Trong bộ đồ ngủ trắng, Teresa đứng cạnh ô cửa sổ phòng ngủ. Đôi mắt bà ta nhắm nghiền. Đó là thời khắc đen tối nhất của đêm: bà ta hít một hơi thật sâu, hít vào cả tiếng xì xào của gió, cả tiếng kêu của loài ễnh ương.
”Nó nghĩa là gì” bà ta cất tiếng hát, chẳng cao hơn một lời thì thầm là mấy. “Sự cô đơn tột cùng này nghĩa là gì? Còn tôi,” bà ta hát - “tôi là ai?”
Im lặng. Sự cô đơn tột cùng không có câu trả lời. Ngay cả bộ ba ngồi trong góc cũng im lặng như bầy chuột sóc.
“Hãy đến đây!” bà ta thì thầm. “Hãy đến với em, em xin anh, Byron của em!” Bà ta mở rộng vòng tay mình, ôm chầm lấy bóng tối, ôm chầm lấy những gì nó sẽ mang tới.
Bà ta muốn ông ta đến trong ngọn gió, để ông ta bao bọc lấy khắp người mình, vùi mặt vào cái hõm giữa hai bầu vú bà ta. Hoặc bà ta muốn ông ta đến vào lúc bình minh, xuất hiện trên đường chân trời như vị thần mặt trời ôm lấy bà ta trong vầng thái dương ấm áp. Dù sao đi nữa, bà ta chỉ muốn ông ta quay trở về.
Ngồi tại bàn trong bãi nuôi chó, ông lắng nghe nỗi buồn, nuốt lấy âm điệu lên bổng xuống trầm trong lời cầu xin của Teresa khi bà ta đương đầu với bóng tối. Đây là quãng thời gian tồi tệ trong tháng đối với Teresa, bà ta đau đớn, bà ta không hề chợp mắt chút nào, bà ta phờ phạc vì nhớ nhung. Bà ta muốn được giải cứu - khỏi nỗi đau, khỏi cái nóng như thiêu như đốt ngày hè, khỏi Biệt thự Gamba, khỏi cơn nóng giận của người cha và thoát khỏi mọi thứ.
Từ cái ghế đang ngồi nghỉ, bà ta nhặt cây mandolin lên. Nựng cây đàn như nựng đứa trẻ, bà ta quay lại với ô cửa sổ. Tiếng lanh canh của cây mandolin vang lên trong tay bà ta, mềm mại, như thể không muốn đánh thức người cha. Âm thanh lanh canh của cây banjo vang lên ai oán trong khoảng sân đổ nát ở Phi châu.
Chỉ là thứ gì đó để bắt tay vào làm, ông đã nói với Rosalind như thế. Vở opera không phải là sở thích, không còn nữa. Nó nuốt chửng ông suốt cả đêm lẫn ngày.
Thế nhưng bất chấp những khoảnh khắc hiếm hoi ông thấy dễ chịu, sự thật là Byron ở Ý chẳng đi đến đâu cả. Không hành động, không tiến triển, chỉ là một điệu hát liền tiếng kéo dài, gấp gáp của Teresa ném vào thinh không, thi thoảng ngắt quãng bởi những tiếng rên rỉ và thở dài của Byron sau cánh gà. Người chồng và ả tình địch bị lãng quên, cũng như thể không còn tồn tại. Lời ca khúc cháy bùng lên trong ông có thể chưa chết, nhưng sau hàng thập niên đói khát nó có thể bò ra khỏi hang để rồi lâm vào cảnh túng quẫn, cằn cỗi và biến dạng. Trong tay ông không có nguồn âm nhạc nào, nguồn năng lượng nào, để đưa Byron ở nước Ý thoát khỏi lối mòn tẻ ngắt, đơn điệu mà nó đang chạy trên đó ngay từ đầu. Đây là kiểu tác phẩm một kẻ mộng du mới có thể viết ra được.
Ông thở dài. Vinh quy trở về khi là tác giả vở opera thính phòng nhỏ kỳ cục kể ra hẳn cũng tuyệt lắm. Nhưng đời chẳng giống như mơ. Những hy vọng của ông phải khiêm nhường hơn: rằng từ đâu đó giữa mớ hỗn độn về âm thanh ấy bỗng bay vút ra, như một cánh chim, một nốt nhạc đích thực khắc họa nỗi nhớ nhung bất tử. Còn chuyện thừa nhận nó hay không, ông sẽ để lại cho các học giả của tương lai, nếu đến lúc ấy vẫn còn các học giả. Vì bản thân ông sẽ không lắng nghe nốt nhạc đó, khi nó đến, nếu nó đến - ông biết quá nhiều về nghệ thuật và các phong cách nghệ thuật nên chẳng mong chờ điều đó. Cho dù hẳn sẽ rất tuyệt nếu Lucy nghe được bản nháp ấy suốt cả cuộc đời con bé, và nghĩ về ông tốt hơn một chút.
Tội nghiệp Teresa! Tội nghiệp cô nàng đau khổ ấy!
Ông đã đưa bà ta trở về từ dưới mồ, hứa hẹn với bà ta về một cuộc đời khác, và giờ ông đang khiến bà ta thất vọng. Ông hy vọng bà ta sẽ tìm thấy điều đó trong trái tim mình để tha thứ cho ông.
Về lũ chó trong mấy bãi nuôi rào kín, có một con mà ông cảm thấy yêu mến đặc biệt. Đó là một con chó đực còn non với một cái chân sau bị tật mà nó phải kéo lê phía sau. Có phải nó bị thế bẩm sinh hay không thì ông không biết. Chẳng vị khách nào buồn nghĩ đến chuyện nhận nuôi nó. Thời gian ân hạn đã sắp hết; không lâu nữa nó sẽ phải nộp mình cho mũi tiêm.
Thi thoảng, trong khi ông đang đọc hay đang viết, ông tháo xích thả nó ra khỏi chuồng để mặc nó nhảy nhót, nô đùa, một cách lố bịch, khắp quanh sân, hay ngủ một giấc ngắn dưới chân ông. Cho dù theo bất cứ nghĩa nào nó đều không phải là “của ông”; ông cũng rất cẩn thận không đặt tên cho nó (cho dù Bev Shaw ưa thích gọi nó là Driepoot); tuy nhiên, ông cảm nhận được thứ tình cảm yêu thương nồng nàn từ phía con chó đang lan tỏa về phía ông. Ông đã được chấp nhận, một cách tùy tiện, vô điều kiện; ông biết con chó hẳn sẽ chết vì ông.
Con chó tỏ ra rất vui sướng với âm thanh của đàn banjo. Khi ông gảy các dây đàn, con chó ngồi dậy, nghiêng nghiêng đầu, lắng nghe. Khi ông gảy lời hát của Teresa, và tiếng ngân nga bắt đầu to dần cùng cảm xúc (như thể thanh quản của ông dày đặc lại: ông có thể cảm thấy tiếng đập thình thịch của máu trong cổ họng mình), con chó chép chép môi có vẻ cũng sắp cất tiếng hát theo, hoặc hú lên một tràng.
Liệu ông có dám làm thế không: đưa con chó vào bản nhạc, cho phép nó giải phóng bằng hết nỗi đau khổ của riêng mình lên những thiên đàng, xen lẫn những khổ thơ của Teresa u sầu vì bị tình phụ? Tại sao lại không nhỉ? Trong một tác phẩm mà sẽ không bao giờ được trình diễn, thì chắc chắn chẳng có điều gì bị cấm cản hết?
Vào các buổi sáng thứ Bảy, theo thỏa thuận, ông tới Quảng trường Donkin giúp Lucy tại gian hàng ở chợ phiên. Sau đó ông đưa cô ra ngoài ăn trưa.
Các cử động của Lucy đang chậm dần. Cô bắt đầu khoác cái vẻ lặng lẽ, chẳng còn quan tâm đến ai. Vẫn chưa lộ rõ bụng, nhưng nếu ông còn nhận ra được mấy dấu hiệu, sẽ mất bao nhiêu thời gian nữa trước khi đám con gái mắt cú vọ ở Grahamstown này cũng nhìn ra?
“Petrus giờ sao rồi?” ông hỏi.
“Ngôi nhà gần xong rồi, ngoại trừ mấy cái trần và hệ thống ống nước. Họ sắp dọn vào ở rồi.”
“Thế còn đứa bé? Chẳng phải chị ta sắp sinh rồi sao?”
“Tuần sau ạ. Tất cả được lên kế hoạch rất kỹ rồi.”
“Petrus có hé lộ gì không thế?”
“Hé lộ?”
“Về con. Về chỗ của con trong kế hoạch đó.”
“Không ạ.”
“Có lẽ mọi chuyện sẽ khác một khi đứa trẻ“ - ông phác một cử chỉ mơ hồ bậc nhất về phía con gái mình, về phía cơ thể của cô - “được sinh ra. Rốt cuộc, nó sẽ là đứa trẻ của trái đất này. Sẽ không thể phủ nhận điều đó.”
Giữa hai cha con có khoảng lặng dài. “Con có yêu nó không?”
Cho dù những lời nói này là của ông, phát ra từ miệng ông, nhưng khiến chính ông giật mình.
“Đứa trẻ ư? Không, sao con yêu được nó? Nhưng con sẽ yêu nó. Tình yêu sẽ phát triển - người ta có thể tin tưởng Mẹ Thiên nhiên vì điều đó. Con đã quyết tâm trở thành một người mẹ tốt, David. Một người mẹ tốt và một người tốt. Bố cũng nên cố gắng làm người tốt đi.”
“Bố nghi ngờ điều ấy đã quá trễ với bố rồi. Bố chỉ là một tên tù khổ sai già đang thi hành bản án của mình. Nhưng con cứ đi trước đi. Con đang làm rất tốt.”
Một người tốt. Một quyết tâm không tồi để nỗ lực, trong thời buổi đen tối như thế này.
Bằng một thỏa thuận ngầm, vào lúc này, ông không tới trang trại của con gái. Tuy nhiên, một ngày trong tuần, ông đều chạy xe dọc theo con đường Kenton, đỗ chiếc xe tải ở lối ngoặt, rồi đi bộ hết đoạn đường còn lại, không đi theo con đường mòn mà tránh sang bên phía thảo nguyên.
Từ đỉnh đồi cuối cùng, trang trại nằm trải dài ra trước mắt ông: ngôi nhà cũ, vững chắc hơn bao giờ hết, mấy cái chuồng, ngôi nhà mới của Petrus, cái đập nước cũ nơi ông có thể nhận ra mấy cái chấm nhỏ chắc là lũ vịt, rồi mấy cái chấm to hơn chắc là bầy ngỗng hoang. Những vị khách của Lucy từ nơi xa xôi.
Ở khoảng cách này, những thảm họa biến thành những khối vững chắc sặc sỡ: màu đỏ tía, màu nâu đỏ và màu xám xanh. Một mùa hoa nở rực rỡ. Bầy ong chắc phải cảm thấy mình đang ở trên tầng thiên đường thứ bảy.
Chẳng thấy bóng dáng Petrus đâu, cũng chẳng thấy vợ hoặc thằng nhóc lừa đảo vẫn chạy cùng hai vợ chồng. Nhưng Lucy đang làm việc giữa các luống hoa; và khi ông tìm đường đi xuống các sườn đồi, ông có thể trông thấy cả con chó bull nữa, trên lối đi bên cạnh cô có một mảng hoa màu nâu vàng.
Ông tới gần hàng rào rồi dừng lại. Quay lưng về phía ông nên Lucy không để ý. Trên người cô đang mặc bộ váy hè nhạt màu, đi ủng, đội chiếc mũ rơm rộng vành. Khi cô cúi người xuống để cắt, xén tỉa hay buộc chặt cái gì đó, ông có thể trông thấy làn da trắng như sữa, lấm tấm đường mạch máu xanh cùng những sợi dây chằng rộng, yếu ớt phía sau hai đầu gối của cô: bộ phận cơ thể kém duyên nhất trên cơ thể phụ nữ, ít xúc cảm nhất và do đó có lẽ là bộ phận tạo cảm giác thích thú nhất.
Lucy đứng thẳng người dậy, vươn vai rồi lại cúi xuống. Nàng thôn nữ trên cánh đồng; những công việc của nhà nông từ thuở xa xưa. Con gái ông đang trở thành một thôn nữ.
Thế nhưng cô vẫn không nhận ra ông. Còn con chó cảnh giới, có vẻ như nó đang đánh một giấc trưa.
Thế đấy: từng có lúc con bé là chỉ một con nòng nọc bé xíu trong cơ thể mẹ nó, thế mà giờ nó đã thế này rồi, vững chãi trong sự tồn tại của mình, vững chãi hơn cả cha nó nữa. Gặp may mắn, con bé sẽ còn sống rất lâu, lâu hơn cả ông. Khi ông chết rồi, nếu may mắn, con bé sẽ vẫn còn ở đây làm những công việc thường ngày như thế này giữa những luống hoa. Và từ bên trong con bé, một sinh linh khác sẽ được sinh ra, nếu may mắn, đứa trẻ ấy rồi cũng sẽ vững chãi, cũng sẽ sống lâu y như thế. Và mọi chuyện sẽ cứ tiếp diễn như thế, một chuỗi sinh linh tiếp nối mà trong đó phần của ông, món quà của ông, sẽ càng ngày càng ít đi dần, cho đến khi hoàn toàn bị quên lãng.
Một người ông. Một Joseph. Ai mà ngờ được nhỉ! Đúng là một con bé xinh xắn mà ông có thể mong đợi mình sẽ dỗ dành đi ngủ nếu làm ông ngoại?
Ông dịu dàng gọi tên cô. “Lucy!”
Cô không nghe thấy tiếng ông.
Làm ông ngoại, sẽ đòi hỏi điều gì nhì? Ông không được thành công lắm khi làm cha, bất chấp ông đang nỗ lực hơn hầu hết mọi người. Làm ông ngoại thì có khi thành tích của ông còn dưới cả mức trung bình. Ông thiếu đi những phẩm chất của người già: tính trầm ổn, lòng nhân hậu và sự kiên nhẫn. Nhưng có lẽ những phẩm chất này sẽ đến khi các phẩm chất khác mất đi: phẩm chất đam mê chẳng hạn. Chắc ông phải xem lại Victor Hugo, nhà thơ về tuổi làm ông. Có thể sẽ có nhiều thứ để học hỏi.
Gió ngừng thổi. Có khoảnh khắc thinh lặng tuyệt đối mà ông ước gì nó cứ kéo dài mãi: ánh mặt trời mềm mại, không gian tĩnh lặng ngả về chiều tối, bầy ong đang bận rộn trên cánh đồng hoa; và ngay giữa khung cảnh ấy là một phụ nữ trẻ, nữ tính vĩnh cửu, đang ở tháng đầu thai kỳ, trên đầu đội chiếc mũ rơm che nắng. Một khung cảnh được tạo sẵn cho Sargent hay Bonnard. Những thằng nhóc thành thị cũng giống ông thôi; nhưng ngay cả những thằng nhóc này cũng có thể nhận ra sắc đẹp khi chúng được trông thấy, đẹp đến nỗi nao lòng.
Sự thật là ông không bao giờ thèm để mắt nhiều đến cuộc sống nông thôn, bất chấp tất cả những gì ông đọc được trong Wordsworth. Chẳng để mắt nhiều tới bất kỳ cái gì, ngoại trừ những cô gái xinh đẹp, mà ông đọc được mấy cái này từ đâu nhỉ? Đã quá muộn để ông cải tạo lại con mắt của mình chưa?
Ông hắng giọng. “Lucy,” ông gọi, lần này to hơn. Lời nguyền bị phá vỡ. Lucy đứng thẳng dậy, quay nghiêng người lại, miệng mỉm cười. “Xin chào,” cô nói.
“Con không nghe thấy tiếng bố.”
Katy ngẩng đầu lên, con mắt cận thị của nó nhìn chằm chằm về phía ông.
Ông khó khăn trèo qua hàng rào. Katy nặng nề lê chân về phía ông, ngửi ngửi đôi giày của ông.
“Cái xe tải đâu rồi?” Lucy hỏi. Cô đỏ mặt vì mệt mỏi và có lẽ cũng một phần vì nắng. Bỗng trông cô như một bức tranh về sự mạnh mẽ.
“Bố dừng xe đằng kia rồi đi bộ.”
“Bố sẽ vào uống trà chứ?”
Cô đưa ra lời đề nghị như thể ông là một vị khách. Tốt. Khách tham quan, thăm viếng: nền móng tốt, một sự khởi đầu tốt. Ngày Chủ nhật lại đến. Ông cùng Bev Shaw tham gia vào một trong những phiên làm bay hơi của họ. Lần lượt ông mang vào nào mèo, nào chó: những con già cả, mù lòa, tập tễnh, què quặt, thương tật, nhưng cả những con còn non, khỏe mạnh - tất cả những con đã đến kỳ. Bev vuốt ve chúng, nói chuyện với chúng, an ủi chúng rồi tiễn chúng đi xa, từng con một, rồi bà đứng lùi lại, ngắm nhìn ông bọc kín các thi thể vào trong một cái túi nhựa đen.
Ông và Bev không nói chuyện nhiều. Giờ đây, ông đã học được một điều từ bà ta, đó là tập trung toàn bộ sự chú ý vào những con thú họ đang hóa kiếp, dành cho chúng thứ tình cảm mà ông không còn cảm thấy khó gọi nó bằng cái tên thích hợp: tình yêu.
Ông buộc chặt cái túi cuối cùng rồi mang ra cửa. Hai mươi ba. Chỉ còn lại một con chó con, cái con chó yêu thích âm nhạc, con chó mà chỉ cần một nửa có hội, nó hẳn sẽ sẵn sàng kéo lê chân mình theo sau những đồng chí của nó vào phòng mạch này, bước vào phòng mổ với cái bàn phủ kẽm, nơi những cái mùi nồng nặc, lẫn lộn vẫn còn vương vấn, bao gồm cái mùi mà nó vẫn chưa bao giờ ngửi thấy trong cuộc đời mình: mùi của cái chết, cái mùi mềm mại, ngắn ngủi của linh hồn được giải thoát.
Thứ mà con chó sẽ không tài nào nghĩ ra được (trong tháng có những ngày Chủ nhật thì không! ông nghĩ), thứ mà cái mũi của nó sẽ không nói với ông được, đó là người ta có thể bước vào một nơi có vẻ như một căn phòng bình thường nhưng không bao giờ có thể trở ra nữa là như thế nào. Có chuyện xảy ra trong căn phòng này, một chuyện không thể nói đến được: ở đây linh hồn bị rút khỏi cơ thể; nói ngắn gọn là lơ lửng trong không khí, méo mó và biến dạng; thế rồi nó bị rút cạn và biến mất. Chuyện này quá khó hiểu đối với nó, căn phòng này không phải là một căn phòng, mà là một cái hố nơi sự tồn tại của người ta thoát ra ngoài.
Lúc nào việc này cũng khó khăn, Bev Shaw đã từng nói thế. Khó khăn hơn, nhưng cũng dễ dàng hơn. Một khi người ta quen với chuyện cái gì cũng khó khăn; người ta sẽ thôi ngạc nhiên khi mọi thứ khó khăn như thể ngày càng khó khăn thêm nữa. Ông có thể cứu được con chó con, nếu ông muốn, thêm một tuần nữa. Nhưng thời điểm ấy nó phải đến, không thể tránh né, khi ông sẽ phải mang nó đến cho Bev Shaw trong phòng phẫu thuật của bà ta (có lẽ ông sẽ bồng nó trên hai tay mang đến, có lẽ ông sẽ làm thế vì nó), vuốt ve nó và chải lại bộ lông để sao cho mũi kim có thể tìm thấy ven dễ dàng hơn, thì thầm với nó và động viên nó, vào lúc mà, không hiểu tại sao, bốn chân nó bị khóa cứng lại; và rồi, khi linh hồn đã thoát ra khỏi cơ thể, ông sẽ bọc nó lại rồi mang nó đi trong cái túi, rồi ngày hôm sau quẳng cái túi ấy vào lò lửa và đứng nhìn nó bị thiêu cháy, cháy thành tro. Ông sẽ làm tất cả những việc ấy vì nó khi cái lúc ấy đến. Như thế sẽ không đủ, còn ít hơn cả không đủ: như thể chẳng làm gì cả.
Ông băng ngang qua phòng mổ. “Con cuối cùng chưa?” Bev Shaw hỏi. “Còn một con nữa.”
Ông mở cửa lồng. “Tới đây nào,” ông nói, cúi người xuống, mở rộng vòng tay. Con chó vẫy vẫy phần thân sau què quặt, hít ngửi gương mặt ông, liếm hai má ông, đôi môi ông và hai tai ông. Ông chẳng làm gì để ngăn cản nó. “Tới đây nào.”
Ôm lấy nó trong vòng tay mình như con cừu, ông lại bước vào phòng mổ. “Em tưởng ông sẽ cứu lấy nó thêm một tuần nữa,” Bev Shaw nói. “Ông định bỏ nó thật à?”
“Phải, tôi bỏ nó thật.”