• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Nơi em thuộc về
  3. Trang 3

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • More pages
  • 39
  • Sau

Lời giới thiệu

Edith Wharton (1862 - 1937) sinh ra ở New York, là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai vốn thuộc về tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của bà là sự kết thúc của cái xã hội này: “Đó là sự thay đổi thật cần thiết, trong thời tôi còn trẻ, những người Mỹ có tổ tiên định cư từ thời kỳ bắt đầu giành độc lập vẫn luôn giữ vững quan điểm quốc gia ngay trong những thời điểm khủng hoảng, họ là những người thừa kế của một nền văn hóa châu Âu truyền thống xa xưa mà giờ đây đất nước này đã hoàn toàn chối bỏ” (Hồi ký, 1.2). Như sự khẳng định trong Thời thơ ngây (1920), chính bản thân Wharton không bao giờ “chối bỏ hoàn toàn” nền văn hóa đó, dù trong cuốn tiểu thuyết này hay những cuốn khác, bà có thể mô tả nó như một sự kế thừa ngột ngạt và thiếu sinh động. Bà tiếp tục tin rằng “xã hội nhỏ nơi tôi sinh ra là ‘tốt đẹp’, nhưng với phần đông độc giả, sự thích thú duy nhất về xã hội ấy lại dành cho sự chấm dứt đột ngột và hoàn toàn của nó, còn với số ít người giàu tưởng tượng thì sự thích thú ấy lại là việc nhận ra những kho báu đạo đức trong đó” (Hồi ký, 1.3). Ở đây Wharton tuyên bố lại kết luận của Newland Archer trong Thời thơ ngây rằng: “Sau cùng vẫn có những điều tốt đẹp trong lối sống cũ”. Cả hai lời tuyên bố này đưa ta đến câu hỏi: “kho báu đạo đức” và “điều tốt đẹp” ở đây là gì, và liệu sự đề cập của Wharton về chúng có thuyết phục được chúng ta bước vào “một chút tưởng tượng” của bà không. Vì sao những lối sống và giá trị trong những năm đầu cuộc đời của Wharton lại ám ảnh bà đến thế, để khi nhìn lại nó sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, bà muốn tái tạo lại thế giới ấy trong Thời thơ ngây? Lời giải thích của bà chỉ gợi lên một mô típ chuyện thoát ly thực tế. Bà nhớ lại tinh thần “nặng nề của mình” với “những mất mát” sau chiến tranh và đã muốn bày tỏ cảm nghĩ của mình trong tiểu thuyết về chiến tranh Người con trai ở mặt trận (1932), “nhưng trước khi tôi có thể giải quyết một cách khách quan những cảm xúc được lưu giữ trong những năm đó, tôi cần phải hoàn toàn thoát khỏi hiện tại”. “Tôi thấy được giải thoát trong khoảnh khắc khi quay lại những ký ức trẻ thơ về một nước Mỹ xa xưa, và viết Thời thơ ngây. Tôi trình từng chương cho Walter Berry và khi đọc xong ông đã nói: “Hay đấy. Nhưng có lẽ bà và tôi là những người duy nhất sẽ đọc nó. Chúng ta có thể là những người cuối cùng còn nhớ về New York và Newport thời đó, và sẽ không có ai khác thích nó cả”.

Tôi bí mật đồng ý với ông về cơ hội thành công của cuốn sách; nhưng nó có “định mệnh của nó”, và nó đã trở thành một trong những cuốn sách hiếm hoi bán chạy nhất của tôi!” (Hồi ký, 14.4).

Wharton không là gì cả nếu nói theo nghĩa bóng, và “những ký ức trẻ thơ” là một cụm từ lôi cuốn hơn là “những ký ức thời thơ ấu”, nó đã gợi lên một sự bối rối và thậm chí là một sự chối bỏ. Nó đã duy trì được danh tiếng cho bà và đã đoạt giải thưởng Pulitzer vào tháng 5 năm 1921.

Thời thơ ngây mở đầu với tình huống Newland Archer chuẩn bị kết hôn với May Welland và chấp nhận thứ mà anh nghi ngờ là sự tự mãn khô khan của thế giới New York, cùng lúc cả anh và xã hội New York bị cuốn vào sự thách thức của Ellen Olenska Âu hóa. Bị khích động bởi Ellen và tận tình với vụ kiện của cô, Archer dường như sẵn sàng tách ra khỏi một sự kế thừa truyền thống của cái thế giới mà anh đã luôn tưởng rằng mình nắm rõ nhất. Còn May, dù ngây thơ trong những khía cạnh khác, nhưng trong tình huống hạnh phúc bị đe dọa cô ít nhất đã có quyết tâm là không để bị thua cuộc. Nhiều sự kiện xảy ra cùng lúc chống lại Archer và Ellen, họ đã phải cam chịu với việc không thể sống bên nhau dù ở bất cứ xã hội nào. Do đó, cuốn tiểu thuyết có thể làm gì ngoài việc tự giới hạn chính nó và đề cập đến xã hội New York cũ như một nơi kỳ diệu chống lại sự sụp đổ của những chuẩn mực xa xưa. Bất chấp sự nghiệp của mình, Wharton lại cho rằng những người đàn ông thế hệ Archer không thể vượt quá ranh giới của họ, dù họ thích nghệ thuật, văn học và những ý tưởng mới đến mức nào đi chăng nữa. Tinh thần của xã hội New York cũ là sự kháng cự lại trước những thay đổi, nó đã được Wharton ghi lại thật chi tiết và ấn tượng tới mức khiến cho nhà phê bình William Lyon Phelps phải tuyên bố: “Tôi không nhớ mình đã đọc một tác phẩm nào mà có thể mô tả cho độc giả rõ ràng như thế về những căn phòng được trang trí trong những ngôi nhà hợp thời trang”. Về số phận buồn tẻ của những con người sống trong những căn phòng ấy, ông cho rằng:

“Sự giam cầm thực sự mà những nhân vật của bà bị mắc vào là những chuẩn mực nhân tạo và giả tạo của họ, sự đơn điệu đáng sợ của những thói quen tầm thường, sự hóa đá dần dần của sức sống, tình trạng tê liệt cảm xúc, sự tích tụ của băng giá quanh trái tim, và cuối cùng họ đánh mất hoàn toàn cuộc sống của họ trong một kiểu tồn tại bị đè nén - tất cả được miêu tả dưới một ngòi bút xuất sắc cao độ… Những cảnh yêu đương giữa Archer và Ellen thật tuyệt vời trong niềm đam mê không thể nói lên lời của họ… tuy lời nói và hành động đều quá ít nhưng người ta vẫn cảm thấy được niềm đam mê vô hạn trong những trái tim đang khát khao cháy bỏng.”

Tuy nhiên, Van Doren đã mở ra một cuộc tranh cãi và chỉ ra sự giới hạn của Wharton khi ông bình luận rằng bà “tuy chưa bao giờ tự xếp mình ngang hàng với những nhà tiên tri, nhưng rõ ràng là bà đã thỏa mãn với việc mình là người tài năng nhất trong số những tiểu thuyết gia cùng thời của chúng ta và quan sát thế giới hữu hình với đôi mắt châm biếm đúng mực”. Ông kết luận với một sự nhận xét sắc bén về tình thế khó xử của bà khi bà nói về Archer: “Thành công của Wharton là bà đã mô tả những nghi thức, chuẩn mực trên bề mặt xã hội thời đó một cách quen thuộc như thể bà yêu chúng và cũng rõ ràng như thể bà ghét chúng”.

Nói một cách khác, dù Wharton có bất cứ sự châm biếm thế nào về xã hội New York cũ thì bà cũng không thể đưa mình sang một thế giới nào khác, và đó là lý do tại sao Archer phải chịu thua và lấy May. Đối với phần kết của tiểu thuyết, Katherine Perry, nhà phê bình thứ ba, viết: “… trong cảnh cuối, ngòi bút (của Wharton) đã nấn ná trên những trang viết về Paris yêu quý của bà, đầy ắp thứ không khí ấm áp của vẻ đẹp và nghệ thuật mà New York trong thập kỷ 70 thiếu một cách trầm trọng”. Một lần nữa lời bình luận này đã nói về chủ định cho phần kết của Wharton, và nó cũng chỉ ra rằng châu Âu là một nơi trốn tránh đầy thẩm mỹ chứ không hoàn toàn là một khởi nguồn của thách thức như ban đầu được phô bày trong con người Ellen.

Châu Âu cũng chính là nơi trốn tránh của Wharton mà không ai có thể phủ nhận. Thực ra, như lời trích dẫn mở đầu của tôi trong cuốn Một cái nhìn hồi tưởng, ta có thể nhận thấy châu Âu và nền văn hóa mà nó ảnh hưởng đến nước Mỹ là những điểm đối chiếu chừng mực cần thiết cho Wharton. Do đó, trong Thời thơ ngây, Wharton mô tả Ellen chỉ là một người phụ nữa làm bộ thách thức với New York cũ mà thôi. Lúc đầu cô được phép mặc một bộ váy quyến rũ, nhưng ở đoạn cuối niềm mong ước của cô lại là sự hòa giải với xã hội này, do đó khiến cho Thời thơ ngây vẫn mang một vẻ điềm tĩnh. Thậm chí khi cô đã trở thành một người bênh vực cho New York cũ thì cuốn tiểu thuyết vẫn làm bộ chế nhạo. Chúng ta không bao giờ khám phá ra những đặc tính làm nổi bật cuộc sống nằm ở đâu, cùng như không thể biết rõ “những sự căm ghét… và tất cả những sự lôi cuốn” mà Wharton đã gợi lên một cách mộc mạc như một thách thức đến từ châu Âu để bà có thể phán xét New York cụ thể là gì. Không gì trong tiểu thuyết gắn liền với tương lai (bà “chưa bao giờ tự xếp mình ngang hang với những nhà tiên tri”), do đó Perry đã nói rằng cảnh kết không để lộ một chút nào về tương lai, ngay cả viễn cảnh của năm 1920, về thứ thực sự đang diễn ra trong nghệ thuật sáng tạo của châu Âu suốt quá trình chuyển biến từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX. Do đó, nếu nó có thể thay đổi, thì New York cũ của Wharton cũng sẽ chỉ trở lại là vài phiên bản của một châu Âu trong quá khứ đã được lý tưởng hóa, đa cảm hóa, như trong phần kết của cuốn tiểu thuyết.

Khuynh hướng bảo thủ suy tàn này của Wharton đã chọc tức Vernon L. Parrington, người đưa ra lời phê bình gay gắt nhất đối với Thời thơ ngây:

“Khi nói rằng sự khéo léo là một thành công rất lớn, tại sao không đi xa hơn và thêm rằng nó không làm nên sự khác biệt nhỏ nhất nào dù người ta có đọc nó hay không, trừ phi độc giả đó là một người sành văn chương ham thích việc thưởng thức mọi thứ. Nhà Van der Luyden có ý nghĩa gì với chúng ta; hay kiểu người như họ có ý nghĩa gì với một thế hệ trước? Tại sao lại phung phí một tài năng như thế với một chất liệu không quan trọng như thế? Có những hiện thực gây rung động trong xã hội New York những năm 1870, ví dụ như Commodore Vanderbilt, hay thậm chí Jay Gould hoặc Jim Fiske. Nếu Wharton chọn những nhân vật này vào bối cảnh của mình thì thật là một tài liệu cho lịch sử nước Mỹ - nhưng sự gợi ý này thật ngốc nghếch. Wharton không thể làm điều đó. Sự ưu tú của bà lại là sự hạn chế của bà. Bà quá ghê tởm thế giới của Jim Fiske để hiểu được nó. Bà đã được dạy dỗ quá tốt để không thể trở thành một kẻ hợm hĩnh, và bà trốn tránh nó chỉ vì sự thông minh đơn thuần. Trí thông minh và những thói quen sẵn có của bà, được gói bọc lại với sự hợm hĩnh tiềm tàng, đã được kiềm chế chỉ vì một sự thận trọng khéo léo.”

Parrington đặt câu hỏi với bất cứ điều gì trong cuốn tiểu thuyết có liên quan đến những vấn đề bên ngoài. Nó không chỉ không đề cập đến tương lai, nó còn tầm thường hóa quá khứ. Thời thơ ngây là sự mô tả thái quá về một New York những năm 1870 vừa mới thoát khỏi cuộc nội chiến (không được đề cập đến trong tiểu thuyết), mà trong đó nhiều thanh niên trong thành phố đã bị chết và bị thương. Trong thực tế sự ngây thơ loại nào cũng không có nhiều, đặc biệt khi tồn tại những nhân vật mà Parrington nói tới. Mark Twain và Charles Dudley Warner đã sử dụng năng lực này trong Thời vàng son (1873), và trong khi những nhà sử học chấp nhận nhan đề của họ để mô tả thời kỳ hậu nội chiến thì không ai chấp nhận nhan đề của Wharton. Do đó, để giới thiệu nó, Wharton đã lôi cuốn chúng ta say mê một sự giả tạo, một sự lôi kéo bằng quá khứ bởi một nhà văn mà trong những tác phẩm trước đã chứng tỏ sự miễn cưỡng với chính những sự giả bộ của mình. Với Wharton, sự ngây thơ là một sự thờ ơ không thể bào chữa và là một sự mù quáng cố ý, chẳng hạn trong phần kết luận với lời phê bình thành kiến bà viết về những sắp đặt của nhà Welland ở Florida: “Phu nhân Welland, năm này qua năm khác, buộc phải xoay xở một chỗ ở được dựng lên một phần bởi những người hầu New York bất mãn và một phần từ nguồn người Phi địa phương”. Trong cuốn tiểu thuyết viết năm 1920 về một thế giới mà 50 năm trước đã thoát ra khỏi cuộc nội chiến về vấn đề người nô lệ da đen thì “nguồn người Phi địa phương” là một cụm từ hoàn toàn khó nghe và quá lãnh đạm với thực tế của thời kỳ mà cuốn tiểu thuyết nhắc tới. Sự ngây thơ của những nhân vật trong sự khuất phục mù quáng của họ với những nghi thức của New York cổ là một yếu tố khiến Wharton vẫn luôn tự đặt mình ở trên họ. Với vị trí đó, bà có thể hạ mình và trở nên đa cảm, lôi kéo những nhân vật của bà theo sự trớ trêu của hoàn cảnh, như trong trường hợp May mang thai. Trong tiểu thuyết của bà hiếm khi chúng ta nhận ra chính mình trong đó, như trong trường hợp của George Eliot và James, tác giả và độc giả có thể đặt mình vào lòng nhân đạo quen thuộc của các nhân vật.

Trong lời bình của Katherine Mansfield, những nhân vật trong Thời thơ ngây “là những người được sắp xếp cho mục đích trưng bày”. Đầu tiên Mansfield bình luận sự cân bằng của Wharton giữa châm biếm và lãng mạn: “…để điều chỉnh cho hai điều này cân bằng là một vấn đề quá lớn đối với ngòi bút tài năng của bà đến nỗi nó dường như là chơi hơn là làm việc”. Tuy nhiên, sự nóng vội của bà với cuốn tiểu thuyết cũng nhanh chóng bộc phát:

“Nhưng còn về chúng ta? Còn về những độc giả của bà? Wharton có hy vọng chúng ta trở nên ấm áp trong một phòng trưng bày nơi mà nhiệt độ quá lạnh lẽo hay không? Chúng ta đang nhìn vào những bức chân dung - hay là không? Đây là những người được sắp xếp cho mục đích trưng bày, đóng khung, lắp kính và treo trong thứ ánh sáng hoàn hảo.

Có phải là quá đáng không khi chúng ta đòi hỏi thêm? Chúng ta muốn thấy cảm xúc phải rõ ràng và lớn hơn nguyên nhân gây ra nó, và mong được phép chia sẻ ý nghĩa của những lời bình luận (chẳng phải đó chính là điều quan trọng mà tất cả tác phẩm hướng tới hay sao?) để mong muốn có một chút dữ dội, một nơi bí ẩn lưu lại trong tâm hồn?”

Sự phản ánh của Mansfield với thứ bị thiếu trong Thời thơ ngây có lẽ đã ngăn lại sự so sánh khéo léo của Judith Fryer giữa cuốn tiểu thuyết này với tác phẩm Bà Dalloway của Woolf (1925). Bà Dalloway có nhiều điều dữ dội và những khoảng tối trong tâm hồn. Bài lý luận về tác phẩm Ông Bennett và bà Brown của Woolf (1924) của bà trong chế nhạo những tiểu thuyết gia, những người cho “chúng ta một ngôi nhà với hy vọng rằng chúng ta có thể suy diễn ra những con người sống trong đó”.

(Tuyển tập những bài luận, 1, trang 332), ta có thể thấy rằng nó được viết để trợ giúp cho những cuốn tiểu thuyết không hợp thời như Thời thơ ngây. Những luồng nhận thức và tự vấn minh họa cho sự sụp đổ của thế kỷ XIX mà Wharton dễ dàng tạo nên là một sự lỗi thời tự cao tự đại.

Sự bế tắc trong việc truyền đạt của tác giả đặc biệt càng rõ ràng mỗi khi bà đề cập đến một nước Mỹ đầu thế kỷ XX.

“Sáng hôm sau, khi Archer ra khỏi chuyến tàu Fall River, anh đã có mặt ở Boston giữa mùa hè ẩm ướt. Những con phố gần nhà ga đầy mùi bia, mùi cà phê và hoa quả bị thối, và một đám đông di chuyển qua chúng với sự tự do quen thuộc của những khách đi tàu đi xuống lối đi vào buồng tắm.

Archer tìm thấy một xe ngựa chở khách và đến câu lạc bộ Somerset để ăn sáng. Ngay cả những khu thượng lưu cũng có cái vẻ nội trợ luộm thuộm mà không thành phố châu Âu nào có.” (Thời thơ ngây)

Elizabeth Ammons nhận thấy Wharton đang thay mặt những người phụ nữ điều khiển một “cuộc tranh cãi với nước Mỹ”, nhưng cuộc tranh cãi quan trọng duy nhất của bà với vùng đất bản địa là với những năng lực thông dụng nổi bật của nó, và để trốn tránh những điều này bà đã cư ngụ trong những vùng lãnh thổ của Pháp. Đến cuối thế kỷ XX, không ai đưa ra một lời giải thích cho trường hợp của bà tốt hơn là V.S. Pritchett:

“Chúng ta luôn nhận thấy rằng, những tiểu thuyết gia công kích những tập quán bởi vì chúng làm ảnh hưởng đến tâm hồn, vì sự tàn nhẫn của chúng với từng cá nhân, và cuối cùng cũng sẽ chỉ ra một sự khuất phục miễn cưỡng. Wharton có lẽ đã ghét New York cũ, nhưng bà còn ghét New York mới hơn. Bà không thích cái nhà tù của thói đạo đức giả câm lặng ấy, nhưng bà đã chắn không cho tính thật thà tiến vào. Đặc biệt là sau cuộc sống xa hoa lâu dài ở châu Âu. Sự căm phẫn đã hiện lên trong cái tên tình cảm” (Pritchett, trang 490).

Sự hối tiếc rất nhiều của Wharton về tự do của thế kỷ XX, mặc dù trong đời sống riêng bà có niềm đam mê bảo vệ lợi ích của người đọc giống với nhân vật Undine Spragg của bà trong Phong tục đất nước (1913), điều này đã được biểu hiện rõ ràng trong Một cái nhìn hồi tưởng khi bà nhớ đến “việc học cách quản lý gia đình cũ… đã sớm bị quét đi bởi ‘trung đoàn tàn bạo’ của việc giải phóng nô lệ…” (Hồi ký, 3.2).

Một khuynh hướng bảo thủ ít bị ảnh hưởng bởi tham vọng của những phụ nữ trẻ khó có thể tạo ra một cái bệ để trên đó Wharton dựng lên như một biểu tượng phụ nữ cấp tiến, để cùng lúc tôn tiểu thuyết của bà lên như “một bữa tiệc của ngôn từ”, “một cuộc tranh cãi với nước Mỹ” và “những bức thư từ âm phủ”. Gần đây trong việc tái hiện lại về cuộc đời tác giả, người ta thường cho rằng Wharton đã được nuôi dưỡng chưa đầy đủ và đã bị áp bức nhiều, đặc biệt bởi mẹ bà, điều này đã được bà bày tỏ trong dòng đầu tiên của Đây là bài thơ của Larkin: “Bố mẹ bạn, đã làm xáo trộn bạn!”. Tiểu sử của bà đã thú nhận môt “sự nhút nhát vô cùng” khi bà còn nhỏ (Hồi ký, 6.3), nhưng nó cũng nhắc tới những chuyến đi sang châu Âu cùng với “người bố đẹp trai, người mẹ ăn mặc đẹp đẽ của tôi, và sự ấm áp của ánh nắng chính là Doyley (vú nuôi của bà)” (Hồi ký, 2.2). Bà thường ở châu Âu với bố mẹ cho đến khi bố bà mất, năm bà hai mươi. Trong khi năm 1878, khi bà mười sáu tuổi, mẹ bà đã tự trả tiền để in tập thơ đầu tiên của bà và “việc không cho tôi cơ hội lãng phí thời gian với những thứ rác rưởi phù du…(đã ném) tôi lại với nền văn học cổ điển vĩ đại, và do đó giúp mang lại cho tâm hồn tôi một sự điềm tĩnh mà việc học quá ít ỏi của tôi không thể sản sinh ra” (Hồi ký, 2.3). Ở một chỗ khác, bà mô tả hành động của mẹ bà với những bài thơ của mình là “hành động điên rồ” (Cuộc sống và tôi, trang 1090) nhưng không có ý làm nhụt đi tham vọng văn chương. Khi nhớ về bố mẹ mình, bà hiểu rằng bố bà “là một người cô đơn, bị ám ảnh bởi một thứ gì đó không thể bày tỏ và không thể đạt được” (Hồi ký, 2.4). Tuy nhiên, không có sự khám phá nào về vấn đề này, ngay cả trong những tiểu thuyết có những nhân vật đầy nội tâm như một Lily Bart (Ngôi nhà vui vẻ), một Undine Spragg hay một Newland Archer. Sự thận trọng ngăn cản bà khám phá về bố mình đã trở thành sự hời hợt trong hoàn cảnh những nhân vật của bà.

Ít nhất giới nữ cũng đang cố gắng để chuyển những lời phê bình về Wharton sang một hướng mới. Những nhà phê bình nam cuối thế kỷ XX hầu như không hơn những nhà bình luận. Giữa những người ấy, Geoffrey Walton đặc biệt đúng đắn khi đưa ra những lời bình luận. Ông tin rằng Thời thơ ngây là “một sản phẩm biểu cảm của một trí óc sáng tạo nổi bật”, ông nhận thấy trong đó “một nỗi luyến tiếc tràn ngập về quá khứ”. Những sự kiện của nó thật “cảm động - và đôi khi kỳ cục - hơn là bi kịch, và hoàn cảnh đạo đức phức tạp cùng đoạn kết cực kỳ cảm động”. Wharton “quan tâm nhiều đến việc sáng tạo lại một thời quá khứ hơn là nói những gì bà cho là quan trọng về cuộc sống”, và toàn câu chuyện (nhớ lại lời phê bình của Phelp) “đặc biệt gợi hình trong những từ ngữ mô tả về trang phục và đồ nội thất, và nó mang tính tư liệu với vô số phong tục, lề thói và lịch sử xã hội” (Diễn giải phê bình). Ngược lại với những lời tán tụng này, Cynthia Griffin Wolf đưa ra một quan điểm mới về “thế giới nội tâm” của Archer và “sức sống nguy hiểm” của nó. Khi bà nhìn Archer, “niềm đam mê to lớn của anh, không thấy lối thoát nào thỏa mãn, đã được lý tưởng hóa trong những ảo mộng khác thường một cách rõ rệt (New York cũ khiến những người đàn ông như Newland có quá ít thứ để làm với những niềm đam mê của họ)”. Những ảo mộng này “đã được ấp ủ bởi nhu cầu tình ái đầy tràn trong chúng, (và chúng) nhẹ nhàng lén quay trở vào những nhận thức của anh về thế giới thực, bóp méo những nhận thức này và lừa dối những mong đợi của anh” (Lễ hội, trang 315). Để làm rõ ràng nhận định này, Wolf đã mượn thuyết định mệnh ấn định. Làm thế nào mà Wolf biết điều này là đúng? Hơn nữa, bà tìm thấy ở đâu trong Thời thơ ngây “một sức sống nguy hiểm trong thế giới nội tâm này” và “những nhu cầu tình ái”? Những nguồn lực này (mà Katherine Mansfield tin rằng cuốn tiểu thuyết bị thiếu) chắc chắn là những thứ cuối cùng mà Wharton muốn đương đầu, việc bà cho Archer là “một người đam mê nghệ thuật” thực sự có thể bị tranh cãi nếu những điều trên thoát ra khỏi tiểu thuyết của bà. Ảo tưởng của Wolff về Archer là một nỗ lực để thuyết phục chính bà rằng anh đã được sắp đặt bởi Wharton, và rằng độc giả được tự do có quan điểm riêng về anh qua những sự kiện trong tiểu thuyết. Chỉ có anh, bà tranh luận, mới có “ảo tưởng giảm bớt sự trong trắng trống rỗng, không ý thức và không bị hủy hoại” của May (Lễ hội, trang 322). Nếu điều này là đúng, nó sẽ khiến cuốn tiểu thuyết trở nên hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, khi nó xảy ra, Wharton đã lặp lại quan điểm của Archer về May, ví dụ như cảnh đầu tiên ở rạp hát. Sau đó Wharton cho chúng ta thấy khi May “đi bên cạnh Archer với dáng đi nhịp nhàng, khuôn mặt mang một vẻ bình yên lơ đãng của một nữ thần bằng cẩm thạch trẻ trung”. Khi cô và Archer gặp M. Rivière, người mà Archer ghen tỵ với cuộc sống văn chương và trí thức của anh ta, Archer tự nghĩ rằng: “May chắc chắn sẽ gọi anh ta là một người có vẻ ngoài tầm thường”. Có đoạn May đã tỏ ra miễn cưỡng: “Người Pháp nhỏ bé đó? Chẳng phải anh ta cực kỳ tầm thường sao?”. Như Lily Bart và Undine Spragg, cô là một thiếu phụ khác của Wharton mà được gọi là “Diana” quá dễ dàng, để mang trong mình sức hấp dẫn tiềm tàng và đã “bối rối, và khẽ run rẩy bên ngoài sự điềm tĩnh trẻ con của mình” khi Archer hôn lên môi cô. Thời thơ ngây không nhắc đến một May quyến rũ, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đén công thức đơn giản đối lập cô với Ellen của Wharton. May có một sự cao thượng không đúng lúc khi cô đề nghị nhường lại Archer cho người phụ nữ mà cô nghĩ vẫn còn là tình nhân của anh, và cô có sự kiên quyết khi cố khiến cho Ellen phải trả lại Archer cho cô. Bên cạnh những phẩm chất này, cô bị hạ thấp dần qua những từ mà sẽ là sự sỉ nhục với những nhà nữ quyền nếu được viết bởi một người đàn ông: “quá thiếu trí tưởng tượng, không đủ năng lực để phát triển… cô đã mãn nguyện đến chỗ của mình ở hầm mộ nhà Archer… nơi mà bà Archer đã yên nghỉ thoát khỏi cái “xu hướng” đáng sợ mà con dâu bà thậm chí chưa bao giờ ý thức về nó”.

Phát triển theo ý của Wolff, Elizabeth Ammons khẳng định rằng Ellen đã gợi lên trong Archer và những người bạn của anh một “nỗi sợ sinh lý… sâu sắc và nghiêm trọng” (Tranh luận, trang 143). Thực ra thì Ellen hoàn toàn bị lương tâm cắn rứt và nhất quyết nhượng bộ với tình tiết đạo đức thiếu sinh động của Wharton. Làm thế nào mà Wharton có thể bị chỉ trích về nỗi sợ sinh lý của Archer, như Ammons nêu ra, khi bà phản đối nó, và không đối mặt một cách sáng tạo, lòng can đảm sinh lý của anh có thể mang lại những gì? Xem lại cuộc sống của anh và May, dù không có hạn chế từ Wharton, Archer đã kết luận: “nếu hôn nhân là một bổn phận nhàm chán thì cũng không thành vấn đề, miễn là nó vẫn giữ được giá trị của một bổn phận: sa khỏi đó, nó chỉ còn là một chiến trường của những ham muốn xấu xa”. Trong sự chống lại dễ dàng giữa “giá trị của một bổn phận” và “những ham muốn xấu xa”, bản năng sinh lý lại một lần nữa được tách ra bởi Wharton mà trong tiểu thuyết trước, bà đã gán nó cho những nhân vật của một dân tộc khác và một tầng lớp thấp hơn bà.

Sim (Simian) Rosedale, người Do Thái quyến rũ, trong Ngôi nhà vui vẻ, đã tự đưa mình vào xã hội vào New York cũ, đi trước nhân vật thậm chí còn được giới tính hóa hơn là Julius Beaufort, chủ ngân hàng lừa đảo trong Thời thơ ngây. Trong khi Beaufort không được xác định rõ là một người Do Thái trong tiểu thuyết, ông được tiết lộ bởi Lewis (Edith Wharton, trang 431) là được dựa trên nguyên mẫu của một người Do Thái, và lý do mà chủng tộc của ông không được xác nhận trong cuốn tiểu thuyết có lẽ vì con gái ông sau này sẽ kết hôn với con trai của Archer. Nỗi sợ ám ảnh về giới tính và dân tộc này của Wharton không được làm sáng tỏ ở phần so sánh Ellen với Aphrodite và Socrates của Carol J. Singley, mà chỉ có lời khẳng định về “vai trò kép như một người tình và một triết gia” của Ellen (Những vấn đề, trang 172 - 3)! Thứ duy nhất để đáp lại những lời nhận xét này có lẽ chính là một sự say mê.

Stuart Hutchinson

Trường Anh ngữ, Đại học Kent ở Canterbury, Vương quốc Anh.

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • More pages
  • 39
  • Sau