗi cái nhìn xa xăm mơ mộng, thơm tho trong từng cơn hà thít thèm thuồng.
Những ngày bình yên chấm dứt. Chiến tranh. Chúng tôi đi sơ tán. Xa biển gần mười năm. Lên núi hái củi, nhìn ra biển thấy tàu chiến Mỹ nghênh ngang tức quá nhổ nước bọt, chửi giặc Mỹ, gọi giặc Mỹ là thằng. Hết chiến tranh. Có lần máy bay của Mỹ đi tìm hài cốt phi công đâm vào núi Mái Am tan xác. Dân làng tôi chạy lên tìm nhặt thi thể người bị nạn. Như thời trước nhặt thi thể bà con mình bị bom Mỹ. Lạ thế. Không còn hận thù. Còn chuyện này nữa. Không ít con em người Thanh Trạch hiện nay làm ăn ở Mỹ. “Biết rứa, trước ni hai nước đừng đánh chắc thì hay biết mấy hè!”. Chuyện lịch sử, làm sao có “Biết rứa” hay “Giá như” được.
Tôi đọc sách biết biển quê mình không có rạn đá san hô ngầm gần bờ mà là một mặt phẳng thoai thoải nghiêng từ tây sang đông chừng 2 độ. Vào vụ cá tháng 2 đầu năm, nhiều đàn cá cơm, cá đù, cá lẹp di cư từ phía nam lên đều dừng lại ở đây lâu hơn. Moi biển, dân quê tôi gọi là con khuếch vào mùa cũng tụ tập về đây nhiều lắm. Chúng lập lờ trôi trên mặt nước như những đám mây hồng hồng. Dân đánh bắt lên, khuếch tươi tanh tách cho vào bát rồi nặn chanh tươi, trộn gia vị thành món gỏi rất hấp dẫn. Lâu dài thì người ta làm ruốc hoặc phơi khô làm món ăn dự phòng mùa mưa bão. Ruốc biển hay nước mắm chắt từ ruốc ở quê tôi khá nổi tiếng. Nhiều món ăn chọn ruốc biển để chấm. Với tôi thì món ruốc đã trở thành quá quen thuộc. Khế chua, chuối chát chấm ruốc là một món bình dân ngon. Bún ăn với ruốc trộn ớt tỏi cũng là một lựa chọn ẩm thực giản đơn mà đáng nhớ. Thịt chó với ruốc là cặp bài trùng hợp vị rồi. Canh rau, canh bầu thêm chút ruốc biển (cho vào lúc nước chưa nóng) sẽ ngọt hơn, không cần mì chính vẫn tròn vị như thường. Tôi vẫn tự nhận mình là dân “mắm ruốc” mà!
Bờ biển xã Thanh Trạch ít nhấp nhô nếu không muốn nói là khá bằng phẳng. Không có những cồn cát, đụn cát, lũng cát quá cao hay quá thấp so với mặt biển như các nơi khác ở Quảng Bình. Trên cát là những rừng phi lao chắn gió, tiếng vi vu chạy dài suốt từ Đá Nhảy đến cửa Gianh. Đây là bức tường thành màu xanh chắn giữ phía đông xã tôi. Với tôi, cây phi lao giống chiếc đàn dương cầm mang những cung bậc vui buồn của quê hương xóm mạc. Người đi trong bóng cây, dưới những vi vu mờ tỏ nghe bao ký ức trỗi dậy bâng khuâng. Người tựa vào thân cây, trông ra biển, thấu nỗi gian truân chìm nổi của dòng đời trầm luân. Dù đi đâu, về đâu, sướng hay khổ cũng không vơi nỗi nhớ quê nhà. Cũng như tôi vậy, đi đâu cũng gồng gánh làng xã, sông núi quê nhà theo.
Về Đá Nhảy lao xao sóng bể
Nỗi buồn theo Vụng Hóp, Khe Giang
Từ Đồng Miếu sang Cha Màn
Lên Đá Bụt tới Mạ Ca năm nỉ
Trời Nam biển Bắc bao nỗi nhớ thương
Ơn cha nghĩa mẹ lỗi đạo thường báo đáp…
Tôi được sinh ra, lớn lên, được dưỡng nuôi từ sông núi quê hương cùng những câu ca mộc mạc chân chất như thế. Những ân tình mai sau khi tôi trở thành một người cầm bút chưa bao giờ tách biệt khỏi quê nhà. Dù ngoảnh lại quá khứ đôi khi buồn rơi nước mắt. Đói nghèo đến mức nghĩ lại còn giật mình thon thót. Khổ sở đến mức từng muốn chết đi cho rảnh nợ. Đau buồn đến mức muốn trốn khỏi gia đình, quê hương...
Tất cả đã qua. Cái đọng lại là tình yêu sâu nặng với quê nhà. Tôi mãi biết ơn từng bãi cát, khúc sông, ngọn núi, cánh sóng… Biết ơn từng hạt lúa, củ khoai, con cá, nhúm khuếch… Biết ơn từng câu hò, lời ru của bà, của mẹ. Biết ơn cả cái nhìn nghiêm khắc, chiếc roi của cha. Biết ơn nụ cười, giọt nước mắt của bạn… Biết ơn tất cả quê nhà như câu thơ tôi viết:
Tôi sinh cùng với con đò
chở câu lục bát qua bờ chang chang
cát in dấu dép mo nang
dẫu nghèo khó mấy cũng làng của tôi!
Làng mình chỉ một mà thôi
quê sinh mẹ, mẹ sinh tôi cuối nguồn
nửa đời lầy bãi, lấm cồn
khi xa, trọ trẹ vẫn còn đi theo.
Từ trong bụng mẹ đã nghèo
lớn lên mấy đận gieo neo đã từng
khổ thì chịu, nhục thì đừng
cái hèn quỳ gối, khom lưng khó nhòa
Ta còn có mẹ của ta
thảo thơm từ thuở ông bà yêu nhau
áo thô nhuộm lấy củ nâu
cầm tay thì nặng, che đầu thì thanh
Ta còn có một sông Gianh
chảy qua nhật thực mà thành dòng thiêng
mấy thời máu chảy triền miên
những người ngã xuống tuổi tên vẫn còn...
Những tuổi tên nổi tiếng và vô danh sinh ra ở làng còn gắn bó mãi với sông núi quê nhà. Dù họ đi đâu, ở đâu thì lối đầu tiên khởi hành và nẻo cuối cùng trở về tôi tin vẫn chỉ gói trong một tiếng Làng. Làng viết hoa, bởi đó là một trong những tình yêu lớn nhất của tôi, là thánh địa suốt đời tôi yêu dấu tôn thờ, không gì thay thế được. Những đứa con mang Làng đi xa, làm nên những chiến công, thành tựu rồi trở về bên cửa sông Gianh để cảm nhận sâu hơn, thật hơn trước biển rộng trời cao bấy nhiêu dư âm của nồm nam dĩ vãng, của những hồn nhiên dại khờ trên cát, của những giấc mơ rung rinh theo màu hồng cánh hoa tứ quý mọc chốn hoang vu mà không sợ bị con người quên lãng...
Mỗi năm tôi về quê đôi ba lần nhưng Làng ở trong tôi suốt ba trăm sáu mươi lăm ngày. Cứ như mình chưa bao giờ tha hương vậy. Dường như vẫn nguyên vẹn trong tôi thời thơ ấu êm đềm, những ngày đi học trong tầm bom Mỹ, giọt nước mắt mồ côi khi mẹ mất, ngày lên đường nhập ngũ, cảnh gia đình ly tán, mối tình đầu với em gái của một người bạn cùng xóm... Đi xa để biết yêu quê hương hơn. Yêu quê hương để hiểu được thế nào là tình yêu đất nước. Câu chuyện của muôn đời mà vẫn luôn mới mẻ. Tình yêu quê hương, đất nước mãi mãi tinh khôi!
*Khi viết bài này tác giả có tham khảo sách Địa chí xã Thanh Trạch, Biên soạn: Nguyễn Tú, Nxb Thuận Hóa, 1995.