Ngay từ những thập kỷ đầu thế kỷ XX, các nhà cầm quyền Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ đã đặc biệt quan tâm đến dải đất hình chữ S bên kia bờ Thái Bình Dương.
Tổng thống F.D. Ru-dơ-ven có tham vọng dùng Việt Nam làm điểm nhấn trong vành đai "phòng thủ toàn cầu" - bao gồm Nhật, Đài Loan, Phi-líp-pin, Niu Ghi-nê, Ôt- xtrây-li-a...
Tổng thống Ha-ri Tru-man ôm ấp tham vọng thành lập ở Việt Nam một "chính phủ không cộng sản thân phương Tây"; ông đã chiêu dụng Bảo Đại - một Hoàng đế bị phế truất làm tên lính xung kích.
Tổng thống D.D. Ai-xen-hao bổ sung tham vọng thực dân: "Chúng ta hãy tưởng tượng rằng chúng ta mất Đông Dương thì tiếc, von-phram, cao su là những thứ quý giá sẽ không từ vùng này đến Mỹ nữa". Ai-xen-hao đã nuôi dạy Ngô Đình Diệm - viên thượng thư bị thất sủng dưới triều Bảo Đại thành "Người hùng bảo vệ Thế giới tự do". Ông đã thành công trong sự nghiệp đưa Ngô Đình Diệm về miền Nam, dựng nên chính quyền thân Mỹ, gây nên cuộc "Chiến tranh đơn phương", gom dân vào ấp chiến lược - trại tập trung trá hình, sử dụng những gã bình định mặt sứa gan lim, những tên dân vệ ác ôn để kìm kẹp nhân dân, đánh phá cơ sở cách mạng...; cầm tù, tàn sát những người đòi hoà bình thống nhất đất nước.
Tổng thống J.F. Ken-nơ-đi có cơ sở đánh giá sự đầu tư của Mỹ cho Chính quyền Ngô Đình Diệm:
- Nếu chúng ta không phải là cha mẹ đẻ của nước Việt Nam Cộng hoà nhỏ bé, thì chắc chắn là cha mẹ nuôi, chúng ta đã chủ trì khi nó sinh ra, chúng ta đã giúp đỡ cho nó sống, chúng ta đang giúp để hình thành tương lai của nó - Ông nhấn mạnh - Hoa Kỳ kiên quyết làm tất cả mọi việc để cho không vì thiếu viện trợ của Hoa Kỳ mà Việt Nam Cộng hoà phải rơi vào tay Cộng sản!
Tổng thống Mỹ J.F. Ken-nơ-đi đã đưa vào miền Nam mười bảy ngàn cố vấn quân sự và dân sự, hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giúp Diệm - Nhu thực hiện cuộc "Chiến tranh đặc biệt" sát hại những người yêu nước ở miền Nam.
Ông nói:
- Nếu quân đội Hoa Kỳ phải tham chiến tại Việt Nam Cộng hoà thì Tổng thống sẽ ra trước Quốc hội để yêu cầu Quốc hội chấp thuận trước, nhiệm vụ của những quân nhân Hoa Kỳ hiện đang phục vụ tại Việt Nam là giúp đỡ Chính phủ Việt Nam và chỉ bắn trả khi nào bị tấn công.
Ken-nơ-đi là vị Tổng thống trung thực, tôn trọng Hiến pháp Hoa Kỳ. Học thuyết "bà đỡ" của Tổng thống Hoa Kỳ triển khai tới đâu thì chính ông công khai tuyên bố trước "Đồng bào của ông" những người đã kiệu ông lên chiếc ghế cao nhất trong toà Nhà Trắng.
- Chúng ta đã có sự cố gắng to lớn ở Việt Nam. Hiện nay, ở đây số người của chúng ta đông hơn gấp mười lần hoặc mười một lần so với một năm trước đây. Chúng ta đã chịu một số thiệt hại, chúng ta đã đem đến Việt Nam một khối lượng trang bị lớn lao vô cùng. Chúng ta đang đẩy mạnh việc thực hiện chương trình ấp chiến lược, xây dựng dân vệ. Trong một số bộ phận, chương trình quân sự đã hoàn toàn thành công. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu chống du kích gặp khó khăn hơn, người ta phải bỏ vào cuộc chiến đấu đó mười hoặc mười một người để chống lại một du kích, đặc biệt là ở một địa thế hiểm trở như Nam Việt Nam. Do đó, chúng ta chưa trông thấy đoạn cuối đường hầm; nhưng tôi cho rằng đường hầm đó là đen tối. Mặc dầu, so với một năm trước đây, về một số mật nào đó, tình hình có sáng sủa hơn.
Phái Diều hâu lũng đoạn nền chính trị Mỹ đặt niềm tin cậy ở sự vững chắc của chế độ Diệm - Nhu, những mong họ gánh vác nổi trọng trách vai trò tiên phong - một tiền đồn chống cộng của "Thế giới tự do" ở một vùng đang bùng nổ nhiều tham vọng. Nhưng, áp đặt tư tưởng lên một người là không dễ thì đối với một dân tộc chỉ là mơ tưởng hão huyền. Chính quyền Diệm - Nhu bất lực, những người yêu nước ở miền Nam thành lập Chính phủ cách mạng và xây dựng Quân đội Giải phóng miền Nam. Ngô Đình Diệm không đáp ứng được tham vọng của phái Diều hâu đậu nhan nhản trên cây Chính quyền Mỹ, họ lợi dụng sự sơ ý của Tổng thống J.F. Ken-nơ-đi bật đèn xanh cho bọn tướng tá tham quyền hoặc bất mãn ở miền Nam thực hiện đảo chính. Diệm - Nhu bị giết. Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ông ta lấy lòng nhân dân bằng cách xoá bỏ ấp chiến lược, giải tán dân vệ, thả tù... "Bọn tướng trẻ đầu bò" hăm hở gây bè dựng phái để tranh đoạt quyền lực, chính trường biến thành chiến trường, công việc ngoài chiến trường không được quan tâm đúng mức. Quân Giải phóng miền Nam không bỏ lỡ thời cơ mở rộng vùng giải phóng: Khu 5, Tây Ninh, đồng bằng sông Cửu Long...
Quân nguy nguy khốn, Đại sứ Mỹ Ca-bốt Lốt-giơ, Tư lệnh Bộ chỉ huy viện trợ quân sự (MACV) - Ha-kin cầu cứu Oa-sinh-tơn.
Nhưng, nước Mỹ đang bận "quốc tang". Tác giả của học thuyết "biên giới mới" - Tổng thống J.F. Ksn-nơ-đi đã áp dụng một chính sách thiếu cứng rắn, không phù hợp với tính thực dụng cực đoan của phái Diều hâu nên bị họ loại trừ chỉ sau cái chết của đứa "con nuôi"(1) chừng một tuần.
(1) Lời tuyên bố của Ken-nơ-đi: Chính quyền miền Nam không phải là "con đẻ" thì cũng là "con nuôi" của Mỹ.
*
Theo quy định của Hiến pháp Hoa Kỳ, Phó Tổng thống Lin-đơn Giôn-xơn - một nhân vật cường bạo ma mãnh lên nắm quyền Tổng thống cho tới ngày bầu cử Tổng thống nhiệm kỳ mới. Ngay từ thời làm Phó cho J.F Ken-nơ-đi, Lin-đơn Giôn-xơn đã ấp ủ ý tưởng "sức mạnh". Sức mạnh tối đa đối với vùng đất ồn ào ở miền Á Đông xa xôi ấy.
Nhưng, làm thế nào để tranh thủ cảm tình của cử tri Mỹ - công dân của đất nước chuộng tự do và công lý mà không phương hại tới ý tưởng là "Người chiến thắng" Không thể vừa làm ông thày tu vừa làm tên đồ tể. Giôn- xơn hài lòng khi các phụ tá - thành viên của "Nhóm tiệc trưa" đề xuất đề tài tranh cử gồm hai mục tiêu rất hợp với xu hướng của dân chúng Mỹ: "Xây dựng một xã hội vĩ đại" và "không tìm cách mở rộng chiến tranh ở Việt Nam".
Lin-đơn Giôn-xơn không có hành động, không có tuyên bố lộ ra đang chuẩn bị cho tình thế chiến tranh khốc liệt mới mà chỉ lặng lẽ cử Đại tướng Uy-liêm Oét- mô-len làm Phó tướng cho Pôn Ha-kin và bổ nhiệm Mác- xoen Tay-lo - một chiến lược gia bậc nhất của Mỹ làm Đại sứ thay ông già Ca-bốt Lốt-giơ, tạo tiền đề tăng cường chiến tranh nhưng vẫn có thể giải thích lạp trường theo đuổi hoà bình hay ngả theo chiến tranh, nghĩa là đối với phái hữu hay phái tả, Giôn-xơn đều có lập luận bảo vệ quan điểm của mình.
Việc tuyên truyền ồn ào đề tài tranh cử và việc điều động tướng lĩnh thể hiện sự lập lờ của Tổng thống khiến nhiều nhân vật quyền thế kinh ngạc, nhất là phái Diều hâu. Các Tham mưu trưởng Liên quân gửi giác thư cương quyết đòi có hành động quân sự mới và mạnh mẽ. Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân - E.Uyn-lơ nói rõ:
- Các Tham mưu trưởng Liên quân tin rằng Tổng thống quyết định không có thêm các biện pháp quân sự thì Mỹ phải rút khỏi Nam Việt Nam.
Mác-xoen Tay-lo từ Sài Gòn bay về chỉ trích chủ trương thiên về quân sự của phái Diều hâu:
- Các Tham mưu trưởng Liên quân bỏ quên nguyên tắc từ lâu nay của Chính phủ - từ cố Tổng thống Ken-nơ- đi đến đương kim Tổng thống Giôn-xơn là "Chiến tranh ở Việt Nam phải do người Việt Nam thực hiện", nhất là lời hứa khi vận động bầu cử "không tìm cách mở rộng chiến tranh".
Lin-đơn Giôn-xơn lặng thinh trước những lời góp ý trái ngược nhau, khá lâu mới lên tiếng:
- Tôi dành cho Tay-lo một cơ hội cuối cùng để ổn định tình hình chính trị. Nếu không đạt được điều đó thì khi ấy anh (Uyn-lơ) là người có lý.
Mác-xoen Tay-lo trở về Sài Gòn. Các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hoà mải tạo vây cánh tranh quyền và buôn lậu, lơ là công chuyện chiến sự. Tay-lo cảnh báo các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hoà:
- Các ngài muốn được có sự ủng hộ tiếp tục của người Mỹ thì phải ổn định chính trị.
Lời khuyến nghị của vị Đại sứ nước bảo trợ không thỏa mãn tâm trạng của những kẻ đang gầm ghè cạnh tranh, đấu đá nhau vì quyền lợi.
*
Cố Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi khẳng định:
- Tôi nghĩ trừ phi có một nỗ lực to lớn của Chính phủ Nam Việt Nam nhằm giành sự ủng hộ của nhân dân thì mới có thể chiến thắng ở cuộc chiến đấu đó. Phải! Chính họ là những người quyết định chiến thắng hay thất bại. Chúng ta có thể giúp họ bằng cách cung cấp phương tiện và các chuyên gia.
Ken-nơ-đi trung thành với ý tưởng "bà đỡ" của mình nên nhờ các nhà báo bắn tin tới Quốc hội:
- Tôi không thể tin được rằng Quốc hội lại có thể thiếu khôn ngoan đến chỗ buộc Mỹ phải bỏ rơi Nam Việt Nam hoặc châu Mỹ La-tinh chẳng hạn. Các mục trên của chính quyền Mỹ ở miền Nam Việt Nam phải được xác định tại Hội nghị Hô-nô-lu-lu.
Nhưng, tám ngày sau lời tuyên bố uỷ mị, nước đôi này phái hữu "thịt" ông để ý tưởng "bà vú nuôi chăm chỉ" không còn chi phối quan điểm hành động của Toà Nhà Trắng.
Đương kim Tổng thống Mỹ Lin-đơn Giôn-xơn thận trọng theo kiểu tinh quái khác hẳn. Ông muốn vượt trên những vị Tổng thống tiền nhiệm danh tiếng của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Các vị Tổng thống tiền nhiệm ấy từng sáng tạo nên học thuyết bất hủ của mình: Ru-dơ-ven có "đường lối mới", Tru-man có "thoả ước trung thực", Ai-xen-hao có "ván bài Đô-mi-nô", Ken-nơ-đi có "biên giới mới"... Còn ông? "Chương trình xã hội vĩ đại" là mục tiêu hàng đầu, nhưng "sự nghiệp bảo vệ thế giới tự do" mới là nhân tố hỗ trợ cho ông đàng hoàng và kiêu hãnh ngồi trên chiếc ghế xích đu đặt đường bệ trong Phòng Bầu Dục thêm một nhiệm kỳ nữa; thậm chí, nếu ông tỏ tài thao lược trong cách dùng người và vận dụng phép biến hoá màu nhiệm của đồng Đô la thì có thể ganh đua với Ru-dơ-ven về sự tín nhiệm của dân chúng đối với Tổng thống(1).
(1) Theo Hiến pháp Mỹ, một người chỉ được giữ chức Tổng thống hai nhiệm kỳ. Ru-dơ-ven được bầu liên tiếp bốn nhiệm kỳ Tổng thống.
Tổng thống Giôn-xơn đã "nổi tiếng hơn" những Tổng thống tiền nhiệm là lái con thuyền ngang ngược và gian trá sang Nam Việt Nam - một miền Á Đông nóng bỏng trên năm chục vạn quân Viễn chinh Mỹ, hàng triệu tấn khí tài quân sự và lôi kéo được hàng vạn lính chư hầu (Nam Hàn, Thái Lan, Ot-xtrây-li-a...) xúm vào tiêu diệt "quân Bắc Việt xâm lược Nam Việt Nam" và quét sạch bọn Việt cộng nổi loạn", giúp chính quyền Thiệu - Kỳ bảo vệ Nhà nước Việt Nam Cộng hoà góp phần củng cố thế giới tự do. Giôn-xơn bổ nhiệm Oét-mô-len làm Tổng tư lệnh quân viễn chinh Mỹ thay tướng Ha-kin. Ông có những phụ tá tài giỏi thuộc "Nhóm tiệc trưa", bao gồm: Bộ trưởng Quốc phòng Mắc Na-ma-ra, Bộ trưởng Ngoại giao Đin Rát-xcơ, Cố vấn an ninh quốc gia Mác Gioóc Bân-đi, Uy-liêm Bân-đi, Oát Rô-xtâu, Thư ký báo chí của Tổng thống Uy-liêm. Moi-Ơ... họ là "sủng thần" thường xuyên kề cận Tổng thống, ngoài ra còn có Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) Ri-sac Hem-xơ, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân E.Uyn-lơ. Đây là nhóm khống chế, kiểm soát Chính quyền Giôn-xơn, chính họ vạch ra hầu hết các chính sách, các chương trình hành động ở Việt Nam. Chính họ tạo thế cho bộ binh Mỹ vào miền Nam và không quân Mỹ oanh tạc bừa bãi miền Bắc-: Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Sài Gòn Oét-mô-len triển khai chiến lược nhìn đời bằng nửa con mắt "tìm diệt và bình định", chiến dịch At-tơn-bo hung tợn tấn công chiến khu Dương Minh Châu, chiến dịch Xê-đa Phôn hùng hổ càn quét khu tam giác Trảng Bàng - Bến Súc - Củ Chi. Chiến dịch Giôn-xơn Xi-ti lấy thịt đè người đánh vào căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở phía bắc Tây Ninh. Máu chảy, lửa cháy khắp các nẻo đường Miền Nam. Tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương - Đô đốc Ô-lêch Sáp ra lệnh cho hàng trăm máy bay phản lực, kể cả pháo đài bay siêu hạng B.52 thả hàng triệu tấn bom, phóng hàng vạn quả rốc-két, rải hàng triệu ga-lông chất độc hoá học xuống đường mòn Hồ Chí Minh, nhằm cái đích bãm nát, chặn đứng đường chi viện của Miền Bắc cho Miền Nam, thực hiện bằng được ý tưởng của "Nhóm tiệc trưa" và chính viên Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn cũng rất tán thưởng: "Mất nguồn tiếp tế của Miền Bắc, Việt cộng ở Miền Nam chết khô". Trên mình dải Trường Sơn hùng vĩ nhan nhản hố bom và loang lổ những vạt rừng vàng úa. Nghiêm trọng hơn, xâm lược Mỹ còn phái hàng ngàn máy bay siêu âm hiện đại oanh tạc tràn lan Miền Bắc, mục tiêu không hạn chế, kể cả đê điều, trường học, bệnh viện, nhà thờ, đình chùa...
Tham mưu trưởng không quân Mỹ Mác Cơn-oen đoán chắc:
- Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta có thể phá hoại Bắc Việt Nam thực sự trong một sớm một chiều.
Tổng chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ - Uy-liêm Oét- mô-len, thể hiện thứ tâm địa hí hửng độc ác:
- Chúng ta sẽ tiếp tục làm cho họ phải đổ máu tới độ cả nước họ qua hàng mấy thế hệ phải chịu thảm hoạ dân tộc.
Viên tướng Mỹ này đang trù tính những bước đi tiếp để tiến tới chiến thắng.
Vậy mà Mỹ chẳng đi đến đâu... Trong khi Mỹ có nỗ lực ở ngoài chiến trường thì ở trong chính trường Miền Nam bọn "tướng đầu bò" chỉ hăm hở hung hăng như lũ ngựa bất kham háu đói ãn chung một máng. Chính Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Mắc Na-ma-ra phải phàn nàn.
- Các tướng lĩnh Việt Nam mặc kệ tình hình chiến sự, chỉ đổ xô vào làm chính trị để giành địa vị, để tham nhũng, để buôn lậu...
Đi một chân mà vẫn vững vàng là điều trái với tự nhiên và không hợp với thông lệ.
*
Năm 1962, Tướng Phùng Thế Tài được Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bổ nhiệm làm Tư lệnh Phòng không.
Trước khi tướng Phùng Thế Tài nhận nhiệm vụ mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi lên gặp. Cụ thân ái hỏi:
- Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về máy bay B.52 chưa?
Phùng Thế Tài bị bất ngờ. Ông được biết chiếc máy bay B.52 đầu tiên được Mỹ cho ra đời và bay thử nghiệm thành công vào giữa năm 1952, ngoài thông tin ấy ra, ông chỉ biết thêm nó có thể mang nổi hàng chục tấn bom. Nhưng đối với chức năng một Tư lệnh Phòng không thì biết như vậy chẳng thế nói là biết được.
Thấy vị Tư lệnh Phòng không lúng túng, cụ Hồ cười.
- Nói thế thôi, chứ chú có biết cũng chưa thể làm gì được nó, B.52 bay cao trên mười ki-lô-mét mà lực lượng Phòng không mới chỉ có pháo cao xạ thôi. Nhưng, ngay từ nay các chú phải theo dõi, nghiên cứu loại máy bay này! Không được để Tổ quốc bị bất ngờ.
Tư lệnh Phùng Thế Tài hứa:
- Thưa Bác! Cháu và các cán bộ sĩ quan binh chủng Phòng không xin thấu triệt lời dạy bảo của Bác.
Đầu năm 1965, Nhà nước Liên Xô viên trợ cho ta loại lên lửa SAM2 - loại có thể bắn hạ B.52, đơn vị tên lửa được thành lập, mang phiên hiệu Trung đoàn 267.
Tháng 2 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mắc Na-ma-ra thể theo đề nghị của Tổng chỉ huy Quân đội viễn chinh Mỹ Oét-mỏ-len điều động máy bay chiến lược B.52 tới căn cứ không quân Mỹ An-đơ-xơn trên đảo Gu- am tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Oét-mô-len đặt nhiều hy vọng "giải toả sức ép" của B.52. B.52 là biểu tượng sức mạnh của nền công nghiệp quân sự Mỹ. Chảng riêng Oét-mô-len mà các nhà quân sự tài giỏi của nước Mỹ cũng đánh giá hiệu quả chiến đấu của B.52 là "chiếc gậy răn đe" chỉ đứng sau bom hạt nhân.
Cũng năm 1965, vào khoảng tháng 6, đế quốc Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay chiến lược B.52 ném bom xuống miền Nam. Ta cũng cho SAM2 lên đường ra trận. Bác Hồ đến thăm đơn vị. Tư lệnh Phùng Thế Tài, Chính uỷ Đặng Tính tháp tùng Bác đi quan sát phương tiện: Bệ đặt tên lửa, xe tính toán cự ly, xe ra-đa thu phát, xe điều khiển chỉ huy... Thấy anh em làm chủ khí tài quân sự tối tân, thao tác thành thục, háo hức được chiến đấu, được thể hiện những điều đã học tập... Bác rất vui, nên khi nói chuyện Bác nhắc nhở, động viên:
- Dù đế quốc Mỹ có lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B.57, B.52 hay "bê" gì đi chăng nữa chúng ta cũng phải đánh, mà đã đánh là nhất định thắng. Các chú không được quên điều đó.
*
Trong Hội nghị Hoà bình ở Giơ-ne-vơ, Căm-pu-chia đã đạt được quyền thiết lâp quan hệ ngoại giao với một số nước như Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ... Hoa Kỳ khuyến nghị Căm-pu-chia liên kết với khối SEATO (Tổ chức Hiệp ước các nước Đông Nam Á gồm Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Pa-ki-xtăng, Thái Lan, Ôt-trây-li-a và Niu Di-lân). Khối SEATO thành lập năm 1954 dưới sự chi phối của Mỹ. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ - Giôn Đa-let - coi SEATO là một dây xích trọng yếu để khoá chặt vùng Đông Nam Á, kiểm chế Trung Quốc, bảo vệ Đông Dương khỏi rơi vào tay cộng sản.
Quốc trưởng Xi-ha-núc không thừa nhận tính cần thiết của SEATO; ông yêu cầu Oa-sinh-ton viện trợ và lên tiếng yêu cầu cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của Căm-pu-chia.
Tổng thống Ai-xen-hao quyết định dùng sức mạnh viện trợ gây áp lực hướng dẫn chiều hướng đối nội, đối ngoại của Căm-pu-chia. Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ chủ trương:
- Bảo vệ nền độc lập Căm-pu-chia và đảo ngược chiều hướng trung lập thân cộng sản, khuyến khích những cá nhân và những nhóm ở trong nước đang chống lại việc thương lượng với khối cộng sản và đang hoạt động cho việc mở rộng cơ sở của quyền lực chính trị ở Căm-pu- chia.
Chính sách thiếu nhất quán này thể hiện ở hai phương diện: Một mặt viện trợ cho Chính phủ Căm-pu- chia đồng thời ủng hộ về kinh tế, quân sự cho phái Khme Cray do Sơn Ngọc Thành cầm đầu gây rối đất nước Chùa Tháp.
Hệ quả thứ chính sách "đâm bị thóc chọc bị gạo" là thất bại mà Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ phải thừa nhận:
"Hoa Kỳ không có khả năng hướng Căm-pu-chia vào việc thành lập một chính phủ ổn định không có quan hệ với cộng sản. Nguyên nhân nào?".
Nước Mỹ không hiểu sự ngờ vực của Căm-pu-chia đối với Mỹ do chính người Mỹ gây ra. Hậu quả trong việc đối xử thô bạo của Vụ các Vấn đề Viễn Đông thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ - thanh lọc những người đã để mất Trung Quốc vào tay cộng sản", nghĩa là Bộ Ngoại giao xử lý tình huống một cách thiển cận, thải hồi những chuyên gia hiểu biết về địa lý, lịch sử, phong tục Châu Á nhất là vùng Đông Nam Châu Á, những người có may mắn được giữ lại thì cũng không thể bồng bột tỏ cảm tình nồng nhiệt với hậu duệ của dòng họ hoàng tộc Căm-pu-chia, tệ hại tới mức khi cần có lời khuyên thực tế thỉ không có chuyên gia tư vấn.
Xi-ha-núc là một chính trị gia khôn khéo, ông thường có những cuộc gặp gỡ thân tình với thần dân của ông, khi biết nhân dân không thích chế độ quân chủ, ông tuyên bố thoái vị và tham gia bầu cử như một chính khách. Khi là Quốc trưởng, ông vẫn làm chủ bút tạp chí Nghiên cứu các vấn đề Căm-pu-chia (Etudes Cambodgiennes), chỉ đạo Đài phát thanh và những phương tiện thông tin khác, ông viết kịch bản phim, đạo diễn, quay phim và tham gia diễn xuất trong một số bộ phim.
Quốc trưởng Xi-ha-núc không ưa tư bản, nhưng cũng không mặn mà với cộng sản. Ông cố giữ cho khói lửa chiến tranh không bén đến đất nước mình. Ông coi trọng quốc thể. Đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Căm-pu-chia - Rô- bớt Mác Cờ-lin-tốc là gã kiêu căng, khinh bạc... ỷ vào việc Căm-pu-chia "sống nhờ" vào viện trợ Mỹ, hắn đến Căm-pu-chia với tư thế người ban ơn, hơn thực hiện nhiệm vụ ngoại giao, nông cạn hơn là hắn mặc quần soóc, chống ba toong, dắt con chó săn lông xù giông Ai-len "ung dung" vào Hoàng cung. Hành vi vô lễ của Rô-bớt Mác Cờ-lin-tốc khiến Quốc trưởng Xi-ha-núc phẫn nộ, ông bảo đơn vị bảo vệ:
- Từ nay cạm con lợn ấy bước vào Hoàng cung!
Đại sứ Can Xto-rom thay Rô-bớt là người lịch thiệp nhưng xử sự nông cạn chẳng kém. Năm 1958, quân đội Nam Việt Nam tấn công qua biên giới Căm-pu-chia bị quàn đội Căm-pu-chia dùng súng đạn Mỹ viện trợ đánh cho thua chạy.
Can Xtơ-rom gặp Tổng tư lệnh quân đội Hoàng gia- Tướng Nhéc Tiu-lông khuyến nghị:
- Chính phủ Mỹ không ủng hộ việc người Căm-pu- chia dùng súng đạn Mỹ để chống lại người bạn Việt Nam của mình.
Chuyện đến tai Quốc trường Xi-ha-núc. Ông tức giận:
- Chúng ta cần viện trợ để bảo vệ đất nước chứ có phải để trưng bày đâu.
Quả không có gì ngạc nhiên khi Mỹ tiếp tục ủng hộ Nam Việt Nam và Thái Lan trong các cuộc tranh chấp biên giới. Mỹ khuyến khích tinh thần, giúp đỡ vật chất cho những phần tử Khme Cray hoạt động gây rối ở nhiều tỉnh. Quốc trưởng Xi-ha-núc không muốn ở thế bị động nên không mặn mà với viện trợ của Mỹ, cắt quan hệ quốc tế với Thái Lan, tuyệt giao với Sài Gòn, công nhận tính hợp pháp của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đồng thời thiết lập quan hệ ngoại giao hoàn chỉnh với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tình báo Việt Nam và Trung Quốc báo cho Căm-pu-chia biết: Mỹ đạo diễn cho Chính quyền Diệm - Nhu phối hợp với Đáp Chuôn- Tổng trấn tỉnh Siêm Riệp và một số tướng lĩnh, chính khách khác thực hiện đảo chính lật đổ Chính quyền Xi-ha-núc. Nhờ biết trước nên Chính phủ Căm-pu-chia đập tan kế hoạch thối tha của bọn ngoại bang và nội gián. Cuối năm 1963, Chính phủ Vương quốc Căm-pu-chia yêu cầu Sứ quán Mỹ đình chỉ mọi hoạt động của các phái đoàn viện trợ Mỹ (MAAG) và đưa các nhân viên này về nước.
Ngày 4 tháng 1 năm 1964, tướng Te-bơ - Trưởng phái đoàn quân sự Mỹ đến chào từ biệt tướng Lon Non - Bộ trưởng Quốc phòng Căm-pu-chia. Ông ta xúc động, chỉ nói được một câu:
- Tôi rất lấy làm tiếc!
Lon Non hiểu tâm trạng của Te-bơ: Tướng cầm quân ra trận chưa kịp chiến đấu đã phải rút lui. Lon Non đánh giá cao sự giúp đỡ của MAAG, đối với hắn đó không phải là lời an ủi tâm trạng thất bại của Te-bơ mà là sự đánh giá. Hắn úp mở bộc lộ ý nghĩ thầm kín:
- Việc ra đi của MAAG không phải do Chính phủ muốn thế. Chúng tôi không bao giờ đi theo khối cộng sản, trừ phi bị cộng sản đè bẹp về quân sự. Chúng tôi tin rằng, đến một lúc nào đó trong tương lai, Hoa Kỳ lại giúp đỡ Căm-pu-chia không có điều kiện tiên quyết, có thể như Mi-an-ma hoặc In-đô-nê-xia.
Te-bơ đáp:
- Tôi hy vọng như vậy!
Lon Non nói tiếp, hình như là lời trách cứ lại hình như muốn gợi ý Mỹ đã giúp phe phái nào phải giúp hết lòng với phe phái đó:
- Người Căm-pu-chia không thể hiểu nổi sự bất lực của Hoa Kỳ trong việc đình chỉ các buổi phát thanh của Khme Cray.
Te-bơ tuy là kẻ võ biền nhưng cũng biết đôi chút ngón nghề của các người làm chính trị, cuộc nói chuyện cởi mở đã giúp Te-bơ phát hiện ra một triển vọng: giới quân sự Căm-pu-chia không ủng hộ Quốc trưởng của họ. Ông ta giải đáp thắc mắc của Lon Non cũng là khích lệ lòng tự ái của viên tướng ấp ủ nhiều tham vọng:
- Đôi khi kẻ làm tướng như chúng ta cũng bị động.
Tình huống diễn biến theo chiều thuận cứ như có sự sắp đặt của Đấng cao cả. Năm 1965, tờ Tuần tin tức xuất bản ở Mỹ đăng bài báo tỏ thái độ khinh miệt Quốc trưởng Xi-ha-núc, tố cáo gia đình ông tổ chức nhà chứa gái điếm ở Phnôm Pènh, cũng năm này, đơn vị chiến đấu đầu tiên của Mỹ đổ bộ lên cảng Đà Nẵng - dấu hiệu của một cuộc xâm lãng xuất hiện. Quốc trưởng Xi-ha-núc vốn theo đuổi đường lối trung lập cực đoan, nhưng chính sách ngạo mạn của Mỹ khiến ông phải tuyên bố:
- Trung lập không có nghĩa là không tỏ ra có cảm tình với ai.
Quốc trưởng Xi-ha-núc quyết định cắt đứt hoàn toàn mọi quan hệ ngoại giao với Mỹ. Ông cho phép Quân giải phóng Miền Nam vượt qua biên giới, thiết lập các căn cứ trong nhiều khu vực thuộc các tỉnh miền Đông Căm-pu- chia.
Nhờ tán thành chủ trương Liên minh chiến đấu của ba nước Đông Dương, đường mòn Hồ Chí Minh bắt đầu từ Bắc Việt Nam đi qua Lào vào vùng đông - bắc Căm- pu-chia xuống tận cực Nam Việt Nam. Năm 1966, Thủ tướng Quốc vụ Viện Trung Quốc - Chu Ân Lai đích thân đề nghị Quốc trưởng Xi-ha-núc cho phép đưa hàng quân nhu của Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam qua cảng Xi- ha-núc-vin. Sự ủng hộ của Căm-pu-chia đối với cuộc chiến đấu chống xâm lược ngày càng to lớn. Từ năm 1966 đến năm 1970 hàng viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô... ùn ùn cập cảng Xi-ha-núc-vin. Xe vận tải của hãng Hắc-li, chủ là Hoa kiều ở Căm-pu-chia và xe ô tô của quân đội Căm-pu-chia nối đuôi nhau trên các đường quốc lộ, được xây dựng do viện trợ của Mỹ, vượt qua Phnôm Pênh tiến đến. vùng biên giới Miên - Việt. Chính phủ Căm-pu-chia còn quyết định bán cho Mặt trận giải phóng Miền Nam Việt Nam mười vạn tấn gạo mỗi năm và được phép mua nhu yếu phẩm ở Căm-pu-chia. Nhiều nhà buôn lập quan hệ mua bán với Hậu cần Quân giải phóng. Thủ tướng Lon Non và nhiều nhân vật tai to mặt lớn không bỏ qua cơ hội đục nước béo cò. Một quan chức cao cấp trong Chính phủ Căm-pu-chia thừa nhận:
- Hai phần ba cho Việt cộng, một phần ba cho bản thân anh. Với giá đó, người ta tự bán mình.
*
Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ ở Nam Việt Nam biết nhưng chưa hình dung nổi quy mô đối phương sử dụng Căm-pu-chia như thế nào, lập vùng căn cứ hay chỉ mượn đường tiếp tế, tuy vậy cũng đánh giá được giá trị chiến lược dọc biên giới Căm-pu-chia nếu họ sử dụng làm đất thánh.
Đấy là vấn đề cần tìm hiểu. Đội Sa-lem Hao-xơ - sau đổi là Đa-ni-en Bun được lệnh hành động.
Lính biệt kích mang tên Đa-ni-en Bun là loại lính đặc biệt nhất trong các loại lính đặc biệt. Mỗi đội thường có hai hoặc ba người Mỹ chỉ huy và giữ điện đài, đội viên gồm khoảng mười người lính đánh thuê tuyển chọn trong các buôn sóc trên vùng núi cao biên giới Căm-pu-chia, phần nhiều là người Khme Krom - thành viên của phái Khme Cray, do Sơn Ngọc Thành cầm đầu. Thành thường cưỡi máy bay trực thăng đến những vùng núi cao tuyển mộ lính biệt kích cho Mỹ. Tất cả những người Mỹ tình nguyện tham gia Đa-ni-en Bun đều buộc phải ký giấy cam đoan: Nếu để lộ công việc họ làm thì bị phạt mười nghìn đô la và phạt tù mười năm; họ có thể mặc quân phục nhưng không được đeo phù hiệu đơn vị, họ thường mặc quần áo bà ba như du kích Việt cộng và được trang bị các thứ vũ khí do Liên Xô hoặc Trung Quốc sản xuất. AK47 của Liên Xô; lựu đạn, dao găm, bi đông Trung Quốc... giống những du kích của Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam. Lính biệt kích Đa-ni-en có trụ sớ chính ở Buôn Ma Thuột, chúng chuyên hoạt động lén lút dọc biên giới Căm-pu-chia để tìm đường mòn, phát hiện căn cứ, chôn mìn tự động, nếu thuận lợi thì có thể nổ súng, tấn công. Việc che giấu này là nhằm mục đích không lọt một tin tức nào về hành tung của các đội biệt kích Đa-ni-en tới giới báo chí và Quốc hội Mỹ.
Trung uý Ran-đô-phơ Ha-ri-xơn nhận nhiệm vụ chỉ huy một đội Đa-ni-en Bun thâm nhập vào Căm-pu-chia để chuẩn bị cho tình huống chiến tranh mới. Sau khi được máy bay lên thẳng chờ tới một địa điếm gần biên giới, Ha-ri-xơn dẫn đơn vị luồn rừng, leo núi tiến về phía mục tiêu. Núp trên một địa thế thuận lợi, Ha-ri-xơn quan sát thấy hệ thống đường mẹ, đường con dẫn đến những khu vực nhan nhản boong ke, nhiều doanh trại rộng không người ở.
Ha-ri-xơn nói với viên thượng sĩ giữ điện đài:
- B52! Chỉ B.52 rải thảm bom ồ ạt mới có thể phá huỷ nổi hệ thống công sự kia!
Viên thượng sĩ giữ điện đài nới rộng tác dụng của bom đạn:
- Nếu các doanh trại bỏ không ấy có nhiều tiểu đoàn, nhiều trung đoàn Việt cộng trú chân thì chính là mục tiêu lý tưởng của pháo đài B.52.
Hoàn thành công việc do thám, Ha-ri-xơn dẫn đơn vị về địa điểm tập kết, chờ trực thăng đến chở về Buôn Ma Thuột.
Ngay ngày hôm sau Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ đã nhận được báo cáo kết quả do thám của Ha-ri-xơn. Máy bay được phái đi thẩm tra thực địa, những chuyến bay do thám tầng cao mang tên "Con rồng khổng lồ" và các cuộc bay trinh sát ở độ thấp mang tên "Vây cá trên sống lưng" đã xác minh báo cáo của Ha-ri-xơn là đúng với thực địa. Các Tham mưu trưởng Liên quân cũng nhanh chóng nhận được bản tường trình về phát hiện mới này. Họ vỡ lẽ ra căn cứ của chủ lực Việt cộng là ở Căm- pu-chia chứ không phải là ở Lào. Tổng thống Ai-xen-hao đánh giá quá cao địa bàn Lào đã làm cho cơ quan điều hành cuộc chiến ở Việt Nam đi lạc hướng mấy năm nay. Các Tư lệnh chiến trường, Tổng chỉ huy quân viễn chinh, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân tìm thấy nguyên nhân thất bại của những chiến dịch lớn "tìm diệt". Đối phương né được những cú đòn dữ dội Giôn-xơn Xi-ti, Xê-đa Phôn, Át-tơn-bo... là do họ cố tránh cái thế mạnh ban đầu của Mỹ bằng cách di chuyển đội hình sang Căm- pu-chia. Các tướng soái Mỹ đánh giá tầm lợi hại của các căn cứ Việt cộng đóng dọc biên giới Căm-pu-chia, mà vùng Mỏ Vẹt là quan trọng nhất, họ cho rằng: Nếu mở một cuộc tập kích mang tính chất phanh xác thì sẽ làm tê liệt mọi cố gắng chiến tranh của đối phương.
Mỏ Vẹt là một góc lãnh thổ Căm-pu-chia nhỏ ra ăn sâu vào đất Nam Việt Nam phía Tây Bắc Sài Gòn. Các Tham mưu trưởng Liên quân đánh giá vùng này là quan trọng nhất trong các vùng căn cứ của Việt cộng ở Căm- pu-chia, ở đây có nhiều Trung đoàn, nhiều Quân y viện, nhiều kho tàng vũ khí và lương thực, họ cũng biết có rất nhiều làng mạc Căm-pu-chia ở xung quanh. Dẫu có nhiều thường dân, Mỏ Vẹt vẫn cứ là mục tiêu lý tưởng của pháo đài B. 52.
Oét-mô-len và các Cố vấn an ninh quốc gia nhiều lần yêu cầu Tổng thống Giôn-xơn cho phép tiến hành những cuộc tấn công ồ ạt từ trên không và từ mặt đất vượt qua biên giới vào vùng Mỏ Vẹt.
Tổng thống Giôn-xơn xua tay từ chối. Đưa chiến tranh sang một nước trung lập là một vấn đề hệ trọng, không thể nguy tạo ra thứ "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" lần thứ hai. Ông muốn đi theo hướng khác, có sức thuyết phục sâu rộng hơn, Quốc hội và Nhân dân Mỹ cũng không thể chỉ trích Tổng thống của mình. Ông nói:
- Tất cả những gì mà tôi nghe về ông Hoàng làm cho tôi nghĩ là chúng ta phải cư xử khôn khéo với ông ta.
Tổng thống Giôn-xơ cử A-vơ-ra Ha-ri-man - một nhà ngoại giao lọc lõi, giỏi biện luận sang Phnôm Pênh làm nhiệm vụ thuyết khách.
Quốc trưởng Xi-ha-núc từ chối không tiếp sứ giả của Mỹ.
Khó khăn nào cũng có giải pháp. Đại sứ Ot-xtrây-li-a Nô-en Xanh Cờ-lê-ơ Đi-sem-pơ được huy động vào trận. Đi-sem-pơ bí mật gặp một số quan chức, tướng lĩnh Căm- pu-chia nuôi tham vọng, gợi ý một chương trình xích lại gần nhau. Đi-sem-pơ thành công trong vai môi giới, kích thích lòng tham. Tiếp đó, gã môi giới chuyển cho Chính phủ Căm-pu-chia một dự án tuyệt mật mang tên Ve-su-vi- út - hồ sơ này do CIA chuẩn bị và giao cho Đi-sem-pơ làm vật chứng, hồ sơ gồm những kế hoạch, chỉ thị, hành động cụ thể... của Cộng sản Việt Nam vi phạm lãnh thổ Căm-pu-chia. Tài liệu giả mà hoàn hảo tới mức ngay Đi- sem-pơ xem xong cũng phải thốt lên:
- Khống gì thuyết phục hơn! Dẫu là kẻ thận trọng nhất cũng không thể thờ ơ.
Mấy tuần sau, đòn "rung cây doạ khỉ" chưa kịp phát tán. Đại sứ Mỹ tại nước Cộng hoà Ấn Độ - Se-xtơ Bâu-lơ dẫn đầu một phái đoàn thành phần khiêm tốn đến thăm chính thức Căm-pu-chia. Quốc trưởng Xi-ha-núc, Thủ tướng Xon-Xan, Tổng tư lệnh quân đội Nhéc Tiu-lông tham gia buối toạ đàm. Có lẽ Bâu-lơ nghĩ rằng chất gia vị Ve-su-vi-út đã đủ sức kích thích nên nói với giọng người hảo tâm tâm sự với người lương thiện.
- Cộng sản ngày càng sử dụng nhiều hơn các vùng biên giới, nguy cơ mớ rộng cuộc chiến tranh có thể lường thấy. Nếu hình ảnh bi thảm ấy cần tránh như Oa-sinh-tơn mong muốn thì nên có những biện pháp thiết thực và có hiệu quả để ngăn chặn Việt cộng và Bắc Việt sử dụng trái phép lãnh thổ Căm-pu-chia.
Quốc trưởng Xi-ha-núc đáp:
- Chúng tôi không coi việc truy kích là một biện pháp mong muốn, chúng tôi không thể hiểu nổi vì sao Hoa Kỳ tấn công Bắc Việt Nam và nhiều nước nhỏ khác trong khi lại tránh đụng độ với Mát-xcơ-va và Bắc Kinh. Chúng tôi cho rằng duy trì quan hệ với những người Cộng sản Việt Nam là rất cần thiết.
Bâu-lơ tỏ ra thành thực và nhã nhặn, thái độ nhã nhặn của nhà ngoại giao Mỹ có sức thuyết phục:
- Có những chuyện xảy ra ngoài mong muốn của con người. Hoa Kỳ tuyệt đối không muốn thực hiện những cuộc hành quân trên đất Căm-pu-chia. Chúng tôi thích dùng những biện pháp khác để ngăn chặn Việt cộng và Bắc Việt sử dụng lãnh thổ Căm-pu-chia, Quốc trưởng Xi-ha-núc nói:
- Tôi hiểu vì sao mà Mỹ không muốn dính líu vào các cuộc hành quân trên đất Căm-pu-chia. Nếu Oa-sinh- tơn công khai thừa nhận biên giới của Căm-pu-chia và quan hệ giữa hai nước đã được khôi phục thì Tuỳ viên quân sự Hoa Kỳ sẽ được tự do đi khắp Căm-pu-chia và xem xét tất cả những gì ông ta muốn.
Thủ tướng Xon Xan ra điều kiện:
- Hoa Kỳ phải đảm bảo không để xảy ra những cuộc ném bom và bắn phá các buôn sóc, các đồn biên phòng Căm-pu-chia.
Tướng Nhéc Tin-lông - Tổng tư lệnh quân đội tố cáo hành động chiến tranh của Mỹ:
- Bom đạn Mỹ sát hại nhiều đàn bà, trẻ em và những người dân trong tay chỉ có cày cuốc.
Bâu-lơ khôn khéo bào chữa:
- Hoa Kỳ không có ý đồ xâm lược. Tuy nhiên, do tình hình hiện nay, những chuyện rủi ro rất đáng tiếc có thể xảy ra.
Trên đường về Niu Đê-li, Bâu-lơ điện về Oa-sinh-tơn trình bày kết quả công cán và kiến nghị hướng giải quyết:
Lập trường chủ nghĩa dân tộc vững chắc và những tình huống cụ thể diễn biến, bộc lộ ra khả năng thay đổi quan trọng trong chính sách đối ngoại của Căm-pu-chia theo hướng Mỹ. Vì vậy, Hoa Kỳ cần công khai công nhận đường biên giới Căm-pu-chia, theo yêu cầu của Xi-ha- núc mà không làm phật lòng quá mức người Thái Lan và người Việt Nam.
Ý tưởng của Bâu-lơ bị phản ứng mãnh liệt của Đại sứ Mỹ tại Băng Cốc và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn. Ăn cây nào rào cây ấy, hai vị Đại sứ kia không muốn đồng nghiệp Bâu-lơ gây khó dề cho mình. Đại sứ Bân-cơ và phó của ông ta - Rô-be Cô-mơ công kích thói "của người phúc ta" của Bâu-lơ mãnh liệt hơn cả. Bộ trường Ngoại giao Đin Rát-xcơ quyết định triển khai nhiều cuộc hội đàm "thăm dò phản ứng" của nước chủ nhà khi Mỹ công khai thừa nhận đường biên giới của Căm-pu-chia. Hồi âm là những lời lẽ tiêu cực. Oa-sinh-tơn lưỡng lự lựa chọn giải pháp công khai thừa nhận hay im lặng bỏ qua đề nghị của Căm-pu-chia.
Chính do thái độ mập mờ của Oa-sinh-ton mà những con vi-rút Ve-su-vi-út cấy vào tư tưởng người Căm-pu- chia vẫn không phát huy được tác dụng gây bệnh - nghĩa là Phnôm Pênh im lặng đối với việc Mỹ tố cáo Việt Nam có dã tâm thôn tính lãnh thổ Căm-pu-chia.
Sự im lặng của Phnôm Pênh khiến các Tham mưu trưởng Liên quân ở Oa-sinh-tơn sốt suột và công phẫn, họ đề nghị Tổng thống tỏ rõ thái độ. Giôn-xơn lại cử E.Bơ- lách sang Phnôm Pênh khảo sát tình hình.
E.Bơ-lách vượt Đại Tây Dương tới xứ sở Tháp Chàm Ảng Co vào tháng chín và vị Đại sứ Bâu-lơ cử tướng Sác- lơ Goóc-ranđi tháp tùng vị Đặc sứ. E. Bơ-lách gặp Pen- nút - Thủ tướng mới của Căm-pu-chia.
E. Bơ-lách bày tỏ:
- Nước Mỹ duy trì lập trường không mở rộng cuộc chiến, nước Mỹ lo ngại người Việt Nam kéo chiến tranh sang Căm-pu-chia.
Pen-nút thẳng thắn một cách tàn bạo:
- Tôi có thể bảo đảm với các ngài rằng, Căm-pu-chia còn lo lắng về người Bắc Việt Nam hơn cả Chính phủ Mỹ.
E.Bơ-lách không có phản ứng đáng kể, chỉ chăm chú lắng nghe.
Pen-nút tiếp tục lời nói nhã nhặn mà có gang có thép:
- Chúng tôi lấy làm khó hiểu khi Chính phủ Mỹ bày tỏ thiện chí với Chính phủ chúng tôi, nhưng vẫn tiếp tục ủng hộ Khme Cray.
E.Bơ-lách chưa tìm được lời biện hộ thích hợp, mà cũng rất khó vì tay trót nhúng chàm. Viên tướng tháp tùng - Sác-lơ Coóc-ran đã hậu đậu đáp:
- Không có chuyện như thế!
Thủ tướng Pen-nút cười nụ, một nụ cười châm biếm chua chát. Câu trả lời vô liêm sỉ của viên tướng Mỹ khiến ông tỉnh ngộ hẳn. Người Mỹ đến Căm-pu-chia không phải với tấm lòng cởi mở và thành thực.
Tổng thống Giôn-xơn lại thất bại trong một cố gắng thăm dò, cố gắng tìm kiếm phương sách đảo ngược xu hướng chính trị ở Phnôm Pênh.
Do vậy, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam chỉ có thể tổ chức những cuộc đánh lớn bằng không quân hoặc biệt kích dọc biên giới Căm-pu-chia. Phó tướng A.Bơ-ram đánh giá:
- Chỉ là tương đối!
Oét-mô-len hiểu ý A.Bơ-ram muốn nói gì. Hiện nay, tình hình Đông Nam châu Á khá ảm đạm. Nam Việt Nam và Lào bị chiến tranh tàn phá, dân chúng khổ cực. Thái Lan bị lôi vào cuộc chiến tranh vì quyền lợi của bọn quân phiệt độc tài, họ biến Tổ quốc thành ngành dịch vụ phục vụ chiến tranh, thành hàng không mẫu hạm trên đất liền cho máy bay B.52 hàng ngày cất cánh mang bom trút xuống các nước Đông Dương láng giềng. Riêng Căm-pu- chia vẫn nằm ngoài vòng bom đạn, nhưng chỉ có tính chất tương đối, Mỹ sẽ làm được điều Mỹ muốn.
*
Ngày 12 tháng 4 năm 1966, Mỹ bắt đầu sử dụng máy bay chiến lược hạng nặng B.52 ném bom rải thảm xuống đèo Mụ Giạ - một cửa ngõ đi vào con đường mòn Hồ Chí Minh.
Mỹ - Nguỵ quyết tâm chặt đứt con đường tiếp tế huyết mạch của ta.
Giữa năm 1966, ta mở mặt trận Đường 9 - bắc Quảng Trị, nhằm uy hiếp Quàn khu I của địch và bảo vệ đường Trường Sơn.
Tướng tư lệnh Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 - Hốc- mứt hợp đồng với tướng tư lệnh Quân đoàn I nguy Hoàng Xuân Lắm điều động một vạn quân gồm lính thuỷ đánh bộ, pháo binh, thiết giáp..., thêm một vạn quân sẵn sàng ứng cứu, có sự chi viện mạnh mẽ của pháo bầy trên Hạm đội 7 dập dềnh ở vùng biển gần bờ và bom đạn của máy bay phản lực, kể cả B.52... thiết lập tập đoàn cứ điểm Tà Cơn - Hướng Hoá - Làng Vây, giáp biên giới Việt - Lào để bảo vệ tuyến phòng thủ Đường 9 và chốt chặt hành lang vận chuyển Trường Sơn của Bắc Việt, dưới quyền chỉ huy chung của đại tá Đê-vít-dao-di. Hậu cần phục vụ sáu ngàn quân đồn trú do vận tải đường không và đường biển chuyển tải qua Đông Hà.
Ngày 20 tháng 3 năm 1967, ta bố trí đại pháo 130 mi-li-mét ở Vĩnh Linh bắn phá dữ dội căn cứ Mỹ ở Cồn Tiên, Dốc Miếu. Mỹ hùng hổ phản pháo, nhưng tầm bắn không với tới mục tiêu; trong khi đó đạn pháo của ta rớt trúng nhà lính, nhà kho... Lính Mỹ cuống cuồng chạy xuống hầm cố thủ, gọi máy bay đến chi viện. Hàng đàn máy bay kéo tới, tốp F105 và F104 của không quân, tốp F8D và F3B của hải quân quần thảo ném bom, phóng rốc- két xuống trận địa pháo binh ta, nhưng là trận địa giả. Máy bay Mỹ chẳng phá huỷ được khẩu pháo nào của đôi phương, nhưng lại bị pháo cao xạ của lực lượng phòng không và súng bộ binh của Dân quân tự vệ bắn rơi hai chiếc.
Ta tiếp tục có những hoạt động quân sự khiến Bộ chỉ huy Mỹ - Nguy không phán đoán ra chiều hướng chính của những biến động náo nhiệt với quy mô nhỏ hoặc vừa trên khắp cả chiến trường nhưng không thành quy luật.
*
Tướng Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh, Tướng Trần Thế Môn - Chính uỷ, tướng Nguyễn Hữu An - Sư trường.
Tướng Đặng Vũ Hiệp - Chú nhiệm chính trị... chỉ huy Bộ đội Tây Nguyên mở chiến dịch Đăk Tô, đánh phá căn cứ Sư đoàn 4 Mỹ ở Đăk Tô, dồn cuộc hành quân càn quét mang tên Mác Ac Tuya của địch vào thế đối phó bị động. Mười sáu Tiểu đoàn địch gồm ba Lữ đoàn Mỹ, một Chiến đoàn dù, một Trung đoàn và một Tiểu đoàn nguy bị căng ra đỡ, vo lại tránh và hút đến ứng cứu nơi nguy cấp.
Chiến dịch kéo dài suốt hai mươi ngày trên một không gian khoảng một ngàn ki-lô-mét vuông - từ cao điểm Ngok Bơ Biêng 1338 đến dãy Ngok Wan ở đông bắc, từ căn cứ Plây Cần ở tây bắc đến cao điểm 875 - "cái bẫy" mà về sau viên Tư lệnh sư đoàn 4 - Trung tướng Sác- lơ P.Ston mới chợt hiểu: "Việt cộng dụ lính Mỹ và đồng minh vào cái cối xay thịt ấy". Hãy liên tưởng chỉ riêng chiến địa này, một Tiểu đoàn Mỹ gồm ba trăm năm chục lính mà có tới hai trăm tám chục người bị thương vong. Trung tướng tư lệnh - Sác-lơ P.Ston bị ám ảnh bởi một "đối phương tinh quái" biết tận dụng "địa thế hiểm trở" đã bộc lộc tâm sự với M.Phốt- sĩ quan tuỳ tùng:
- Không bao giờ đưa binh lính vào sâu trong rừng nữa!
Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ - Uy-liêm Oét- mô-lên đọc bản tường trình diễn biến trận đánh mà một bên lông mày mỗi lúc một nhướng cao, cuối cùng Oét- mô-len gõ ngón tay lên tờ báo cáo như muốn đánh bật từ đó ra một lời nhận định đúng đắn hoặc một câu hỏi cần giải đáp:
- Đăk Tô có thể có tầm quan trọng lớn hơn nếu nó là cú mở đầu cho một cuộc tiến công quy mô nơi nào đó ở Việt Nam?
*
Tiểu đoàn 99 - đơn vị pháo BM-M (loại pháo phản lực Ca-chiu-sa mười bảy nòng đặt trên ô tô cỡ đạn một trăm bốn mươi mi-li-mét, tầm bắn xa tám ngàn mét) có một sự đổi mới cực kỳ quan trọng; Phó Tổng tham mưu trưởng - Trần Sâm, Cục phó Cục nghiên cứu kỹ thuật - Hoàng Đinh Phu, các nhà khoa học - Trần Đại Nghĩa, Lê Văn Chiến... cải tiến BM-14 từ một trang bị nặng nề, cồng kềnh do xe kéo thành thứ vũ khí có thể khênh vác có tính năng cơ động cao, với tên mới là A-12, anh em pháo thủ đặt cho nó một cái tên thân mật, đặc trưng hơn; Ca-chiu-sa Việt Nam.
Hôm bắn thử A-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đến dự. Bác rất vui khi thấy đạn nổ đúng mục tiêu. Bác nhìn Thiếu tướng Tư lệnh binh chủng pháo binh Nguyễn Thế Lâm khen:
- Các chú bắn tốt. Phải chú ý tiết kiệm đạn!
Tư lệnh Nguyễn Thế Lâm trình bày:
- Thưa Bác! Các Đại đội bắn trình diễn hôm nay đều thuộc những đơn vị sắp lên đường vào Nam làm nhiệm vụ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh động viên:
- Pháo đạn nặng nề, mang vác cồng kềnh nên khi đi làm nhiệm vụ sẽ gặp nhiều khó khăn. Chú hãy chuyển lời Bác tới các chú ấy: Dù khó khăn đến mấy cũng phải kiên quyết vượt qua, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tiểu đoàn 99 đã làm vui lòng Bác. Đêm 27 tháng 2 năm 1967 Ca-chiu-sa Việt Nam trút sấm sét xuống sân bay Đà Nẵng diệt hơn một ngàn tên lính Mỹ, thiêu cháy chín mươi tư máy bay phản lực các loại, phá huỷ hai trăm xe quân sự...
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ - Mắc Na-ma-ra phàn nàn:
- Không có gì khó chịu bằng khi phải đối phó với cách đánh du kích này.
Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ - Uy-liên Oét-mô-len tự nhủ:
- Không thể xem nhẹ tính năng động của Bắc Việt!
*
Mục tiêu mở chiến dịch Nậm Bạc của Pa-thét Lào và Miền Bắc là mở rộng vùng giải phóng từ Phong Sa Lỳ tới Luông Pha Băng; nhưng đặc biệt hơn, chiến dịch mang ý nghĩa làm phân tâm sự chú ý của Bộ chỉ huy quân viễn chinh Mỹ.
Tiểu đoàn công binh số 25 được giao nhiệm vụ phối hợp với dân công Lào - Việt làm công tác hậu cần phục vụ chiến dịch. Hàng được đưa từ Tây Bắc Việt Nam sang Tây Bắc Lào, từ ngã ba Pắc Lua theo sông Nậm U tới kho hậu cần tiền phương.
Sông Nậm U thuộc tỉnh Phong Sa Lỳ bắt nguồn từ miền núi giáp với Trung Quốc, chảy qua các thác gềnh hung dữ uốn lượn khúc khuỷu theo khe núi tới vùng Mường Ngòi, Nậm Bạc, Luông Pha Băng... dồn nước vào sông Mê Kông.
Suối Sốp Phùn chảy từ biên giới Tây Trang - Việt Nam đổ vào sông Nậm U tạo nên ngã ba Pắc Lua.
Sông Nậm U là tuyến đường mà Tiểu đoàn 25 khai thác để chuyển hàng. Phương tiện vận chuyển là những thuyền sắt ba khoang lắp động cơ đẩy và những thuyền độc mộc gắn máy đuôi tôm của công dân Lào tham gia vận tải từ Sốp Phùn tới ngã ba Pắc Lua.
Chiến dịch chưa mở màn nên các hoạt động phải giữ bí mật. Ban ngày, ngã ba Pắc Lua vắng lặng, thỉnh thoảng mới có người từ rẻo đường mòn trên lưng núi cao đi xuống hoặc trong rừng cây xanh rờn đi ra bờ sông. Các phương tiện vận chuyển trên sông nép mình bên bờ dưới tán lá cây yên tĩnh; hàng hoá xếp trong dãy nhà kho nằm ven rừng dọc bờ sông.
Ngã ba Pắc Lua yên tĩnh, dòng nước Nậm U xanh biếc lững lờ chảy, những ghềnh đá lô nhô, những khe hẻm hiểm trở nằm bất động trên bãi cát, dưới triền núi bên bờ sông u tịch. Thỉnh thoảng lại có tốp AD.6 của phái hữu Lào bay qua, chúng lên phía Mường Khoa, Phong Sa Lỳ oanh tạc tuyến đường do thanh niên xung phong Việt Nam đang xây dựng hoặc bắn vu vơ xuống những vệt đường mòn ven sông.
Màn đêm buông xuống, sự sống trên ngã ba Pắc Lua bừng tỉnh. Tiếng máy nố xinh xịch, tiếng cười nói râm ran, tiếng thúc gọi lạc giọng, những bước chân hối hả thình thịch. Dòng người vào kho, xuống bến tấp nập. Tiếng giục thêm hàng, tiếng chèo rời bến chốc chốc lại vang lên.
Những sự cố trên sông xảy ra: Tiểu đội ba trả hàng xong đúng được ngay buổi sớm sương mù, anh em động viên nhau quay về lấy hàng đi tiếp chuyến nữa. Thuyền gần vượt được thác Hai Dòng thì máy động lực dở chứng, không còn lực đẩy, thuyền bị xoay ngang, quân ta chưa kịp xử lý thuyền đã xô vào mỏm đá rồi gẫy làm hai. Cả Tiểu đội bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi tới hơn một ki- lô-mét mới được nước đẩy dạt vào bờ; nhưng một thành viên của tiểu đội - anh Nguyễn Văn Lệ đã hi sinh vì dòng nước mạnh ném vào mỏm đá.
Chính trị viên Chí ngồi thuyền đi kiểm tra tuyến đường sông, thuyền lên tới đỉnh thác thì máy hỏng, nước xô thuyền lên mỏm đá giữa dòng sông, không có phương tiện thuỷ hỗ trợ, anh em đành ngồi thúc thủ nhịn đói, phơi gió Lào chờ thuyền đến cứu. Từ đó, cái thác quái ác ấy mang tên "Thác ông Chí".
Tiều đoàn 25 "làm ăn" thuận lợi cho tới ngày chiến dịch Nậm Bạc mở màn thì địch phát hiện ra tuyến vận chuyển hậu cần bằng đường sông Nậm U. Từng tốp máy bay AD6 của phái hữu Lào thay nhau tới bắn phá các trọng điểm; Ngã ba Pắc Lua, Cây số 49... Không lực Hoa Kỳ cũng tham gia ngăn chặn đường tiếp tế mang ý nghĩa sinh tử của ta, những chiếc F.105, F4H liên tục quần thảo nhưng vẫn không thay đổi nổi số phận quân địch ở Nậm Bạc. Lúc nguy cấp, thầy đành bỏ tớ, những quan chức Mỹ làm Cố vấn cho sĩ quan nguy Lào tót lên máy bay chuồn thẳng, mặc bọn nguy Lào vất vũ khí chạy toé sang Thái Lan, hoặc lủi trốn vào rừng.
Tổng chỉ huy Quân viên chinh Mỹ Uy-liem Oét- mô-len nhận được báo cáo của Ban tham mưu về thất thủ Nậm Bạc mà không sao phán đoán ra dụng tâm chính của đối phương mở chiến dịch này nhằm mục đích gì? Mở thông vùng giải phóng Bắc Lào - Bắc Việt Nam hay là đòn nghi binh cho một ý đồ quân sự hiểm ác khác?
*
Huyện Gio Linh nằm bên bờ nam sông Bến Hải là dải giới tuyến dưới quyền kiểm soát của Chính quyền Miền Nam, nhưng lòng dân lại hướng sang Miền Bắc - nơi đồng bào, đồng chí thời chống Pháp hào hùng đang sống và làm việc trong bầu không khí tự do, tự chủ.
Người dân chỉ muốn sống yên lành, muốn Nam Bắc một nhà, muốn người thân quen qua lại gặp nhau. Diệm - Nhu biết mình không được nhân dân ủng hộ nên ra sức chống phá tuyển cử thống nhất đất nước và mưu toan khuất phục nhân dân bằng những quốc sách bạo ngược, chúng cưỡng bức dân vào Ấp chiến lược, Khu trù mật để dễ bề khống chế và lung lạc ý chí. Chúng đóng quân ở Dốc Miếu, Cồn Tiên dùng làm công cụ đàn áp. Cảnh người chết, nhà cháy diễn ra hàng ngày.
Người dân Gio Linh buộc phải rời khỏi quê hương bán quán, một số bị lùa vào Ấp chiến lược, một số dạt sang bên kia sông Hiếu, một số may mắn thoát được sang bên bờ bắc sông Bến Hải. Những người Gio Linh kiên cường bất khuất không can tâm chịu để kẻ khác chà đạp quê hương, tàn phá cuộc sống hạnh phúc mà tạo hoá tặng cho mình. Con người sinh ra đã là bình đẳng.
Anh chị em du kích thôn Tám, xóm Vùng... bị bật sang Vĩnh Linh, đêm đêm vẫn vượt sông Bến Hải về Gio Linh diệt ác trừ gian và dẫn đường cho bộ đội đặc công qua sông Hiếu quấy rối Đông Hà, Cửa Việt...
Trần Thị Cúc là cô du kích dẫn đường thông minh và rất can đảm. Bác Tuyên, anh Long, anh Tuyền, chị Ngọc, cô Hân... là những du kích quân can trường, linh hoạt nhưng Trần Thị Cúc mới là một giao liên sắc xảo, trời phú cho cô một linh tính phán đoán tình huống khá nhạy bén. Cha mẹ và các em Cúc chạy không kịp nên bị dồn vào Ấp chiến lược. Sau một đêm hoạt động, gần sáng anh chị em lại vượt sông Bến Hải, sang Gio Linh nghỉ ngơi.
Cúc, Ngọc và Hân ở nhờ nhà ông bà Khoản. Ông bà Khoản là người xóm Tám lánh giặc sang Vĩnh Linh được Uỷ ban thị trấn Hồ Xá cấp đất, cho tre lá làm nhà. Thấy chị em du kích đi về vất vả, ông Khoản hỏi:
- Răng không bám trụ bên nớ, qua qua lại lại như ri mãi cực lắm.
Cúc vừa hí hoáy lau khẩu súng AK vừa đáp:
- Quê ta đằng trước là bãi cát đằng sau là cồn cát, bên phải bên trái chỉ thấy cát, xóm làng thành bình địa, ông bảo bọn con bám trụ nơi mô.
Ông Khoản:
- Mi thấy đấy, dân Vĩnh Mốc, Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Long, Vĩnh Giang đang chuẩn bị phương án ngủ trong hầm, học trong hầm - Ông đưa tầm mắt qua đầu Cúc nhìn về phía chuồng lợn nói tiếp: - Bà con còn có kế hoạch nuôi lợn, nhốt bò dưới hầm. Huyện phổ biến phải đề phòng Diệm - Nhu tráo trở. Mỹ đưa vào miền Nam nhiều đại bác, máy bay lắm.
Có vẻ cô du kích không quan tâm tới tình huống ông Khoản đề cập, cô mải lo hoàn cảnh trước mắt:
- Đào hầm trên bãi cát nỏ được mô ông ơi! - Cúc đóng quy-lát súng đến roạt để đệm cho câu nói: - Xúc được một xẻng hất lên thì nó chảy xuống hai xẻng...
Ông Khoản cười hỏi:
- Sáng kiến mô rồi? Sống với cát mà nỏ biết tính cát thì sống răng nổi - Ông giới thiệu luôn cách khắc phục khó khăn: - Đổ đẫm nước vô mà xắn thì ngon như xúc vữa đặc, rồi xúc đến mô lấy gỗ chắn tới nớ; ghép gỗ thành hình chữ A rồi thì lấy lá hay ni lông phủ mái như lợp nhà, khi ấy tha hồ lèn cát lên trên. Hầm đủ sâu, đúng kiểu thì đạn đại bác rơi trúng cũng nỏ sợ.
Cúc giương súng làm động tác ngắm thử, hững hờ hỏi:
- Bọ ơi! Tre, gỗ lấy mô ra?
Ông Khoản thủ thỉ như giãi bày tâm sự trắc ẩn:
- Thời kỳ Diệm - Nhu triển khai chính sách chống cộng tố cộng, bắt dân "ly khai cộng sản", bức phụ nữ có chồng bỏ chồng để lấy lính ngụy, đốt nhà để ép dân vào sống trong ấp chiến lược..., nhiều người dỡ nhà đem cột kèo vùi dưới cát, nhà choa cũng vậy - Bất chợt ông phẩy tay tỏ ý bất cần, nói tiếp: - Bọn mi cứ lấy lên mà dùng. Còn người còn của, trước mắt hãy lo đánh cho hết giặc đã.
Đội du kích của Cúc về làng dựng hầm chữ A theo cách hướng dẫn của ông Khoản. Từ đó, họ bám trụ ở quê hương, khi nào thiếu gạo muối mới sang Vĩnh Linh xin.
Ngày xâm lược Mỹ ném bom miền Bắc, Vĩnh Linh sống dưới bom đạn, ông bà Khoản sơ tán về Vĩnh Trung, ở hầm những vẫn là cơ sở đi về của cô du kích Trần Thị Cúc và đồng đội. Họ bám quê hương để sống và chiến đấu. Đội du kích thôn Tám, xóm Vàng... là tai mắt của bộ đội đặc công nước khu vực Cửa Việt thuộc Trung đoàn 126 Đặc công Hải quân. Trung đoàn 126 có bốn phân đội. Họ ém quân rải rác trong các xã Vĩnh Mốc, Vĩnh Hiền. Vĩnh Trung và thường đi vào vùng địch hoạt động trong tuần tràng tối. Anh chị du kích đã dẫn đường cho Phân đội 2 đánh ngã ba Đại Độ, Phân đội 4 gài mìn làm hư hỏng cầu Đông Hà nhiều lần và thả thuỷ lôi tự tạo(1) đánh ca-nô chở hàng của địch chạy trên sông Hiếu.
(1) Ghép nhiều bánh thuốc nổ TNT thành khối nặng 20 kg, cài kíp, vỏ ngoài bằng tre. Thuỷ lôi trôi lơ lửng trong nước, ca nô chạy qua tạo áp lực nước gây kích nổ.
Một đêm vào đầu năm 1967, Trần Thị Cúc đang ở trong Gio Linh thì có người vào gọi ra Vĩnh Linh. Cô có nhiệm vụ giúp Phân đội đặc công nước làm công tác chuẩn bị đánh tàu vận tải của địch đậu ngoài khơi Biển Đông.
Công việc của tàu vận tải biển cỡ lớn là đưa hàng tới ngoài khơi Biển Đông, cách cảng Cửa Việt mười hải lý, các ca-nô từ trong cảng Cửa Việt sẽ ra lấy hàng chở vào bờ tiếp tế cho Cụm căn cứ Khe Sanh.
Các đội du kích Gio Linh từng hỗ trợ cho Trung đoàn 126 đặc công nước đánh đắm và làm bị thương tới 370 chiếc tàu chiến, tàu vận tải và ca-nô quanh khu vực Cửa Việt - Đông Hà.
Lần này, theo tin tình báo, địch dùng tàu vận tải một vạn tấn do thuỷ thủ Nam Hàn điểu khiển, đưa hàng cung đốn cho "thằng Khe Sanh" đang nheo nhóc vì hàng tiếp tế đã chậm lại thiếu.
*
Ráo riết làm teo dạ dày Cụm cứ điểm Khe Sanh là hành động bổ sung nằm trong kế hoạch "Giương đông kích tây" của Bộ chỉ huy tối cao. Binh lính Mỹ - Nguy ở Khe Sanh tồn tại là dựa vào sự cung cấp hậu cần của tuyến vận tải đường biển. Tuyến này chủ yếu do Hải quân Nam Hàn đảm nhiệm.
Nhiệm vụ chặn đường tiếp tế từ biển vào được giao cho Trung đoàn đặc công nước thuộc Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam.
Trung đoàn trưởng 126 Mai Xoa dẫn theo sĩ quan trợ lý thông tin La Văn Thêu, trợ lý tham mưu Nguyễn Thái Bảo xuống Phân đội một lựa chọn những sĩ quan, chiến sĩ ưu tú thành lập Tổ xung kích gồm 3 người do Nguyễn Văn Tinh(1) làm Tổ trưởng. Vũ khí tấn công là ba quả mìn vành khăn (2), mỗi quả nặng mười ki-lô-gam. Tình và hai đồng đội từng nhiều lần bơi sang bờ bên kia Cửa Việt dán mìn nam châm vào thành tàu của địch, phá hỏng nhiều tàu, làm chìm ca nô càng nhiều hơn nên tích luỹ được nhiều cách đánh thuỷ lôi.
(1) Về sau Nguyễn Văn Tình được phong Anh hùng lực lượng vũ trang và Trung tướng. Đô dốc - Tư lệnh Hải quân. Ông là người Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định.
(2) Loại mìn này Liên Xô chỉ viện trợ cho Cu Ba; Cu Ba đã chi viện cho ta.
Nhưng, đấy chỉ là những trận đánh loanh quanh ở khu vực Đông Hà - cửa Việt. Đánh tàu Nam Hàn đậu ngoài khơi cách bờ hàng chục hải lý lại là chuyện khác.
Cuộc hội ý bàn kê hoạch tác chiến diễn ra trong hầm chữ A ở làng Vĩnh Trung. Dạo này máy bay Mỹ bắn phá dữ dội khu vực "tam giác lửa", ác liệt nhất là Vĩnh Linh nên quân đội, nhân dân đều sống dưới hầm có địa đạo nối các vùng quan trọng với nhau. Trung đoàn trưởng Mai Xoa nhìn du kích Trần Thị Cúc thăm dò lại khả năng của người du kích mà trận đánh cần khai thác:
- Các đồng chí Huyện đội Gio Linh đánh giá đồng chí là một giao liên du kích xuất sắc nhất huyện...
Trần Thị Cúc không hề có dấu hiệu bối rối khi được nghe "lời tâng bốc" mình, cô thản nhiên đáp:
- Mấy chú Huyện đội khen quá đấy thôi, chú tin chi cho mệt... - Cúc cầm dựng đứng khẩu súng AK nói tiếp bằng giọng rắn ròi hơn: - Các chú giao nhiệm vụ dù khó khăn đến mấy cháu cũng nhận và quyết tâm hoàn thành.
Trung đoàn trưởng Mai Xoa hỏi:
- Đường ra Cửa Việt thế nào?
Cô gái từng đi mòn chân trên miền đất quê hương trình bày:
- Bọn Dốc Miếu thường ra phục kích ở cồn Cát Sơn, hai người của ta bị hy sinh vì bọn này. Thâm nhập Cửa Việt vào tuần trăng tới thì ít trở ngại.
Trung đoàn trưởng Mai Xoa thông báo:
- Chúng ta bị động về thời gian!
Trần Thị Cúc không biết mục tiêu và tầm quan trọng của trận đánh nên đề xuất khả năng khắc phục:
- Cùng lắm thì nằm hầm du kích bên Gio Linh với bọn em - Cô nói đùa: - Phục kích từ xa!
Trung đoàn trưởng Mai Xoa gật gù:
- Gợi ý của đổng chí hay đấy! - Ông hướng về phía Trợ lý thông tin, nói tiếp: Đồng chí Thêu theo đồng chí Cúc sang Gio Linh tìm địa điểm đặt máy 108, bố trí người giữ máy, bảo đảm liên lạc với Tổ điện báo cơ yếu của Đặc công khô hoạt động bí mật bên đó, thông báo kịp thời về Ban chỉ huy các hoạt động đường thủy của địch. - Ông chuyển hướng nhìn về phía trợ lý tham mưu Nguyễn Thái Bảo nói tiếp: - Đồng chí sang Cửa Việt lựa chọn vị trí xuất phát, vẫn nhờ đồng chí Cúc dẫn đường.
Tổ trưởng đặc công Nguyễn Văn Tinh đề nghị:
- Thủ trưởng cho tôi đi theo anh Bảo, tôi cần quan sát địa thế xuất phát.
Trung đoàn trưởng Mai Xoa xua tay:
- Không được! Đồng chí không tin Thái Bảo à? Ba đồng chí phải ở nhà nghỉ dưỡng sức và chuấn bị khí cụ.
Thấy Nguyễn Văn Tinh tỏ ý băn khăn, La Văn Thêu mỉm cười biểu lộ sự thông cảm với nỗi lo toan của người chiến sĩ sắp ra trận - một trận đánh quan trọng nhưng tiềm tàng nhiều rủi ro. Thêu là người xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, tính tình chất phác, biết nhường nhịn, biết hứng chịu... chỉ mong cuộc sống hoà thuận, biết nương dựa nhau. Anh nhìn Tình, giơ tay chỉ Thái Bảo rồi chỉ vào mình nói:
- Ông cứ "yên trí lớn"! Bọn này sẽ dọn đường thật tốt cho các ông đi.
Trần Thị Cúc nhìn Trung đoàn trưởng, nhìn lướt sang hai trợ lý đề xuất:
- Em muốn hai anh sang Gio Linh ngay đêm nay. Ngày mai nấp trong hầm bí mật. Tối mai có nhiều thời gian sục xạo lựa chọn địa điểm. Nếu cần em sẽ cử thêm đồng chí Ngọc dẫn đường. O tháo vát, thông thạo đất Cửa Việt.
Trung đoàn trưởng Mai Xoa gật đầu, ông nhìn hai sĩ quan trợ lý ra lệnh:
- Từ bây giờ hai đồng chí phải tuân theo sự hướng dẫn của đồng chí Cúc.
*
Trần Thị Cúc có thói quen trước khi vể "căn cứ" Gio Linh nằm trong vùng địch kiểm soát cô đều đến thăm "bọ mẹ" Khoản. Các con ông bà Khoản đi còng tác cả, hai anh con trai là bộ đội Phòng không, con gái làm việc trên huyện Hội phụ nữ. Ông bà Khoản quý Cúc như con đẻ. Bố mẹ Cúc bị địch lùa vào ấp chiến lược Xóm Vùng, gia đình ly tán, ở gần nhau mà chẳng được gặp nhau, nên ông bà càng thương Cúc hơn. Mỗi lần Cúc về thăm hỏi "nhoáng nhoáng" rồi khẩn trương ra đi, bà Khoản nhìn theo cô gái mặc xà lỏn khoác chéo vai khẩu AK, đeo lủng liểng bên hông hai trái lựu đạn, bước trên những bờ miệng hố bom ngổn ngang đất đá và mảnh bom, cặp mắt sầu tư của bà như thốt lên: "Chúng nó...". Một ý nghĩ chưa bộc lộ nội dung mà chứa đựng bộn bề tình cảm mến phục và xót xa.
Lần nào Cúc về thăm bọ mạ Khoản cũng vội vội vàng vàng rồi đi, lần này cô càng vội. Đang kỳ trăng hạ tuần, cô và đồng đội phải khẩn trương giúp bộ đội đặc công nước làm quen với địa hình và quy luật hành động của địch ở Dốc Miếu, Cửa Việt... Trợ lý thông tin La Văn Thêu, sĩ quan tham mưu Nguyễn Thái Bảo đã thực hiện xong công việc được phân công. Công việc chuẩn bị cho trận đánh hoàn tất. Nhưng, Đội du kích Gio Linh vẫn chưa chịu được nghỉ xả hơi, bây giờ mới đến giai đoạn then chốt, khâu hiệu quả của những nỗ lực tối đa. Sơ xẩy là công phu bấy lâu nay thành công dã tràng xe cát Biển Đông.
*
Tổ điện báo từ cơ sở bên Gio Linh báo sang:
"Cá mập đã tới".
Hai giờ chiều, Tổ đặc công lên đường, khởi hành từ làng Vĩnh Mốc đến bờ bắc Cửa Tùng, rẽ theo bãi cát ven biển mà đi. Ba chiến sĩ đặc công đeo ba lô con cóc trong chứa ba quả mìn nam châm hình vành khăn và các dụng cụ cần thiết của người hoạt động trên biển: La bàn nước, đèn pin nước, đồng hồ nước, phao bơi... Cúc vẫn chân trần giẫm trên cát, vai khoác AK, lưng đeo lựu đạn, đầu đội mũ rơm. Sĩ quan tham mưu Nguyễn Thái Bảo bước song song với tổ trưởng Nguyễn Văn Tinh, anh đã hoàn thành nhiệm vụ: Chọn địa điểm xuất phát, xác định cự ly, hướng mục tiêu và đã trao đổi tỉ mỉ với anh em đi thực hiện nhiệm vụ tác chiến về không gian cụ thể, giải pháp có thể áp dụng khi tình huống biến chuyển không đúng với dự kiến... Tuy đã hoàn thành nhiệm vụ tham mưu tác chiến anh vẫn đề nghị Trung đoàn trưởng cho mình đi theo Tổ đặc công.
Bảy giờ tối, Đoàn công tác tới cách cửa Tùng chừng hai trăm mét. Cúc ra hiệu cho mọi người dừng lại, một mình cô ra sát mép nước, đến một "vị trí xác định" nhìn sang một "điểm xác định" bên bờ Nam. Một lúc sau, từ "điểm xác định" loé lên một đốm sáng nhỏ, nhấp nháy ba lần. Đấy là tín hiệu "an toàn" mà Tổ giao liên của Cúc quy ước với nhau. Muốn nhận được tín hiệu phải quỳ ở "vị trí xác định" nhìn thẳng sang "điểm nhất định", quan sát ở vị trí khác theo cách khác thì không thể nhận biết. Thằng địch tàn bạo lại quỷ quyệt, làm ăn không chu đáo là nguy ngay với nó. Bọn chúng đã phái người nhái sang bờ Bắc dò la, quấy rối nhưng không qua nổi "thiên lý nhân" của nhân dân nên mon men sang tốp nào bị tóm gọn tốp ấy, cuối cùng bỏ cái thói "học mót" theo cách đánh của du kích Bắc Việt. Nhưng, tính cách thận trọng lúc nào cũng là vũ khí của người hoạt động bí mật.
Cúc dẫn Tổ công tác đến chỗ giấu thuyền. Họ sang bờ Nam an toàn. Ngọc ra tận mép nước đón khách.
Cúc hỏi:
- Eng Long, út Hân đâu? Vào vị trí chưa?
- Rồi, đang cảnh giới Dốc Miếu, xóm Vùng!
- Ngã Cửa Tùng thì rãng?
- Tối ni chúng không tới phục kích, những vẫn cử eng Tuyền quan sát hướng nớ.
Cúc ngoảnh nhìn Tổ đặc công thông báo:
- Đường thông suốt, ta khởi hành! Giữ cự ly năm bước.
Tổ đặc công hành tiến theo rẻo cát gần bờ biển, bên trái sóng biển ầm ào, bên phải sáng trưng đèn dù từ mạn Dốc Miếu toả ra xung quanh và hắt lên trời, sao nhấp nháy trên bầu trời đêm đen. Thỉnh thoảng rộ lên từng loạt dài trọng liên khi thì hướng Đông Hà, khi thì hướng Cồn Tiên nhưng "cần cù" nhất vẫn là mấy thằng Dốc Miếu. Từ ngày bị pháo lớn của Bắc Việt bố trí bên Vĩnh Linh dội sấm sét sang, quân lính đồn trú Dốc Miếu như sống trong chảo lửa, chả đêm nào nằm được yên: chúng bắn cầm canh cũng là nhắc nhớ nhau "hãy tỉnh táo chớ mải ngủ, có động dạng còn kịp chạy xuống hầm ẩn nấp"
Tố công tác vẫn đi, len lỏi qua khe, leo qua cồn cát... bầu trời đen che chở họ, anh chị em du kích Gio Linh bảo vệ họ, từng cửa tiềm tàng nguy hiểm đều có du kích đón và hướng dẫn họ đi tiếp.
Đã tới vị trí xuất phát. Đèn điện từ cảng cửa Việt toả ra vùng ánh sáng hình cầu. Mọi người dừng bên bờ biển. Nguyễn Thái Bảo đứng thẳng người cầm la bàn nước hướng ra ngoài khơi tìm vị trí chỉ định - nơi tàu vận tải Nam Hàn neo đậu. Giây lát anh reo khẽ:
- Đây rồi! - Anh hích vai Tổ trưởng Nguyễn Văn Tinh, hớn hớ nói tiếp: - Cậu nhận ra được chỗ sáng mờ mờ bên kia chứ! Chính hắn đấy! Đèn ở tàu Nam Hàn hắt lên đấy.
Tổ trưởng Nguyễn Văn Tinh vừa sửa soạn vật dụng xuống nước vừa hưởng ứng sự chỉ dẫn của sĩ quan tham mưu, nhưng thực ra là phổ biến biện pháp tiếp cận mục tiêu với hai đồng đội:
- Ở xa, la bàn dẫn đường, đến gần, đèn ở tàu địch làm công việc thay la bàn.
Nguyễn Văn Tinh chào mọi người lại rồi bước xuống nước trước, chờ hai đồng đội xuống theo, anh ngoái nhìn lên bờ giục:
- Các đồng chí về đi!
Sĩ quan tham mưu Nguyễn Thái Bảo đáp:
- Mình ở đây đợi các cậu!
Nữ du kích Trần Thị Cúc nói với theo:
- Đội du kích sẽ rải quân dọc bờ biển đón các em.
Vào kỳ hạ tuần nên triều lên xuống yếu không ảnh hưởng nhiều tốc độ bơi của Tổ đặc công nước. Dù chiếc ba lô đeo sau lưng nặng trên mười ki-lô-gam, nhưng có phao nên anh em chỉ mất sức trườn lên phía trước, họ vừa bơi vừa có thể chuyện trò, tiếng sóng biển ầm ào át tiếng họ cũng chẳng sao.
- Út Cúc... đấy!
- Mấy bố nhà mình... thằng Mỹ... xoay xở...
- Quân Nam Hàn... ruồi nhặng xôn xao...
- Năm nay... kia rồi! Chỗ ánh sáng nhấp nháy...
Tàu vận tải Nam Hàn rõ dần. Tinh ra hiệu im lặng tiếp cận mục tiêu, anh quy định thời gian hẹn giờ cho mìn nổ:
- Đúng ba mươi phút!
Ngoài tên sĩ quan ngồi trên đài quan sát, tên lính trực và ánh đèn, cả con tàu vận tải Nam Hàn ngủ say trong tiếng sóng biển.
Ba chiến sĩ đặc công tới quan sát mục tiêu, lần theo mạn tàu xác định điểm trọng yếu của tàu, áp mìn nam châm vào thành tàu, ra hiệu cho nhau vặn đồng hồ hẹn giờ.
Thế là xong! Họ bơi vào bờ, không có chiếc ba lô nặng sau lưng nên họ bơi khá nhanh. Ba mươi phút sau, ba tiếng nổ lớn phát lên gần như đồng thời. Không ai bảo ai, ba người cùng dừng lại hướng về phía tàu giặc.
Cháy! Nổ!
- A, cháy nổ rất to!
Sóng lớn bất ngờ ào tới trùm lên cả ba chiến sĩ đặc công. Sóng do tiếng nổ lớn kích động tạo ra. Phao đẩy người Tinh lên mặt nước, hai đồng đội kia cũng trong tình huống ấy. Họ có kinh nghiệm hoạt động trong nước nên không bị sặc. Tinh nói to:
- Về thôi! Công việc của chúng ta đã hoàn thành.
Một anh hỏi đùa:
- Tổ trưởng không quên các "út" đang mỏi mắt chờ mình đấy chứ?
*
Bộ chính trị ra Nghị quyết đại ý: Thời cơ đang tới. Chiến tranh không thể kéo dài mãi. Trước tiên phải đánh cho Mỹ cút, tiếp theo đánh cho nguy nhào. Quân uỷ Trung ương phải kiến thiết một trận đánh sao cho thu được thắng lợi lớn về các mặt chính trị, ngoại giao và quân sự.
Quân ủy Trung ương họp thảo luận, phân tích, cân nhắc... cuối cùng thống nhất quyết định xây dựng một trận đánh đại quy mô, mạo hiểm nhưng rất tài tình. Một trận đánh có thể xem như một quá trình tích luỹ năng lượng, tích luỹ điều kiện tới giai đoạn chuyển thành cơn bão lớn.
Các hoạt động tung hỏa mù được triển khai nhộn nhịp theo đúng kế hoạch. Không ai có thể quả quyết "trận đánh lớn" ấy bắt đầu từ thời điểm nào, bởi vì cuộc chiến đấu chống Mỹ của ta có quan hệ nhân quả hiện tượng này thúc đẩy quá trình kia, sự kiện ấy tạo thế cho cơ hội nọ.
Nói theo cách khác, nhiều công phu (vật chất và tinh thần) góp lại để làm nên một chiến thắng.
*
Bọn Dốc Miếu, Cồn Tiên cậy có pháo bầy, có công sự kiên cố hung hăng trút đạn sang Vĩnh Linh; Chúng bắn sáng, bắn chiều, bắn đêm, bắn bất cứ lúc nào chúng muốn. Quân đội Vĩnh Linh đã có thời khốn khổ vì bọn độc ác ấy.
Gieo gió gặt bão. Đạn pháo của ta bố trí bên Vĩnh Linh dội sấm sét xuống bọn Dốc Miếu, Cồn Tiên, nhiều binh lính Mỹ - Nguy bị giết, nhiều phương tiện chiến tranh bị phá huỷ. Anh trắc thủ đứng trên đài quan sát, dùng kính viễn vọng kiểm tra hiệu quả trận pháo kích. Anh nói qua điện thoại;
- Bọn Mỹ cuống cuồng chạy xuống hầm. Hầm bị trúng đạn, hàng chục xác giặc bị hắt lên trời. Đạn nổ giữa trận địa pháo, nòng pháo uốn cong như vòi voi...
Quân viễn chinh Pháp rất sợ pháo binh Việt Nam. Trung tá Pi-rốt chỉ huy pháo binh bảo vệ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải tự tử vì Pháo binh Việt Nam quá giỏi. Bọn Mỹ - Nguy cũng không thoát khỏi vòng sợ hãi "táng mật kinh hồn" bởi lối đánh tập trung, dũng cảm đến sững sờ.
Bộ đội địa phương, dân quân du kích Gio Linh, Cam Lộ được lệnh tăng cường hoạt động.
Gài mìn, đặt bẫy, phục kích, bắn tỉa, quấy rối... là những thủ đoạn chiến đấu lợi hại, có uy lực khủng bố tinh thần... khiến bọn giặc ở Cát Sơn bỏ đồn chạy tháo thân vào Dốc Miếu, bọn ở Dốc Miếu, Cồn Tiên không dám tuỳ tiện bước ra khỏi căn cứ, có đợt chúng phải nhận hàng tiếp tế bằng đường không.
Hành lang ven biển từ cửa Tùng đến bên này cửa Việt là đất tự do của ta.
Trung đoàn 126 - Đoàn đặc công nước được lệnh triệt phá nguồn tiếp tế qua Cửa Việt - Đông Hà vào cụm cứ điểm Khe Sanh.
Phân đội một vượt qua Cửa Tùng sang Cát Sơn, ém quân trang hầm chữ A chuẩn bị đánh tàu biển và thả thuỷ lôi ngăn chặn ca nô địch qua lại Cửa Việt.
Phân đội hai khống chế ngã ba Đại Độ, chặn đánh ca nô nào thoát khỏi cửa tử - cửa Việt.
Phân đội 3, phân đội 4 phá cầu Đông Hà, đánh tiếp những tàu nào thoát từ dưới lên.
Đoàn phó Hải quân Mai Năng trực tiếp chỉ huy Đội đặc công nước thực hiện tác chiến, nói với trợ lý thông tin La Văn Thêu:
- Nối liên lạc bằng điện thoại từ đây (Cửa Việt) về Vĩnh Mốc.
Nhờ du kích Gio Linh, nhất là cô du kích Trần Thị Cúc tháo vát, nhanh như sóc... La Văn Thêu nhanh chóng hoàn thành công việc rải dây điện thoại trên quãng đường dài hơn mười ki-lô-mét trong một địa bàn phức tạp, tạo sự thông suốt từ Ban chỉ huy Đoàn 126 ở Vĩnh Mốc tới tuyến công kích Cửa Việt - Đông Hà.
Tiếng bom, tên lửa từ máy bay F.105, F. 100, A.4, A.6 dội xuống Gio Linh nổ inh trời dậy đất xen lẫn tiếng thuỷ lôi, mìn vành khăn của bộ đội 126 đánh tàu địch trên Cửa Việt, dốc sông Hiếu.
Khe Sanh đói. Đói lương thực, vũ khí. thuốc y tế...
*
Ngày 6 tháng 12 năm 1967, Quân uỷ Trung ương ra quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ tư lệnh đường 9. Tư lệnh trưởng - Thiếu tướng Trần Quý Hai, Chính uỷ kiêm Bí thư Đảng uỷ - Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Tư lệnh phó Cao Văn Khánh. Nhiệm vụ mà Bộ tư lệnh Đường 9 là: Thu hút địch vào Đường 9 càng nhiều càng tốt.
Bộ Tư lệnh mặt trận đến Sở chỉ huy Mặt trận - một hang sâu trong núi ba ngày thì xuất hiện máy bay trinh sát OV. 10,chúng lượn vòng vè vè trên đầu mấy ngày liền, OV.10 đi các phi đội F.4 rồi F.105 rồi F.104 thay nhau bay đến thả bom gần khu vực hầm Sở chỉ huy.
Chính uỷ Lê Quang Đạo trao đổi với Tư lệnh Trần Quý Hai trong tiếng bom rền:
- Có triệu chứng của B.52
Tư lệnh Trần Quý Hai đồng ý:
- Anh Khánh đi chuẩn bị Sở chỉ huy dự bị, chúng ta hãy đến đó.
Khoảng hai giờ sáng, Tư lệnh phó Cao Văn Khánh quay về đón đồng đội. Tư lệnh Trần Quý Hai lên tiếng:
- Tranh thủ quãng trống giữa hai đợt ném bom, ta lên đường.
Mọi người ra khỏi hang, đi chưa được vài trăm mét máy bay địch đã ào tới ném bom. Nhưng, không có tổn thất đáng kể; hai đồng chí bảo vệ nhờ chiếc ba lô sau lưng che đỡ nên không bị thương, chỉ bay mất túi đựng bàn chải đánh răng; đồng chí bác sĩ rơi xuống vực cũng nhờ "chiếc ba lô nhà lính" khá vững chắc ngoắc quai vào cành cây cứu được chủ. Bộ Tư lệnh mặt trận đến chỉ huy sở mới mà B.52 vẫn miệt mài thả bom xuống Chỉ huy sở cũ, hàng tuần không thôi.
Tư lệnh Trần Quý Hai đề xuất với Tham mưu trưởng:
- Vận dụng kinh nghiệm của Khu 5 "Bám thắt lưng địch mà đánh". Cần quan tâm: Hậu phương chiến dịch sẽ là túi đựng bom của địch, phải có kế hoạch loại trừ nguy cơ ấy.
Ngày 20 tháng 1 năm 1968. Bộ chỉ huy Quân giải phóng - qua phương tiện thông tin đại chúng - phát đi bản mệnh lệnh tác chiến nhằm vào lực lượng bình địch nông thôn của quân đội Sài Gòn.
Đêm 20 tháng 1 năm 1968, tiếng súng thu hút địch dồn đến Khe Sanh nổ dữ dội, đều khắp. Hướng tây, Sư đoàn 304 tiến công quận lỵ Hướng Hoá, tiêu diệt căn cứ Huội San. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 325 đánh cao điểm 832. Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 304 có pháo binh xe tăng phối hợp tiến công cứ điểm Làng Vây. Hướng đông, Trung đoàn 64, Trung đoàn 48, Tiểu đoàn 1 thuộc Sư đoàn 320 phối hợp với bộ đội địa phương đánh Chi khu Cam Lộ, cắt đánh giao thông Đông Hà - Đường 9; căn cứ Tà Cơn có 5000 quân Mỹ đóng giữ do đại tá Đê- vít Lao-dơ chỉ huy bị pháo dàn Ca-chiu-sa 17 nòng, pháo mới D. 74 công kích tối tăm mật mũi.
Máy bay Mỹ đủ các loại thuộc lực lượng Hải quân, Không quân, kể cả B.52 ném bom liên tục ngày đêm, chúng còn phái nhiều máy bay AC. 130 - được mệnh danh là Tàu đại bác, lượn lờ trên không tìm mục tiêu rồi thụt đạn xuống.
Tư lệnh Quân đoàn tạm thời - A Bơ-ram tổ chức giải toả Đường 9 - Khe Sanh bằng Không quân có sự hỗ trợ của Hải quân nhưng vòng vây quanh cụm căn cứ Khe Sanh vẫn lừng lững, chắc như nêm, mạnh như sóng thần.
Chi khu quân sự Hướng Hoá, căn cứ Làng Vây, cao điểm 544 bị tiêu diệt. Căn cứ Tà Cơn bị hợp vây. Đại tá Dê-vít Lao-dơ chỉ huy trưởng căn cứ Khe Sanh liên tục gọi điện xin cứu ứng.
Tư lệnh Quân đoàn tạm thời - A Bơ-ram tổ chức cuộc hành quân giải vây mang tên "Ngựa bay". Nhưng, quân đi "giải vây" lại bị vây đánh dữ dội, phải tháo chạy, đành bỏ cuộc giữa chừng.
*
Trong toà nhà Lầu năm góc Phương Đông(1) đứng bề thế bên sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ - Oét-mô-len chắp tay sau lưng đứng trước tấm bản đồ rộng căng trên giá di động. Bản đồ Đông Dương được xuất bản cuối năm 1966 tại bang Vớc-gi-ni- a(2) chuyên dùng cho việc nhà binh. Trẽn bản đồ ghim những mảnh nhựa hình chữ nhật màu vàng ghi phiên hiệu đơn vị quân đội Mỹ hoặc đồng minh, mảnh nhựa hình e- líp màu đỏ chỉ những trận đánh vừa xảy ra do đối phương tiến hành, mảnh nhựa hình mũi tên màu xanh mô tả cuộc hành quân tìm diệt hoặc giải vây do quân Mỹ và đồng minh thực hiện. Đấy chỉ là những cụm căn cứ những cuộc hành quân dài ngày và những trận đánh tương đối lớn mà đã thể hiện trên hàng trăm địa điểm, nếu kể cả chiến trường Việt Nam thì còn có biết bao sự kiện cần phải quan tâm? Oét-mô-len không hề bối rối trước vô vàn thông tin, những mảnh nhựa vô tri vô giác đưa ra, khối óc thông minh và ắp đầy tri thức kim cổ về các lĩnh vực quân sự, chính trị, ngoại giao... của vị thống soái được cả nước Mỹ ngưỡng mộ, Tổng thống Giôn-xơn tin cậy, Bộ trưởng Quốc phòng - Mắc Na-ma-ra tán dương... làm việc không biết mệt mỏi. Tạp chí Niu-óoc Thai-mơ tuyên tụng vị Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam là "người hùng của năm 1965". Tổng thống Giôn-xơn coi Oét-mô- len là vị thượng khách được đặc ân nghỉ qua đêm ở Toà Nhà Trắng, được mời ăn sáng thân tình như bạn bè:
(1) Nơi đặt trụ sở của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA)
(2) Trụ sở Bộ Tư lệnlì quân viễn chinh Mỹ.
- Hãy đến trong chiếc áo choàng của ông!
Giôn-xơn mặc bộ pi-gia-ma "tiếp bạn", giọng ông pha chút rượu khai vị:
- Tôi hi vọng là ông không để xảy ra vụ Mác Ác-tơ khác đối với Tổng thống của ông.
Oét-mô-len biết Tổng thống ám chỉ rằng khi nói chuyện trước công chúng Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam không được có ý kiến khác biệt với Tổng thống về chiến dịch ném bom huỷ diệt ở Bắc Việt và việc lén lút đưa quân sang Lào và Căm-pu-chia dù nó có lý do chính đáng "truy kích quân địch quân" .
Vậy mà...
Nhiều vấn đề cần được giải quyết mà vẫn chưa tìm ra phương hướng, nhiều tình huống cần ứng phó vẫn chưa tìm ra giải pháp.
Tại sao? Nguyên nhân nào?
Chiến dịch Át-tơn-bo khảo nghiệm, chiến dịch Xè-đa Phôn củng cố, chiến dịch Giôn-xơn Xi-ti phát huy... thê thuận, lực mạnh, phương pháp hợp lý mà sao vẫn không đem lại kết quả mong muốn? Quân chủ lực, cơ quan điều hành của họ ẩn tránh ở đâu? Câu hỏi chưa thực sự có lời giải đáp chính xác cho nghi vấn: Có đúng là họ di chuyển sang biên giới Căm-pu-chia hay chỉ là nguy tạo, mối quan ngại ấy chưa được giải đáp thỏa đáng thì lại nảy sinh tình hình mới.
Những hành động quân sự bất thường gần đây của đối phương nhằm mục đích gì? Chống lại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ ba mà Mỹ sẽ tiến hành? Hay phá kế hoạch "bình định nông thôn" mà binh lực của chính quyền đang ráo riết thực hiện? - Giảm áp lực cho các khu vực nhạy cảm, hoặc chỉ đơn thuần là tạo tâm lý, hay tung đòn nghi binh cho một chiến dịch quan trọng? Nếu kẻ địch mở chiến dịch thì hướng chủ yếu là đâu, đồng bằng hay miền núi?
Oét-mô-len thong thả trở lại bàn làm việc, tự nhủ:
- Phán đoán phải cần có chứng cứ xác thực biện minh mới có thể khẳng định, nếu không sẽ mắc sai lầm.
Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ quyết định họp Bộ tham mưu, khách mời đến dự còn có Cao Văn Viên - Tổng tham mưu trưởng quân đội Sài Gòn, Côn-bai Trưởng phân ban CIA. Nội dung cuộc họp giới hạn trong hai chủ để: "Ý đồ sắp tới của Việt cộng" và "Tại sao chỉ đạt được hiệu quả nghèo nàn qua các cuộc phản công lớn, nhất là chiến dịch Giôn-xơn Xi-ti nhằm thẳng vào COSVN(1) ở bắc Tây Ninh, chiến dịch Át-tơn-bo đánh ra miền Đông Nam Bộ"
(1) Central Ojfice for South Viet Nam: Tổng hành dinh Trung ương cục Miền Nam.
Oét-mô-len đưa vấn đề nóng bỏng ra thảo luận trước:
- Đối phương mớ mấy chiến dịch cỡ trung bình ở Tây Nguyên, Thượng Lào... sử dụng tên lửa dàn của Nga bắn phá sân bay Đà Nẵng, ngăn chặn đường tiếp tế ở khu vực Đông Hà - Khe Sanh, các toán du kích ở nông thôn hoạt động táo bạo hơn mấy năm trước. Điều gì ẩn sau những động tác ấy?
Đại tá An-đo - sĩ quan trực nhật Ban tham mưu lên tiếng, vừa qua thông báo vừa là nhắc nhở hướng quan tâm:
- Tháng 9 vừa rồi, báo Nhân dân, báo Quân đội nhân dân của Bắc Việt đăng bài của Nhà lãnh đạo chính trị cao cấp của họ: Khẳng định quyết tâm đánh lâu dài và kêu gọi toàn quàn, toàn dân bảo toàn lực lượng - An-đo ngừng giây lát, chuyển mạch: - Ở các vùng nông thôn rộ lên những hoạt động du kích là hiện tượng chống công cuộc bình địch, không mang nhiều ý nghĩa quân sự.
Tướng Đa-vít-xơn - Cục trưởng Cục Quân báo trực thuộc Bộ tham mưu quân viễn chinh Mỹ tiếp lời:
- Tôi cho rằng Việt cộng phối hợp với Pa-thét Lào mở chiến dịch Thượng Lào nhằm nối liền vùng đất do họ kiểm soát và chia sẻ áp lực với mặt trận khác. Chiến dịch Đăk Tô cũng có ý nghĩa ấy. Tuy thế, theo tôi các động thái đó không phải là hành động nửa vời mà là hành vi châm ngòi cho một động thái mạnh mẽ hơn. Người Á châu có phương sách "giương Đông kích Tây", vậy chúng ta có nên quan tâm tới yếu điểm nào ở vùng đồng bằng ven biển?
Cao Văn Viên lưu ý Oét-mô-len về những dấu hiệu đáng nghi của đối phương "lặng lẽ nhưng tấp nập", sau những lời thông báo hiện tượng, Viên nói tiếp:
- Họ gây cảnh ồn ào ở các nơi để thu hút sự chú ý của ta, trong khi họ tập trung binh lực đánh chiếm Quảng Trị và Huế.
Đa-vít-xơn mở rộng đối tượng:
- Sư đoàn 101 đổ bộ đường không, trong trận càn quét ở Bình Long đã tịch thu được một tài liệu của Bắc Việt về các hoạt động sắp tới. Nội dung chủ yếu của tài liệu ấy là: "Dùng lực lượng quân sự mở cuộc tấn công mạnh kết hợp với phong trào nổi dậy của nhân dân địa phương nhằm vào các đô thị. Các đơn vị quân đội cần tràn tới những vùng đồng bằng. Phải giải phóng Sài Gòn giành chính quyền về tay nhân dân và vận động lính nguy đứng về cách mạng.
Oét-mô-len hơi nhổm người, nhìn lướt từ đầu đến cuối bàn, ánh mắt dừng lâu ở hai viên tướng tình báo - Đa-vít-xơn và Côn-bai, đặt câu hỏi:
- Họ có đủ khả năng thực hiện nổi việc ấy không?
Trường phân ban CIA ở Sài Gòn - Côn-bai phân tích:
- Quân số của ta nhiều gấp ba quân số đối phương, vũ khí trang bị hiện đại tối tân hơn gấp nhiều lần, điều đó cho thấy kẻ địch không có khả năng mở chiến dịch lớn hơn trận đánh Plây-me. Một kế hoạch tuyệt mật của họ mà ta bắt được trong trận càn lên Tây Ninh cho biết họ có kế hoạch khởi nghĩa chiếm vài quận lỵ và thị xã nhỏ để chuẩn bị cho đợt quyết định vào Đông Xuân 1968 - 1969. Theo tôi, hướng cần quan tâm của quân đội ta là mặt đông bắc Sài Gòn (Tây Ninh và phụ cận), vùng rừng núi Trị - Thiên.
Phó tổng chỉ huy quân sự viễn chinh Mỹ - A Bơ-ram hướng về phía Côn-bai hỏi:
- Phải chăng ngài muốn nói đối phương chỉ có thể tiến hành trận đánh cấp sư đoàn? - Không đợi viên Trùm tình báo Mỹ ở Sài Gòn trả lời. A Bơ-ram nói tiếp, giọng chắc như đinh đóng cột: - Tôi nghiêng về giả thuyết đối phương sẽ hoạt động mạnh ở hai tỉnh phía bắc.
Oét-mô-len hướng ứng:
- Rất có lý! - Có vẻ Oét-mô-len ngơ ngác nhìn đâu đâu giây lát rồi mới nói tiếp: - Quân đối phương tập kết ở vùng nào?
Trưởng phòng Quân báo chiến thuật đại tá Giêm Rô- dết dù không bị chất vấn trực tiếp, nhưng theo chức năng vẫn trả lời:
- Theo tin tình báo mới nhất thì Sư đoàn 320 đóng trong vùng rừng núi Thanh Hoá, Sư đoàn 304 ở Hà Tĩnh, một vài đơn vị cỡ Trung đoàn lảng vảng ở chiến khu Ba Lòng - căn cứ của Tỉnh uỷ Quảng Trị.
Phó tổng chỉ huy A Bơ-ram có thêm yếu tố để chắc tin ở hướng phán đoán của mình:
- Vậy thì mục tiêu có thể là Khe Sanh.
Tổng chỉ huy Oét-mô-len hoài nghi khả năng ấy:
- Bắc Việt không ngốc gì mà động đến con nhím lửa Khe Sanh. Tôi cho rằng mục tiêu của ho... kết hợp nội dung bản kế hoạch mật mà ta bắt được trong trận Đăk Tô, ngài Côn-bai cũng có nhận định tương tự, thì mục tiêu của họ là đánh chiếm Quảng Trị, nếu thuận lợi thì phát triển sang Thừa Thiên Huế. Các mặt trận khác chỉ có hành động quấy rối, nghi binh. Ta hãy quay lại giả thuyết: "Đối phương dám mạo hiểm tổng động viên lực lượng mở một chiến dịch quy mô rộng khắp" thì trận ấy sẽ xảy ra vào thời gian nào?
Côn-bai phát biểu theo nguyên lý thống kê:
- Trước cuộc vận động bầu cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ mới, Bắc Việt thường mở những trận đánh lớn, nhằm tác động tới tâm lý người dân Mỹ. Họ sẽ lặp lại động thái ấy chăng?
Oét-mô-len đưa mắt quan sát các thành viên trong hội nghị, chờ nghe sáng kiến khác.
Đa-vít-Xơn phỏng đoán:
- Tôi cho rằng nếu có thì trận đánh xảy ra vào thời gian trước Tết hoặc sau Tết của người Việt Nam.
Ánh mắt Oét-mô-len lóe lên như tiếp nhận một tia sáng mới.
- Tuy là giả định nhưng tôi cho là giả định có lý, có cơ sờ thực tiễn. Vậy, họ khởi chiến vào thời gian nào, trước hay sau Tết, căn cứ vào khía cạnh tâm lý thì khả năng trước Tết là 60%, sau tết là 40%.
Đa-vít-xơn hớn hở hưởng ứng:
- Tôi cùng quan điểm ấy!
Đại tướng Cao Văn Viên bộc lộ sự từng trải trận mạc của mình:
- Bắc Việt và Việt cộng từng tiến hành những trận đánh rất táo bạo, tôi quan niệm đó là hành động mạo hiểm liều chết, tuy vậy, họ vẫn giành phần thắng. Dẫu thế, nhìn tổng thể mà nói thì hiện nay quân cộng sản không có khả năng đánh lớn, không có khả năng đánh chiếm và giữ được các đô thị - Viên ngừng lời, dùng sự việc để chứng minh cho nhận đinh của mình: - Tổng thống của chúng tôi - ngài Nguyễn Văn Thiệu dự định sẽ về quê ở Mỹ Tho ăn Tết. (Về sau xảy ra đúng như lời Cao Văn Viên: Nguyễn Văn Thiệu chủ quan, mờ mắt trước tình hình diễn biến, hắn đi Mỹ Tho, còn cho các sĩ quan phụ tá "nghỉ Tết thoải mái" trơ lại chỉ có Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ ở Sài Gòn chịu trận) Tôi cũng nghiêng về phía ý kiến cho rằng đối phương sẽ đánh chiếm mấy tỉnh giáp giới khu phi quán sự để nối liền hai miền lãnh thổ ấy với nhau. Chúng ta nên có biện pháp tăng cường về nhân lực và khí tài cho Vùng chiến thuật 1.
Oét-mô-len gật đầu, nhưng chỉ im lặng. Đa-vít-xơn bộc lộ mối lo ngại.
- Muốn bảo vệ các mục tiêu ở mấy tỉnh phía Bắc ắt làm mỏng lực lượng phòng thủ ở các thành phố, thị xã...
Oét-mô-len lại gật đầu, quả là một nắm đấm không thể vừa đấm má phải mà vừa đấm má trái.
- Vấn đề xin tăng quân sự sẽ được đặt ra khi tôi về Mỹ.
Phó tổng chỉ huy A Bơ-ram bổ sung:
- Công cuộc ném bom đường mòn Hồ Chí Minh dữ dội đến thế mà không ngăn chặn được tuyến tiếp tế Bắc - Nam nay đối phương lại có thêm tuyến tiếp tế mới. Giải quyết triệt để những trở ngại ở Căm-pu-chia còn có tác dụng hạn chế nguồn viện trợ của Liên Xô, Trung Quốc... cho Việt cộng qua cảng Xi-ha-núc-vin.
Cao Văn Viên thêm:
- Chúng ta từng nhiều lần thực hiện kế hoạch loại trừ chính phủ thân cộng ở Căm-pu-chia, nhưng không thành.
Oét-mô-len hứa hẹn:
- Tôi sẽ lưu ý vấn đề đó khi gặp Tổng thống Giôn-xơn.
Thấy không còn ai phát biểu về đề tài "ý đồ sắp tới của Bắc Việt và Việt cộng", Oét-mô-len chuyển nội dung thảo luận:
- Quân lực Mỹ và đồng minh mở rộng chiến dịch lớn tìm diệt càn quét miền Đông Nam Bộ, bắc Tây Ninh. Nhưng, chiến khu Dương Minh Châu vẫn đó mà đối phương chạy đâu. Vùng Móc Câu vẫn thế mà COSVN lẩn tránh chỗ nào? Chúng ta dùng đại đao mà chém trượt con chim sẻ. Đàn chim ấy bay đi đâu, làm tổ ở phương nào?
Trường phòng quân báo chiến thuật - Giêm Rô-đét - Tổng hợp tin tức quân báo, lời cung khai của tù binh và lực lượng Sa-lem Hao-xứ(1) tìm thấy dọc biên giới xuất hiện nhiều đường mòn thì có thể kết luận: quân chủ lực đôi phương đã di chuyển sang đất Căm-pu-chia khi chiến dịch "tìm diệt" vẫn đang trong giai đoạn chuẩn bị. Theo báo cáo của đại tá Giô-na-than, Tuỳ viên quân sự của Đại sứ Mắc Clin-tốc tại Phnôm Pênh thì Việt cộng xây dựng căn cứ khá kiên cố ở vùng biên giới Căm-pu-chia. Nếu truy kích đến cùng...
(1) Lực lượng đặc biệt, tuyển dụng từ những người miền núi Căm-pu- chia do sĩ quan Mỹ chỉ huy, chuyên hoạt động trên biên giới Miên - Việt.
Tổng chỉ huy Oét-mô-len vươn người lên như điện giật. Thì ra mẹo lẩn tránh của Việt cộng chỉ đơn giản có thế. Nhưng... Oét-mô-len muốn bay mà không có cánh.
- Việc đưa quàn sang nước thứ ba phải có lệnh của Tổng thống. Tổng thống muốn làm điều ấy lại phải được Quốc hội cho phép. Dù sao, vấn đề này cũng là hành trang tôi mang về Mỹ.
*
Sau hội nghị, Oét-mô-len gặp riêng A Bơ-ram, Đa- vít-xcm bộc lộ:
- Tôi rất muốn được giải đáp về họ: Hướng, quy mô tấn công và lực lượng họ đưa ra trong mùa khô này.
Hai viên tướng cũng đang hơi lúng túng về những câu hỏi tương tự nên chỉ đáp:
- Họ là kẻ địch khó hiểu.
Oét-mô-len nhún vai:
- Sẽ có đánh lớn!
Nhưng đánh lớn ở đâu, thế nào thì mơ hồ quá. Oét- mô-len phòng xa bằng cách báo động toàn quân và gửi "chỉ thị nhắc nhở" tới các Tư lệnh Mỹ ở bốn vùng chiến thuật, nội dung chính là: Quân địch đã sẵn sàng có một quyết định dứt khoát về cách thức tiến hành chiến tranh, nhằm tập trung các lực lượng triển khai một cố gắng cao độ trên tất cả các mặt trận, cả quân sự và chính trị để giành thắng lợi trong một thời gian ngắn".
Nhận được "chỉ thị nhắc nhở", quân Mỹ ở Vùng chiến thuật 3 mở cuộc hành binh càn quét vùng tây bắc Phước Long, nhằm ngăn chặn đường xuất phát tiến công của đối phương từ địa bàn chiến khu C và chiến khu D.
Quân Mỹ cắm chốt ở Vùng chiến thuật 1, triển khai chiến dịch Y-oóc càn quét những khu vực căn cứ của Việt cộng ở giáp biên giới Lào. Trên Tây Nguyên, Sư đoàn 4 Mỹ trong một trận càn bắt được một Mệnh lệnh khẩn số 1 của quân Bắc Việt vạch kế hoạch tỉ mỉ về cuộc tiến công chiếm thị xã Plây Cu. Thiếu tướng Xtôn tư lệnh Sư đoàn 4 lập tức báo động cho toàn đơn vị, điều động đại đội xe tăng dự bị vào trung tâm thị xã để tăng cường phòng thủ. Trung tướng Vĩnh Lộc - Tư lệnh Vùng chiến thuật 2 cũng điều quân như đèn cù để phòng bị cuộc tấn công.
Dù có nhiều biến động nhỏ, ngày 8 tháng 12 năm 1967 Oét-mô-len vẫn ra lệnh cho Sư đoàn 25 triển khai cuộc hành quân "Hòn đá vàng" đánh vào Chiến khu c mở đầu cuộc Phản công chiến lược mùa khô lần thứ 3. "Hòn đá vàng" chưa kịp thử lửa thì Đa-vít-xơn vội vã sang gặp chủ tướng thông báo có di chuyển lớn của đối phương vào hướng quan trọng trên chiến trường Miền Nam, nhất là Vùng chiến thuật 1. Lập tức Oét-mô-len cho ngừng cuộc hành quân "Hòn đá vàng", rút toàn bộ Sư đoàn 25 về giữ Sài Gòn và làm hậu bị cho vùng Đường 9 - Khe Sanh.
Ngày 28 tháng 1 năm 1968, tướng Lô-vít Oan-tơ - Tư lệnh Sư đoàn thuỷ quân lục chiến, đóng đại bản doanh ở Đà Nang, gọi điện cao cấp với Tổng chỉ huy Oét-mô-len.
- Bắc Việt đã nổ súng tấn công toàn bộ Cụm cứ điểm Khe Sanh.
Buổi chiều, Đa-vít-xơn sang gặp Chủ tướng thông báo:
- Phát hiện có nhiều tiểu đoàn địch chuẩn bị tấn công vào Huế và thành Quảng Trị.
Oét-mô-len hỏi vị tướng quân báo mà cũng tự hỏi mình:
- Quá trình giền dứ công phu là nhằm vào mục tiêu này sao? Không! Tôi không cho là đúng! Quả là kẻ địch tiềm tàng nhiều bí ẩn.
Oét-mô-len gặp Đại sứ Ét-uốt Bân-cơ thông báo tình hình và hiểm hoạ có thể xảy ra với hai tỉnh phía bắc. Ông ta muốn quân đội Cộng hoà vào trận và với nỗ lực hơn nữa để chia sẻ gánh nặng chiến trường với quân Mỹ. Nguyễn Văn Thiệu dù đã được cảnh báo vẫn cho là "Việt cộng chưa đủ sức làm nên chuyện đáng kể" nên thản nhiên về quê ăn Tết. Đại sứ Mỹ gặp Cao Văn Viên. Viên cũng mơ hồ về hướng, quy mô tấn công của đối phương nên chỉ ra lệnh báo động quân dự bị chiến lược.
Chiến trường Đường 9 - Khe Sanh bị uy hiếp nghiêm trọng cả hướng đông và hướng tây.
Oét-mô-len vội bay ra Đà Nẵng họp khẩn cấp với các Tư lệnh Mỹ đồn trú ở Vùng chiến thuật 1 gồm Sư đoàn thuỷ quân lục chiến số 1 đại bản doanh đóng ở Đà Nẵng và Sư đoàn thuỷ quân lục chiến số 3 đại bản doanh đóng ở Quảng Ngãi. Cả hai viên Tư lệnh đều một ý tưởng xin tăng viện: Bổ sung nhân lực và chi viện tối đa bằng không quân và pháo binh.
Oét-mô-len không thể cưỡng lại tình thế. Ông quyết định điều toàn bộ Sư đoàn lính thuỷ đánh bộ số 3 và Lữ đoàn đổ bộ đường không 101 ra Đường 9 - Khe Sanh. Nhưng, Sư đoàn 3 và Lữ đoàn 101 giương vây sải cánh mà chẳng cải thiện được tình hình, không những thế bị quay như đèn cù, lính chống lụt bị sa lầy. Oét-mô-len vội vàng thành lập Quân đoàn tạm thời, giao cho A -Bơ-ram - Phó tổng chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ làm Tư lệnh, trực tiếp điều hành cuộc kháng cự ở Đường 9 - Khe Sanh.
Tới thời điểm, Tổng chí huy Quân đội viễn chinh Mỹ- Oét-mô-len phải điều chỉnh đội hình (nghĩa là bị thu hút do kế nghi binh) để đối phó với các Sư đoàn của đối phương ở các chiến trường quan trọng. Một Quân đoàn tác chiến tạm thời bảo vệ cửa ngõ phía bắc Sài Gòn (Tây Ninh và phụ cận), một Quân đoàn tác chiếm tạm thời tăng cường bảo vệ hai tỉnh phía bắc, hai Sư đoàn thường trực ở Tây Nguyên. Quân đội Sài Gòn cũng bị hút phần lớn lực lượng vào các hoạt động "bình định" và chống "phản bình định".
Mỹ - Nguy đã rơi vào mê hồn trận. Kế nghi binh còn hấp dẫn hơn nhiều. Cả nước Mỹ, cả thế giới nói về Khe Sanh, chỉ nói về Khe Sanh. Lâu đài Ca-pi-tơn, Toà Bạch- ốc chất vấn Bộ trưởng Quốc phồng Mắc Na-ma-ra, chất vấn Tổng chỉ huy quân viễn chinh Oét-mô-len về sự kiện Khe Sanh.
Nhưng, chiến trường Khe Sanh chỉ là màn phụ.
Màn phụ mà diễn biến như một cuộc Đại tấn công. Có tướng Mỹ ví Khe Sanh là Điện Biên Phủ thời Mỹ.
*
Tổng chỉ huy Oét-mô-len, Cục trưởng Quân báo Đê- vít-xơn và các tướng tá cao cấp trong Tổng hành dinh Quân viễn chinh Mỹ đi đến một nhận định chung.
Tổng hợp các "tin tức thu thập được thì Việt cộng có 224.000 quân trong tay, với lực lượng ấy họ không có khả năng mở rộng diện hoạt động. Nếu đối phương quyết định mạo hiểm thì cuộc tấn công vào các thành phố và thị xã chỉ có thể xảy ra vào trước Tết".
Cả Đại bản doanh của Tổng chỉ huy Oét-mô-len và Toà Đại sứ của Bàn-cơ đều nghi hoặc, các tướng Quân báo Đê-vít-xơn, Tình báo trung ướng CIA tại Sài Gòn Côn-bai càng nghi hoặc .
- Quân chủ lực Việt cộng không có di chuyển lớn áp sát các thành phố, thị xã thì sao có thể mở cuộc tấn công?
Những ngày giáp Tết tình hình vẫn im ắng.
Cục trưởng Quân báo Đê-vít-xơn nói với Tổng chỉ huy Oét-mô-len với vẻ nhận lỗi:
- Những tin tức về cuộc tổng tấn công vào các thành phố và thị xã có thể chỉ là đòn nghi binh cho ý đồ đánh chiếm Khe Sanh.
Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Văn Thiệu gọi điện hỏi Tổng chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ, yêu cầu có ý kiến đánh giá tình hình chiến sự, vì ông ta có ý định rời Sài Gòn ít ngày.
Oét-mô-len đáp bằng thứ giọng "chẳng có chuyện gì đáng kể xảy ra".
- Thưa Tống thống! Quân cộng sản không đủ lực lượng đánh lớn, không có khả năng chiếm giữ các đô thị. Nếu cuộc tấn công như thế xảy ra, họ sẽ bị thất bại. Tôi tin chắc rằng họ là những người khôn ngoan. Ngài có thể yên tâm đi tận hướng niềm vui Tết cổ truyền.
Nguyễn Văn Thiệu có ý định về quê Mỹ Tho vừa là thăm hỏi hàng xóm vừa là ăn Tết với người thân, nhưng tình hình chiến sự rối ren khó bề liệu định nên ông ta phải hoãn chuyến đi nhiều lần. Bây giờ, vào những ngày gần Tết, ông ta tham khảo ý kiến của Tổng chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ rồi mới có thể quyết định dứt khoát. Vậy là yên tâm. Nguyễn Văn Thiệu bước lên máy bay trực thăng còn đứng trên cửa nhìn xuống đám sĩ quan đi tiễn nói:
- Cho mấy chú nghỉ Tết thoải mái.
Kết thúc cuộc nói chuyện với Nguyễn Văn Thiệu, Oét-mô-len bảo sĩ quan tuỳ tùng nối điện thoại với Đà Nang. Oét-mô-len muốn nói chuyện với A Bơ-ram - Tư lệnh Quân đoàn tạm thời. Mối lo bức bối của Tổng chỉ huy Quân viễn chinh Mỹ là Khe Sanh: Cố thủ Khe Sanh, bảo vệ Khe Sanh và giải toả áp lực cho Khe Sanh.
*
Nhưng...
Đêm 30 rạng sáng 31 tháng 1 năm 1968 - thời điểm toàn Miền Nam hân hoan đón giao thừa Mậu Thân, Quân giải phóng phối hợp với nhân dân đồng loạt mở trận Tổng tấn công và nổi dậy ở đều khắp trên toàn Miền Nam. Nơi nơi ầm vang tiếng súng tấn công: 64 thành phố, thị xã, thị trấn (kể cả Sài Gòn, Đà Nẵng, Biên Hoà, Mỹ Tho...), 66 sân bay (Tân Sơn Nhất, Biên Hoà, Đà Nẩng, Chu Lai...), 200 kho xăng, gần 250 kho đạn thuộc các nhà kho, Tổng kho Long Bình, Nhà Bè, Liên Chiểu, Đà Nẵng, Chu Lai, Phú Bài, Plây Cu, Buôn Ma Thuột, Quy Nhơn, Sóc Trăng... hàng loạt bến tàu, căn cứ hành quân.... Nhiều làng xã đập tan bộ máy nguy quyền, phá bỏ Ấp chiến lược, tiêu diệt hoặc bức rút nhiều hệ thống đồn bốt, xây dựng chính quyền cách mạng, mở rộng và củng cố vùng giải phóng.
Ở đô thành Sài Gòn - Dinh luỹ đầu não kiên cố nhất của Mỹ - Thiệu, Quân giải phóng đã bất thần tiến công Dinh độc lập, Toà Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu nguy, các Bộ Tư lệnh quân binh chủng...
Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ thúc thủ trong sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên cùng gia đình và sĩ quan thân cận đang vui vẻ nâng cốc đón mừng năm mới thì tiếng súng tấn công hoà lẫn tiếng pháo đón giao thừa ran ran vang dậy khắp nơi, tất cả mọi người đều ngơ ngác nhìn nhau, các sĩ quan tuỳ tùng của Viên gọi điện tìm hiểu tin tức.
Bộ tổng tham mưu, Tổng Nha cảnh sát, Đặc uỷ Trung ương tình báo... nơi nào cũng một lời đáp:
- Đang bị tấn công dữ dội! Dinh Tổng thống, Toà Đại sứ Mỹ cũng...
Một số chỉ điểm cắm ở các khu dân cư, gọi điện cáo cấp:
- Việt cộng tràn ngập Ngã Sáu, Ngã Bảy, chợ Bình Tây, dọc đại lộ Trần Hưng Đạo, khắp đường Hồng Thập Tự...
Cao Văn Viên trực tiếp gọi điện cho Oét-mô-len yêu cầu:
- Toà Đại sứ Mỹ bị tấn công, ngài phải có biện pháp ngay.
*
Bộ chỉ huy Phân khu nội đô Sài Gòn giao cho Ngô Thành Vân đảm nhiệm công tác phân phối lực lượng Biệt động Sài Gòn dẫn đường cho các Phân đội giải phóng quân tấn công tám mục tiêu quan trọng như: Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Toà thị chính Đô Thành....
Ngô Thành Vân vào Sài Gòn trực tiếp gặp các Tổ biệt động Thành giao nhiệm vụ. Từng tổ trưởng đi gặp đội viên, hẹn nhau trước giờ G ba mươi phút, tập trung tại địa điểm quy định đê đi làm nhiệm vụ.
Sau khi hoàn tất công việc được giao phó, Ngô Thành Vân về khu bộ. Gặp khu trưởng, Thành Vân hớn hở nói:
- Thưa chú! Mọi việc đã đâu vào đấy!
Khu trưởng xua tay cười, nụ cười động viên khiến Ngô Thành Vân hiểu ngay là còn việc "gay cấn" đây. Anh chưa phán đoán ra loại công việc thì Khu trưởng đã nói:
- Ba Đen này! Bộ Tư lệnh Miền giao cho chúng ta nhiệm vụ tấn công Nhà Trắng Phương Đông! Chỉ còn 48 giờ tìm hiểu và chuẩn bị!
Ngô Thành Vân biết mỗi khi Khu trưởng cần anh nổ lực tối đa ông thường mở đầu bằng càu nói thân mật "Ba Đen này". Bởi vì, chẳng riêng anh mà ngay cả Khu trưởng cũng hiểu cái khó trong việc tấn công Toà Đại sứ Mỹ nằm ở khâu hết sức quan trọng: Không có sơ đồ thực địa; thời gian lại quá gấp, không kịp điều tra nghiên cứu.
Trước đây, Toà Đại sứ Mỹ cắm chốt tại số nhà 39 - 41 Đường Hàm Nghi. Đường ngang thang thẳng của toà cao ốc này được nhân mối ta cung cấp rành rẽ mọi chi tiết. Ngày 30 tháng 3 năm 1965, Phân đội 21 Biệt động Quân giải phóng tấn công nơi trú ẩn ấy của Mỹ. Quàn ta dùng bộc phá đánh sập cả năm tầng lầu, làm khoảng một trăm năm mươi quan chức, sĩ quan Mỹ và chư hầu chết và bị thương, kể cả viên Phó Đại sứ... Nếu Đại sứ Bân-cơ có mặt ở Sứ quán tối hôm đó ắt cũng được nếm mùi cay đắng.
Tổng thống Giôn-xơn tím ruột, cho xây dựng Toà Đại sứ Mỹ tại góc đường Thống Nhất - Mạc Đĩnh Chi cao sáu tầng, kiên cố bền chắc hơn cả Lầu năm góc Phương Đông nằm bên rìa sân bay Tân Sơn Nhất. Kiến trúc sư quân sự Mỹ thiết kế một toà công sở hành chính khá kỳ dị, có tường chống hoả lực bao quanh, có đường ngang lối rẽ phức tạp, có ngách hầm thoát hiểm, có mái bằng cho trực thăng đậu để cần thiết thì "tếch" lên trời, phía ngoài sơn toàn màu trắng. Mỹ muốn có biểu tượng Mỹ rõ ràng giữa hòn ngọc Á Đông này chăng? Toà lầu khởi công năm 1965 đến tháng 7 năm 1967 mới đưa vào sử dụng. Vậy mà chỉ mấy tháng sau "cái công sự nổi" ấy đã bị đối phương điểm danh!
Thấy Ngô Thành Vân im lặng, Khu trưởng biết anh cân nhắc chứ không phải là do dự nên động viên tiếp:
- Thời gian quá gấp nên khó điều tra được thực địa, nhưng vẫn phải đánh. Bộ Tư lệnh Miền muốn cho bọn chóp bu Nhà trắng biết liều lượng!
Ngô Thành Vân đã được anh em tình báo thông tin sơ bộ "nó không phải là toà nhà dân sự mà là một lô cốt quân sự", nghĩa là mục tiêu anh phải công phá rất kiên cố, rất phức tạp. Mặc xác khó khăn khách quan "đâu có giặc là ta cứ đi", anh khẳng khái đáp:
- Tôi đang trù liệu phương pháp tấn công một mục tiêu kiểu lô cốt. Chúng tôi cần 2 khẩu B40, bộc phá, lựu đạn và tiểu liên AK. Nhưng, tôi hết quân rồi.
Khu trưởng cười:
- Vấn đề ấy thì khó gì! - Ông nhìn chị giao liên ngồi vắt vẻo trên võng, vừa dóng tai hóng chuyện vừa hí hoáy vá áo bảo: - Út triệu tập tất cả văn thư, giao liên, cảnh vệ... lên đây!
Được lệnh gọi đi tham gia chiến đấu, các chiến sĩ Văn, Chín, Ba Bảo, Tươi, Ninh... tất cả 16 người đều là những nhân vật gan dạ được rút từ đơn vị chiến đấu lên phục vụ Khu bộ, thực ra họ bị điểu về đây do bị thương trong chiến đấu hoặc do ốm đau, cấp trên cho chuyển công tác để họ nghỉ xả hơi. Họ í ới hò nhau lên văn phòng thủ trưởng chẳng khác gì đến dự buổi liên hoan. Ai nấy đều nóng lòng muốn được ra trận.
Khu trưởng giơ tay ra hiệu cho anh em im lặng, ông nói giọng cởi mở:
- Có nhiệm vụ chiến đấu cảm tử, ai xung phong người ấy đi!
Vinh lên tiếng:
- Tôi xung phong đầu tiên!
Út Nhỏ tiếp theo:
- Tôi...
Mang, Tươi, Ninh, Thanh, Chúc, Sáu, Tài, Thông... đồng loạt lên tiếng:
- Tất cả xung phong!
Khu trưởng gợi ý khéo:
- Đồng chí nào ốm thì đừng miễn cưỡng!
Vinh lớn tiếng át cả giọng chỉ huy:
- Ốm càng phải vận động! Khói súng là thuốc chữa bệnh hiệu nghiệm dành cho cánh nhà lính! Chỉ huy duyệt là xong.
Khu trưởng gật đầu, ngoảnh nhìn Ngô Thành Vân ra ý bảo: "Đến lượt cậu đấy".
Ngô Thành Vân biết số anh em này vào ra Sài Gòn đã quen nên không mất công phổ biến đường đi nước bước mà nói luôn công việc trước mắt:
- Phân tán nhập thành, muộn nhất trước giờ G hai tiếng phải có mặt ở 59 Phan Thanh Giản! Anh em giải tán về chuẩn bị rồi khởi hành cho kịp - Thành Vân kéo áo giữ Ba Bảo lại nói: - Cậu đến nhà ông Tư Râu - cơ sở ở củ Chi lấy vũ khí chuyển ngay về 59 Phan Thanh Giản để trang bị cho anh em.
Đêm 29 Tết, các đội viên cảm tử lần lượt tập kết đến Phan Thanh Giản.
Ông chủ nhà dẫn toàn Đội lên lầu, bà chủ giục các con dọn cỗ Tết chiêu đãi các chiến sĩ. Cả gia đình chủ nhà là cơ sở tin cậy của Biệt động thành nên không phải lo khâu bảo vệ.
Ba Bảo nhờ anh chị em du kích củ Chi hỗ trợ nên việc đưa vũ khí vào nội thành xong trước thời hạn. Tết đang rảo bước tới.
Nơi nơi đì đùng tiếng pháo Tết nổ. Giờ Giao thừa đang đến gần!
Ngô Thành Vân bàn với Ba Bảo:
- Làm thế nào để tiếp cận mục tiêu vừa nhanh vừa bí mật? Vận động từng tổ thì mất thời gian, hành tiến cả thì dễ bị lộ?
Ba Bảo đề xuất:
- Dùng ô tô!
Ngô Thành Vân vẫn không hết băn khoăn:
- Mình cũng nghĩ tới phương án ấy, nhưng nhìn ngang ngó dọc chẳng thấy người quen nào có ô tô.
Ba Bảo cười, bộc lộ sáng kiến "cái khó ló cái khôn":
- Ba anh thợ giầy gộp thành một ông Khổng Minh, mời anh Hai lên tham khảo.
Ông chủ nhà - anh Hai lên lầu nghe rõ mọi chuyên, chủ nhà băn khoăn như người có lỗi, không biết chu toàn công việc:
- Tui không quen ai có ô tô, chỉ quen lái xe, thỉnh thoảng anh ta lái chiếc Dauphine.
Ba Bảo sốt sắng hỏi:
- Ai vậy, anh Hai?
Ông chủ nhà đáp:
- Trần Sĩ, em anh Mười Hương, tù trại Khâm được tha về sau vụ Diệm - Nhu bị giết.
Ngô Thành Vân biết Mười Hương là cán bộ chỉ huy tình báo Miền, từng bị bắt giam ở trại Khâm ngoài Huế, Thỉnh thoảng, anh gặp Mười Hương ở Bộ Tham mưu Miền, biết mặt nhưng không quen. Anh nhìn chủ nhà hỏi:
- Từ khi ra tù anh Sĩ có hoạt động lại không?
Chủ nhà nheo mắt cười, có lẽ ông ngạc nhiên vì một cán bộ hoạt động bí mật từng trải như Ngô Thành Vân mà hỏi một câu thừa.
- Làm chi có chuyện "lạy ông tui ở bụi này". Nhưng, linh tính của người hoạt động bí mật và nhận xét nhân cách thì Trần Sĩ là người có thể tin cậy.
Ngô Thành Vân đưa tất cả các tổ chiến đấu dưới quyền điều khiển của anh vào tư thế sẵn sàng, nhưng tổ chiến đấu do anh trực tiếp chỉ huy lại gặp trở ngại: Hành tiến thê nào để áp sát Đại sứ quán Mỹ mà vẫn giữ được bí mật đến phút chót và phù hợp với giờ G? Đúng là chỉ có mỗi một giải pháp "vận động bằng ô tô". Nhờ ô tô có nghĩa là phải nhờ người ngoài, sử dụng một người chưa quen vào công việc hệ trọng này có mạo hiểm không? Anh là người thận trọng nhưng rất linh hoạt, anh biết trong công tác hoạt động bí mật đôi khi cũng cần phải mạo hiểm, mạo hiểm có điều kiện thì ít gặp rủi ro. Anh sốt sắng hưởng ứng đề xuất của chủ nhà:
- Anh Hai mời Trần Sĩ đến đây được không? Vậy thì tốt! Anh đi gấp kẻo lỡ thời gian.
Trần Sĩ đến vào buổi trưa, đúng vừa bữa cỗ cúng tất niên. Cuộc gặp gỡ được sắp xếp một cách tự nhiên. Chủ nhà viện cớ quen biết mời Trần Sĩ dùng bữa. Trần Sĩ không thuộc tạng người khách khí.
Chủ nhà, Ngô Thành Vân và Trần Sĩ làm chủ một mâm thịnh soạn. Chủ nhà có ý chuốc rượu.
Trần Sĩ là nhân viên tình báo thuộc Cụm tình báo chiến lược 02 do Hàn Ngọc cẩm chỉ huy. Anh được Cụm trưởng thông báo: "Sẵn sàng dốc lực vào trận đánh then chốt". Anh đã tham gia mấy chuyên vận chuyên vũ khí, dẫn người vào giấu ẩn trong nội đô... Dần dà nhưng liên tục. Đó là dấu hiệu của cuộc tích gió thành bão. Tinh hình ấy khiến anh không thể quá chén, anh uống một ngụm lấy lệ rồi giơ chén rượu ngỏ lời từ chối.
- Tửu lượng của tui kém lắm! Ngày Tết say rượu mất vui! - Anh nhìn chủ nhà chuyển giọng: - Anh Hai có việc chi mà gọi tui đến nhà vào ngày tất niên?
Chủ nhà cười vào vấn để luôn:
- Muốn nhờ chiếc Dauphine của chú!
Trần Sĩ đặt chén rượu xuống bàn, bàn tay che miệng chén, nói lưỡng lự:
- Tui chỉ là lái xe thời vụ cho bà chú hãng giày dép!
Ngô Thành Vân chợt nhớ trong bữa liên hoan ở Bộ tham mưu mừng Mười Hương thoát tù ra vùng tự do, Mười Hương cũng có động tác y hệt Trần Sĩ khi không muốn uống rượu nữa. Ngô Thành Vân hiểu rằng người hoạt động bí mật khi phát hiện ra cơ hội phải tận dụng cơ hội ngay, anh không nên vòng vo mà phải có luôn điểm nhấn mạnh để thúc đẩy công việc. Anh chỉ bàn tay đặt trên miệng chén của Trần Sĩ cười cười khơi chuyện:
- Ngắm bàn tay anh, tỏi chợt nhớ một người quen tên là Mười Hương, anh ấy cũng có tư thế hệt như anh khi từ chối uống rượu.
Trần Sĩ cảm thấy bị người lạ "soi" anh nhấc bàn tay khỏi chén, đột ngột hỏi:
- Mười Hương nào?
Ngô Thành Vân dấn thêm bước mạo hiểm nữa:
- Chỉ huy tình báo Miền, Mười Hương là anh ruột anh.
Trần Sĩ xô ghế đứng dậy, anh ngại bị khiêu khích, gằn giọng nhận xét:
- Tầm bậy!
Ngô Thành Vân giơ tay ra hiệu cho Trần Sĩ nói nhỏ. Biết đích xác Trần Sĩ là em Mười Hương nên anh mở gan mở ruột luôn:
- Thời gian quá gấp gáp nên tôi mạnh dạn bộc lộ với anh: Tôi là Tổ trưởng đặc nhiệm, có nhiệm vụ tiêu diệt một mục tiêu quan trọng trong đêm nay, nhưng chỉ dùng phương tiện ô tô mới có thể tiếp cận mục tiêu vừa nhanh vừa bí mật, anh thấy có thể giúp thì chớ nên từ chối.
Trần Sĩ chợt nhớ lời phổ biến của Cụm trưởng Hàn Ngọc Cẩm về chủ trương chiến đấu của Bộ tư lệnh Miền:
"Giờ phút quyết định đã điểm, tình báo phái dồn mọi lực lượng, mọi khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Đó là mục đích cuối cùng của tình báo. Không chần chừ do dự, không sợ tổn thất hy sinh. Tất cả phải vì lợi ích cao nhất của cách mạng. Lực lượng phải tung ra phục vụ chiến dịch, phục vụ yêu cầu nhiệm vụ chiến lược" - Anh ngó người nói, nhìn chủ nhà nhưng vẫn thấp thỏm muốn đi. Anh gặng hỏi:
- Có gì làm tin?
Ngô Thành Vân lượng thấy Trần Sĩ vẫn tham gia hoạt động bí mật, hẳn phải biết công tác chuẩn bị cho trận chiến đấu này nên nói thẳng:
- Dồn lực lượng cho giờ G!
Đó là một mật khẩu chỉ dùng riêng cho mạng lưới bí mật phục vụ cuộc chiến đấu.
Trần Sĩ ngồi xuống giọng trở nên ân cần:
- Tôi nhận lời hợp đồng chiến đấu với anh. Xe của chủ nhưng tôi có thể mượn được.
Chủ nhà biết đã đến lúc họ bàn bạc công việc nên thác cớ tháo lui. Còn lại hai cán bộ hoạt động bí mật.
Trần Sĩ hỏi:
- Anh cần đưa đội hình đến đâu, vào giờ nào, bao lâu thì xong?
Ngô Thành Vân đáp:
- Cổng Đại sứ quán Mỹ, giờ Giao thừa, khi có thể đội hai vào thay thế thì anh chờ bọn tôi về.
Trần Sĩ điểm nhanh các đường phô phải cho xe đi qua, rồi thông báo:
- Trước mười phút tui cho xe tới đây chở các anh theo đại lộ Hai Bà Trưng thẳng tới áp sát trước cổng Sứ quán Mỹ.
Ngô Thành Vân hớn hở chấp nhận:
- Được vậy thì rất thuận tiện cho tình huống chiến đấu.
*
Cụm trưởng tình báo chiến lược số 02 Hàn Ngọc Cẩm ngồi kiểu chữ ngũ, hí hoáy lật ngược lật xuôi chiếc khuôn giày nhem nhuốc màu dầu mỡ, xung quanh bề bộn đủ thứ đồ nghề: da vụn, kim chỉ, búa, kéo, keo... Bất chợt Ngọc Cẩm đặt chiếc cốt giày xuống đất, vừa lấy khuỷu tay dụi mắt vừa phàn nàn:
- Con mắt tệ thật!
Mấy năm trước, Ngọc cẩm bị tay chân Ngô Đình Cẩn bắt, chúng áp dụng kỹ thuật Mỹ tra tấn anh: Rọi điện bằng bóng đèn công suất lớn. Sau mười ngày bị hành hạ, cơ thể anh teo lại như quả mướp non héo, hai mắt không trông thấy gì, nhiều khi con ngươi lòi ra ngoài phải dùng tay ấn vào tròng. Mười Hương, Hàn Ngọc cẩm, Đinh Thị Vân, Trần Sĩ... thoát khỏi nhà tù Trại Khâm sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh. Anh bị hỏng mắt nặng, qua gần một năm kiên trì chữa trị mới tạm khôi phục được sức nhìn. Anh đang làm chủ một cơ thể ọp ẹp nhưng khả năng làm việc hăng hái, linh hoạt, dám xốc tới hơn xưa. Tháng 10 năm 1967 Bộ tham mưu Miền triệu tập anh ra căn cứ phổ biến kế hoạch chuẩn bị phục vụ chiến dịch quân sự trong dịp Tết Mậu Thân năm (1968). Cụ thể là Cụm anh có nhiệm vụ điểu tra tình hình bố phòng và vẽ sơ đồ thực địa các cơ quan đầu sỏ của Mỹ - Ngụy như Bộ Tổng tham mưu, Dinh độc lập, Tổng Nha cảnh sát, sân bay Tân Sơn Nhất, Phủ đặc uỷ Trung ương tình báo, Bộ Nội vụ...
Ngoài ra Cụm anh luôn phải sẵn sàng với tinh thần: Các lực lượng phải hiệp đồng chiến đấu, không ai được ở ngoài cuộc. Tinh thần xung phong của cán bộ cơ sở phải được chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi lệnh là triển khai.
Nhiệm vụ vẽ sơ đồ và tình hình bố phòng của các mục tiêu được giao cho hai điệp viên của Cụm: Ngô Văn Thứ - Thư ký riêng của Đặc uỷ trưởng, Tùng Sơn - Trưởng ban Tôn giáo, Đoàn Thê và An ninh nội bộ thuộc Đặc uỷ Trung ương(1).
(1) Cơ quan tình báo Trung ương cùa Chính quyền Sài Gòn.
Sau khi tập hợp đủ hồ sơ các mục tiêu, Ngô Văn Thứ dùng xe chuyên dùng của Phủ đặc uỷ chở Hàn Ngọc cẩm đi khảo sát vùng ngoài quanh thực địa.
Cụm anh đã hoàn thành công tác phục vụ chiến đấu, nhưng vẫn phải sẵn sàng bung lực lượng ra ""tất cả cho chiến dịch". Mới rồi Cụm phó Hoàng Thanh đóng căn cứ ở vùng Tam Giác sắt cho giao liên vào báo cho anh biết "Luôn ở tư thế sẵn sàng ra chiến khu báo cáo và nhận mệnh lệnh mới".
"Sẵn sàng ra chiến khu?". Không thành vấn đề, nếu không đi xe đò thì đã có cái Dauphine của nhà. Nhưng vấn đề tham chiến thì sao? Cấp trên muốn Cụm anh dốc hết lực lượng phục vụ trận đánh then chốt này. Trên cung cấp cho Cụm anh một số súng AK, phải chăng muốn Cụm anh trực tiếp cầm súng tham chiến? Là lính thì chiến trường là không gian hoạt động. Nhưng... Anh phân vân về quyết định "dốc hết lực lượng". Cài cắm được những tình báo như Tùng Sơn, Ngô Văn Thứ vào cơ quan mật vụ của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là cả một quá trình gian nan, trắc trở lâu dài, không thể vì nhiệm vụ trước mắt mà làm lộ tung tích những tình báo viên quan trọng ấy. Họ là tai mắt của Cụm. Chính họ đã cung cấp những tin tức tuyệt mật vô cùng hệ trọng như: Diệm - Nhu hô hào Bắc tiến chỉ là thủ đoạn tuyên truyền, giúp Miền Bắc yên tâm quyết định phục viên bảy vạn quân, dồn công cuộc cho công cuộc phục hồi kinh tế; kế hoạch lật đổ Chính phủ Vương quốc Căm-pu-chia do Quốc vương Nô- rô-đôm Xi-ha-núc đứng đầu... (Về sau, thời Ních-Xơn, Tùng Sơn còn cung cấp một số tin tức có giá trị sinh tử về âm mưu mở rộng chiến tranh của Mỹ - Nguy: Mở chiến dịch Lam Sơn 719 tấn công vùng Đường 9 - Khe Sanh ở Nam Lào, triển khai cuộc hành quân toàn thắng tháng 1 năm 1971 đánh sang Căm-pu-chia, âm mưu dùng máy bay chiến lược B.52 đánh Hà Nội...).
"Tất cả cho chiến dịch". Mệnh lệnh là mệnh lệnh. Anh là người chỉ huy của một Cụm tình báo chiến lược, anh có quyền cân nhắc lợi hại để đưa ra giải pháp hợp lý nhất. Giải pháp của anh là: lệnh cho các tổ viên như Trần Sĩ, Tư Phan, chị Bảy Thanh, Triệu Thi Mát, Vũ Bằng... sẵn sàng tham gia chiến đấu, còn hai tình báo viên ấy và Phạm Phong làm việc tại ARPA (Advenced Research Profect Agency - Cơ quan nghiên cứu kế hoạch) - một cơ quan tình báo Mỹ chuyên nghiên cứu các kế hoạch đánh phá cách mạng thì không được lộ hành tung.
Hàn Ngọc Cẩm đứng dậy, vừa vươn vai vừa tự nhủ:
- Quyết định như vậy là hợp lý!
Hàn Ngọc Cẩm toan đi sang phòng sau xem Liên - vợ anh chuẩn bị Tết ra sao thì Trần Sĩ bước vào. Anh vẩy tay ra hiệu cho Trần Sĩ ngồi xuống ghế, hỏi vui:
- Cậu xông đất tất niên đấy à?
Trần Sĩ nói thẳng yêu cầu của mình:
- Đến mượn ông cái Dauphine, sáng mai trả!
Hàn Ngọc Cẩm bất ngờ vì có một nhu cầu trùng hợp cần dùng đến xe. Ngoài căn cứ đã chỉ thị cho anh: Luôn ở tư thế sẵn sàng ra chiến khu báo cáo và nhận mệnh lệnh mới". Nhưng một khi Trần Sĩ hỏi mượn xe là phải có công chuyện cần thiết. Không thể coi nhẹ yêu cầu của đồng đội, anh hỏi:
- Chở thứ chi?
Trần Sĩ đáp:
- Chở cánh biệt động đến trước Toà Đại Sứ Mỹ!
À ra vậy! Cụm trưởng tình báo chiến lược hiểu chuyện. Đội viên của anh tham gia chiến đấu, nhưng nằm ngoài phạm vi nhiệm vụ của Cụm, không những thế anh cũng cần phải có phương tiện thường trực để ra căn cứ.
Quyết định ra sao đây? Lời Thủ trưởng tham mưu Miền hiện lên trong đầu anh: "Giờ phút quyết định đã điểm, tình báo phải dồn mọi lực lượng, mọi khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ - Đó là mục đích cuối cùng của tình báo. Không trù trừ, do dự, không sợ tổn thất, hy sinh. Tất cả phải vì lợi ích cao nhất của cách mạng. Lực lượng phải bung ra phục vụ chiến dịch, phục vụ cho nhu cầu nhiệm vụ chiến lược...". Nhưng... tình thế này sẽ tạo nên kẽ hở cho vỏ bọc của người điệp viên đây.
Thấy Hàn Ngọc Cẩm im lặng. Trần Sĩ biết mình đưa thủ trưởng vào thế bí, nhưng anh cũng ở thế bí vì lời hứa, nhất là lời hứa để được tham dự trận đánh Nhà Trắng Phương Đông. Không thể bỏ qua cơ hội ngàn năm có một này được. Mình thất hứa có thể làm thay đổi chất lượng cuộc tấn công. Anh thắt luôn:
- Thủ trưởng ơi! Tất cả cho chiến dịch!
Tuy nét mặt đăm chiêu không thay đổi, Hàn Ngọc Cẩm vẫn phải chấp nhận thực tế trái khoáy:
- Mình biết! Nhưng xong việc ông phải đánh xe về. Mình có nhiệm vụ sẵn sàng ra căn cứ gặp Bộ chỉ huy Miền, có thể ra Bình Dương, có thể xa hơn.
Trần Sĩ đánh xe đi. Hàn Ngọc cẩm ngồi suy tư một lúc rồi vào bếp gặp vợ nói:
- Tết nhất phiên phiến! Cô sẵn sàng di chuyển các con đến địa điểm khác.
Liên bị bất ngờ, chị chau mày hỏi:
- Đang yên lành, sao phải chuyển chỗ?
Hàn Ngọc Cẩm đáp:
- Tình huống chiến đấu nên phải sẵn sàng, bị động thì đối phó không kịp.
Trong cuộc tấn công Mậu Thân ta để lộ nhiều sơ hở, nên sau đó Mỹ - Nguỵ lần từng mối mà bắt những người hoạt động bí mật, khi ấy Liên đã kịp dẫn hai con lánh ra Bình Dương, nhưng chị vẫn bị bắt vì dùng giấy tờ tuỳ thân giả.
*
Toà Đại sứ Mỹ đường bệ, uy nghiêm và im lìm dù khắp nơi ran ran pháo giao thừa nổ.
Cổng Toà Đại sứ khoá trái. Bên trong, thượng sĩ quân cảnh Xi-bớt và hạ sĩ quan Đê-min-ơn tay cầm điện thoại vỏ tuyến đứng gác, họ lắng nghe tiếng pháo nổ rộn ràng, lòng cảm thấy ái ngại cho mấy anh lính Sài Gòn hứng gió lạnh ở ngoài hàng rào, họ đưa ra sự đánh giá về tác dụng của mấy gã bản xứ khốn khổ, tuy tàn nhẫn nhưng rất đúng:
- Bia đỡ đạn!
Bên ngoài, bốn cảnh sát Sài Gòn - Bển, Được, Mạnh và Khang khoác tiểu liên cực nhanh, dàn hàng ngang trước tường rào, trao đổi tranh cãi đủ thứ chuyện, nhưng sôi nổi hơn cả là chuyện Tết và gia đình. Hết chuyện Tết, họ chuyển sang cảnh ngộ khốn khổ của mình. Bền khơi chuyện bằng giọng chua chát:
- Khách nằm trong nhà kín cổng cao tường, chủ hậm hụi làm chó canh cửa!
Được nhìn lướt đồng đội hỏi:
- Tổng thống và các sếp có nhận ra nỗi tủi nhục này không?
Mạnh cười khẩy đáp:
- Các vị ấy có đô la quét bóng như sơn, lại bận túi bụi vì các áp phe buôn lậu, tranh giành quyền lực, nhậu nhẹt... còn thì giờ đâu mà nghĩ tới lũ lính khốn khổ như chúng ta!
Khang suỵt một tiếng:
- Liệu hoạ sinh ra từ mồm đấy! - Bỗng anh giơ tay ra hiệu cho các đồng đội im lặng, nói tiếp: - Có tiếng động cơ! Xe của ai lăn bánh vào giờ này nhỉ? Hình như có tiếng súng lẫn tiếng pháo?
Chưa ai kịp trả lời, chiếc Dauphine đã từ đường Mạc Đĩnh Chi ngoặt sang đại lộ Thống Nhất, phanh sững lại trước cửa Sứ quán.
Bền tinh mắt phát hiện thấy người đứng trên bậc cửa xe lăm lăm khẩu B. 40, anh hiểu ngay thắc mắc của Khang "tiếng súng lẫn trong tiếng pháo", liền nói:
- Việt cộng! Chạy thôi!
Bốn gã lính cảnh sát Sài Gòn không cần phân biệt ngô khoai, bỏ vị trí gác, co cẳng tháo chạy xa cổng Sứ quán Mỹ.
Liền đó, tiếng B.40 nổ inh tai, phá vỡ tường rào xây kín của Sứ quán Mỹ.
Đê-mi-ơn sửng sốt khi bất chợt thấy toán người lạ nhảy xuống xe tay lăm lãm súng AK, liền thét thất thanh vào ngay máy điện thoại vô tuyến:
- Việt cộng tấn...
Hắn chưa kịp nói hết câu đã ngã vật xuống đất vì bị hẳn nửa băng đạn vào đầu.
Xi-bớt biết nguy vội chạy vào trong, nhưng cũng dính đạn gục chết trước thềm nhà.
Quân tấn công tràn vào, xả tiểu liên, B.40 tới tất cả các căn phòng. Quân cảnh vệ Mỹ từ trong phòng ngủ nhốn nháo chạy ra, có tên hốt hoảng không kịp mang súng, những tên có súng bắn trả, nhưng rời rạc, vì đối phương chủ động đánh áp đảo phủ đầu. Sĩ quan chỉ huy đội bảo vệ Sứ quán - Tô-mát thét lính:
- Rút lên gác cố thủ!
Số thoát chết theo đường thoát hiểm riêng, leo lên tầng trên.
Ngô Thành Vân hô đồng đội đuổi theo, hai tên cảnh vệ cảnh vệ nằm gục đầu trên bậc thang.
Nhà Sứ quán Mỹ xây dựng trong chiến tranh, nhằm duy trì chiến tranh và để đối phó khi bị đối phương tấn công nên có cấu trúc đặc biệt, chỉ cần bổ sung vài chướng ngại là có thể biến thành lô cốt phòng thủ độc lập, thực địa ấy gây cản trở lớn cho quân tấn công.
*
Ngoài đường, trên đại lộ Thống Nhất, từ hướng Dinh Độc lập chiếc ô tô quân sự không mui chớ bốn quân cảnh Mỹ đi tuần tra ầm ầm chạy tới ngay Sứ quán Mỹ. Thấy trong nhà mù mịt khói lửa và vang vang tiếng nổ nhỏ, tên Tốp trưởng biết Sứ quán bị tấn công liền lệnh cho lái xe dừng lại, hắn cùng ba tên nhảy xuống đất, chĩa tiểu liên cực nhanh bắn mấy băng vu vơ vừa uy hiếp vừa có ý thăm dò. Từ phía trong tường rào, bộ phận chặn tiếp viện của ta liền nổ súng đáp lại. Cả bốn tên Mỹ trúng đạn, gục xuống chết ngay. Gã lái xe thoát nạn, rồ máy phóng thẳng.
Một chiến sĩ ta từ phía trong tường rào vọt ra đường, giương B.40 thụt một quả, nhưng không trúng. Anh ta nổi giận ném theo một quả lựu đạn, lựu đạn nổ cách sau mục tiêu hàng chục mét. Anh ta gương AK toan bắn nữa thì nghe tiếng Tổ trưởng ra lệnh:
- Thôi! Bắn vuốt đuôi chỉ phí đạn!
Anh chiến sĩ diệt hụt mục tiêu, quay vào trong sân, tự đánh giá mình:
- Xoàng thật!
Tổ trưởng vừa an ủi vừa nhắc nhở anh em nhớ nhiệm vụ "chặn viện":
- Dành đạn cho tốp sau! Một loạt đạn diệt bốn Mỹ, hiệu suất chiến đấu nào cao hơn nữa!
*
Quân ta dùng thủ pháo, B.40 tấn công ngược lên tầng hai. Bọn Mỹ cố thủ tầng hai bị loại, tên nào sống sót rút lên bổ sung cho tốp cỏ thù tầng ba, chúng ném lựu đạn sát thương và lựu đạn hơi cay xuống tầng hai chặn bước tiến của ta.
Bên ta, Chín bị hy sinh. Ngô Thành Vân hô anh em đái vào khăn rồi bịt mũi để chống hơi cay. Anh nghĩ bụng:
- Không cần thê đội hai vào tiếp ứng mà vẫn diệt xong lũ này mới là tuyệt!
*
Đại sứ Bân-cơ ngồi trong văn phòng, đang băn khoăn về những tiếng nổ bất thường ở ngoài cổng thì tiếng điện thoại reo, ông ta nhấc máy áp vào tai.
Giọng Pôn-ga- Phân trưởng CIA Sài Gòn vang lên:
- Việt cộng tấn công Sứ quán ta!
Bân-cơ tin ở sự kiên cố và cấu trúc có lợi cho công việc phòng thủ của Toà đại sứ nên bình tĩnh ra lệnh:
- Thực hiện phương án 2! Khẩn trương đôn đốc những người không có nhiệm vụ chiến đấu theo đường thoát hiểm bí mật rút hết lên tầng năm.
Thực hiện phương án 2 có nghĩa là tổ chức phòng thủ có chiều sâu, mỗi tầng là một chiến luỹ.
Một lát sau, Pôn-ga lại thông báo:
- Đối phương tràn lên chiếm tầng hai. Quân cảnh dùng lựu đạn và hơi độc ném xuống, nhưng vẫn bị tấn công bằng B.40. Phải có quân ứng viện đến giải vây!
Bân-cơ đồng ý. Pôn-ga trực tiếp nối điện thoại liên lạc với Đồn cảnh sát số 1 của Chính quyển Sài Gòn - nơi gần Sứ quán Mỹ nhất, yêu cầu cho cảnh sát đến giải vây cho Sứ quán.
Viên đại uý Đồn trưởng vâng vâng dạ dạ nhưng viện cớ thoái thác:
- Tôi rất muốn khẩn trương, kẹt vì trời tối quá!
Pôn-ga ném ống nói xuống bàn, chửi thề:
- Đồ chó!
*
Pôn- ga nối điện thoại với Tổng chỉ huy Oét-mô-len, nói như hét vào máy mà vẫn bị át bởi những tiếng nổ lớn và nhỏ rầm vang khắp không gian Sài Gòn:
- Chúng tôi bị tấn công dữ dội! Nguy cấp lắm!
Oét-mô-len áp sát ống nghe vào tai.
- Cố tử thủ! Tôi sẽ điều quân cảnh đến giải vây!
Nói đoạn, Oét-mô-len nối liên lạc với Tiểu đoàn quân cảnh 716. Ông ta nói với chỉ huy trưởng Sở chỉ huy quân cảnh Mỹ trong tiếng bom đạn nổ rền:
- Ông điều ngay quân đến giải cứu Bân-cơ. Khẩn trương lắm!
Chỉ huy trưởng quân cảnh phải giục Oét-mỏ-len nhấc lại mới nắm rõ nội dung mệnh lệnh của cấp trẽn. Điểu quân đi giải cứu giữa đêm tới mù mịt, đâu đâu cũng thấy tiếng nổ. Quân phải vượt qua bao ổ phục kích dọc đường? Quân tới nơi có còn đủ sức ứng cứu không hay tự cứu cũng không nổi? Toà Đại sứ xây dựng rất kiên cố kia mà. Không phải tính do dự mà bởi tình thế buộc viên chỉ huy quân cảnh phải xử trí.
- Việc đó cần phải có xe bọc thép và trực thăng mới làm được mà phải chờ đến sáng.
Oét-mố-len giơ tay xem đồng hồ. Bốn giờ hai mươi phút! Tinh huống quả là khó ứng phó ngay, Oét-mô-len ra lệnh tiếp:
- Báo động toàn tiểu đoàn, chờ lệnh điều động. Sẽ có xe bọc thép cho các anh.
*
Đại tá Gia-cốp - Trợ lý quân sự của Đại sứ Bân-cơ ra lệnh qua điện thoại cho Chỉ huy quân cảnh vệ Đại sứ quán:
- Áp dụng mọi biện pháp tiêu diệt hết bọn Vi-xi!
Quân cảnh Mỹ dùng hoả lực của tiểu liên cực nhanh, lựu đạn và hơi cay để chặn bước tiến của Vi-xi. Nhưng, đối phương vẫn tràn vào các hành lang, dùng B.40 phá vỡ nhiều mảnh tường, sát thương nhiều quân cảnh Mỹ.
Gia-cốp biết, dù Sứ quán Mỹ kết cấu vững chắc cũng không cản được sức công phá mãnh liệt của B.40 và bộc phá, hấn ta ra lệnh cho tất cả nhân viên dân sự và quân sự của Sứ quán:
- Vừa chống trả vừa rút dần lên tầng thượng qua đường thoát hiểm.
Gia-cốp lên tầng năm gập Đại sứ Bân-cơ cũng vừa rút lên đó. Dù bị đối phương đánh dồn như dồn vịt, viên Đại sứ già vẫn tỏ ra không có dấu hiệu xao xuyến. Ông thuận theo sự sắp đặt của Chúa. Gia-cốp là quân nhân, nghĩa là một người chi tin vào sự thực, sự vận động thực do con người là chủ thể nên đề xuất sự việc để tìm giải pháp:
- Đại sứ quán Mỹ lâm nguy mà Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ không hành động. Tôi không biết tại sao có sự im lặng khó hiểu này.
Đại sứ Bân-cơ vận dụng suy đoán của một chính khách để nhận định:
- Có thể Oét-mô-len cũng gặp khó khăn!
Đại tá Gia-cốp là quân nhân nên không chấp nhận thứ quan điểm dung hoà:
- Có năm mươi vạn chiến binh và đầy dù các binh khí kỹ thuật hiện đại nhất thế giới, ông ta thừa khả năng xoay chuyển tình thế. Nhiệm vụ và bổn phận của ông ta là phải quan tâm tới tình trạng nguy cấp của chúng ta chứ. Tôi muốn Nhà Trắng quất roi vào lưng ông ta!
Đại sứ Bân-cơ không muốn làm to chuyện nên xua tay ngăn:
- Chớ! Chớ vội!
Đại tá Gia-cốp không nghe:
- Tôi là trợ lý quân sự, tôi có trách nhiệm về quân sự, về an toàn của Sứ quán, tôi chịu trách nhiệm về việc tôi làm.
Đại tá Gia-cốp vào phòng cơ yếu bảo nhân viên điện đài nối thông điện thoại vô tuyến với Toà Nhà Trắng ở Oa-sinh-tơn.
Bên kia Thái Bình Dương, Cố vấn an ninh Oan Rốt- xtâu nhận điện. Gia-cốp thông báo:
- Việt cộng đã tràn vào Sứ quán, không thấy Oét-mô- len phái quân đến ứng cứu, nguy cấp lắm!
Biết là sự kiện quan trọng, Oan Rốt-xtâu vừa mở loa phát thanh cho Mi-sen Pho-rét-tan cùng nghe vừa lên tiếng hỏi lại:
- Phản ứng của Oét-mô-len?
Gia-cốp đáp bằng giọng bực tức:
- Chúng tôi đã thông báo nhưng chưa thấy biểu hiện Oét-mô-len có phản ứng!
Khi hiểu rõ nội vụ, trong đầu Cố vấn an ninh Mi-sen Pho-rét-tan nảy nở ý nghĩ u ám, ông ta nhìn đồng nghiệp nói:
- Phải báo cáo gấp với Tổng thống!
Hai viên cố vấn sải bước sang phòng làm việc của Tổng thống. Sau câu chào theo nghi lễ là một thông báo giật gân:
- Thưa ngài! Họ đang chiếm Sứ quán ta ở Sài Gòn.
Tổng thống Giôn-xơn ngẩng đầu nhìn lên, những vết nhăn trên trán ông ta xếp lại cồn lên thành từng luống dài, Giôn-xơn không bằng lòng về câu thông báo không có mệnh đề chủ hay không hài lòng với kẻ táo gan nào đó dám tấn công vào khối kiến trúc kiên cố như một boong- ke quân sự. Tính nóng nảy cố hữu ở ông chủ trại chăn bò lại có dịp bộc lộ qua câu hỏi gắt gỏng:
- Họ là ai?
Oan Rốt-xtâu phật ý về giọng nói thiếu thiện cảm của "sếp", nhưng vẫn điềm tĩnh trả lời:
- Việt cộng! Thưa Tổng thống!
Tổng thống Giôn-xcm giương cặp kính mắt xanh lè lướt nhìn hai viên Cố vấn an ninh như nhìn hai gã nhiễu sự đến đây để chỉ trích công việc ông đã làm với sự quan tâm chu đáo rất mực. Tính dễ cáu bẳn ở ông chủ trại lại được châm ngòi bùng nổ:
- Không! Không thể! Không tin được! Kiểm tra lại!
Mi-sen Pho-rét-tan đoán là tính nóng nảy ở Giỏn-xơn tái phát do tình hình chiến sự ở Việt Nam ngày càng tồi tệ. Mỹ cố gắng nhiều bao nhiêu thì thất bại lớn bấy nhiêu, chẳng khác một chú bé lên năm hăm hở dùng nắm đấm toan đập vỡ quả bóng đá. Cố Tổng thống Ken-nơ-đi phát động cuộc "chiến tranh đặc biệt" nên đi vào "đường hầm không lối thoát", còn Nội các đương thời tiến hành cuộc "chiến tranh cục bộ" bằng thủ đoạn gian dối lại quá tự phụ - thực hiện chiến tranh nhưng không tuyên chiến chính thức, đó là thói huênh hoang tự cao tự đại: Tao đã ra tay là mày chết không kịp phân trần. Bây giờ tính đến thế "kẻ năm lạng người nửa cân" mà vẫn khàng khăn phủ nhận thì quả là... Pho-rét-tan đỡ lời đồng nghiệp:
- Đại tá Gia-cốp trợ lý của Bân-cơ trực tiếp báo điện về Oa-sinh-tơn. Một quân nhân thận trọng như Gia-cốp thì không thể có sự hoang báo.
Hai viên Cố vấn an ninh vẫn chưa bình tâm về cách phản ứng nóng nảy khá bất ngờ của Tổng thống thì Uy- liêm Ha-ri-man - Chánh văn phòng Phủ Tổng thống bước vào xác nhận tin tức do hai vị Cố vấn an ninh thông báo là đúng. Uy-ìiêm Ha-ri-man chứng minh sự đánh giá của mình bằng cách dẫn lời của hãng tin Roi-tơ nhận xét tình hình quân sự ở miền Nam Việt Nam. "Lúc này Mỹ thực sự không bảo vệ an toàn được bất cứ chỗ nào, dù một tấc vuông đất ở miền Nam Việt Nam".
Giôn-xơn giơ bàn tay xoa trán, con quỉ "cả tin và bảo thủ" từng làm chủ tâm trạng vị Tổng thống lắm thủ đoạn nhất trong tất cả các đời Tổng thống Mỹ đã bị đánh gục. Ong ra lệnh:
- Bảo Oét-mô-len phải hành động ngay. Bất cứ giá nào cũng không được để cho nước Mỹ mất thể diện. Đại sứ Mỹ phải được an toàn, Sứ quán Mỹ phải được bảo vệ.
*
Oét-mô-len cắt liên lạc với Sở chỉ huy quân cảnh chưa lâu đã nhận điện của Oa-sinh-tơn. Cố vấn an ninh Oan Rốt-xtâu truyền đạt chi thị của ông chủ Nhà Trắng:
- Tổng thống yêu cầu ngài phải bảo vệ Đại sứ, phải giải toả Sứ quán ngay lập tức!
Oét-mô-len không thể trù trừ, ông ta nối máy với Chỉ huy Sư đoàn không vận 101 ra lệnh:
- Cử quân ứng cứu đổ bộ xuống sân thượng Đại sứ quán và sẵn sàng đưa các nhân viên của Đại sứ quán ra khỏi vùng nguy hiểm.
Năm phút sau, năm chiếc trực thăng chiến đấu đã vù vù bay đến bầu trời trên Đại sứ quán, chúng bay thành vòng tròn nhưng không liên lạc được với phía dưới, lại bị những khẩu trọng liên của lực lượng trợ chiến đối phương bố trí dưới gốc cây ngoài góc phố bắn như ném cát, chúng buộc phải quay về căn cứ.
Một tiểu đoàn quân cảnh Mỹ được điều đến chưa tới khu vực quân sự đã bị lực lượng trợ chiến đối phương nổ súng chặn lại. Quân cảnh Mỹ chạy lom khom, bò lổm ngổm dưới làn đạn, liều chết tiếp cận Sứ quán. Nhưng đã chết thì không thể làm được gì nữa, tên chỉ huy hô tháo quân.
Trời sáng! Oét-mô-len kịp thời điều quân cảnh có xe bọc thép bảo vệ tiến về phía Sứ quán và lệnh cho trực thăng chờ lính đặc nhiệm đổ bộ xuống sân thượng Sứ quán.
*
Không có thê đội hai vào tiếp ứng, Đội biệt động Ngô Thành Vân rơi vào tình thế bị bao vây cả trên lẫn dưới.
Tốp chiến đấu phát triển lên trên gồm Ngô Thành Vân, Mang, Vinh và út Nhỏ, vũ khí chỉ còn một khẩu B.40 và một khẩu súng lục gần hết đạn.
Ngô Thành Vân phán đoán địa thế, nhìn biển đề treo trước cửa phòng rồi chỉ gian phòng nói với Vinh:
- Đây là chỗ ở của Bân-cơ! Phải bắt nó đền mạng!
Vinh nhận lệnh chĩa B.40 nhằm vào phòng ở của Bân-cơ thụt đạn. Đạn nổ phá vỡ tường, không ngờ phía sau có tường ngăn nữa, sức nổ không đủ công phá tường ngăn hắt lại phía sau, đường đạn lại quá gần, Vinh hy sinh ngay sau tiếng nổ.
Điều Đội biệt động không thể lường trước là Bân-cơ đã theo đường thoát hiểm lên sân thượng cách đây vài phút.
Bọn quân cảnh từ sân thượng tràn xuống, Mang dùng B.40 bắn chặn. Lính Mỹ bị quả đạn có áp lực lớn, nhiều đứa chết và bị thương, chúng phải chạy ngược lên, dùng lựu đạn và hơi cay để ngăn quân tấn công.
*
Tổ chiến đấu phát triển lên cao hy sinh hết, chỉ còn Ngô Thành Vàn bị thương, súng hết đạn, không còn thứ vũ khí nào khác. Bọn quân cảnh Mỹ đổ bộ trên nóc Sứ quán không xông xuống nhưng liên tục ném lựu đạn cay và thả pháo xuống tầng dưới. Vân buộc phải lùi xuống tầng trệt tìm đồng đội. Tất cả chiến sĩ Tươi, Ninh, Thanh, Chúc, Sáu, Tài, Chân đều hy sinh. Vân tìm vũ khí nằm bên các tử sĩ. Không khẩu súng nào còn đạn. Trong tay Tươi chỉ còm một quả thủ pháo trong tư thế chưa kịp ném đi thì trúng đạn chết.
Vân gỡ khỏi tay Tươi lấy quả thủ pháo, vừa kịp lúc bọn quân cảnh xông vào. Vân nhìn lướt nhanh thi hài các đồng đội tự nhủ:
- Mình sẽ đi với các cậu!
Vân cầm thủ pháo xông vào tốp địch ở gần nhau. Trước lúc hy sinh Vân vẫn không giảm ý chí diệt giặc. Vân không thực hiện được quyết tâm dũng cảm của mình, anh bị trúng đạn ngã vật xuống bất tỉnh nên rơi vào tay bọn Mỹ.
Ngô Thành Vân là người chiến sĩ cảm tử độc nhất sống sót trong cuộc tấn công Toà Đại sứ Mỹ. Cuộc tấn công mà mười sáu dũng sĩ thực hiện đã làm kinh hoàng cho giới chóp bu Mỹ, gây nên sự ngạc nhiên trên dư luận thế giới và tạo ra sức chiến đấu mới cho đồng đội.
Bảy năm sau, ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Ngỏ Thành Vân thoát khỏi nhà tù Mỹ - Nguy, về với đồng đội và người thân.
Cuộc tổng tấn công Mậu Thân đã diệt 147.000 quân (có 43.000 quân Mỹ), 200.000 quân nguy đảo ngũ và rã ngũ, phá huỷ hoặc gây hỏng 2370 máy bay, 1700 xe tăng, xe bọc thép, ô tô quân sự, 230 tàu xuồng. Chỉ một trận này, 1.368.000 tấn vật tư chiến tranh của Mỹ - Nguy, chiếm 34% tổng dự trữ bị mất hoặc phá huỷ.
Bộ máy hành chính của Mỹ lại làm việc. Uy-liêm Toóc-ly đứng đầu cơ quan nghiên cứu "Chiến lược của Bắc Việt" trình lên Tổng thống kết quả thu lượm, phân tích tổng hợp của ngành mình.
- Mục tiêu của Hà Nội là nhằm chứng minh sự bế tắc của Hoa Kỳ về quân sự. Trước mắt họ chiếm lấy một số thành phố, không nhất thiết chiếm giữ lâu dài, để biểu lộ sức mạnh của cách mạng ở các vùng nông thôn, khiến người ta bớt tin vào cơ cấu chính phủ Sài Gòn... Những cố gắng ấy nhằm đạt lợi thế để đi tới thương thuyết điếu mà họ nghĩ là không sao tránh khỏi.
Các cố vấn Bân-đi, Rôt-xtâu... không ủng hộ giải pháp thương lượng, họ bị thuyết phục bởi bản báo cáo sáng sủa từ chiến trường gửi về và lời tuyên bố lạc quan của Tổng chỉ huy Quân viễn chinh Oét-mô-len:
- Chúng tôi đang đạt được sự tiến bộ. Mọi hy vọng của đối phương đều bị phá sản. Với sự ủng hộ của đồng bào, chúng tôi sẽ đem lại cho đồng bào một chiến thắng. Chiến thắng trong tầm tay chúng ta!
Tổng thống Giôn-xơn phái Uy-lơ - Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân sang Sài Gòn nắm tình hình.
Ưy-lơ thông báo cho Oét-mỏ-len biết quyết tâm của Tổng thống:
- Mỹ không sẵn sàng chấp nhận một cuộc bại trận ở Việt Nam.
Oét-mô-len nói với Chú tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân về một phát hiện quan trọng:
- Hà Nội đã thay đổi chiến lược, họ bỏ lối đánh lâu dài và tìm cách chấm dứt chiến tranh bằng một chiến dịch quyết định để giành chiến thắng cả về chính trị, quân sự và ngoại giao trong năm bầu cử Tổng thống của Mỹ.
Uy-lơ muốn Oét-mô-len bộc lộ hết mọi yêu cầu cơ bản, nên khích lệ bằng cách đặt câu hỏi:
- Tướng quân cần gì để bảo đảm mục tiêu?
Oét-mô-len đáp:
- Quân địch mở cuộc tấn công lớn, mạnh mẽ trên toàn miền Nam Việt Nam, gây cho chúng ta nhiều vấn đề nghiêm trọng. Nam Việt Nam hiện có chín mươi bảy tiểu đoàn có hiệu lực chiến đấu, nhưng do cuộc tiến công của địch nên phải rút về các đô thị. Nếu họ không thể trở về nông thôn thì Việt cộng sẽ kiểm soát nông thôn. Nước nhà phải tăng viện cho đạo quân viễn chinh hai mươi nhăm vạn lính - Oét-mô-len nhấn mạnh: - Cần có ngay hai sư đoàn làm lực lượng dự bị, nếu không sẽ mất hai tỉnh phía Bắc của miền Nam Việt Nam. Ông ta nhắc lại yêu cầu khẩn thiết: - Cần phải tăng viện ngay hai trăm năm mươi ngàn lính.
Đó là đòi hỏi tất nhiên và cần thiết của một vị tướng đang dàn quân đối phó với một kẻ địch nhìn không thấy, tìm không ra trên một trận địa không phân biệt rõ ràng. Nhưng chuyện đời đâu chỉ là cứ muốn là được.
- Khả năng hiện nay rất hạn chế. Tổng thống có những bó buộc của Tổng thống. Nhưng, Bộ Tham mưu liên quân có thể cung cấp ngay Sư đoàn không vận 82 và một nửa sư đoàn lính thuỷ đánh bộ.
Oét-mô-len nheo nheo một bên mắt, ông thực nản lòng về cách làm ăn giật gấu vá vai. Ông nói với giọng không hài lòng:
- Chúng tôi cần quân để khôi phục lại vị trí đã mất, tăng cường lực lượng bảo vệ những cơ sở nhạy cảm, đối phó với sức tấn công ngày một gia tăng ở mặt trận Khe Sanh.
Uy-lơ gật đầu tỏ ý đồng tình, ông chuyển đề tài:
- Tướng quân cần đất nước đáp ứng gì nữa!
Oét-mô-len sốt sắng, tâm trạng sốt sắng thể hiện lên khuôn mặt lưỡi cày vui vui của ông, làm như những lời sắp bộc lộ mới là vấn đề gan ruột của vị Tổng chỉ huy một đội quân gồm hàng triệu binh lính:
- Tôi có năm kiến nghị: Một là gây sức ép mạnh, tiêu diệt cơ sở hạ tầng của địch. Hai là, đẩy mạnh ném bom Bắc Việt kể cả Hải Phòng. Ba là cắt con đường mòn Hồ Chí Minh. Bốn là, tiến hành một cuộc đổ bộ trên đất liền, phối hợp với hoạt động hỗ trợ của không quân, vượt qua khu phi quân sự đánh vào phía Nam của Bắc Việt. Năm là, chiếm đóng có chọn lọc tại Căm-pu-chia và Lào để dùng cho các cuộc hành quân vào hai quốc gia đó.
Uy-lơ cũng có quan điểm tương tự như Oét-mô-len nên khi về Mỹ, ông đã gặp ngay Tổng thống để truyền đạt những kiến nghị của vị tướng viễn chinh.
Giôn-xơn nghe với vẻ chăm chú đặc biệt. Một nửa kiến nghị là nan giải, vướng trở ngại khó vượt qua, nhưng nổi cộm trong những kiến nghị lại là vấn đề tàng quân. Ông có nguyện vọng đi vào lịch sử Mỹ như một vĩ nhân. Xây dựng "xã hội vĩ đại" và bảo vệ "Thế giới tự do" là đôi trưởng Tài chính), Két-gien-béc (Thứ trường Ngoại giao), Pôn Nít-giơ (Thứ trường quốc phòng) Ri-sác Hem-xo (Giám đốc CIA), Rốt-xtâu (Cố vấn an ninh), Tay-lo (chiến lược gia quân sự) và một số tài năng khác... Ông uỷ nhiệm cho Rốt-xtâu thảo những chỉ thị hướng dẫn "Nhóm Cờ-líp-phớt" tìm hiểu và giải đáp hai nội dung chủ yếu: Có nên tiếp tục chiều hướng hiện nay về chính sách của Mỹ ở Việt Nam không? Tăng thêm hai mươi vạn sáu ngàn quân có giải quyết được vấn đề gì khổng?
Cờ-líp-phớt hiếu chiến, hiếu thắng chẳng thua kém các quan chức đương nhiệm, có những lĩnh vực còn tỏ ra cực đoan hơn cả Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, nhưng quan điểm của các thành viên lại khá tản mạn. Tuy vậy các nhận định phát hiện, đánh giá của họ là xác thực, có giá trị như một sáng kiến: Cơ quan điều hành không có khái niệm cụ thể, đúng đắn về sự nghiệp phải hoàn thành nên không có phương án triển khai để chiến thắng.
Bộ phận điều hành chiến lược không có mục tiêu rõ ràng, vừa sức nên các biện pháp thực hiện tiến tới mục tiêu mang tính chất nửa vời. Các bộ phận trong guồng máy vận hành chiến tranh chuệch choạc, bộ phận nào cũng chỉ tuân thủ theo tính chất, yêu cầu, mục đích của bộ phận ấy, không có sự phối hợp một cách khoa học vì trách nhiệm chung, mà nặng phần "trung thành bộ phận"- ăn cây nào rào cây ấy. Đáng trách là, các ê-kíp có chức năng lãnh đạo bị ám ảnh bởi khát vọng chiến thắng "lừng lẫy" nên đưa ra mục tiêu quá khả năng, khi thấy triển vọng chiến thắng xa vời thì cố tự bảo vệ bằng mọi cách. Tư lệnh chiến trường, các Cố vấn chủ chốt lòng đầy tự mãn, quá tin vào ưu thế hoả lực, dựa vào sự hơn hẳn về trang bị, đánh thắng trong vài trận đánh chiến thuật, chiến thắng mang tính kỹ thuật không cải thiện được tình hình nhưng ngộ nhận là chiến thắng, do đó đánh giá tiến triển sự việc một cách sai lầm. Buồn hơn, đây là cuộc chiến tranh không thể đưa ra lời kêu gọi động viên tinh thần yêu nước, không có các phong trào đoàn kết ủng hộ sự tham chiến, không có sự suy tôn những thanh niên Mỹ đang chiến đấu ngoài mặt trận, nghĩa là cuộc chiến tranh không dựa trên một cơ sở bền vững nên khi có người thân bị thương vong ngoài trận mạc và cuộc sống hàng ngày trở nên eo hẹp thì tình cảm người Mỹ trở nên xao xuyến, lo âu.
Dĩ nhiên, "Nhóm Cờ-líp-phớt" cũng có ý kiến vô thưởng vô phạt: Không biết trước; không có giải pháp vạn năng... Nghe đủ loại quan điểm, Mắc Na-ma-ra mới "ngã ngửa" khi thực sự cảm thấy Mỹ không hề có một kế hoạch quân sự chín chắn để thắng cuộc chiến này mã Mỹ chờ đối phương sơ hở, đuối sức.
Bộ trưởng Quốc phòng bị dằn vặt từ khi nghe một nhân vật danh tiếng đánh giá mồ hôi, xương máu của hàng triệu người:
- Đấy không phải là cách thức để tiến hành một cuộc chiến tranh!
Cờ-líp-phớt là nhà kinh doanh nhảy sang lĩnh vực chính trị nên thạo khoa vận động, thuyết phục những ý nghĩ tản mạn tập trung về một hướng. Do đó, ý kiến bàn lùi (ngầm có nội dung chí trích, phê phán chính sách thiếu nhất quán của Chính phủ) giảm dần.
Mắc Na-ma-ra để xuất ba giải pháp cụ thể lựa chọn lấy một.
- Muốn đáp ứng yêu cầu tăng quân của Oét-mô-len thì quân thường trực cũng phải tăng thêm bốn mươi vạn lính, phải chi thêm mười tỉ đô la trong năm tài chính 1969.
- Phối hợp tăng quân với đẩy mạnh sáng kiến hoà bình.
- Giữ nguyên quân số nhưng phải thay đổi chiến lược, tức là chi bảo vệ những khu vực thiết yếu và giảm mật độ tấn công những vùng không có dân cư.
Cờ-líp-phớt bày tỏ một ý tưởng mới:
- Xét xem có nên đưa quân số ở Nam Việt Nam từ năm mươi vạn lên một triệu không?
Mắc Na-ma-ra nhún vai:
- Dù có đưa lên một triệu người cũng không chứng tỏ vai trò của Mỹ phải thay đổi.
Phi-líp Ha-bít nói rõ quan điểm tản mạn của Sài Gòn:
- Ý kiến các quan chức Sài Gòn rất khác nhau, có người bảo không nên tăng quân Mỹ, bởi vì tăng quân Mỹ thì chí khuyến khích người Việt Nam ít cố gắng hơn mà thôi.
Cờ-líp-phớt tiếp thu mọi loại ý kiến, nhưng ông làm bản tường trình theo chủ định riêng của mình. Giôn-xơn đặt bản tường trình trước mặt, ông muốn biết ngay điều cần biết:
- Tôi sẽ xem kỹ toàn văn sau. Bây giờ, ông hãy cho tôi biết những suy nghĩ mà ông cho là quan trọng nhất.
Cờ-líp-phớt đang muốn Tổng thống quan tâm ngay đến vấn đề chủ yếu, nên đề cập sáng kiến chủ yếu:
- Việt cộng tồn tại được là do có Bắc Việt. Các chiến dịch không kích Bắc Việt chỉ mang lại hiệu quả nghèo nàn. Mở rộng mặt trận bằng bộ binh sẽ xoay chuyển tình thế nhanh chóng và chắc chắn.
Giôn-xơn lắc đầu:
- Hành động đó sẽ tạo ra sự thoả hiệp kháng chiến chung giữa Bắc Việt và Trung Quốc.
Cờ-líp-phớt tiếp:
- Khí tài quân sự của nước ngoài viện trợ cho Bắc Việt phần lớn qua đường biển. Thả mìn phong toả Hải Phòng sẽ khiến cho Bắc Việt suy kiệt.
Giôn-xơn lại lắc đầu:
- Hành động đó cũng dễ gây chuyện với nước thứ ba.Tàu bè của Liên Xô có thể bị chìm vì ngư lôi Mỹ.
Cờ-líp-phớt trình bày nốt điểm chủ yếu thứ ba:
- Lực lượng của Việt cộng vẫn an toàn sau những cuộc càn quét quy mô là do họ tránh sang Căm-pu-chia, Lào. Mất đất thánh, đối phương không thể lẩn tránh chiến đấu.
Giôn-xơn đáp bằng giọng chán nản:
- Chúng ta không thể vượt quyền Quốc hội. Mẹo hay mấy cũng không nên dùng lần thứ hai.
Cờ-líp-phớt cảm thán:
- Vậy ra chúng ta bị trói cả chân tay!
Giôn-xơn gật đầu công nhận:
- Đúng thế Cờ-líp-phớt! Chúng ta làm việc theo hiến pháp, bị sức ép của nhiều phương diện. Lanh-côn vĩ đại đã dặn dò những kẻ hậu sinh "Bạn có thể lừa dối một số người nào đó vào mọi lúc, với mọi người trong thời gian ngắn nào đó, chứ không thể lừa dối mọi người vào mọi thời gian".
Cờ-líp-phớt - gã quân sư quạt mo hiểu những hạn chế mà Tổng thống vừa viện ra và những hạn chế khác đã ngăn ngừa những nỗ lực quân sự tối đa. Sống trong thế giới ngày nay có thể tồn tại khả năng "muốn là được" không?
*
Trong tầng hầm tại Toà Nhà Trắng.
Tổng thống Giôn-xơn, các phụ tá thân cận, các chuyên gia của nhiều lĩnh vực, các thành viên "Bữa tiệc trưa" theo dõi diễn biến trận chiến Khe Sanh được thể hiện trên mô hình dựng theo tỉ lệ một phần triệu.
Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân của Việt cộng đang gây xôn xao dư luận thế giới và làm choáng váng nước Mỹ. Vậy mà vẫn chưa là gì cả, nhưng nếu thất thủ Khe Sanh thì lại là một thảm hoạ khó lường.
Cố vấn an ninh quốc gia Gioóc Bân-đi đánh giá:
- Khe Sanh là trận đánh quan trọng nhất của cuộc chiến tranh. Quân đội Hoa Kỳ chỉ được phép thắng.
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Uy- lơ hưởng ứng lời nói của Bân-đi theo hướng suy nghĩ khác:
- Khe Sanh là trận đánh có ý nghĩa lớn, có tướng gọi nó là "Điện Biên Phủ kiểu Mỹ".
Giôn-xơn không chấp nhận những ý nghĩ tiêu cực như thế, ông gạt đi bằng cách nói mà thực sự là ra nghiêm lệnh:
- Tổng thống cần lời cam kết của các nhà quân sự, lời cam kết theo quân luật là bảo vệ bằng được Khe Sanh.
Sle-xinh-giơ - Vị Bộ trưởng Quốc phòng trong tương lai nhấn mạnh:
- Lời cam kết bằng máu!
Uy-lơ có đà thực hiện lời hứa tăng quân cho Oét-mô- len. Cuối tháng 2 vừa rồi, Giôn-xơn phái Uy-lơ sang Việt Nam gặp Oét-mô-len để tìm hiểu tình hình; khi về Oa- sinh-tơn, Uy-lơ đã đề đạt lên Tổng thống nhiều vấn đề, bức xúc là vấn đề tăng quân, nhưng Tổng thống chỉ nghe mà không giải đáp. Thời cơ này giúp ông nhắc lại yêu cầu tha thiết nhất của Oét-mô-len. Ông tỏ ý đồng thuận những điểu Tổng thống đòi hỏi:
- Oét-mô-len xin tăng viện ngay hai trăm nghìn quân để tổ chức hành binh giải toả và bảo vệ căn cứ Khe Sanh.
Mỗi lần Oét-mô-len đề nghị tăng quân là một lần Tổng thống Giôn-xơn lâm vào tình trạng khó xử. Mấy năm trước đây, khi cuộc chiến Mỹ - Việt mới ở giai đoạn thăm dò, nếu có yêu cầu tăng quân, Giôn-xơn đều tìm cách tránh làm đảo lộn sự yên tĩnh các công việc thời bình của đất nước và tránh làm chấn động nhân tâm, vì thế ông chỉ dựa vào lính quân dịch và lính tình nguyện, nghĩa là ông cắt xén số quân nhân đang làm nhiệm vụ phòng thủ quốc gia để bổ sung cho Đội quân viễn chinh. Vậy mà, số quân nhân Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên tới già nửa triệu. Cuộc chiến quái ác ấy cần ngốn bao sinh mạng nữa mới thoả mãn?
Thấy Tổng thống trầm tư đâu đâu, Uy-lơ gợi ý cách giải quyết tăng quân cho Oét-mô-len:
- Có thể động viên hai trăm năm mươi nghìn quân dự bị để thế quân thường trực.
Phôn Gô-đich - Giám đốc cơ quan Phục vụ công cộng thuộc Lầu Năm Góc vội vã lên tiếng:
- Không nên động viên quân dự bị làm nhiệm vụ thường trực, vì nhân dân chưa được chuẩn bị cho cuộc động viên với quy mô lớn như thế. Hiện nay không có tình huống khẩn cấp nào của đất nước để bào chữa cho một quyết định như vậy.
Thứ trưởng Quốc phòng Pôn Nit-de khuyến nghị:
- Mỹ nên bớt giảm các mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam cho phù hợp với tiềm lực quân sự và kinh tế.
Pôn Uôn-ke - Giám đốc cơ quan An ninh quốc tế của Lầu Năm Góc đề cập vấn đề an ninh xã hội:
- Nơi nào ở nước Mỹ cũng có gia đình binh sĩ tử trận hoặc bị thương bên chiến trường Việt Nam, tình hình ấy rất bất lợi về chính trị và xã hội. Mỹ nên giảm bớt số thương vong người Mỹ bằng cách trao trách nhiệm phòng thủ Nam Việt Nam cho người Việt Nam.
Giôn-xơn lấn cấn trong lựa chọn chính sách trước những khuyến nghị trái ngược nhau của các cố vấn và tướng lĩnh. Cờ-lác Cờ-líp-phớt đề nghị Tổng thống triệu tập "Những chính khách đàn anh" lại để bí mật thảo luận chính sách. Giôn-xơn đồng ý. Những nhân vật tài giỏi, dày dạn kinh nghiệm chính trường và chiến trường được Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ thỉnh là: A-ki-xơn - Bộ trưởng Ngoại giao thời chiến tranh lạnh (Tru-man), Gièm Pho-re-xtơn - Bộ trưởng Quốc phòng ở giai đoạn nước Mỹ thi hành học thuyết "Thoả ước trung thực" (của Tru-man), Mác-xoen Tay-lo - Chiến lược gia hàng đầu đương thời và một số nhân vật thành danh khác như Mơ- phi, Bret-lây... Tất cả "các ngài" này đểu ủng hộ, cổ vũ chính sách Việt Nam của Giôn-xơn.
Tổng thống thành thật bày tỏ tâm trạng:
- Tôi thực sự bối rối trước những lời khuyên trái ngược nhau của các cố vấn. Tôi muốn được biết quan điểm của các ngài.
A-ki-xơn phát biểu quan điểm về diện mạo chiến tranh:
- Tôi muốn Tổng thống kiểm tra lại chiến lược cơ bản của mình. Có những vấn đề chưa thoả đáng, chưa hợp lý-Giôn-xơn yêu cầu:
- Mong ngài nói rõ hơn!
Giêm Pho-re-xtơn nói thay vị "đồng liêu" xưa:
- Việc ném bom Bắc Việt ít hiệu quả, nên ngừng hoặc ít nhất là cắt giảm phần lớn việc ném bom Bắc Việt. Giảm dần tới thủ tiêu sự dính líu trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam, để có thể chỉ phải chịu tổn thất ít nhất.
A-ki-xơn đề cập khía cạnh có ý nghĩa nhân quả:
- Thưa Tổng thống! Cho dù có lưu tâm thích đáng đến đâu thì Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cũng không hiểu rõ họ đang bàn bạc về những cái gì, giúp Tổng thống làm điều gì.
Giôn-xơn hơi ngả người ra sau tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Đây là lời tuyên bố khiến tôi sửng sốt.
Tay-lo gợi ý:
- Có lẽ nội tình vấn đề sẽ làm cho Tổng thống ngạc nhiên đến choáng váng. Tôi đề nghị Tổng thống uỷ nhiệm cho ngài A-ki-xơn tìm hiểu vấn đề chưa có giải đáp.
Giôn-xơn chấp thuận. A-ki-xơn nhận lời. Ông bỏ ra mấy tuần gặp gỡ các quan chức Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và Cục Tình báo trung ương CIA tại nhà riêng của ông ở thành phố Goóc-giơ, trao đổi với những người được chọn lọc ấy tình hình mọi mặt sau Tết Mậu Thân. Cuối cùng, A-ki-xơn có cơ sở về thực tiễn và lý luận để báo cáo với Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ:
- Tổng thống đang bị Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân lừa dối. Những gì mà Oét-mô-len cố gắng làm ở Việt Nam đều không thể thực hiện được, nếu không sử dụng vào đó các nguồn kinh tế và quân sự hoàn toàn không hạn chế, trong thời gian ít nhất là năm năm.
Uy-liêm Toóc-ly - Chuyên gia đảm nhiệm công việc nghiên cứu "Chiến lược của Bắc Việt" trình lên Tổng thống kết quả nghiên cứu của ngành mình:
- Mục tiêu của Hà Nội là nhằm chứng minh sự bế tắc của Hoa Kỳ về quân sự.
Tổng thống Mỹ nhận được những lời khuyến cáo chua xót, ông thực sự xao xuyến khi nghĩ đến các cố vấn thân cận, các phụ tá một thời đắc lực... Những "kẻ cơ hội ấy" toan tính đẩy cỗ xe hành pháp lãn tới đâu, đưa Tổng thống của họ tới ngả nào?
Giôn-xơn đang lúc khủng hoảng tinh thần thì Mắc Na-ma-ra tới. Giôn-xơn muốn biết quan điểm của một trong hai nhân vật khởi xướng thuyết "lẽ phải thuộc về kẻ mạnh". Không ngờ, ông bị giội luôn một thùng nước lạnh vào gáy:
- Cuộc chiến tranh Việt Nam làm cho tôi kiệt quệ cả về tinh thần lẫn thể xác, muốn sống sót qua giai đoạn này, tôi cần được nghỉ ngơi. Cơ-lác Cờ-líp-phớt là một tài năng hiếm có, tôi xin tiến cử lên Tổng thống.
Giôn-xơn không có thói quen thở dài, khi có tâm trạng chán nản hay không bằng lòng ông thường nheo nheo cập mắt xanh lơ một cách tinh quái, lần này ông lại không có hành vi theo thói quen mà... Ông nhớ, cuối năm 1967, Mắc Na-ma-ra nói với ông: "Giải pháp quân sự không chắc chắn. Tuy chưa tới thời điểm thương lượng, nhưng cũng thử dò tìm". Khi ấy, ông cho rằng "người cố vấn tài giỏi" mách nước trấn an phong trào đòi hoà bình của nhân dân Mỹ và thế giới, đồng thời, cũng là cách ru ngủ các ngài Nghị sĩ "nhiễu sự". Nhờ "sáng kiến" của Bốp(1) nên ông phát động chiến dịch ngoại giao hoả mù: Dùng Rôn-ninh - Nhà ngoại giao của Ca-na-đa khuyếch đại tín hiệu hoà bình. Gặp gỡ Mai Văn Bộ - đại diện Bắc Việt ở Pa-ri khai thông kênh hoà bình, uỷ thác cho hai công dân Mỹ sang Hà Nội đề nghị có cuộc mạn đàm Mỹ- Việt... Mỹ vận động ngoại giao hoà bình rất nhộn nhịp, rất chững chạc. .. Nhưng đó chỉ là lớp hoả mù che giấu ý đồ "kẻ mạnh phải thắng". Nói thế nào đi nữa, các hoạt động ấy cũng có thành công, dù chỉ là thành công nhất thời.
(1) Bốp là tên thân mật Giôn-xơn thường dùng khi nói chuyện với Mắc Na-ma-ra.
Tổng thống không ngả người ra phía sau, tựa lưng lên thành ghế mỗi khi tiếp khách như thói quen mà... vươn người ra phía trước, nói những lời khác thường:
- Không lẽ Bốp mặc tôi cô quạnh!
Mắc Na-ma-ra - người đề ra chính sách chiến tranh người cổ động mạnh mẽ nhất ý đồ giải quyết vấn đề tranh chấp với Bắc Việt bằng vũ lực đã nhận ra điều không muốn xảy ra: Cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ kể từ thời nội chiến.
*
Tâm trạng sửng sốt, sững sờ và lo ngại nảy sinh từ sự kiện Khe Sanh dữ dội chưa dịu được chút nào thì hiện tượng Tết Mậu Thân thần kỳ lại làm bàng hoàng, choáng váng mọi khỏi óc, nhiều lá gan và gây bão tố trong vô vàn trái tim.
Tổng thống Giôn-xơn, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trường Liên quân Ưy-lơ, các Tham mưu trưởng binh chủng và những con diều hâu khác coi sự kiện Tết Mậu Thản là một hiện tượng bình thường; nhưng nhân dân Mỹ, Quốc hội Mỹ và nhân dân yêu chuộng hoà bình, công lý thế giới không cùng quan điểm ấy:
Một câu hỏi lớn được đặt ra: Quân đội Mỹ đến Việt Nam làm gì? Quân đội Mỹ đã làm gì ở Việt Nam? Quân đội Mỹ luẩn quẩn ở Việt Nam để làm gì? Lời đáp chính xác là: Đất nước bị Chính phủ lừa dối, đất nước không ủng hộ chiến tranh nữa.
Hàng triệu người Mỹ yêu chuộng hoà bình, tôn trọng công lý ở Oa-sinh-tơn, Niu-oóc, Đi-tơ-roi, Mi-si-gân... đổ ra đường; nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh liên tiếp nổ ra. Họ kéo đến trước Toà Nhà Trắng hô vang:
- Giôn-xơn! Hôm nay ông giết bao người lính trẻ, tàn sát bao trẻ con và phụ nữ.
Họ kéo đến trước Lầu Năm Góc đòi phá bỏ cái lò sản xuất ra chiến tranh - Họ quy tội:
- Cuộc chiến tranh này là của bọn quân phiệt!
Hàng chục người - thanh niên và người già tự thiêu để phản đối chiến tranh như Mô-rit-xơn, La Poóc-ti...
Toà án Quốc tế Béc-tơ-răng Rút-xen buộc tội Chính phủ Mỹ xâm lược Việt Nam, dùng các loại vũ khí man rợ tàn sát trẻ em, phụ nữ và dân thường Việt Nam.
Hội nghị đoàn kết nhân dân Á - Phi - Mỹ La-tinh tỏ tình ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam, phản đối dã tâm xâm lược của đế quốc Mỹ.
Chính trường Mỹ cũng nóng bỏng. Thượng nghị sĩ Phun-brai - Chủ tịch uỷ ban đối ngoại Thượng nghị viện chỉ trích gay gắt cuộc chiến tranh man rợ và tổ chức cuộc điều trần tại Thượng nghị viện về tính bất hợp hiến, vô nhân đạo mà Tổng thống Mỹ đã phạm phải. Thượng nghị sĩ Ken-nơ-đy cảnh cáo sự hiếu chiến, thói quá trớn. Hơn một trăm Hạ nghị sĩ đòi Quốc hội phải xét lại chính sách của Mỹ ở Đông Nam Á. Báo chí phơi bày sự lừa dối, tói bất nhân của Tổng thống: Chú bé "Chương trình xã hội vĩ đại" đã bị con quỷ chiến tranh ăn tươi nuốt sống từ lúc nào không biết. Lời hứa "không mở rộng chiến tranh" đã được thực hiện bằng cách đẩy nửa triệu thanh niên trai trẻ Mỹ sang Việt Nam đưa ngực hứng đạn và trút hàng chục triệu tấn bom đạn, hàng vạn ga lông chất độc hoá học xuống Việt Nam. Từ cuộc chiến Nam - Bắc đến nay, chưa bao giờ nước Mỹ lắm bè nhiều cánh như bây giờ, chưa bao giờ ý chí Mỹ phân hoá như bây giờ. Nhiều nghị sĩ thuộc phái "diều hâu" cũng kiến nghị với Tổng thống nên xuống thang chiến tranh. Cựu Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao cũng ngao ngán: "Chưa bao giờ gặp phải tình trạng đáng buồn như tình cảnh hiện nay, Mỹ bị chia rẽ sâu sắc về cuộc chiến tranh ở bên kia Thái Bình Dương". Các nước đồng minh của Mỹ cũng tỏ thái độ hoài nghi, mất lòng tin ở chính sách và sức mạnh Mỹ. Các chính khách dùng ngôn ngữ ngoại giao để khuyến nghị Tổng thống nên xét lại chính sách Việt Nam của mình; các phương tiện thông tin thì cứ như ông Chánh tổng giải quyết việc làng, làng xã không chấp nhận việc làm sai của kẻ ngỗ ngược.
Tổng thống Mỹ mất sự ủng hộ. Ông từng suy nghĩ và làm việc trong những huyền thoại về sức mạnh Mỹ, đánh giá mình quá cao, nhìn nhận đối thủ quá thấp dẫn đến định hướng sai lầm, đưa ra những kê hoạch tham lam, định ra mục tiêu quá tầm với. Việc làm sai lầm tất nhiên không có kết cục tốt. Niềm tin "lẽ phải thuộc về kẻ mạnh" tan vỡ, hy vọng trở thành vị Tổng thống xếp ngang các bậc tiên liệt vĩ đại biến ra mây khói. Ông quyết định nghe theo lời khuyên tỉnh táo của những nhà thõng thái bằng cách phái người đi gặp Mai Văn Bộ - đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Pari yêu cầu có cuộc nói chuyện Mỹ - Việt về vấn đề thương lượng hoà bình.
Mai Văn Bộ đáp:
- Cuộc nói chuyện Mỹ - Việt chí xảy ra khi Mỹ chấm dứt vô điều kiện ném bom miền Bắc.
Đại diện Mỹ nhận lời. Nhưng máy bay Mỹ vẫn tiếp tục ném xuống miền Bắc. Ít ngày sau đại diện Chính phủ Mỹ đến Sứ quan Việt Nam xin gặp Trưởng phái đoàn đại diện. Mai Văn Bộ từ chối không gập, vì phía Mỹ nhận lời mà không giữ lấy lời.
Trong khi cử chỉ hoà bình của Mỹ đang ngập ngừng tiến triển, Tổng thống Giôn-xơn yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân điện cho Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam biết:
- Quyết định động viên nhiều lực lượng dự bị và mở rộng chiến tranh ra nước thứ ba để đối phó với địch là điều không thể làm được về mặt chính trị, ngoại giao. Không có sự lựa chọn nào trong thời gian tới, ngoài việc cố gắng trấn an những người phản đối, vì họ sẽ làm bùng nổ một phong trào đòi rút quân Mỹ rất hèn hạ.
Nhận được bức điện mà như nhận được gáo nước lạnh đổ lên đầu. Mặc dù, Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ căn cứ tình hình thực tế và tương quan lực lượng hai bên đã điều chỉnh chiến lược từ "tìm diệt và bình định" sang "quét và giữ". Vậy mà... đánh trống bỏ dùi. Những lời hứa sôi nổi xưa "muốn gì đáp ứng nấy" đâu rồi? Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng còn nhớ hay đã quên? Oét-mô-len gặp A Bơ-ram chua chát thổ lộ:
- Những nỗ lực của chúng ta đang bảo vệ Khe Sanh và... không lẽ sẽ trở thành những cố gắng vô ích. Cuộc tấn công Mậu Thân là yếu tố thúc đẩy quá trình vận động. Họ đã đạt được mục tiêu là làm cho phía Mỹ phải đơn phương xuống thang, ngừng ném bom, đinh chỉ việc tăng quân và làm hỏng một chiến lược đánh mạnh. Tổng thống, chính Tổng thống đã biến chúng ta thành những viên tướng bại trận.
*
Quyết tâm của Mỹ bị phân tán, quyết tâm "đánh cho Mỹ cút, nguy nhào" của ta càng được củng cố và tăng lên gấp bội, điều ấy thể hiện trên chiến trường Khe Sanh. Khe Sanh là ngón đòn nghi binh "giương Đông kích Tây", nhưng bây giờ được đẩy lên thành chiến dịch huỷ hoại thanh danh của sức mạnh Mỹ.
Vì thể diện một siêu cường quốc và không muốn bẽ mặt, Tổng thống Giôn-xơn đòi Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân phải thực hiện quyết tâm của ông:
- Bảo vệ Khe Sanh bằng mọi giá!
Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân thông báo cho các Tư lệnh chiến trường về quyết tâm của Tổng thống:
- Chiến trường Khe Sanh là danh dự của Mỹ.
Hàng ngày, hơn ba trăm lượt máy bay chiến thuật, trên chục lần máy bay chiến lược B.52 ào ào tới thả bom, phóng rốc két xuống chiến hào của quân đối phương vây lấn Khe Sanh mà vẫn không nới rộng được vòng vây. Đại tá Đê-vít Lao-dơ và sáu ngàn quàn của ông ta cố thủ Cụm cứ điểm Tà Cơn như kiến bò trong chảo, không tự cứu nổi mình thì sao có thể tương trợ cho các cứ điểm bạn bị uy hiếp. A Bơ-ram huy động mười bảy tiểu đoàn quân Mỹ và nguy tiến hành một chiến dịch giải toả, có sự trợ lực mạnh mẽ của không quân và pháo binh. Quân ta ngăn chặn và tổ chức đột kích về ban đêm. Nửa tháng sau, cuộc hành binh giải toả của địch kết thúc mà Cụm cứ điểm Tà Cơn vẫn bị bao vây. A Bơ-ram giao cho Trung tướng Kết U-óc Tư lệnh Sư đoàn kỵ binh bay số 1 tổ chức nhiều cuộc hành quân giải vây, đáng kể là cuộc hành quân Xcốt-len ở khu vực Đường 9, Ca-ra-tan và Đi-lơ-oe trong thung lũng A Sần - nhè hậu phương của đối phương mà quật. Vậy mà viên Trung tướng cùng binh lính thiện chiến của hắn chẳng làm nên công tích gì ở vùng Đường 9 - Khe Sanh, về sau hắn bị toi mạng trên chiến trường Lộc Ninh.
Những cuộc gặp trù bị cho Hội nghị Pa-ri đi những bước đầu không mấy khả quan, nhưng ngoài chiến trường rất náo động, nhất là mặt trận Khe Sanh. Sư đoàn 308 anh hùng hành quân vào chiến trường tiếp ứng cho các đơn vị đang vây đánh cụm cứ điểm Tà Cơn. Mỹ - nguy phối hợp mở nhiều cuộc hành quân giải toả, nhưng đều thiệt thân mà vòng vây vẫn vậy. Không thể làm gì hơn, A Bơ-ram đành xem "danh dự nước Mỹ" không quan trọng hơn ngót một vạn sinh mệnh đang sống phi phỏng trong lò lửa Khe Sanh. Khi Bộ chỉ huy Mỹ tuyên bố một cách cởi mở: "Quân Mỹ và đồng minh hoàn thành nhiệm vụ, không cần thiết phải ở lại giữ Khe Sanh", "Chúng tôi không định chịu đựng một Điện Biên Phủ" thì quân Mỹ ở Khe Sanh "khẩn trương" lên máy bay trực thăng dưới làn đạn pháo kích của đối phương.
Ngày 9 tháng 7 năm 68, ta làm chủ Khe Sanh, giải phóng một địa bàn rộng lớn, bảo đảm hành lang vận chuyển chiến lược Trường Sơn.
Sau 170 ngày đêm, chiến dịch Khe Sanh kết thúc, ta loại khỏi vòng chiến 17000 tên (có 13000 tên Mỹ), bắn rơi 480 máy bay, phá huỷ 120 xe quân sự, 65 đại bác và súng cối cỡ lớn, 55 kho, thu nhiều vũ khí, trang bị quân sự..., giải phóng hoàn toàn huyện Hương Hoá. Và tuyến phòng thủ Đường 9 của địch dài trên 40 ki-lô-mét từ Lao Bảo đến Ca La bị bỏ ngỏ.
*
Hành vi đứng núi nọ ngó núi kia, tìm kiếm hoà bình nửa vời, lại mang tính thất tín của Mỹ nên không được chấp nhận. Vì thế những cuộc nói chuyện trù bị giữa đại diện Mỹ và Mai Văn Bộ cứ nhấm nhản, khủng khỉnh như cặp vợ chồng chê nhau, mặc dù cứ vài ba ngày lại gặp nhau mà chẳng thể gần nhau. Chét-tơ Bâu-lơ - bạn lâu năm của Giôn-xơn và đang là Đại sứ Mỹ tại Ấn Độ điện về đề nghi Tổng thống thành thật chấm dứt hoàn toàn ném bom Bắc Việt và nên báo việc này cho Chính phủ Ấn Độ, Anh, Nhật. Liên Xô và Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc biết.
Gòn-béc - Thứ trưởng ngoại giao ủng hộ đề xuất của Bâu-lơ:
- Con đường tốt nhất hiện nay để tránh làm xói mòn sự ủng hộ của công chúng đối với Tổng thống là chấm dứt ném bom Bắc Việt, nói chuyện hoà bình.
Giôn-xơn triệu tập các cố vấn đến thảo luận về nội dung diền văn chấm dứt ném bom một phần.
Bộ trưởng Quốc phòng Cờ-lác Cờ-líp-phớt đề nghị:
- Diễn văn nên có các phần: Một phần nói Mỹ định làm gì và vì sao? Phần thứ hai đề cập Việt Nam Cộng hoà đang làm gì? Phần thứ ba là phần dành cho hoạt động ngoại giao thăm dò hoà bình. Bước đầu nên chấm dứt ném bom ở phía Bắc vĩ tuyến 20 và yêu cầu Bắc Việt đừng pháo kích vượt qua khu phi quân sự hoặc từ miền Bắc vào miền Nam.
Bộ trưởng Ngoại giao Đin Rát-xcơ tán thành gợi ý của Bộ trưởng Quốc phòng Cờ-lác Cờ-líp-phớt:
- Tôi đồng ý nên đơn phương chấm dứt một phần ném bom; hành động đó có thể dẫn đến hoà bình nếu Hà Nội đáp ứng đề nghị của Mỹ.
Đin Rát-xcơ tỏ ý băn khoăn tí chút rồi bộc lộ tiếp:
- Chìa khoá của tình hình hiện nay là khả năng chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Liệu họ có thể đảm nhiệm toàn bộ và tồn tại được hay không?
Gôn-béc bảo vệ quan điểm triệt để của mình:
- Tôi đề nghị chấm dứt hoàn toàn ném bom. Đây là khả năng duy nhất có thể dẫn đến đàm phán.
Phải lựa chọn thôi. Thời cơ là yếu tố quan trọng mà người sắc sảo nào cũng không thể xem nhẹ.
Tổng thống Mỹ thông báo bổ nhiệm Cờ-lác Cờ-líp- phớt làm Bộ trưởng Quốc phòng thay Mắc Na-ma-ra, đưa nhân vật hăng hái "tìm diệt và bình định" - Oét-mô-len khỏi chức vụ Tổng chỉ huy. Ô-lây Sáp - Kẻ hiếu thắng chẳng thua kẻ hiếu thắng nào, vị Tư lệnh điểu hành các chiến dịch ném bom tàn bạo: triệt hạ miền Bắc, ngăn chặn tuyến vận tải Trường Sơn về hưu. Và ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn bằng chất giọng trầm điềm đạm trịnh trọng tuyên bố trước công chúng Mỹ (và thế giới):
- Đêm nay tôi đã ra lệnh cho các máy bay và tàu chiến của chúng ta không mở những cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam, trừ vùng phía bắc khu phi quân sự là nơi được quân đội Bắc Việt tiếp tục tăng cường binh lực để đe doạ trực tiếp các vị trí tiền tiêu của đồng minh và là nơi chuyển quân, vận tải đồ tiếp tế rõ ràng liên quan đến mối đe doạ đó...
Sau khi đọc toàn văn bản tuyên bố hoà bình, Giôn- xơn tuyên bố không tham gia tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ tới.
Ngày mùng 3 tháng 4 năm 1968, Phát ngôn viên Nhà Trắng - Gioóc-giơ Cờ-rít-tan trình lên Tổng thống Mỹ bản tuyên bố đáp ứng của Hà Nội:
"... Rõ ràng Chính phủ Hoa Kỳ đã không thi hành nghiêm chỉnh và không đáp ứng những đòi hỏi rất chính đáng của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và dư luận tiến bộ Hoa Kỳ, cũng như dư luận thế giới. Nhưng về phía mình, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng cử đại diện để tiếp xúc với đại diện của Hoa Kỳ, cùng phía Hoa Kỳ thảo luận việc chấm dứt không điều kiện ném. bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để cho các cuộc nói chuyện chính thức bắt đầu.
Ket-gien-bách - Thứ trưởng Ngoại giao hớn hở nói với Giôn-xơn:
- Họ đã sẵn sàng cử đại diện tiếp xúc với chúng ta!
Một số người khuyên nên tham khảo ý kiến của Việt Nam Cộng hoà và không nên tỏ ra hấp tấp.
Giôn-xơn nói với Chánh văn phòng Nhà Trắng:
- Hôm nay, chúng ta có hai điều phải làm: Bảo Đại sứ Bân-cơ giải thích cho phía Việt Nam Cộng hoà biết rõ hiện nay chúng ta đang suy nghĩ gì. Và, chúng ta phải có một tuyên bố tích cực ngay bây giờ để đáp ứng tuyên bố của Hà Nội. Tỏi muốn đi tới, đương nhiên là không hấp tấp.
Chẳng ai ngăn cản nổi quyết định của Tổng thống. Giôn-xơn cử Ha-ri-man, một chính trị gia điềm tĩnh làm Trưởng phái đoàn đàm phán; phụ tá gồm có Xi-ruyt Van- xơ, An-drim Gut-pat-tơ và Phi-líp Ha-bin Giooc-đãng. Thành phần tham gia hội nghị có Việt Nam Dân chù Cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Nam Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hoà.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đòi hỏi Chính phủ Mỹ phải chính thức tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc Việt Nam mới đi vào các cuộc nói chuyện chính thức.
Giôn-xơn đồng ý. Nhưng, trước một giờ Tổng thống Mỹ đọc bản tuyên bố đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Đại sứ Bân-cơ từ Sài Gòn gọi điện về thông báo Nguyễn Văn Thiệu - Tổng thống Việt Nam Cộng hoà đòi có thời gian chuẩn bị. Nghĩa là Thiệu tạo cớ trì hoãn nói chuyện hoà bình.
Giôn-xơn tỏ thái độ giận dữ khi trả lời vị Đại sứ của mình:
- Tôi quyết định rằng không thể đi chung được thì Mỹ sẽ đi riêng.
Tổng thống Mỹ quá mỏi mệt vì cuộc chiến tranh gay cấn, phức tạp, mờ mịt, không còn sức đi theo con đường chiến tranh nữa phải rẽ sang con đường hoà bình. Ông ghét những kẻ cản bước chân mình. Nhưng, để tỏ thái độ khách quan, ông gọi A Bơ-ram - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ về Oa-sinh-tơn dự cuộc họp Hội đồng an ninh quốc gia khai mạc lúc 2 giờ 30 sáng ngày 29 tháng 10 năm 1968, bàn vấn đề thương lượng. Cuộc họp đang diễn biến thì sĩ quan liên lạc đưa vào bức điện của Đại sứ Bân-cơ từ Sài Gòn gửi về cho Tổng thống.
Xem xong bức điện, Giôn-xơn đặt mảnh giấy xuống bàn, giải đáp ngay sự chờ mong của những người tham gia cuộc họp.
- Thiệu vẫn đòi phải có thời gian, viện cớ là không tổ chức kịp đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng hoà đi dự cuộc họp ở Pa-ri.
Thành viên Hội đồng an ninh quốc gia của Nội các Giôn-xơn hiểu rằng, phe cánh của Ních-Xơn - Người có nhiều khả năng thắng cử nhiệm kỳ Tổng thống kế tiếp Giôn-xơn đã xúi giục Thiệu kiếm cớ trì hoãn thời gian, chờ sau ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Ních-Xơn tin mình sẽ thắng cử, mà một khi Ních-Xơn thắng cử thì không thể có chuyện thương lượng.
Cờ-lác Cờ-líp-phớt làm một cử chí phản ứng khá mạnh, khác hẳn với bản tính điềm đạm.
- Đâu phải chúng ta mang con bỏ chợ. Chúng ta đã có chính sách chiếu cỏ đến họ. Chúng ta quyết không tiếp tục vai trò "Đười ươi giữ ống". Chúng ta phải đi tới theo đúng kế hoạch cùa chúng ta. Mọi trì hoãn của phía Sài Gòn vào lúc này đều không xứng đáng.
Đa số quan chức tham dự hội nghị cùng một hướng suy nghĩ và đánh giá ấy.
Bộ trưởng Ngoại giao - Đin Rát-xcơ lội ngược dòng:
- Chúng ta đã mất ba vạn tính mạng, đã chi 75 tỉ đô la, không nên làm cho tất cả cái đó trở thành vô ích. Nếu Thiệu xin thêm thời gian, chúng ta cũng nên chiếu cố và tìm thời gian thích hợp.
Cờ-lác Cờ-líp-phớt cau mày phản ứng ngay:
- Tôi không tán thành ý kiến của Rát-xcơ. Nếu Sài Gòn nhận dự cuộc họp thì chúng ta sẽ làm việc đó cho họ. Họ đã có 5 tháng để lựa chọn đại diện. Bây giờ họ gây khó khăn cho Bàn-cơ. Đây là vấn đề thiếu thiện chí.
Giôn-xơn không thích nghe bàn ngang nữa, ông nhìn Cờ-lác Cờ-líp-phớt ra chỉ thị:
- Ông điện cho Bân-cơ hãy bảo cho Thiệu biết quyết định của tôi là phía Mỹ sẽ đi một mình. Mỹ sẽ công khai công bố quyết định theo con đường hoà bình đến cùng.
Tổng thống Thiệu sợ mang tiếng "cố thây", chèn bánh xe hoà bình nên không dám lần khân, vội cử Trần Đăng Lâm - Bộ trưởng Ngoại giao làm Trưởng đoàn, nhân tiện đẩy Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ sang Pa-ri giữ chức danh cố vấn. Kỳ phó mặc công chuyện ngoại giao ở thế kém cạnh, bị Phái đoàn Mỹ lấn lướt cho Lâm cựa quậy, ông ta khoác tay cô Tuyết Mai xinh đẹp, hoặc dắt bốn con chó săn thong thả dạo chơi trên đường phố Pa-ri.
Hội nghị Pa-ri thương lượng vấn đề hoà bình ở Việt Nam có vẻ như nhộn nhịp, nhưng chi bàn những chuyện mang tính ngoại giao tượng trung: hình thức hình học của chiếc bàn, quyền cắm quốc kỳ trên bàn hội nghị, vị trí ngồi của các phái đoàn...
Ha-ri-man Trưởng phái đoàn Mỹ là ông già nghễnh ngãng nhưng rất tinh quái, nhiều lần muốn gặp riêng phái đoàn ta để nói chuyện kín với nhau. Trong "chuyện kín" mà Ha-ri-man thổ lộ với Xuân Thuỷ có một cái bẫy, kể ra cũng khá hấp dẫn đới với một đất nước đang è vai đương đầu với một cuộc chiến tranh quá dữ dội, quá nhiều diễn biến kinh hoàng:
- Chúng ta cùng rút khỏi miền Nam.
Xuân Thuỷ biết cái mẹo lừa lọc nham hiểm này, ông nhìn nhà ngoại giao lọc lõi bằng ánh mắt chế giễu nhưng trả lời bằng giọng ôn hoà:
- Nước Việt Nam là một thể thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi đã khẳng định: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
Ngày 13 tháng 5 năm 1968, khai mạc hội nghị Pa-ri bàn vấn đề hoà bình ở Việt Nam.
Lập trường của Chính phủ Việt Nam Dân chú Cộng hòa.
- Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện miền Bắc Việt Nam, từ bỏ mọi hoạt động chiến tranh chống Việt Nam Dân chù Cộng hòa, quân viễn chinh Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam.
Quan điểm của Chính phú Hợp chủng quốc:
- Bộ đội miền Bắc phải rút khỏi miền Nam, khôi phục khu phi quân sự, chấm dứt sự chi viện của miền Bắc với miền Nam.