hay
“Về Bằng chứng kết luận”
Hai cuốn hồi ký trước mắt tôi đây, một là của tác giả sinh ra tại Nga, giờ đã là công dân của một quốc gia khác, còn cuốn kia là bởi cháu gái của một nhà giáo dục Mỹ vĩ đại, cả hai đều là những cuốn sách cực kỳ trau chuốt. Thật hiếm khi có tới hai thành tựu như thế tới bàn của một nhà phê bình thực sự trong cùng một ngày.
Đám đông nhỏ những người ngưỡng mộ ông Nabokov sẽ không phải tự hào vô cớ với việc xuất bản tác phẩm mới của ông. Mặc dù đặt tên cho nó là “hồi ký” dường như là một bước đi hiển nhiên, vẫn có những đặc điểm nhất định – không nhất thiết phải là phẩm chất – về mục Bằng chứng kết luận đặt nó hoàn toàn tách rời khỏi những cuốn hồi ký hiện có, dù là sự thực, ít nhiều sự thực, hay cố tình hư cấu. Nếu tính chất sáng tạo của nó có không được hấp dẫn như ánh sáng nhân văn sâu sắc thấm đẫm từng trang trong cuốn When Lilacs Last (tạm dịch: Khi tử đinh hương còn mãi), thì ở một mặt khác, nó có chứa những nguồn vui thú đặc biệt mà không một độc giả thông minh nào nên bỏ qua.
Vì là một cuốn hồi ký kỳ lạ độc nhất, cuốn sách của ông Nabokov dễ dàng được định nghĩa về những mặt không phải là nó hơn là những mặt nó đại diện cho. Chẳng hạn, đó không phải là những câu chuyện lèm bèm, không đầu không đuôi và dông dài, dựa chủ yếu vào ghi chép của một người chép nhật ký như các chuyên gia ở những môn nghệ thuật khác hay các nhà điều hành khác trong sự tồn tại công khai của chúng ta vẫn thường sản sinh ra (“tối thứ Tư, quãng 11 giờ 40 phút, Tướng này nọ đã gọi điện. Tôi nói với ông ta…”). Nó cũng không phải là một nhà bếp của nhà văn chuyên nghiệp, với vài mẩu tư liệu khác thường trôi nổi bên trong món hầm còn âm ấm của văn chương và các vấn đề cá nhân. Đặc biệt, đây không phải thể loại các câu chuyện vặt vãnh bóng bẩy phổ biến, trong đó tác giả tự tôn mình lên một mức độ cao ngạo của tiểu thuyết hạng C, cùng với sư láo xược âm thầm, anh ta đặt hết tập này đến tập khác những hội thoại (Maw và người hàng xóm. Maw và lũ trẻ, Bill và Maw, Bill và Picacsso), thứ mà không một bộ não người nào có thể lưu trữ được trong bất kỳ dạng nào chỉ gần tới mức độ cụ thể như thế.
Với nhà phê bình này thì tầm quan trọng vĩnh cửu của Bằng chứng kết luận nằm ở chỗ nó là điểm gặp gỡ giữa hình thức nghệ thuật phi cá nhân với một câu chuyện cuộc đời đậm tính cá nhân. Phương pháp của Nabokov là khám phá những vùng xa xôi nhất trong cuộc đời quá khứ của ông để tìm một điều có thể được cho là những lối mòn hay con sóng theo chủ đề. Một khi đã được tìm thấy, chủ đề này hay khác sẽ được lần theo qua nhiều năm tháng. Quá trình phát triển ý đó sẽ dẫn lối cho tác giả tới những miền mới trong cuộc đời. Mẫu hình nghệ thuật hình kim cương và sức lực của một ký ức lớp lang được kết hợp lại trong một chuyển động mạnh mẽ và mềm dẻo, tạo ra một phong cách dường như sẽ trượt trên kính và hoa về phía mặt đá phẳng ấm áp mà trên đó nó sẽ cuộn tròn hết mức.
Hiển nhiên phương pháp của Nabokov sẽ mất hết ý nghĩa trừ khi tư liệu của ông là một trải nghiệm cá nhân trung thực hết mức mà ký ức có thể làm được. Các công cụ chọn lọc ở đây gắn liền với nghệ thuật; nhưng các phần được chọn thì thuộc về một cuộc đời trọn vẹn. Ký ức của Nabokov, đặc biệt liên quan đến hai mươi năm đầu đời của ông, là phần mạnh mẽ khác thường nhất, và có lẽ ông ít gặp khó khăn hơn hầu hết những người viết hồi ký khác trong việc tuân theo kế hoạch ông đã đặt ra cho mình: bám sát vào sự thật dù nó có thế nào đi nữa và không bị cám dỗ lấp các chỗ trống bằng những điều giả tạo gần như đúng về mặt lô-gíc đóng vai trò là những kỷ niệm được lưu giữ quý giá. Trong một hoặc hai trường hợp, việc nghiên cứu có thể sẽ chứng minh rằng vài điều đã bị nhớ nhầm ngay từ đầu; hoặc trí nhớ có thể đã yếu đuối và đầu hàng trong vô thức trước một lý lẽ dễ chấp nhận nào đó đã ngay lập được cử ra để giải cứu; do đó, trong phiên bản Chương Mười hai đăng trên tờ Người New York, lời giải thích mơ hồ về việc làm thế nào một lá thư cụ thể tới được tay tác giả đã được thay thế bằng một thoáng nhớ lại sự thật như trong phiên bản hiện nay, trong đó việc giới thiệu một tư liệu mới, dường như không liên quan gì trong chương đó đã cho phép một cách dễ dàng và rất gọn ghẽ để trí nhớ nhặt lại từ một nơi không ngờ đến thứ nó đã đánh mất. Và trong một chương khác (Chương Bảy), Nabokov đã giữ lại trong quá trình phát triển câu chuyện, như một phần kết cấu của nó, khó khăn thực sự ông đã gặp phải trong lúc nhớ lại tên của một chú chó – cái tên đã đột ngột được thả ra từ một tế bào bí mật nào đó trong tâm trí trong quá trình viết.
Độc giả chắc chắn sẽ thích thú khi tự mình tìm ra từng nếp cuộn, những bậc thềm đá, những điểm nguỵ trang vui vẻ khác nhau của một tuyến chủ đề này hay khác chạy xuyên suốt cuốn sách. Có vài tuyến chính và vô số những tuyến phụ trợ, và tất cả chúng được kết hợp theo một kiểu gợi nhớ lại các thế cờ, hay nhiều loại câu đố khác nhau, nhưng tất cả đều nhắm tới hình thái cờ vua thần thánh, thực tế, một chủ đề tái xuất hiện trong hầu hết các chương: những bức tranh ghép hình; một bàn cờ huy hiệu; những “khuôn mẫu có nhịp điệu” nhất định, bản chất “đối âm” của số phận; “những dòng hoà trộn của kịch bản” của cuộc sống; một ván cờ trên con tàu lênh đênh trong lúc nước Nga xa dần; những cuốn tiểu thuyết của Sirin; mối quan tâm của ông với các thế cờ; “hình biểu trưng” trên những mảnh sứ vỡ; một miếng tranh ghép cuối cùng hoàn thiện hình xoáy trôn ốc của chủ đề.
Hấp dẫn không kém điều đó là chủ đề “cầu vồng”, vốn bắt đầu với một sự sắp xếp màu sắc bình thường – tấm kính màu, đèn lễ hội, sơn, trang sức và những thứ khác – rồi nó hiện ra là chính mình như một chủ thể tán sắc trong phong cảnh núi non hay bên trên những cái cây nhỏ nước mà bên dưới nó nhà thơ thiếu niên đã trải qua cảm hứng lần đầu tiên của nghệ thuật làm thơ còn non dại. Độc giả sẽ dõi theo với niềm khoan khoái về chủ đề các cuộc đi bộ và những đường mòn trong công viên riêng và khu rừng của tổ tiên ông, những thứ bắt đầu từ một thung lũng cây sồi, dẫn tới những tiên lượng kỳ lạ về nước Mỹ trong lòng những khu rừng và bãi than bùn của Nga, và cuối cùng phát triển thành những khu vườn và công viên công cộng chạy thoát ra ngoài biển với tới những chân trời khác. Có lẽ chủ đề cảm động nhất trong cuốn sách chính là tuyến truyện “tha hương”, về điểm này tôi sẽ lại phải đồng cảm. Theo một cách nào đó Nabokov đã trải qua tất cả đau khổ và vui sướng của nỗi nhớ cố hương rất lâu trước khi những cảnh trí từ quãng đời non trẻ của ông bị xóa nhòa vĩnh viễn. Ông đã gắng sức chứng minh rằng thời thơ ấu của mình chứa đựng, ở một mức độ đã bị giảm đi nhiều lần, các thành phần chính tạo nên sự trưởng thành sáng tạo của ông; do đó, xuyên qua tấm màng bọc mỏng của một chú nhộng sắp chín muồi người ta có thể trông thấy, từ cặp cánh nhỏ của nó, những hình vẽ của màu sắc và hoa văn, sự hé lộ ở cấp độ nhỏ bé của một chú bướm sẽ mau chóng hiện ra và để cho những chiếc cánh hồng hào và chấm bi của nó xoải rộng gấp bao nhiêu lần kích thước của con nhộng.
Việc phá giải một câu đố là hành động thuần khiết nhất và cơ bản nhất của tâm trí con người. Tất cả các tuyến chủ đề được nhắc đến đều dần dần được quy tụ về với nhau, được chăm chút để đan dệt hay hội tụ, theo một hình thức tinh tế nhưng tự nhiên của tiếp xúc, đó cũng là một chức năng của nghệ thuật, không kém gì tiến trình có thể khám phá được của nó trong cuộc cách mạng của số phận một cá nhân. Do đó, càng về cuối cuốn sách, chủ đề về sự bắt chước, về “sư nguỵ trang bí ẩn” được Nabokov nghiên cứu trong lúc theo đuổi ngành bướm học, đã gặp gỡ vừa vặn với chủ đề “câu đố”, cùng với giải pháp được nguỵ trang trong một thế cờ, với việc gắn kết các hoa văn trên những mẩu đồ sứ bị vỡ, và với một bức tranh ghép hình trong đó cặp mắt đã nhận ra những đường viền của một đất nước mới. Các tuyến chủ đề khác cũng đã tới cùng một điểm hội tụ ấy trong vội vã, như thể chúng khao khát từ tiềm thức cho sự kết nối vui sướng được cả nghệ thuật và số phận cùng mang tới. Lời giải cho chủ đề câu đố cũng là lời giải cho chủ đề tha hương, cho những “mất mát thực chất” chạy xuyên suốt toàn bộ cuốn sách, và đến lượt mình những tuyến chủ đề này hoà vào nhau, với đỉnh điểm của chủ đề “cầu vồng” ("vòng xoáy cuộc đời trong một viên đá mã não”), và hợp nhất, ở một round point1 thoả mãn nhất, cùng rất nhiều lối đi bộ trong vườn và lối đi trong công viên và những đường mòn trong rừng đã uốn lượn khắp cuốn sách. Người đọc cũng không thể không tôn trọng mức độ nhạy cảm nhìn lại quá khứ và sự tập trung sáng tạo mà tác giả đã tập hợp được để lên kế hoạch cho cuốn sách của ông đúng theo cái cách cuộc đời ông đã được một kỳ thủ chưa biết nào đó hoạch định, và không bao giờ bị xao lãng khỏi kế hoạch đó.
1 Điểm vòng
Vladimir Nabokov sinh năm 1899, ở St. Petersburg. Cha ông, cũng mang tên Vladimir, là một trí sĩ châu Âu học thức cao, một nghị sĩ thông tuệ, một nhà cách mạng năng nổ và vui vẻ, người có các anh em ruột và anh em rể nói một cách nhẹ nhàng nhất là những người thủ cựu dễ tính, và nói khó nghe là những kẻ phản động tích cực, nhưng bản thân ông lại thuộc về một nhóm Tự do phản đối các xu thế độc đoán và bất công dưới chế độ Sa hoàng, cả ở Quốc hội lẫn trên các tạp chí được đông đảo người đọc. Những độc giả người Mỹ ngày nay, sẽ ngạc nhiên khi đọc được từ nhiều đoạn khác nhau trong Bằng chứng kết luận về việc các ý kiến có thể được biểu đạt tự do ra sao và những con người văn minh thời tiền Cách mạng Nga đã có thể làm được nhiều như thế nào.
Cuộc sống trong tầng lớp thượng lưu và địa chủ như của gia tộc Nabokov cũng có những nét tương đồng với giới giàu có ở miền Nam đất nước này và rất giống cuộc đời trong các dinh thự ở Anh hay Pháp. Những mùa hè mà tác giả trải qua khi còn là một cậu bé ở vùng thôn quê dường như chịu trách nhiệm đặc biệt cho việc định hình con người ông. Miền quê với những ngôi làng mọc rải rác giữa các khu rừng và bãi lầy rộng lớn, dân cư thưa thớt nhưng có vô số những con đường nhỏ cổ xưa (những đường mòn bí ẩn đan khắp cả Vương quốc từ những thời kỳ không ai còn nhớ được) ngăn không cho những người đi hái dâu, những kẻ lang thang, những đứa trẻ xinh đẹp của nhà địa chủ khỏi lạc lối trong rừng. Và vì hầu hết những con đường và các vùng đất hoang họ đi ngang qua hay được dẫn lối tới, đều vô danh, các gia tộc địa chủ, từ thế hệ này đến thế hệ kia, đều gắn cho chúng những cái tên mà dưới sức ảnh hưởng của các nữ và nam gia sư người Pháp đã tự nhiên xuất hiện trong suốt những chuyến promenades1 hàng ngày của lũ trẻ và các buổi dã ngoại thường xuyên – Chemin du Pendu, Pont des Vaches, Amérique và vân vân.
1 promenades: chuyến đi dạo
Tác giả của Bằng chứng kết luận – bởi một sự trùng hợp thú vị, tác giả của cuốn sách Khi tử đinh hương còn mãi cũng vậy – đều là con cả trong gia đình có năm người con. Nhưng không như cô Braun, Nabokov có rất ít điều để nói về các em trai em gái của mình – hai người em trai và hai người em gái – sinh ra lần lượt trong các năm 1900, 1911, 1902 và 1906. Sự tập trung mạnh mẽ vào cá tính riêng ở một người, hoạt động không biết mệt mỏi và không thể đánh bại của ý chí một người nghệ sĩ, đã phải chịu những hậu quả nhất định và hiện tượng trên chắc chắn là một trong số chúng.
Với sự đồng ý của tác giả, tôi đã có thể nhắc tới ở đây vài lần liên hệ vô tình của tôi với gia đình ông. Một người anh họ của ông, cũng là công dân trong đất nước này, đã kể với tôi rằng trong hồi thanh niên của họ, các em gái và em trai út của Nabokov có thể dễ dàng viết các bài thơ trữ tình (điểm này được vô số thanh niên Nga thuộc thế hệ đó chia sẻ). Trong một buổi dạ hội văn chương ở Prague, đâu đó đầu những năm hai mươi (có lẽ là 1923), tôi nhớ lại người bạn của Franz Kafka – một dịch giả tài năng người Séc đã dịch Dostoevski và Rozanov, đã chỉ cho tôi thấy mẹ của Nabokov, một người phụ nữ nhỏ bé tóc xám trong bộ đồ đen, tháp tùng là một cô gái trẻ với cặp mắt trong veo và nước da rạng rỡ, em gái Elena của Nabokov. Trong những năm ba mươi, khi sống tại Paris, tôi đã vô tình gặp em trai Sergey của Nabokov: bất chấp sự khác biệt chưa tới một năm giữa hai người, dường như họ đã sống hai cuộc đời hoàn toàn tách biệt nhau kể từ giai đoạn đầu tuổi trưởng thành, theo học những ngôi trường khác nhau và có những người bạn hoàn toàn khác biệt. Khi tôi biết Sergey ông đang bị cuốn theo sự mơ hồ của chủ nghĩa khoái lạc, giữa một đám đông các thị dân Montparnasse1 vẫn thường xuyên được một kiểu nhà văn nhất định ở Mỹ mô tả. Tài năng về ngôn ngữ và âm nhạc của ông đã tan biến cùng bản chất lười nhác. Tôi có lý do để tin rằng tuổi thơ của ông đã chưa bao giờ được hạnh phúc như của đứa con trai yêu thích của cha mẹ ông. Bị buộc tội cảm thông với dân tộc Ănglô-Sắcxông, Sergey, một người bạo mồm và không biết sợ, bất chấp vẻ ngoài nữ tính của mình, đã bị người Đức bắt và chết trong một trại tập trung năm 1944.
1 Khu vực trung tâm Paris.
Trong những trang sách đẹp đẽ của Khi tử đinh hương còn mãi kể về những ký ức sớm nhất của cô Braun, cô đã ám chỉ sự an toàn của một thế giới mà trong đó việc trích lấy mật cây phong hay những chiếc bánh sinh nhật mà mẹ họ tự làm đều là điều tự nhiên và bất biến vĩnh hằng, cũng thân thuộc và gần gũi với người New England dòng dõi quý tộc hay dòng dõi hoàng tộc ở Philadelphia ngày nay y như nó đã từng là với tổ tiên giản đơn, chăm chỉ của họ từ cách đó hai hay ba thế hệ. Mặt khác, thế giới trong quá khứ của Nabokov có một bầu không khí độc nhất của một sự mong manh toả sáng vốn là một trong những chủ đề chính của cuốn sách của ông. Với sự minh mẫn tuyệt vời, Nabokov nhấn mạnh và những điều thấy trước kỳ lạ về mất mát sau này, thứ đã ám ảnh thời thơ ấu của ông – có lẽ càng làm tăng thêm niềm vui của nó. Tại một điểm dễ thấy trong phòng trẻ ở St. Petersburg của ông có treo một bức tranh màu “tươi sáng và sôi nổi theo kiểu Anh, được dùng cho các cảnh đi săn hay đại loại như thế, đã được cho mượn rất hợp trong quá trình tạo ra những bức ảnh hình ghép”; với tính châm biếm thích hợp, nó đại diện cho một gia đình quý tộc Pháp ly hương: những bông cúc điểm xuyết trên một bãi cỏ và đâu đó có một chú bò dưới bầu trời xanh lam, và một quý tộc già béo ú trong chiếc áo chẽn lấm chấm rực rỡ và chiếc quần bó ống màu nâu sẫm, ngồi chán nản trên một chiếc ghế vắt sữa bò trong lúc vợ và con gái ông ta bận rộn với đám quần áo màu sắc xinh đẹp đang treo trên một sợi dây phơi. Đây đó trên điền trang ở thôn quê của gia tộc Nabokov, cha mẹ tác giả, như thể đã về nhà từ nhiều năm đi du lịch, sẽ chỉ ra những dấu mốc sự kiện thân thương, được hé lộ trong một quá khứ không thể hiểu nổi nhưng bằng cách nào đó vẫn luôn luôn hiện hữu. Trên những lối đi trồng cây bách của các vườn hoa ở Crimea (nơi Pushkin đã từng bước đi một trăm năm trước đó) chàng trai Nabokov chọc cười và chọc tức một cô bạn gái có gu đọc các tác phẩm văn học lãng mạn của anh, bằng cách phê bình các hành động hay từ ngữ của chính mình theo lối kể chuyện hồi tưởng có phần uốn éo mà cô bạn đồng hành của anh có thể sẽ phát triển nhiều năm sau này khi viết những cuốn hồi ký của cô (theo phong cách hồi ký liên quan đến Pushkin): “Nabokov thích anh đào, đặc biệt là những quả chín”, hay “Ông có một cách nheo mắt lại khi nhìn vào vầng dương xuống thấp”, hay “Tôi nhớ có một đêm, khi chúng tôi đang nằm ngửa trên một bờ sông đầy cỏ…” - và cứ như thế - một trò chơi chắc chắn rất ngốc nghếch nhưng giờ đây dường như đã bớt phần ngớ ngẩn khi nó được nhìn nhận trong bối cảnh một điều mất mát đã được đoán trước, những nỗ lực thảm hại hòng giữ lại những thứ đã tận, đã ra đi, những điều xinh đẹp của cuộc sống đang chết dần cố gắng một cách tuyệt vọng để nghĩ về chính nó như một sự hồi tưởng từ tương lai.
Khi cuộc Cách mạng nổ ra mùa xuân năm 1917, cha Nabokov tham gia vào Chính phủ Lâm thời một tập hợp của các tri thức Nga cùng chia sẻ những quan điểm cơ bản của nền dân chủ phương Tây. Tuy nhiên, các trí thức Mỹ ngày nay đơn giản là không biết gì về thời kỳ đó.
Các độc giả đọc cuốn sách của Nabokov sẽ để ý thấy sự tương đồng khác thường giữa thái độ hiện nay của những người từng ủng hộ chính quyền cũ với những ý kiến kém phổ biến hơn từ các chí sĩ Nga, những điều họ đã không ngừng bày tỏ trên các tạp chí của người ly hương suốt ba thập kỷ. Người ta sẽ phải giả định rằng hoặc là các cây viết chính trị của người ly hương đã tiến xa nhiều năm trước thời đại của họ trong việc thấu hiểu tinh thần thật sự và sự tiến hoá không thể tránh khỏi của thời đại, hoặc là họ sở hữu một khả năng trực giác và tầm nhìn gần như là kỳ diệu.
Chúng ta mường tượng một cách sống động những năm tháng đại học của cô Braun. Nhưng với tác giả của Bằng chứng kết luận thì không được như vậy, vì ông không có bất kỳ điều gì để nói về các lớp học mà chắc chắn ông đã tham dự. Sau khi rời Nga, Nabokov hoàn tất việc học của mình ở trường Đại học Cambridge. Từ 1922 tới 1940, ông sinh sống ở các địa điểm khác nhau tại châu Âu, chủ yếu ở Berlin và Paris. Bất ngờ thay, việc so sánh những ấn tượng khá u tối của Nabokov về Berlin giữa hai cuộc chiến tranh với những hồi tưởng của ông Spender cùng thời nhưng thi vị hơn nhiều (như đã được xuất bản trong tạp chí Partisan vài năm trước) rất đáng tò mò, đặc biệt là phần về “những chàng thanh niên Đức đẹp trai một cách tàn nhẫn”.
Khi mô tả về các hoạt động văn chương của mình suốt những năm tự nguyện tha hương ở châu Âu, ông Nabokov du nhập một phương pháp có phần khó chịu là nhắc đến mình trong ngôi thứ ba với tư cách là “Sirin” – một bút danh của ông đã từng, và vẫn còn, được biết đến rộng rãi trong thế giới nhỏ bé nhưng có nền tảng văn hoá cao và tinh tế của những người Nga xa xứ. Đúng là khi đã thực sự thôi làm một nhà văn Nga, ông được tự do bàn về các tác phẩm của Sirin theo cách tách biệt với chính mình. Nhưng người ta thường có xu hướng cho rằng mục đích thật sự của ông ở đây là để phóng hình ảnh của chính mình, hay ít nhất là phần bản thể được ông trân trọng nhất, vào bức tranh mà ông đang tô vẽ. Người ta được nhắc nhớ đến những vấn đề về “tính khách quan” mà triết lý khoa học đã đề cập. Một người quan sát tạo bức tranh chi tiết về toàn thể vũ trụ nhưng khi làm xong anh lại nhận ra nó vẫn còn thiếu một thứ gì đó: chính bản thân anh ta. Và thế là anh ta cũng đặt chính mình trong đó. Nhưng một lần nữa “bản thân” vẫn nằm bên ngoài và tương tự như thế, trong một chuỗi phép chiếu bất tận, giống như những tấm ảnh quảng cáo mô tả một cô gái đang cầm bức ảnh chính mình cũng đang cầm một bức ảnh của mình mà chỉ có mực in nhoè nhoẹt mới làm cho mắt ta không nhận ra được. Thực tế, Nabokov còn tiến một bước xa hơn thế và dưới tấm mặt nạ Sirin, ông xuất ra một nhân cách thứ ba được gọi là Vasili Shishkov. Hành động này là kết quả của một mối bất hoà kéo dài mười năm ông có với nhà phê bình tài năng nhất trong những người xa xứ, George Adamovich, người đầu tiên đã từ chối, rồi đến miễn cưỡng chấp nhận và cuối cùng là ngưỡng mộ với nhiều bài văn xuôi bay bổng nhiệt thành của Sirin, nhưng vẫn còn bỉ bôi thơ ca của anh. Với sự hợp tác độ lượng của một biên tập viên mục điểm sách, Nabokov-Sirin đã lấy cái tên Shishkov. Vào một ngày tháng Tám năm 1939, Adamovich đã không tiếc lời khen ngợi bài thơ “The Poets1” của Shishkov trong lúc viết bình luận trên tờ báo bằng tiếng Nga Poslednija Novosti (xuất bản ở Paris) và số thứ 69 của tạp chí hàng quý Sovrenmennyja Zapiski (cũng xuất bản ở Paris), ông ta cũng gợi ý rằng vào thời kỳ muộn mằn này cộng đồng Nga tha hương cuối cùng cũng có thể sản sinh ra một nhà thơ vĩ đại. Mùa thu cùng năm đó, trên cùng tờ báo đó, Sirin đã mô tả dài dòng một bài phỏng vấn tưởng tượng anh có với “Vasili Shishkov”. Trong lời đáp trả có phần yếu đuối nhưng vẫn láu cá Adamovich đã nói rằng ông ta đã nghi ngờ đó là một trò chơi khăm, nhưng nói thêm rằng có thể Sirin vẫn đủ sức sáng tạo để diễn lại nguồn cảm hứng và sự thiên tài vượt quá tầm khả năng của anh ta, của Sirin. Chẳng bao lâu sau đó cuộc Đại chiến Thế giới thứ Hai đã đặt dấu chấm hết cho văn học Nga ở Paris. Tôi e là mình không thể hoàn toàn tin tác giả của Bằng chứng kết luận khi ông nhấn mạnh sự thờ ơ tuyệt đối mình vẫn luôn có với giới phê bình văn học, dù là thù địch hay ngợi khen trong lúc hồi tưởng lại cuộc đời văn chương của mình. Dù sao chăng nữa, một chút gì ghê gớm, hằn học và đôi khi có phần ngốc nghếch vẫn thường hiện ra trong chính những bài bình của ông.
1 Tạm dịch: Những thi sĩ
Làm sao chúng ta có thể biết được điều bí mật to lớn được bao bọc bởi từ ngữ? Chúng ta thấy rằng thông thường một người nước ngoài sẽ không đạt được cảm giác hoàn hảo, bản địa trong ngôn ngữ du nhập của mình. Anh ta đã không sống trong bối cảnh tiếp nhận lặng lẽ và học trong vô thức từ lúc lọt lòng mẹ, và cảm nhận cách từ này được liên kết với từ kia và cách mà một thời đại này – cùng với văn chương, những truyền thống không được ghi chép lại và lối hội thoại thông thường của nó – chảy vào một thời đại khác. Trong công cuộc truy tìm đẹp đẽ, đầy đam mê và đậm nữ tính của cô với vương quốc của những điều thuộc về quá khứ, cô Braun đã bớt được một khó khăn phải vượt qua so với Nabokov. Đúng là vị tác giả người Nga đã có các nữ gia sư người Anh khi còn bé và dành ba năm đại học ở Anh Quốc. Nếu mang trường hợp của Conrad ra để tham chiếu với các tiểu thuyết của Nabokov viết bằng tiếng Anh (The Real Life of Sabastian Knight1 và Bend Sinister2) thì đồng nghĩa với việc bỏ qua ý nghĩa thành tựu của người đến sau. Conrad – dù sao thì thứ tiếng Anh của ông ta cũng chỉ là một tập hợp những câu sáo rỗng được điểm tô thêm – đã không có hai mươi năm tham gia tích cực vào văn học Ba Lan sau lưng ông ta khi ông bắt đầu sự nghiệp bằng tiếng Anh. Mặt khác, Nabokov khi chuyển sang viết tiếng Anh đã là tác giả của vài tiểu thuyết và vô số truyện ngắn bằng tiếng Nga, và quả thực đã chiếm được một vị trí trường tồn trong văn học Nga, bất chấp thực tế những cuốn sách của ông bị cấm đoán ở nơi đất mẹ. Điểm tương đồng duy nhất trong khía cạnh này có lẽ là cả hai người đều đã có thể dễ dàng chọn tiếng Pháp thay vì tiếng Anh. Thực tế là, nỗ lực đầu tiên của Nabokov, hồi giữa những năm ba mươi, trong việc sáng tác văn học bằng một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ của mình, là một câu chuyện ông viết bằng tiếng Pháp (“Mademoiselle O”) mà Paulhan đã xuất bản trong Mesures (một phiên bản bằng tiếng Anh của nó, với hầu hết các phần hư cấu được chính tác giả gạt bỏ, đã xuất hiện trong The Atlantic Monthly và in lại trong Chín câu chuyện). Trong một phiên bản mới, đã được chỉnh sửa và mở rộng, với những tàn tích hư cấu cuối cùng bị loại bỏ, câu chuyện đọng lại ở dạng cuối cùng của nó như là Chương Năm của cuốn sách này. Người bình luận này đã bắt gặp một hồi ức kỳ lạ là được nghe Nabokov trình bày bằng thứ tiếng Pháp tài tình ở một buổi soiree litteraire1cụ thể – tôi tin là vào năm 1937 – ở một phòng hoà nhạc của Paris. Một nữ nhà văn người Hungary, ngày nay đã bị lãng quên nhưng hồi đó đang rất à la mode2 với tư cách là tác giả của một cuốn sách bán chạy nhất bằng tiếng Pháp (thứ gì đó về một chú mèo bắt cá), người đáng lẽ sẽ phát biểu vào đêm đó, thì vài giờ trước đã đánh điện báo rằng bà ta không thể đến được, và Gabriel Marcel, một trong số những nhà tổ chức chuỗi phát biểu, đã thuyết phục Nabokov xuất hiện như một người thay thế vào phút chót bằng một bài thuyết trình tiếng Pháp về Pushkin (sau này được đăng trong Nouvelle Revue Francaise3). Acte gratuite4 của người trình bày (như ông Auden đã nhắc đến nó một cách thú vị) được giới thiệu bằng một chuyển động kỳ lạ, một kiểu xoáy nước trong đám khán giả. Toàn bộ kiều dân Hungary đã mua vé; vài người trong số họ đã bỏ đi sau khi phát hiện ra sự thay đổi trong chương trình.
1 Tạm dịch: Cuộc đời thật của Sebastian Knight
2 Tạm dịch: Mặt trái gia huy
1 Dạ hội văn chương
2 Thời thượng
3 Tạp chí Phê bình Văn học của Pháp
4 Hành động tự do
Những người Hungary khác còn ở lại vì sự thờ ơ vui sướng. Hầu hết nhóm người Pháp cũng đã bỏ ra xa. Trong cánh gà, Công sứ Hungary đang nhiệt liệt bắt tay Nabokov, người mà ông ta nhầm lẫn là chồng của nữ nhà văn. Những người Nga hải ngoại được biết sự việc vẫn còn trung thành tập hợp lại và làm hết sức để lấp đầy những chỗ trống ngày càng to ra trong khán phòng. Paul và Lucy Léon, hai người bạn thuỷ chung của Nabokov, đã mang James Joyce đến như một sự ngạc nhiên đặc biệt; một đội bóng đá Hungary chiếm giữ hàng ghế đầu.
Ngày nay chắc hẳn ông Nabokov phải thấy rất đỗi kỳ lạ khi nhớ lại sự thất thường trong văn học của những năm tháng non trẻ. Hiện nay ông đang sống cùng vợ và con trai ở đất nước mà ông đã trở thành công dân, một cuộc đời hạnh phúc, theo chỗ tôi hiểu, trong lớp nguỵ trang đơn giản của một giáo sư đại học chuyên ngành văn chương vô danh với những kỳ nghỉ phép dông dài dành để đi săn bướm ở miền Tây. Trong giới nghiên cứu bướm, ông được biết đến với tư cách nhà phân loại có phần lập dị với khuynh hướng phân tích nhiều hơn là tổng hợp. Trên các tạp chí khoa học của Mỹ, ông đã xuất bản những khám phá đa dạng của chính mình liên quan đến các loài hay dạng bướm mới; và – một truyền thống trong khoa học có vẻ đã gây ấn tượng với nhiều nhà báo – các nhà bướm học khác đặt tên bướm và ngài theo tên ông. Viện bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ ở New York và Viện bảo tàng Động vật học so sánh ở Harvard đã bảo quản các mẫu vật của Nabokov. Trong một chuyến viếng thăm địa điểm thứ hai tôi đã được chỉ cho xem vài con ngài tí hon – thuộc một giống rất phong phú về dạng thức một cách kỳ diệu – mà Nabokov đã khám phá ra ở núi Wasatch thuộc Utah năm 1943. Một trong số chúng được McDunnough đặt tên là Eupithecia nabokovi1. Điều này là một lời giải mang lại sự thoải mãn sung sướng cho một tuyến chủ đề cụ thể của Bằng chứng kết luận, trong đó Nabokov đã kể về việc mình từng mơ mộng tha thiết được khám phá ra một thành viên mới thuộc nhóm cụ thể đó như thế nào hồi ông còn bé.
1 Một loài bướm đêm trong họ Geometridae
Có những khía cạnh kỹ thuật nhất định của cuốn sách có lẽ cần được nói đến. Nabokov đã gặp vài rắc rối trong việc chuyển tự từ tiếng Nga. Để nhất quán, đáng lẽ ông phải đánh vần là “Tolstoj” (để bắt vần với từ “domoj” nghĩa là “nhà”), Dostoevskij, Nevskij .v.v. và Chehov thay vì Checkhov, nhưng ông đã chọn giữ nguyên những cái tên đã nổi tiếng kia ở dạng quen thuộc hơn của chúng (tuy nhiên để nhất quán vẫn dùng “i” ở cuối từ). Vì âm đặc biệt nửa i nửa u không có phiên âm chính xác trong tiếng Tây Âu, “y” đã được dùng ở mọi nơi (ngoại lệ duy nhất là Yalta) trong đó một chữ “i” hay “j” sẽ mâu thuẫn với cách dùng.
Mười hai chương của Bằng chứng kết luận đã xuất hiện trên Người New York – và ở đây người bình luận này, một người vô tình quen thuộc với vấn đề, mong được giải thích vài điều. Điều đầu tiên, trong lúc so sánh bản hiện nay với bản trên Người New York, ta sẽ để ý thấy trong một số trường hợp (Các chương Ba, Sáu, Mười và Mười hai cung cấp những ví dụ đặc biệt dễ thấy) những mảng tư liệu mới, chẳng hạn như những lần rẽ ngang vào gia phả của Nabokov, những nỗi khổ của ông trong lúc đi thu thập bướm ở châu Âu, một lần chen ngang nhắc tới Polenka, và rất nhiều chi tiết mới về cuộc đời ông ở St. Petersburg và Riviera ở Crimea, đã được Nabokov thêm vào trong quá trình làm việc với cuốn sách của ông sau khi các chương vừa nêu đã xuất hiện trên tờ Người New York rồi. Hơn thế nữa, trong toàn bộ mười hai chương đó đã có nhiều thay đổi khác cũng vì lý do là việc viết lại ít nhiều tỉ mỉ hơn.
Điều thứ hai, đã có những sự khác biệt ít quan trọng hơn nhiều giữa bản hiện nay và bản trên Người New York, việc đó có thể được giải thích là do tác giả đã tái sử dụng lại vài từ đơn lẻ hay cụm từ từng gạt bỏ – trước sự đồng ý miễn cưỡng của ông – do Người New York, hoặc vì lí do “tạp chí gia đình” (phần kết của đoạn 3 trong Chương Mười ví dụ điển hình) hoặc vì Người New York đã bi quan nghĩ rằng một thuật ngữ lạ có thể làm phiền lòng vài ba độc giả kém trí hơn một chút của họ. Trong trường hợp này ông Nabokov không phải lúc nào cũng đầu hàng, và nó đã dẫn đến vài trận tranh cãi nảy lửa. Một vài trong số đó, chẳng hạn như Trận chiến đêm mí mắt, Nabokov đã thua. Những lần khác thì ông thắng.
Điều cuối cùng là nghi vấn về ngữ pháp chính xác. Vấn đề biên tập kiểu này, hay quả thực là bất kỳ kiểu nào cũng sẽ là một lời xúc phạm khủng khiếp với Nabokov, tương tự như chuyện giả sử ngày trước Sovremennyja Zapiski đã xin phép Sirin được thay đổi theo bất kỳ cách nào một câu trong các bài văn xuôi bằng tiếng Nga của ông. Nhưng với tư cách là một tác giả viết bằng tiếng Anh, Nabokov luôn cảm thấy bất an. Vì bất chấp tất cả những tự tin và hương vị riêng trong tiếng Anh của mình, ông vẫn có lúc rơi vào những lỗi ngữ pháp, một vài lỗi trong đó có vẻ khá bất ngờ nếu xét đến tính cách kỹ lưỡng nói chung của ông. Do đó, những cải thiện nhỏ do các biên tập viên của Người New York gợi ý – sửa chữa phép nghịch đảo, khích lệ một từ nào đó có vẻ chán nản kỳ cục, tách đôi một câu dài thành hai, chuyển đổi theo nghi thức liên từ “which” thành “that” – đều được ông Nabobkov chấp nhận một cách khiêm nhường và biết ơn. Những chỗ xích mích thường xảy ra quanh việc các biên tập viên vô tình làm hỏng mất một nhịp vần được trân quý, hay hiểu sai một sự ám chỉ, hoặc có xu hướng thay thế toàn bộ các đại từ “anh ấy”, “cô ấy” và “chúng ta” rải rác trong đoạn tiếp theo bằng danh từ, khiến độc giả nhỏ bé phải gãi cái đầu nhỏ liên tục. Và đặc biệt hơn nữa, trường hợp thiếu tiền đề xuất hiện hết lần này đến lần khác, dẫn đến những trận cãi vã trong đó ông Nabokov, một người vốn không thích rào trước đón sau, thường gặp phải thất bại nhưng cũng đã thắng vài trận có chọn lọc.
Dường như ở giai đoạn đầu trong mối quan hệ hợp tác giữa Nabokov và Người New York, những nỗ lực của biên tập viên để làm sáng tỏ những chỗ có vẻ như tối nghĩa và rút gọn câu văn của ông là vô tư và thường xuyên hơn giai đoạn sau này. Những tràng phản đối đau đớn sẽ phát ra từ phía tác giả, kèm những câu lẩm bẩm về sự nhượng bộ không xứng đáng với khẩu vị của một tờ tạp chí. Tuy nhiên, dần dần, phòng biên tập đã nhận ra công sức họ bỏ ra để xây một cây cầu vững chắc kết nối hai ý tưởng bất kỳ nào có vẻ vượt quá tầm tư duy bình thường của một người với nhau đều có phần không cần thiết dù là một quy trình thiện ý, vì tác giả thậm chí còn dụng tâm hơn nữa trong việc phá huỷ, hay nâng lên, hay nguỵ trang cho cây cầu đã phá vỡ cả cảnh quan ấy.
Tuy nhiên, giờ đây độc giả cần được cho thấy mặt kia của vấn đề. Sự đồng cảm lớn lao, sự quan tâm tinh tế và trìu mến đánh dấu mọi câu hỏi của ban biên tập. Trong vài trường hợp khi những thay đổi đau đớn trong diễn đạt bị yêu cầu một cách kiên quyết, các ngôn từ “hình nhân thế mạng” được đưa ra để tác giả nghiền ngẫm, ý tưởng ở đây là bất kỳ từ nào bị ban biên tập phản đối đều phải được đích thân Nabokov thay thế. Một khi câu chuyện nào đó đã được chấp nhận, tác giả tự do từ chối bất kỳ thay thế hay gạch xoá nào được gợi ý. Những lời giải thích hay phóng đại mà thi thoảng ông Ross đòi hỏi phải có (“Căn nhà có bao nhiêu phòng tắm thế?”) thường được Nabokov đáp ứng và đưa đến vài đoạn văn vui vẻ mới. Katharine White, người liên lạc với tác giả trong tất cả những vấn đề trên, đã tốn không biết bao nhiêu công sức để kiểm tra từng dấu gạch ngang và dấu phẩy, vuốt phẳng mọi nếp nhăn trong cơn nóng nảy mất bình tĩnh của tác giả và làm mọi việc để giữ cho văn của Nabokov được nguyên vẹn. Một bằng chứng tuyệt vời cho sự hoà hợp hài hoà giữa tác giả và biên tập viên chính là thực tế Nabokov đã tham lam giữ lại phần lớn những chỉnh sửa cho cú pháp khó dùng này và cả hệ thống chấm câu “đóng” một cách đẹp đẽ của Người New York. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, phòng Nghiên cứu tuyệt vời của Người New York đã vài lần cứu vớt ông Nabokov – người dường như đã kết hợp rất nhiều phần lơ đãng với tính chú trọng tiểu tiết của mình – khỏi vô số những nhầm lẫn liên quan đến tên tuổi, con số, tên sách và những thứ tương tự. Thi thoảng ông bất đồng với những khám phá của phòng Nghiên cứu và dẫn đến những cuộc đấu khẩu hài hước. Một trong số đó có liên quan đến ống khói của con tàu vượt Đại Tây Dương Champlain. Nabokov nhớ rất rõ nó là màu trắng. Một người soát thông tin ở Người New York đã nói chuyện với hãng tàu Pháp; hãng trả lời rằng tàu Champlain chưa được nguỵ trang hồi năm 1840 và vào thời điểm đó nó vẫn có ống khói mang màu đỏ và đen thường có của hãng tàu Pháp. Nabokov đáp lại rằng ông có thể bỏ hẳn tính ngữ ấy luôn nhưng không điều gì có thể thuyết phục ông thay đổi một màu mà ông còn nhớ rõ như thế. Ông tự hỏi có khi nào các nhà chức trách quân sự ở St Nazaire đã sơn lại nó mà không thông báo với văn phòng hãng tàu Pháp ở New York hay không.
Tôi đã bàn dông dài về mối quan hệ của Nabokov và Người New York bởi tôi nghĩ độc giả có quyền được biết tình hình lúc ấy là thế nào và tự đưa ra kết luận của mình. Câu hỏi cơ bản về tính chính trực của một nhà văn gần như không thể nổi lên một khi biên tập viên có thể chứng minh với tác giả rằng câu văn yêu thích của ông ta đầy lỗi ngữ pháp và cần được cải thiện nếu muốn câu chuyện bán được. Mặt khác, một tạp chí có thể đánh giá thấp khả năng bình quân của người tiêu dùng trong việc tiêu hoá được những ám chỉ, lối nói gián tiếp, những điều úp mở – và trong những trường hợp như vậy tôi không tin tác giả nên nhượng bộ, dù có phải chịu bao nhiêu thất vọng về mặt tài chính đi nữa.
Sự tự tin và thẩm mỹ của Barbara Braun, sự thuần khiết và giản đơn trong phong cách lấp lánh như một dòng suối ở New England của bà, là những phẩm chất không được tác giả của Bằng chứng kết luận chia sẻ. Một người không thể không cảm thấy khó chịu trước vài điểm lập dị nhất định trong phong cách của Nabokov, trước thói thản nhiên dùng những thuật ngữ mà các nhà khoa học ít tên tuổi đã sáng tạo ra cho những căn bệnh ít được biết đến; trước xu hướng chung hay nhúng vào những cảm giác bí hiểm; trước những phương pháp chuyển tự của ông (ông dùng một hệ thống – một hệ thống chính xác – để đưa ra ví dụ về bài phát biểu tiếng Nga, và một hệ thống khác, cũng có những vết rỗ vì phải nhượng bộ, để chuyển tự những cái tên); hay trước những cơn bốc đồng của ông như bỗng dưng ném vào một thế cờ (mà không hề cung cấp nước đi then chốt là quân Tượng tới…). Tuy nhiên những người ngưỡng mộ ông có thể phản bác rằng tác giả của Alice ở Xứ sở thần tiên đã dành trọn vẹn trang đầu sách của mình cho một thế cờ vua xuất chúng mà chắc chắn người ta không thể giả định là được nhiều độc giả nhỏ bé của ông ta thưởng thức.
Một vấn đề khác chắc chắn không thể không làm một nhóm độc giả cụ thể (nhóm trên trung lưu về mặt văn hoá) cảm thấy bị xúc phạm là thái độ của Nabokov đối với những tác giả như Freud, Mann và Eliot hay Henry James những người mà truyền thống và tập quán tốt đẹp đã dạy con người ta phải biết kính trọng. Đối với tính huyền hoặc và bói mộng của bộ môn phân tâm học Nabokov đã có những câu châm chọc thô lỗ từ những năm hai mươi. Thomas Mann được ông xếp cùng nhóm Jules Romain Rolland – Galsworthy, đâu đó nằm giữa Upton và Lewis, đúng như ông đã mô tả một cách bất kính (Romain đúng bằng hạng với Sinclair ). Ông có xu hướng nổ ra một tràng giễu cợt sung sướng khi các nhà phê bình ở tầng lớp trung lưu cao đặt tấm thạch cao của Mann và Eliot bên cạnh đá cẩm thạch của Proust và Joyce. Vài người sẽ có cùng quan điểm với ông rằng thơ ca của Eliot về cơ bản là vô vị. Như ông Cleanth Brooks đã nói một cách rất xác đáng ở đâu đó, rằng “dù ông Eliot có chú ý đến đoạn này hay không (điều gì đó trong tác phẩm của cô Weston tội nghiệp) hay có định tham chiếu hay không, thì sự xúc phạm của một người phụ nữ cũng tạo nên một biểu tượng rất thích đáng (chữ in nghiêng là của tôi) của quá trình phi tôn giáo hoá.” Tôi đoán là Nabokov chỉ định cố tỏ ra khôn ngoan khi ông nhận xét rằng sự thành công được biết đến rộng rãi của vở kịch gần đây của Eliot thuộc về cùng một hạng với “Zootism, Thuyết hiện sinh và Thuyết Tito”, và rõ ràng, tất cả những ai có nàng thơ, nhũ danh Eliotovich, cất lời khản đặc như thế trong những tạp chí nhỏ, chắc sẽ nhiệt liệt đồng tình rằng gọi T.S.E. là “Wally Simpson của văn học Mỹ” thì quả thực là một câu đùa rất kém tinh tế. Và ở đây còn có cả sự căm ghét ông dành cho Dostoevski khiến người Nga phải rùng mình và phản đối trong những nhóm trí thức hàn lâm của các trường đại học vĩ đại nhất của chúng ta. Có lẽ sự miễn nhiễm của Nabokov với những sùng bái uỷ mị mà giới phê bình Mỹ đã bảo tồn từ thập kỷ hai mươi và ba mươi là do ông đã phải trải qua, trong suốt những năm tháng ấy, một giai đoạn ít va chạm với Não trạng thời đại trong thế giới của những người Nga ly hương khổ hạnh, cách rất xa những trào lưu của “Thời đại nhạc Jazz” và “trước Đại khủng hoảng”.
Nhưng cùng với tất cả những thiếu sót nêu trên, Bằng chứng kết luận vẫn là một đóng góp đáng kể. Nó chính là “bằng chứng kết luận” cho rất nhiều thứ, trong số đó điều hiển nhiên nhất chính là việc thế giới này không tệ hại như vẻ bề ngoài của nó. Ta nên chúc mừng ông Nabokov vì đã làm được một việc giỏi giang và cần thiết. Cuốn hồi ký của ông sẽ tìm được một vị trí vĩnh hằng trên giá sách của người người yêu sách, kề bên Childhood1 của Leo Tolstoy, Amen Corner2 của T.S.Elmann và Khi tử đinh hương còn mãi của Barbara Braun, cuốn sách mà tôi định sẽ bàn đến bây giờ.
1 Tạm dịch: Tuổi thơ
2 Tạm dịch: Góc cầu Chúa