“Kho tàng kinh nghiệm của một người sẽ bớt đi giá trị nếu người đó không có bất kỳ trở ngại nào để vượt qua.”
- Helen Keller
Cuộc đời của Helen Keller (1880-1968) và tình bạn của bà với cô giáo Anne Sullivan (1866-1936) là câu chuyện để lại nhiều bài học sâu sắc. Tên đầy đủ của Helen là Helen Adams Keller. Bà là một nữ văn sĩ nổi tiếng thế giới, nhà hoạt động xã hội và diễn giả “đặc biệt” người Mỹ. Bà được Tổng thống Lyndon Johnson trao tặng Huân chương Tự do, một trong những huân chương cao quý nhất của nước Mỹ dành cho những công dân có cống hiến xuất sắc cho cộng đồng và cũng là người phụ nữ đầu tiên nhận bằng tiến sĩ danh dự của Đại học Harvard.
Helen Keller sinh ngày 27 tháng Sáu năm 1880 tại Tuscumbia, một thị trấn miền quê thuộc vùng tây bắc bang Alabama, Hoa Kỳ. Mười chín tháng sau khi cất tiếng khóc chào đời, Helen bị một cơn sốt cao kéo dài nhiều ngày và bác sĩ cho biết không có nhiều hy vọng hồi phục. Nhưng kỳ lạ thay, cơn sốt bỗng dưng biến mất và cả gia đình vui mừng khôn xiết khi Helen dần dần khỏe lại. Tuy nhiên, sau cơn sốt, cô bé đã bị mất đi thị lực và thính lực. Mãi sau này, mẹ của Helen mới phát hiện ra sự thật đau lòng đó khi thấy con gái không có phản ứng gì mỗi khi tiếng chuông báo giờ cơm gia đình vang lên, hoặc không hề chớp mắt khi bà huơ tay trước mặt.
Cô bé Helen khốn khổ liên tục làm vỡ bát đĩa, chụp đèn và nhiều vật dụng khác trong nhà. Cô sống trong nỗi bực dọc, cáu kỉnh triền miên và cảm giác luôn làm phiền mọi người. Họ hàng khuyên rằng nên đưa Helen vào một dưỡng viện dành cho trẻ khuyết tật, nhưng mẹ cô kịch liệt phản đối. Năm lên sáu, Helen được mẹ đưa đi gặp các chuyên gia để tìm kiếm một cơ may, nhưng họ đều xác nhận cô sẽ bị mù và điếc vĩnh viễn. Họ không thể làm gì khác hơn ngoài việc động viên và giới thiệu mẹ của Helen đưa cô bé đến một chuyên gia về các vấn đề của trẻ khiếm thính là Alexander Graham Bell (ông cũng chính là người đã phát minh ra chiếc điện thoại cho cả thế giới sử dụng đến ngày nay). Và Graham Bell sau đó giới thiệu mẹ con của Helen đến gặp ông Michael Anagnos, hiệu trưởng trường Perkins dành cho người mù kiêm giám đốc Bệnh viện Tâm thần Massachusetts. Sau khi xem xét trường hợp của Helen, Anagnos đã giới thiệu với họ với cô giáo Anne Sullivan, một học trò cũ của ông. Cô Sullivan sẽ kèm cặp Helen cách đọc chữ nổi Braille và “viết” bằng một chiếc máy chữ đặc biệt.
Gặp Anne Sullivan
Anne Sullivan sinh ngày 14 tháng Tư năm 1866. Bà cũng gần như mất hết thị lực vào năm lên năm tuổi sau một trận đau mắt nặng, nhưng trong hoàn cảnh không giống như Helen. Năm Anne mười tuổi, mẹ của bà qua đời và người cha, vì sợ không nuôi nổi hai con, đã gửi hai chị em bà vào trại tế bần. Không lâu sau, em trai bà qua đời vì bệnh lao phổi. Đến năm mười bốn tuổi, bà may mắn được giới thiệu vào học tại trường Perkins dành cho người mù. Trong thời gian học tại Perkins, bà đã trải qua hai cuộc phẫu thuật mắt và lấy lại một phần thị lực đủ để đọc mỗi lần vài trang sách.
Năm 1886, Anne tốt nghiệp và đi tìm việc làm, nhưng việc kiếm việc làm đối với một người có thị lực kém như bà vào thời đó không phải là chuyện dễ dàng. Và, như một cơ duyên, bà được thầy hiệu trưởng Michael Anagnos giới thiệu làm gia sư cho một cô bé sáu tuổi tên Helen Keller, và Anne đã vui vẻ nhận lời dù chưa hề có kinh nghiệm trong việc dạy người mù. Helen Keller và Anne Sullivan đã gặp nhau trong hoàn cảnh đó.
Ngày 3 tháng Ba năm 1887, Anne đi Tuscumbia để gặp cô học trò nhỏ. Để kỷ niệm lần gặp gỡ đầu tiên này, Anne dạy Helen “đánh vần” chữ “doll” (búp bê) bằng cách sờ tay trên bảng chữ nổi Braille, và chữ tiếp theo là “cake” (bánh nướng). Nhưng dù Helen có thể nhận ra và ghép vần chính xác hai từ trên, cô vẫn không hiểu được nghĩa của chúng (vì thính giác của cô bé cũng bị mất hoàn toàn). Vì vậy, làm gia sư cho Helen quả là một sứ mệnh gian nan đối với Anne, và càng gian nan hơn nữa khi Anne phải “chiến đấu” hằng ngày với Helen khi uốn nắn những thói quen xấu do tình trạng mù lòa và tính khí thất thường của Helen gây ra, nhất là lối cư xử gây bối rối cho mọi người trong bàn ăn như bốc thức ăn trong đĩa của người bên cạnh (dĩ nhiên đó là do cô không nhìn thấy gì cả).
Nỗ lực của Anne trong việc sửa các thói quen xấu của Helen cũng như hướng dẫn cô bé tự chải tóc hay cài nút áo chỉ làm Helen “phát khùng” hơn mà thôi. Tuy nhiên, sau gần một tháng kiên trì với Helen, Anne đã làm được điều mọi người cho là “phép màu”.
Tuy vậy, Anne vẫn chưa biết làm thế nào để giúp cô bé hiểu nghĩa của từ ngữ. Cho tới một ngày, khi Anne dắt Helen ra vườn và vừa bơm nước vừa viết từ “nước” vào lòng bàn tay cô bé, gương mặt Helen bỗng rạng ngời niềm sung sướng. Cô đã hiểu ra từ “water” (nước) nghĩa là gì. Đó là vào ngày 5 tháng Tư năm 1887.

Helen Keller và Anne Sullivan
Helen nhớ lại: “Lúc đó chúng tôi đang đứng gần giếng nước ở trong vườn và ngây ngất trước hương thơm ngào ngạt của hoa kim ngân. Cô giáo vừa viết từ ‘water’ vào tay tôi vừa rót một dòng nước mát lạnh vào tay kia. Tôi đang đứng lặng im, cảm nhận ngón tay của cô giáo di chuyển mỗi lúc một nhanh thì bỗng nhiên một cảm giác mơ hồ, bị lãng quên từ lâu đã sống dậy trong tôi. Đó là một cảm xúc dâng trào và thật kỳ lạ, mọi bí ẩn của ngôn ngữ bỗng dưng hé mở ra với tôi”.
Chỉ trong vài giờ sau khoảnh khắc đó, Helen đã học được ba mươi từ mới. Cô bé liến thoắng hỏi Anne về tên gọi của bất cứ thứ gì cô chạm phải trong vườn: từ chiếc máy bơm đến hàng rào mắt cáo, rồi đến các loại cây, cỏ, hoa, lá,…
Sự tiến bộ của Helen gây sửng sốt cho tất cả những ai đã từng biết đến cô bé Helen vừa mù vừa điếc, lại bẳn tính và khó bảo. Chẳng bao lâu sau, Anne bắt đầu dạy Helen đọc chữ nổi và tiếp đến là chữ trên bảng đục lỗ dành cho người mù (chữ Braille). Và Helen cũng được học cách sử dụng máy đánh chữ, cả loại có phím chữ nổi lẫn phím thường. Nhiều bài báo thời đó đã gọi Helen là “một hiện tượng”. Những bài báo đó (đăng kèm bức ảnh Helen đang đọc Shakespeare hay đang đi dạo cùng chú chó cưng) góp phần tạo nên một làn sóng quan tâm rộng lớn trong xã hội về “hiện tượng Helen”.
Helen trở nên nổi tiếng khắp nước Mỹ. Trong một lần trở lại Washington D.C. để thăm Graham Bell, cô được Tổng thống Cleveland mời vào Nhà Trắng. Năm 1890, Helen theo Anne vào học nội trú trong trường Perkins. Cũng trong năm đó, cô được cô giáo Mary Swift Lamson dạy nói. Tuy nhiên, dù Helen đã cố hết sức nhưng học nói không đơn giản như học “đánh vần”, học nghĩa của từ hay học viết. Cô cố mường tượng, mấp máy môi và cử động thanh quản theo cô giáo nhưng vô ích, bởi vì các dây thanh của cô đã không được rèn luyện để nói khi còn bé.

Helen Keller và nhà văn Mark Twain vào năm 1895
Vào đại học
Năm 1896, Helen theo học trường Cao đẳng Cambridge dành cho nữ sinh. Đến mùa thu năm 1900, cô được nhận vào Đại học Radcliffe và trở thành người vừa khiếm thị vừa khiếm thính đầu tiên ở Mỹ (và có lẽ trên thế giới) học đại học.
Cuộc sống tại Đại học Radcliffe rất gian nan đối với cả Helen và Anne. Khối lượng bài vở khổng lồ khiến Anne bị mất hẳn thị lực. Cũng chính trong thời gian này, Helen viết tự truyện The Story of My Life (tạm dịch: Chuyện đời tôi) bằng cả máy chữ Braille và máy chữ thông thường. Năm 1903, sách được xuất bản nhưng không được nhiều người biết đến. Tuy vậy, The Story of My Life vẫn được xem là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ. Ngày 28 tháng Sáu năm 1904, Helen trở thành người vừa khiếm thị vừa khiếm thính đầu tiên lấy được bằng Cử nhân của Đại học Radcliffe.
Sau đó, Anne kết hôn với John Albert Macy (người từng biên tập giúp Helen quyển The Story of My Life) và cả ba sống chung một nhà tại Wrentham, Massachusetts. Trong khoảng thời gian này, Helen viết quyển The World I Live In (tạm dịch: Thế giới tôi đang sống), kể lại những ấn tượng đầu tiên của cô về thế giới xung quanh. Năm 1909, Anne trở thành thành viên của Đảng Xã hội Massachusetts.
Năm 1913, quyển sách Out of the Dark (tạm dịch: Từ trong bóng tối) của Helen được xuất bản. Đó là tập hợp những bài viết về chủ nghĩa xã hội và nhờ đó, ảnh hưởng của Helen với công chúng cũng trở nên mạnh mẽ hơn.
Diễn thuyết vòng quanh thế giới
Helen và Anne bắt đầu những chuyến đi diễn thuyết vòng quanh thế giới và nhờ đó, cuộc sống của họ cũng thoải mái hơn. Khi nhu cầu nghe diễn thuyết của công chúng giảm dần, họ chuyển sang làm kịch vui và thu được nhiều thành công vang dội với thù lao khoảng 2.000 đô-la mỗi tuần, một số tiền rất lớn thời bấy giờ.
Năm 1918, Helen, Anne và John chuyển đến sống tại Forrest Hills, New York. Helen sử dụng ngôi nhà của họ làm cơ sở gây quỹ từ thiện giúp người mù và điếc.
Năm 1922, Anne mắc bệnh viêm phổi và sức khỏe yếu dần. Polly Thomson, cô thư ký của Helen và Anne, thay Anne làm người “phiên dịch” cho Helen trên sân khấu mỗi khi cô đi diễn thuyết. Helen và Polly tiếp tục chu du khắp nơi trên thế giới để gây quỹ giúp người mù.
Năm 1931, họ được Vua George V và Hoàng hậu Mary của Anh quốc mời vào tiếp kiến tại Cung điện Buckingham vì ngưỡng mộ tài năng của Helen trong việc “nghe” người khác bằng đôi tay (thay vì đôi tai) của mình.
Ngày 20 tháng Mười năm 1936, Anne qua đời. Helen bỗng cảm thấy đơn độc trở lại như những ngày thơ ấu, nhưng cô không cho phép mình đầu hàng số phận. Cùng với Polly, cô lại tiếp tục con đường mình đã và đang đi.
Người có ảnh hưởng trong thời đại của mình
Sau Thế chiến thứ hai (1939-1945), Helen và Polly đi đến Nhật Bản, Úc, các nước ở châu Âu và châu Phi để gây quỹ cho Hiệp hội Người mù Hoa Kỳ(1). Nếu không nhờ những ngày tháng học chữ và học nói cùng Anne, có lẽ giờ đây Helen không có cách nào để giao tiếp được với mọi người từ khắp nơi trên thế giới như thế.
(1) The American Foundation for the Blind.
Trên đường đi vòng quanh thế giới, họ nhận được tin căn nhà Arcan Ridge của họ ở bang Connecticut, nơi hai người dọn về ở sau cái chết của Anne, bị hỏa hoạn thiêu hủy hoàn toàn, trong đó có cả bản thảo quyển sách Helen vừa mới viết về Anne có tên là Teacher (tạm dịch: Người thầy)
Năm 1953, bộ phim tài liệu The Unconquored (tạm dịch: Người bất khuất) nói về cuộc đời của Helen Keller được trao giải Oscar dành cho phim tài liệu hay nhất. Cũng trong năm đó, Helen viết lại quyển Teacher, quyển sách có bản thảo bị thiêu rụi bảy năm trước đó. Cuối cùng, quyển sách được xuất bản vào năm 1955.
Năm 1957, vở The Miracle Worker (tạm dịch: Người làm việc phi thường), một vở kịch nói về thành công đầu tiên của cô giáo Anne Sullivan trong những buổi đầu giao tiếp với Helen khi còn bé, được dàn dựng và truyền hình trực tiếp lần đầu tiên ở Mỹ. Năm 1959, vở kịch được dàn dựng trên sân khấu Broadway và đem lại thành công vang dội. Năm 1962, The Miracle Worker được dựng thành phim và hai diễn viên vào vai Helen và Anne đã nhận được giải Oscar cho diễn viên xuất sắc nhất.
Năm 1960, đến lượt Polly Thomson qua đời, hậu quả của những lần đột quỵ kéo dài. Tro cốt của bà được đặt cạnh tro cốt của Anne Sullivan trong khuôn viên Nhà thờ chánh tòa quốc gia ở thủ đô Washington. Winnie Corbally, người đã chăm sóc cho Polly, tiếp tục sống với Helen trong những năm cuối đời của bà.
Tháng Mười năm 1961, Helen bắt đầu hứng chịu những cơn đột quỵ đầu tiên. Bà ít giao thiệp với công chúng hơn và rút lui hẳn một thời gian sau đó.
Năm 1964, Helen được Tổng thống Mỹ trao tặng Huân chương Tự do.
Ngày 1 tháng Sáu năm 1968, Helen qua đời bình yên trong giấc ngủ tại căn nhà Arcan Ridge của bà. Hài cốt của bà được đưa về đặt bên cạnh hai người bạn lớn, Anne Sullivan và Polly Thomson, tại Nhà thờ chánh tòa ở Washington, D.C.
Ngày nay, nơi yên nghỉ của Helen Keller là một điểm đến thu hút nhiều du khách Mỹ và quốc tế. Một tấm bia đồng được dựng lên có khắc dòng chữ kiểu Braille để tưởng niệm Helen Keller và hai người đồng hành thân thiết của bà. Du khách nào đến đó cũng muốn một lần sờ vào tấm bia có hàng chữ nổi, đến độ người ta đã phải thay tấm bia đó hai lần kể từ ngày nó được dựng lên lần đầu tiên.
Trong quyển tự truyện của mình, The Story of My Life, Helen viết: “Người mù cũng là một con người bình thường và không ai được phép trêu ghẹo hay làm họ tổn thương”.
Cần nói thêm rằng, vào năm 1932, bà nhận chức Phó Chủ tịch Học viện Hoàng gia dành cho Người mù của Vương quốc Anh(2). Năm 1946, bà được chọn làm cố vấn quan hệ quốc tế cho Hiệp hội Người mù Hoa Kỳ (sau đổi tên thành Tổ chức Quốc tế Helen Keller - The International Helen Keller Foundation). Bà đã từng đi đến ba mươi lăm quốc gia trong những chuyến công du và diễn thuyết trong vòng mười một năm.
(2) The Royal National Institute of Blind People (RNIB).
Helen Keller nhận bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học Temple, Đại học Harvard, và nhiều trường đại học khác như Glasgow (Anh), Berlin (tên mới là Đại học Humboldt Berlin) (Đức), Delhi (Ấn Độ), và Johannesburg (Nam Phi). Đại sảnh Danh vọng Hoa Kỳ trân trọng dành một không gian riêng để trưng bày bộ sưu tập các thư từ, kỷ vật của bà cùng những huân và huy chương cao quý mà bà đã được trao tặng, trong đó có Huân chương Tận hiến của Chính phủ Nhật Bản và giải thưởng của tổ chức Lions Clubs dành cho cá nhân có những hoạt động nhân đạo xuất sắc.

Helen Keller gặp gỡ Tổng thống Mỹ Dwight D. Eisenhower
Nhưng trên tất cả những vinh dự lớn lao mà Helen Keller đã đạt được là sự cảm thông, là tình bạn và tình hữu nghị mà bà đã tạo ra và vun đắp ở khắp nơi trên thế giới, với những con người từ người dân bình thường cho đến các nhà lãnh đạo hàng đầu vào thời của bà. Hầu như trong số những danh nhân thời đó, chỉ còn Charlie Chaplin, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru và John F. Kennedy là bà chưa gặp mặt. Bà xứng đáng được xem là đại sứ của cả thế giới, người luôn phấn đấu hết mình vì một tương lai tươi sáng hơn cho những người khiếm thính và khiếm thị, những người không may phải sống trong một thế giới không có âm thanh và ánh sáng. Cuộc đời Helen Keller thật khác so với rất nhiều người trong chúng ta, và bà cũng đã làm được nhiều điều thật khác biệt cho thế giới này!