Lời nói đầu
Nhằm đáp ứng sự tiến bộ của thời đại, mà trong số các ngành học ngày nay, ngoài các môn học về khoa học, kinh tế, giáo dục thì quản lý học là một môn rất quan trọng. Thông thường việc quản lý không nằm ngoài các vấn đề như: Quản lý nội bộ, quản lý ngoại vụ, quản lý tài chính, quản lý công việc, v.v. Nhưng trong xã hội ngày nay, còn có quản lý theo lĩnh vực chuyên môn như: Quản lý bệnh viện, quản lý trường học, quản lý thư viện, quản lý nhà máy, quản lý nhà hàng, quản lý nông nghiệp, v.v. Có thể nói, phạm vi quản lý khá sâu rộng, dường như không có gì là không cần đến quản lý cả.
Nói đến quản lý thì quản lý đồ đạc là dễ dàng nhất, ví dụ như sắp xếp cái bàn, cái ghế, sách vở, v.v. Dù bạn có di chuyển thế nào, thì nó cũng không lên tiếng, nhưng cũng vì thế, nên rất khó đánh giá được cách quản lý như vậy là tốt hay chưa tốt. Về cách quản lý tiền bạc, bạn dùng nhiều hay ít thì món tiền đó cũng không có ý kiến gì, dùng vào chỗ này, chỗ kia, nó cũng không hề phản đối. Tóm lại, tiền của bạn thì bạn tùy ý sử dụng; bạn không có tiền cũng chẳng sao cả. Còn việc quản lý con người thật là khó, bởi con người có tình cảm, tư tưởng, ý kiến, có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, nên sẽ có muôn vàn sự phân biệt. Song, việc khó hơn cả quản lý con người chính là quản lý cái tâm của mình. Có lúc, chúng ta sẽ trách người khác không nghe lời, khó quản lý, thực ra, bản thân ta đã từng thử nghe theo bản thân mình bao giờ chưa? “Tâm dao động như vượn, ý rong đua như ngựa”, con người không cần tu dưỡng cao siêu gì cả, chỉ cần quản lý tốt cái tâm của mình cũng đã khó rồi.
Tuy nhiên, so với các đoàn thể thông thường, ngoài khả năng quản lý vốn có, Phật giáo còn những nét đặc sắc riêng, đặc biệt về phương diện quản lý con người, quản lý tâm, cách quản lý bằng Phật pháp chứa đựng những nội dung quản lý mà hiệu quả có thể nhìn thấy được.
Nói đến quản lý học Phật giáo, tất cả các phương pháp đều là quản lý học. Ví dụ, Phật giáo dạy về từ bi, từ bi chính là Phật pháp; Phật giáo dạy nhẫn nại, nhẫn nại chính là Phật pháp; Phật giáo dạy trí tuệ, trí tuệ chính là Phật pháp; Phật giáo dạy không chấp trước, bên trong sự không chấp trước có phương tiện và linh hoạt, tùy theo tình huống mà áp dụng, đó chính là Phật pháp, Phật pháp trước hết là quản lý thân tâm. Nay chúng tôi xin trình bày sơ lược những đạo lý trong Phật pháp có tính chất tương đồng, phù hợp với cách quản lý trong quản lý học.
1. Quản lý theo quan niệm “Không gian khắp mười phương, thời gian cả ba đời”
“Không gian khắp mười phương, thời gian cả ba đời” vốn dùng để miêu tả Pháp thân bao trùm cả hư không pháp giới của Đức Phật. Chân thân của Đức Phật được gọi là Pháp thân1, Pháp thân không thể nhìn thấy từ hình dáng tướng trạng, không thể dùng chữ nghĩa để diễn tả, cũng không thể tưởng tượng được. Từ đó suy ra, Pháp thân là một cảnh giới không thể nghĩ bàn, chỉ có thể dùng câu: “Không gian khắp mười phương, thời gian cả ba đời” để khái quát.
Chú thích:
1 Pháp thân (S. Dharmakāya): Là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là Pháp (S. Dharma), là quy luật vận hành trong vũ trụ, là giáo pháp do Đức Phật truyền dạy. Phật xuất hiện trên trái đất, với nhân trạng, với mục đích cứu độ con người. Pháp thân được xem là Phật pháp (S. Buddha-dharma) như Phật Thích Ca giảng dạy trong thời còn tại thế. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Pháp thân có nhiều tên gọi khác nhau, tùy trường hợp sử dụng. Có lúc người ta xem nó là thể tính của mọi sự, là Pháp giới (S. Dharmadhātu, dharmatā), là Chân như (S. tathatā, bhūtatathatā), là tính Không (S. Sūnyatā), A lại da thức (S. Ālayavijñāna), hay xem nó như là Phật, Phật tính (S. Buddhatā), là Như Lai tạng (S. Tathāgatagarbha). Trong nhiều bộ phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng (xem kinh Nhập Lăng già, kinh Hoa nghiêm). Đạt trí tuệ siêu việt đồng nghĩa với sự trực chứng được Pháp thân.
Thực tế, Pháp thân của Đức Phật cao và lớn bao nhiêu? Pháp thân giống như hư không biến khắp mười phương. Hư không là vô biên, không có giới hạn, không chỉ là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc mà còn chứa cả Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Trên, Dưới, cho nên gọi chung là mười phương. Tuổi thọ của Đức Phật là bao nhiêu năm? Chính là thời gian cả ba đời, bao hàm cả quá khứ, hiện tại và vị lai, tuổi thọ của Đức Phật là vĩnh hằng.
Nếu có thể đem khái niệm “Không gian khắp mười phương, thời gian cả ba đời” vận dụng vào quản lý học là điều rất tốt. Bởi vì quản lý học quan trọng nhất chính là cần quan tâm đến các mối quan hệ. Ví dụ, chúng ta mời khách, không thể để quên một ai; làm việc cũng không thể thiếu mất một việc, thậm chí trong cách đối nhân xử thế, không thể có mình thì quên người khác; có cái này thì quên đi cái kia. Mọi việc đều phải suy nghĩ thấu đáo, bình đẳng, làm cho mọi người được hạnh phúc hoan hỷ, đó chính là “Không gian khắp mười phương”.
Không chỉ “Không gian khắp mười phương” mà cần cả “Thời gian cả ba đời”. Ví dụ, khi tổ chức yến tiệc, không thể chỉ nghĩ đến các mối quan hệ mới mà quên đi các mối quan hệ cũ. Thậm chí, ta cần phải xây dựng các mối quan hệ cho tương lai, kết mối thiện duyên với những người chưa từng quen biết, xây dựng nên mối quan hệ trong tương lai. Sau này, nếu như có việc cần sự giúp đỡ của họ, nhờ duyên này ta dễ mở lời, còn không sẽ như “nước tới chân mới nhảy”, lúc ấy làm sao yêu cầu người ta giúp mình được? Giống như trong một cơ quan đoàn thể vậy, bên trên có lãnh đạo, phía dưới có nhân viên, nếu như bạn không thể “Thời gian cả ba đời”, thì người trên đắc tội với kẻ dưới, hoặc kẻ dưới đắc tội với người trên, tất cả đều sẽ nảy sinh vấn đề. Ngược lại, nếu như bạn khéo ứng xử để “Thời gian cả ba đời”, quan tâm chu đáo các mối quan hệ quá khứ, hiện tại, tương lai, thì lãnh đạo và nhân viên đều thấu hiểu lẫn nhau, nhờ thế dễ dàng đạt được mục tiêu của việc quản lý.
Cho nên, trong cách đối nhân xử thế, giải quyết công việc và giao tế trong xã hội, làm bất cứ việc gì cũng cần “Không gian khắp mười phương, thời gian cả ba đời”, quản lý tốt nhân sự, quản lý tốt công việc, quản lý tốt nguồn lực, quản lý tốt thời gian, quản lý tốt không gian, các mối quan hệ nhân duyên đều được quản lý tốt thì chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được thành quả xuất sắc trong mọi lĩnh vực.
2. Bốn pháp giới trong quản lý
Phật giáo chia tất cả các pháp giới thành mười loại: Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, Trời, Người, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, giữa các pháp đó đều có ranh giới, ví dụ: Giữa Phật và Bồ tát có ranh giới, giữa Người và Súc sinh cũng có ranh giới, cho nên gọi là Mười pháp giới.
Ngoài ra, Duy thức học còn nói đến Mười tám giới cũng chính là sáu căn, sáu trần và sáu thức. Căn là các cơ quan cơ thể con người, như hệ thống thần kinh; trần là vật lý, chỉ tất cả hoàn cảnh bên ngoài; thức là tâm lý, có chức năng phân biệt, suy nghĩ. Sáu căn, sáu trần, sáu thức tổng hợp lại thì có 18 loại, giữa các loại đều có ranh giới. Ví dụ, trong sáu căn thì mắt nhìn, tai nghe, lưỡi nếm, mũi thở, thân thể xúc chạm, tâm phân biệt lớn nhỏ, vuông tròn, trong ngoài, v.v.
Sáu trần tức sáu loại cảnh giới. Trên phương diện hình dạng và màu sắc thì muôn màu muôn vẻ, ví dụ như, cái bàn khác với cái ghế, núi đồi và sông nước không giống nhau, âm thanh thì có tiếng lớn, tiếng nhỏ, tiếng dễ nghe, tiếng khó nghe; mùi thì có mùi thơm và mùi hôi; vị thì có chua, ngọt, mặn, đắng, cay; xúc giác thì có mềm cứng, lạnh nóng. Có thể nói tất cả mọi thức đều có ranh giới của nó. Sáu thức là khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, có sự phân biệt, và nảy sinh những phản ứng khác nhau.
Ứng dụng khái niệm “Mười pháp giới” vào trong quản lý học, chủ yếu nói rõ ranh giới giữa người với người. Anh A không phải anh B, anh C không phải anh D, cấp trên không phải là cấp dưới, giáo viên không phải là học sinh, thậm chí cha mẹ cũng có vai trò khác nhau, ai ai cũng có ranh giới riêng, không thể lẫn lộn. Giống như trên đường có phân làn xe, nếu như không tuân thủ luật lệ giao thông, lấn làn thì sẽ gây tai nạn; công trình kiến trúc cũng có bản thiết kế xây dựng, nếu như công nhân không dựa vào đó mà xây, thì dù phòng ốc có xây rộng lớn, mà vượt qua giới hạn cho phép thì cũng bị cưỡng chế theo pháp luật.
Vì thế, quản lý học và việc tu hành là khác nhau. Tu hành mong muốn sự bình đẳng, tất cả không lớn không nhỏ, không đúng không sai, không anh, không tôi, không so đo, không tính toán, là một sự tu dưỡng đạt được ở trình độ rất cao, là một cảnh giới hư vô, vượt qua giới hạn của việc quản lý. Nhưng khi làm việc thì không thể không phân định ranh giới rõ ràng, đây là thuộc xã hội thế gian, nên phải lấy nguyên tắc thông thường để xử lý, không thể sử dụng nhầm lẫn giữa pháp thế gian và xuất thế gian. Nói đến Pháp giới, Bốn pháp giới được giảng trong kinh Hoa nghiêm:
2.1. Sự pháp giới1
Chú thích:
1 Sự pháp giới: Đối lại với Lý pháp giới. Chỉ cho thế giới hiện tượng muôn nghìn sai khác trong vũ trụ, là pháp giới thứ nhất trong bốn pháp giới do tông Hoa Nghiêm thành lập. Tức các loại sự vật trong vũ trụ, mỗi loại đều có sự khu biệt và giới hạn, như các pháp sắc, tâm của chúng sinh, mỗi mỗi sai khác, đều có giới hạn riêng. (xt. Tứ pháp giới). Theo Phật Quang đại từ điển, mục từ 3041.
Trong một ngày chúng ta có rất nhiều việc phải giải quyết. Chỉ riêng việc tiếp khách, trong số những người khách ấy, chủ đề mà họ nói chuyện cũng không giống nhau, ví dụ: Đối với giáo viên thì nói về giáo dục, đối với bác sĩ thì nói về y học, đối với nhà văn thì nói về văn học. Cho nên, trong công việc cần có sự phân biệt khác nhau, cho dù trong một ngày chúng ta tiếp xúc bao nhiêu người, mối quan hệ giữa họ và ta, có người đã quen biết đã lâu, có người mới kết giao, cũng cần có thái độ giao tiếp phù hợp. Nếu chúng ta làm tất cả các việc mà hiểu được trên dưới, trước sau, trong ngoài không được vượt quá giới hạn cho phép, thì việc quản lý sẽ tự nhiên diễn ra thuận lợi.
2.2. Lý pháp giới1
Chú thích:
1 Lý pháp giới là muôn vật đều cùng một lý tính, chân như bình đẳng không sai biệt, là một trong bốn pháp giới do tông Hoa Nghiêm thành lập. [X. Hoa nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa sao Q.1; Hoa nghiêm pháp giới huyền kính]. (xt. Tam trùng quán môn, Tứ pháp giới). Theo Phật Quang đại từ điển, mục từ 1717.
Lý cũng có phép tắc nhất định, giống như cái bàn không phải cái ghế, cái bát không phải cái đĩa, thép không phải vàng, giữa các sự vật đều có ranh giới của nó, không thể nhập chung nói làm một.
Đặc biệt, đạo lý thật sự cần được mọi người chấp nhận, công nhận, chứ không phải cá nhân quyết định theo kiểu ông nói ông phải, bà cãi bà hay. Ví dụ như có người luôn nói rất nhiều đạo lý, nhưng chưa chắc đạt được sự công nhận của người nghe, thậm chí có khi còn khiến người ta phản cảm, sẽ lắc đầu về sự già mồm của anh ta. Do vậy, nếu muốn được nhiều người chấp nhận, ai nấy đều hoan hỷ, thì đạo lý cần phải được xây dựng trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng.
2.3. Lý sự vô ngại pháp giới
Mỗi một sự việc, không phân biệt lớn nhỏ, đều có đạo lý nguyên tắc, có nhân trước quả sau, quan hệ nhân duyên của nó. Đó chính là: “Trong lý có sự, trong sự có lý”, nếu làm bất cứ việc gì có thể dung thông lý và sự, hòa hợp thống nhất, thì chúng ta sẽ dễ dàng đạt được mục đích.
2.4. Sự sự vô ngại pháp giới
Trong cuộc đời này, mỗi một sự việc không những có quan hệ nhân trước quả sau, mà xét trên phương diện rộng hơn, chuyện xảy ra trong gia đình không chỉ có liên hệ với xã hội mà lớn hơn nữa nó còn có thể liên quan đến quốc gia, ảnh hưởng đến toàn thế giới. Giống như “nhổ một sợi tóc chấn động đến toàn thân”, các mối quan hệ trong vũ trụ có liên hệ hết sức mật thiết với nhau, nếu chúng ta đem sự việc phức tạp chuyển hóa thành đơn giản, có quy tắc, có trật tự, thì mọi việc đều trở nên đơn giản.
Phần trên đã trình bày bốn pháp giới trong kinh Hoa nghiêm, nếu chúng ta hiểu được pháp giới rồi, thì cũng sẽ hiểu được xã hội, biết cách đối nhân xử thế, và từ đó chẳng còn sợ thiếu sót gì nữa.
3. Bốn nhiếp pháp trong quản lý
Bốn nhiếp pháp chính là bốn loại phương pháp hướng dẫn bao dung, thu phục lòng người, khiến đối phương cùng chúng ta phấn đấu cho một sự nghiệp chung, có nhân duyên, cùng lý tưởng, có nền tảng để hợp tác giao lưu với nhau.
Nếu muốn thu phục lòng người, đầu tiên chúng ta cần mang đến lợi ích cho họ. Ví dụ, trong cách quản lý nhân sự, cho dù người ta đến để làm thiện nguyện, chúng ta cũng không thể có suy nghĩ rằng: “Họ là những tình nguyện viên, đến để cho tôi sai khiến”. Họ phát tâm làm thiện nguyện, chúng ta càng nên tích cực làm việc của một tình nguyện viên, như vậy mới có tư cách điều phối, phân công họ làm việc. “Trên đời này không có bữa cơm trưa nào miễn phí”, đừng nghĩ cách chiếm công, chiếm lấy lợi ích của người khác, như thế chúng ta sẽ không bao giờ kết giao được với những người bạn chân thành, và chúng ta cũng không thể làm nên việc gì cả. Thế thì, Bốn nhiếp pháp là bốn phương pháp nào?
3.1. Bố thí
Chia sẻ chính là đạt được, biết cho đi thì sẽ được nhận lại. Nếu bạn không muốn cho đi thì làm sao mọi người có thể cho bạn cái gì được? Cho dù có một thửa ruộng tốt, nếu bạn không canh tác trồng trọt, thì không thể nào mọc lên cây trái tươi tốt. Vì thế, tưởng chừng chia sẻ là chúng ta đang cho mọi người, nhưng trên thực tế là đang cho chính mình; bố thí là cho người, nhưng trên thực tế bản thân sẽ nhận lại càng nhiều. Biết bố thí thì sẽ nhận được thu hoạch, đó là quan hệ nhân quả hiển nhiên.
Trong xã hội này, có một số người chỉ biết bản thân mình, không quan tâm đến người khác, và kết quả của sự tham lam ấy, chính là mất hết người thân, chúng bạn xa lìa, không thành tựu bất cứ việc gì. Nhưng cũng có không ít người nhận được sự yêu quý của mọi người, như vầng trăng được tôn thêm vẻ đẹp bởi vô số các vì sao bên cạnh. Đó là vì sao? Là bởi người đó luôn rộng lượng, hoan hỷ sẻ chia. Từ đó có thể thấy rằng, nếu muốn có nhân duyên tốt, được muôn người ủng hộ, thì chúng ta không thể không ngừng phát huy tính cách tốt đẹp là biết chia sẻ của mình. Có thể nói, bố thí là pháp môn quản lý hàng đầu trong Bốn nhiếp pháp.
3.2. Ái ngữ
Làm một người lãnh đạo đối đãi với cấp dưới không thể chỉ biết ngày nào cũng trách người này, trách người kia. Trong lòng ngập tràn sự oán giận thì ta không thể thu phục được lòng người. Mục tiêu ta cần hướng đến là có lòng khoan dung, có sự tu dưỡng, đặc biệt khi nói chuyện cần khéo sử dụng ái ngữ (lời nói tốt đẹp, thiện lành), biết khen ngợi người khác.
Giữa người với người cần có sự tôn trọng lẫn nhau. Khen ngợi là một đức tính tốt cần có, cho dù là thân như vợ chồng, thì đôi bên cũng cần sự khen ngợi; thậm chí làm việc với người khác cũng vậy, khi bắt đầu hợp tác chúng ta cần khen ngợi người ta vài câu để kéo gần khoảng cách giữa đôi bên. Giống như trong cách viết thư của người Á Đông vậy, lời hỏi thăm ban đầu trước tiên là khen ngợi, sau đó mới đi vào nội dung chính. Bởi thế, pháp môn khen ngợi là vô cùng vi diệu trong quản lý học, đó là cách đầu tư không cần tốn kém nhiều nhưng mang lại món lợi lớn.
3.3. Lợi hành
Sống trong xã hội ngày nay, phàm làm việc gì chúng ta cũng không nên chỉ nghĩ đến bản thân mình, cho rằng: “Tôi muốn thế này, tôi muốn thế kia, các vị đều phải giúp tôi”. Nếu cứ hành xử như thế, thì lâu dần mọi người sẽ xa lánh, và không muốn tiếp xúc với bạn nữa.
Cỏ cây rừng rậm um tùm tốt tươi, chim thú sẽ về sinh sống, sông hồ biển cả mênh mông bát ngát, cá tôm sẽ đến vẫy vùng. Nếu như bạn có thể giống như rừng cây, biết che mát cho người khác, thì nào sợ không ai đến nương tựa. Nếu như bạn có thể giống như biển cả, tấm lòng bao la rộng lớn thì không ai không muốn theo bạn. Vì thế, thực hiện lợi hành chính là phục vụ cho người, cống hiến cho người, cho người một chút trợ lực, cho người một chút trợ duyên, để họ đạt được lợi ích, trông thì có vẻ như là chúng ta đang làm lợi cho người, nhưng thực tế người hưởng lợi chính là bản thân mình, yêu kính mọi người chính là yêu kính chính mình.
3.4. Đồng sự
Thế nào là đồng sự? Chính là bạn và tôi không phân thành hai thế giới mà là quan hệ hỗ tương, xem như người một nhà, đồng hương, đồng học, đồng sự, cũng có thể là cùng cơ quan đoàn thể, cùng hệ tư tưởng, v.v. Hay nói một cách khác, đồng sự chính là xem việc của người khác như việc của chính mình.
Thể hiện tâm từ bi hỷ xả, bạn là người như thế nào, thì tôi cũng dùng phương pháp như thế ấy để đối đãi với bạn. Giống như khi người mẹ cho em bé bú sữa, tâm từ ái được thể hiện thì em bé cũng theo đó mà há miệng ra, biểu hiện sự đồng lòng giữa mẹ và con, đó chính là đồng sự. Giữa người với người nếu có thể đồng lòng thì còn lo không có trợ duyên, trợ lực hay sao? Bốn phương pháp Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành, Đồng sự, có thể tạo ra nhân duyên cho mọi người, ai nấy chung sức một lòng thì sẽ giống như sức hút của nam châm khiến cho người khác muốn thân cận với bạn. Vì thế, Bốn nhiếp pháp được ứng dụng trong quản lý học, cũng có ý nghĩa độc đáo riêng của nó.
4. Tứ vô lượng tâm trong quản lý
Tôi thường nói: “Có Phật pháp là có biện pháp”. Vậy Phật pháp là gì? Phật pháp đã cung cấp cho người ta những phương pháp nào? Ở đây tôi xin chỉ nói rõ về bốn cái tâm rộng lớn là từ, bi, hỷ, xả, được áp dụng trong cách quản lý như thế nào.
4.1. Tâm từ vô lượng
Thế nào là từ? Từ là mang lại niềm vui cho người khác. Trong xã hội ngày nay, ta thường nghe thấy có người vì lòng từ bi mà không sát sinh, yêu quý và giữ gìn sinh mạng của vạn vật, vì thế mà các loài vật cả đời cảm niệm và trung thành với người đó.
Động vật còn như thế, nếu như chúng ta có thể bố thí tâm từ đối với người khác, mang lại cho người lợi ích, nhân duyên, trợ lực, giúp đỡ người, tử tế với người, thì người ta làm sao không vui vẻ chấp nhận sự sắp xếp của ta được? Có câu: “Tâm từ bi thì không có kẻ thù”, nếu như chúng ta sống trên đời này, có thể dùng tâm từ bi vô lượng để quản lý cuộc sống của chính mình, lấy đó làm phương pháp để giúp đỡ người khác, dựa trên nguyên tắc “Lấy từ bi để mang tặng niềm vui” mà đối xử với nhau, thì còn sợ làm việc không thành tựu hay sao?
4.2. Tâm bi vô lượng
Thế nào là bi? Chính là giải trừ nỗi khổ đau cho người khác. Trong xã hội ngày nay, tại sao đệ tử học hạnh của Bồ tát Quán Thế Âm là đông đảo nhất? Bởi Ngài có hạnh nguyện “Tầm thanh cứu khổ”, phát nguyện: “Nơi nào khẩn cầu thì Ngài sẽ xuất hiện nơi đó để cứu khổ”. Nếu một người có tâm thương xót cứu khổ cứu nạn, thì làm sao không khiến cho người ta cảm động và chấp nhận người ấy quản lý chứ?
Quan sát cuộc sống này, tại sao lại có nhiều người tín ngưỡng tôn giáo, thậm chí có rất nhiều người tình nguyện vì tôn giáo mà bỏ công bỏ sức làm thiện nguyện? Chính là vì ý nghĩa của tôn giáo là phục vụ cho con người, mang lại niềm vui cho người, giải trừ nỗi khổ cho người. Vì thế, các vị lãnh đạo ở bất cứ ngành nghề nào, nếu như muốn quản lý một cách hiệu quả, thì cần làm tốt công tác quản lý nhân sự, trước tiên cần giúp đỡ cấp dưới, tăng thêm phúc lợi cho họ, giảm thiểu khó khăn cho họ.
4.3. Tâm hỷ vô lượng
Với tư cách là nhà quản lý, bất kể làm việc gì cũng cần khiến cho mọi người ai nấy đều hoan hỷ. Ai nấy đều hoan hỷ thì sẽ làm cho mọi người tự chủ, tự động, tự vui vẻ mà làm việc, dễ dàng thành tựu. Ngược lại, một số người vui, một số người buồn, người buồn thì trong lòng đầy tâm tư, thì làm sao chịu sự quản lý của lãnh đạo đây? Nói cách khác, quý vị làm khó, không tạo điều kiện cho người khác, thì người ta cũng chẳng ủng hộ quý vị, vì thế, cần cho mọi người hoan hỷ, biết giúp đỡ người khác, giải quyết khó khăn cho họ. Ví dụ, nói một vài câu nói tốt đẹp để giải trừ đi những muộn phiền trong lòng; sắp xếp cho họ nhiều điều kiện tốt, giải quyết khó khăn cho họ; giới thiệu một vài mối quan hệ tốt đẹp, giúp họ vượt qua chướng ngại, thì họ mới ủng hộ quý vị được.
Ở Phật Quang Sơn, khi làm việc cần áp dụng “Bốn tặng”1, trong đó có hoan hỷ tặng người. Rất nhiều việc bởi làm việc với lòng hoan hỷ nên dễ dàng thành công, không tặng người hoan hỷ, cho dù là miễn cưỡng hoàn thành công việc thì cũng không lâu bền. Trong Phật giáo, rất nhiều vị Bồ tát đều lấy hoan hỷ làm tên, giống như Bồ tát Di Lặc còn có tên là Hoan Hỷ Phật, ngoài ra còn có Tinh Tiến Hỷ Phật, Bồ tát Thiền Duyệt Tạng, Bồ tát Hoan Hỷ Địa, v.v. Nếu như trong một đoàn thể có thể khiến cho mọi người làm việc hợp tình hợp lý, có tình có nghĩa, ai nấy hoan hỷ, thì đó là điểm vi diệu nhất của quản lý học.
Chú thích:
1 Bốn tặng: Tặng người niềm tin, tặng người hoan hỷ, tặng người hy vọng và tặng người thuận lợi.
4.4. Tâm xả vô lượng
Xả chính là bố thí chia sẻ, tôi nhìn thấy anh, gửi anh một ít tiền, tặng anh vài món quà, đó là bố thí. Tôi gửi tặng một nụ cười, một cái gật đầu cũng là bố thí. Tôi tặng anh một câu nói hay, một cái chắp tay cũng là bố thí. Tôi gửi anh sự cung kính, tạo một vài nhân duyên thiện lành cũng là bố thí.
Anh nhận được sự chia sẻ của tôi, có được lợi ích từ tôi, thì làm sao mà không hợp tác với tôi được? Vì thế, với tư cách là một vị lãnh đạo, muốn quản lý tốt cần phải có tâm chia sẻ, đó là một môn học hết sức quan trọng. Phàm những người khéo quản lý đều là những người có tâm rộng lớn, yêu thích việc nghĩa, giúp người thành công. Tưởng chừng chia sẻ là giúp đỡ người khác, trên thực tế, bản thân cũng có thu hoạch, giống như mùa xuân gieo trồng, mùa thu còn sợ không có thu hoạch hay sao? Quý vị mang lại lợi ích cho người khác, thì làm sao họ lại không muốn báo đáp? Người ta báo đáp quý vị chính là thành công của quý vị trong cách quản lý. Đó chính là: “Có Phật pháp là có biện pháp”. Nếu như chúng ta khéo vận dụng từ, bi, hỷ, xả, thì sẽ tăng thêm hiệu quả trong cách quản lý.
5. Lục độ trong quản lý
Lục độ bao gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã. Người học Phật quan trọng nhất là tự độ, độ người. Thế nào là tự độ? Chính là tự kiện toàn bản thân để người khác chấp nhận. Độ người chính là tạo nhân duyên, giúp người khác thành công. Tự độ rồi thì mới có thể độ người, độ người mới có thể tự độ. Chữ độ có nghĩa là đến bờ bên kia. Ví dụ: Quý vị ở bờ bên này, tôi tặng quý vị một chiếc thuyền để quý vị qua sông đến bờ bên kia. Quý vị đang ở bờ mê hoặc, tôi tặng quý vị một chút trí tuệ, để tâm quý vị được sáng tỏ đi đến bờ bên kia. Quý vị đang ở bờ khổ nạn bên này, tôi giúp quý vị giải trừ nỗi khổ, đến bờ thân tâm tự tại bên kia. Và như thế, tôi đã giúp quý vị được độ, tiến bộ, từ đó quý vị cũng sẽ chấp nhận sự lãnh đạo của tôi.
Ngày nay, có một số doanh nhân tuy không tiếp xúc với Phật pháp, không biết Lục độ là gì. Nhưng với vai trò là một vị lãnh đạo, trong cử chỉ lời nói, họ đã thực hành các tinh thần Lục độ, vì thế mà nhận được sự tin cậy của cấp dưới. Cũng có một số nhân vật chính trị đã làm việc với nội dung của Lục độ, lấy nhu cầu và sự tiến bộ của người dân làm nền tảng, vì thế mà cũng được đại chúng tán thán, khen ngợi, thậm chí còn tuyên dương đức hạnh của họ ở khắp nơi. Những nhân vật đạo đức như vậy thì chắc chắn sẽ được lòng dân.
Đương nhiên không chỉ có doanh nhân, chính trị gia mới cần tới tinh thần Lục độ. Muốn quản lý thành công, thì gia đình, trường học, đoàn thể, xã hội đều cần Lục độ. Thậm chí trong một quốc gia, nếu người lãnh đạo có thể áp dụng pháp môn Lục độ để trị nước, thì toàn dân nhất định sẽ một lòng yêu nước và bảo vệ đất nước. Vì thế, áp dụng pháp môn Lục độ trong quản lý có thể ở phạm vi lớn có thể ở phạm vi nhỏ. Từ góc độ nhỏ mà nói, bản thân cần áp dụng Lục độ để quản lý chính mình; từ góc độ lớn mà nói, dùng pháp môn Lục độ để quản lý đoàn thể, thì đoàn thể ấy nhất định sẽ thành công; dùng để quản lý đất nước thì nhân dân cả nước đều sẽ hoan hỷ, thậm chí quản lý thế giới thì thế giới sẽ hòa bình. Dưới đây tôi xin trình bày chi tiết hơn về phương pháp quản lý với tinh thần Lục độ.
5.1. Bố thí
Trong xã hội, giữa người với người cần có sự tương trợ lẫn nhau. Nếu như không thể mang lại chút ít lợi ích và thuận lợi cho người thì dựa vào đâu mà mong muốn người ta chấp nhận sự lãnh đạo, quản lý của bạn?
Ngày nay có rất nhiều đoàn thể, tuy là do ba hoặc năm người bạn tốt góp vốn lại thành lập, nhưng khó tránh khỏi có người vì mưu cầu lợi ích cá nhân mà không nể tình. Phòng ốc dù kiên cố đến mấy, cũng có khi bị động đất và mưa bão ập đến vùi dập, hơn nữa dù an toàn đến đâu thì cũng cần phải đề phòng. Tình hữu nghị cho dù kiên cố đến mấy, thì khi đôi bên nảy ra xung đột về lợi ích, như vậy thì làm sao có thể cùng đi đến thắng lợi được? Vì thế, đứng trên lập trường của quản lý học, người lãnh đạo cần có tâm bố thí và thành ý mới khiến người khác cam tâm tình nguyện để cho bạn lãnh đạo. Bạn tạo điều kiện cho người khác thì mới được lòng người, lúc ấy không lo người không ra sức đền đáp. Hoàng đế cũng không sai khiến được đoàn binh đói khát, cho dù chỉ là giúp đỡ những người cơ nhỡ neo đơn, bần cùng khổ sở, thì sau này họ thoát khỏi cảnh khổ, lẽ nào họ lại không biết quay về hỗ trợ bạn?
Bố thí có rất nhiều loại, có bố thí vật chất, bố thí tiền tài, bố thí tình nghĩa, bố thí bằng cách giải quyết khó khăn cho người khác, v.v. Đương nhiên, bố thí không phải là cho người theo cách tiêu cực, ví dụ như cho ăn mày, tôi miễn cưỡng cho họ một chén cơm, không muốn lần sau họ lại đến, đó không phải là bố thí. Bố thí nên là chủ động, tích cực, người ta đến xin, sau khi tôi cho cơm rồi, còn phải nói: “Cảm ơn đã xem trọng tôi, để tôi được gieo duyên lành với quý vị”. Đối đãi với người khác cần biểu thị sự tôn trọng, như vậy mới là bố thí thật sự.
Nếu như trong lòng bạn nghĩ: “Tôi có thể bố thí, thật là vĩ đại; anh nhận sự bố thí của tôi thật là đáng thương, hèn mọn” hoặc “đồ mà tôi bố thí rất có giá trị”, “tôi đã quyên góp từ thiện biết bao nhiêu”, “tôi đã từng tặng bao nhiêu tiền”, những cách bố thí như vậy, đều chỉ là bố thí có hình tướng, thành quả của việc bố thí ấy cũng hữu hạn.
Phật giáo nói về bố thí chủ yếu có ba loại, ngoài bố thí tiền của, cao hơn một chút là bố thí Phật pháp, đem chân lý Phật pháp để giúp đỡ mọi người. Bố thí tiền tài cho người, thì sẽ có ngày dùng hết, nhưng bố thí Phật pháp cho người thì có thể sử dụng cả đời. Cao nhất của sự bố thí chính là bố thí vô úy, giúp người khác vượt qua nỗi sợ hãi. Ví dụ, có người rơi vào hoàn cảnh bất an, bạn nói: “Có tôi đây anh đừng lo lắng, tôi sẽ làm hậu thuẫn cho anh, tôi sẽ bảo vệ anh, anh đừng sợ!” Nhận được sự cổ vũ thì tin rằng cho dù người đó có lòng dạ sắt đá cũng sẽ vì thế mà cảm động thật nhiều.
Thật ra, trong cuộc sống thường nhật, pháp môn bố thí có thể được thực hiện ở bất cứ đâu. Ví dụ, tiện tay bố thí, lấy ghế cho người ngồi, rót trà mời người uống. Thuận miệng bố thí, chúng ta khen ngợi người khác: “Thật giỏi giang”, “Nhiều thành tựu”, “Có đạo đức”, “Thật biết giữ chữ tín”, “Thật trang nghiêm”, “Phát tâm rộng lớn”. Tùy sức bố thí, khi có người cần giúp đỡ, hoặc là viết giúp một lá thư giới thiệu, gọi giúp điện thoại, tặng một món quà lưu niệm, chỉ cần ta có thể làm được thì đều nên vui lòng giúp sức. Tùy tâm bố thí, cho dù chúng ta không khéo nói lời hay, không có năng lực giúp đỡ người khác thì cũng không sao cả, khi nhìn thấy người ta làm việc tốt, trong lòng hoan hỷ mà không đố kị, không chướng ngại, thì đó cũng là bố thí rồi.
Giữa lãnh đạo và nhân viên cũng cần có tâm bố thí với nhau, lãnh đạo bằng lòng kết giao thân mật cùng nhân viên, lẽ nào nhân viên không kính trọng khâm phục lãnh đạo? Cũng vậy, nhân viên có thể kết giao tâm tình với lãnh đạo, hết lòng trợ giúp lãnh đạo, thì lẽ nào lãnh đạo không trọng dụng vị nhân viên ấy? Vì thế, bố thí qua lại, đôi bên hợp nhất thì sẽ làm nên việc. Trước đây ở trường Đại học Bình Đông có giáo sư cư sĩ Trần Bá Đạt từng viết một quyển sách là Để cuộc sống được viên mãn - Bố thí ba la mật, nội dung mấy mươi vạn chữ, chỉ viết lợi ích của sự bố thí, từ đó có thể thấy tầm quan trọng của sự bố thí.
5.2. Trì giới
Trong xã hội được quản lý bằng pháp luật ngày nay, chỉ cần bạn không phạm pháp, mọi người đều sẽ tôn trọng bạn; nếu như bạn thường xuyên làm điều phạm pháp, trộm cắp thì ai ai cũng ghét bỏ.
Thế nào là giới? Chính là pháp trị (quản lý bằng pháp luật, phép tắc), trì giới chính là giữ gìn luật pháp, cũng chính là không xâm phạm đến lợi ích của người khác, không tổn hại danh dự của người khác và không phá hoại nhân duyên của người. Theo phương diện tiêu cực, trì giới chính là không xâm phạm, không gây phiền phức cho người khác, theo phương diện tích cực, tinh thần của trì giới chính là đem lại lợi ích, bảo vệ và làm lợi ích cho mọi người. Trong xã hội ngày nay, có rất nhiều nhà hảo tâm phát động giúp đỡ trẻ em nghèo, họ không chỉ trao học bổng, mà còn cung cấp bữa cơm trưa dinh dưỡng, giúp đỡ đời sống gia đình, đó chính là mặt tích cực của trì giới. Khi thấy người ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn liền giúp đỡ, lẽ nào sau này họ không biết cảm ơn bạn hay sao? Vì thế, nhân quả chính là trồng nhân nào thì sẽ gặt quả tương ứng vậy!
Phật giáo có khái niệm Tam tụ tịnh giới1, một là Nhiếp luật nghi giới, làm người cần quang minh chính đại, không xâm phạm người khác; hai là Nhiếp thiện pháp giới, cũng chính là phát tâm, tích cực giúp đỡ người khác, mang lại lợi ích cho người, độ khắp tất cả chúng sinh. Có câu: “Làm lãnh đạo mà tư tưởng hành vi không chính, thì cấp dưới cũng sẽ học theo” và ngược lại, nếu như lãnh đạo có đầy đủ tinh thần giới luật, làm người đoan chính, thì cấp dưới cũng sẽ theo đó mà chấp nhận sự lãnh đạo của vị ấy.
Chú thích:
1 Tam tụ tịnh giới (S. Tri-vidhāni śīlāni): Cũng gọi là Bồ tát Tam tụ giới, Tam tụ thanh tịnh giới, Tam tụ viên giới. Gọi tắt: Tam tụ giới, Tam tụ. Chỉ cho giới pháp của Bồ tát Đại thừa. Tụ nghĩa là chủng loại. Vì ba loại giới pháp này rất thanh tịnh, bao hàm các giới Đại thừa, viên dung vô ngại, cho nên gọi là Tam tụ tịnh giới, Tam tụ viên giới.
(1) Nhiếp luật nghi giới (S. Saṃvara-śīla): Chỉ cho pháp môn ngăn ác, bao hàm mọi luật nghi, dứt bỏ tất cả các điều ác; là giới của bảy chúng thụ trì, tùy theo tại gia, xuất gia khác nhau mà chia ra các giới điều như: Năm giới, tám giới, mười giới, giới Cụ túc, v.v. cũng có thể quy thành ba loại chung là Biệt giải thoát giới, Định cộng giới và Đạo cộng giới. Lại nữa, giới này là nhân của Pháp thân, vì Pháp thân vốn tự thanh tịnh, nhưng bị điều ác che lấp nên không hiển lộ ra được; nay dứt lìa các điều ác thì thì công thành đức hiện.
(2) Nhiếp thiện pháp giới (S. Kuśala-dharma-saṃgrāhaka-śīla): Nghĩa là tu tập tất cả pháp lành. Đây là môn tu thiện, là luật nghi giới mà Bồ tát tu hành, đem các điều thiện do thân, khẩu, ý tu được hồi hướng về Vô thượng bồ đề, như thường siêng chăm tinh tiến, cúng dường Tam bảo, tâm không buông thả, giữ gìn các căn môn và thực hành sáu ba la mật, v.v. nếu phạm lỗi thì như pháp sám trừ, nuôi lớn các thiện pháp. Đây là nhân của Báo thân, do tu thiện dứt ác nên trở thành duyên của Báo thân Phật.
(3) Nhiếp chúng sinh giới (S. Sattvārtha-kriyā-śīla): Cũng gọi Nhiêu ích hữu tình giới, Tác chúng sinh ích giới. Nghĩa là vận dụng từ tâm nhiếp thụ làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, đây là môn lợi sinh. Theo Phật Quang đại từ điển mục từ 665.
5.3. Nhẫn nhục
Trên thế gian này, sức mạnh lớn nhất phải chăng là gào thét động trời? Không chắc. Là súng đạn? Cũng không chắc. Là trời đất rung chuyển, mưa bão thét gào? Cũng không chắc. Sức mạnh lớn nhất thế gian là nhẫn, chỉ cần có nhẫn thì mọi việc đều ổn thỏa, người dù có hung hãn đến mấy, khi gặp phải người biết nhẫn nhịn thì cũng sẽ bị khuất phục.
Ngạn ngữ có câu: “Nhẫn một lúc thì gió yên sóng lặng, lùi một bước thì biển rộng trời cao”. Cái nhẫn này chỉ là tiêu cực. Nhẫn trên phương diện tích cực là chủ động giải quyết khó khăn, giúp đỡ oan gia thù địch, khen ngợi những kẻ ta chán ghét. Có được tâm lượng như vậy, thì việc đối nhân xử thế sẽ gặt hái được thành tựu không thể nghĩ bàn. Nhẫn có ba mức độ: dằn lòng chịu đựng, an thọ khổ nhẫn, quán chiếu pháp nhẫn, còn có tên gọi là sinh nhẫn, pháp nhẫn, vô sinh pháp nhẫn, nhẫn ở đây đang nói đến chính là dằn lòng chịu đựng.
Một người cho dù là có quyền lực lớn đến đâu đi chăng nữa, có thể dùng súng đạn gươm đao để giết người khác, nhưng không thể giết chết tinh thần của họ được; cho dù có thể hủy hoại thân thể của người khác, nhưng không thể hủy hoại thế giới tinh thần của họ. Bởi thế, sống ở trên đời, đừng nghĩ rằng có thể dùng quyền lực, tiền tài, thế lực nhất thời là có thể hạ gục người khác, chúng ta cần biết rằng những thứ ấy chỉ như gió thoảng mây bay, sức mạnh thực sự là nhẫn.
Thời Ngũ đại, tể tướng Phùng Đạo là một người có tu dưỡng, là một tấm gương về lòng nhẫn nại, thế nhưng phó tể tướng Hòa Ngưng1 thì lại là một người không có sự tu dưỡng, làm việc nông nổi. Có một câu chuyện vui thế này:
Có lần, Phùng Đạo mua một đôi giày, Hòa Ngưng nhìn thấy bèn nói: “Chao ôi, ngài mua một đôi giày mới ư!” Sau đó bèn chỉ vào một chiếc giày mà hỏi: “Ngài mua nó bao nhiêu tiền?”
Phùng Đạo bèn đáp: “Tôi mua 900 đồng”. Hòa Ngưng vừa nghe xong thì đột nhiên nổi nóng, quay đầu lại lập tức mắng cấp dưới rằng: “Lẽ nào lại vậy, tướng gia mua có 900 đồng, còn ngươi lại mua giúp ta tới 1.800 đồng?”
Không ngờ, lúc ấy Phùng Đạo lại giơ chân còn lại ra, chậm rãi nói: “Thêm chiếc này cũng 900 đồng”.
Chú thích:
1 Hòa Ngưng (898 - 955), Phùng Đạo (882 - 954) là những vị quan trong cùng triều thời Ngũ đại (907 - 960).
Người thể hiện cái dũng của kẻ thất phu thì dễ dàng nổi nóng, không thể xem là một người có sức mạnh thật sự. Trong kinh Phật dạy: “Đức của nhẫn lớn hơn trì giới khổ hạnh, người thực hành nhẫn được thì mới gọi là người có sức mạnh vĩ đại; nếu như không thể hoan hỷ nhẫn chịu những lời mắng chửi thô ác, thì giống như người uống nước cam lồ nhưng chẳng thể vào được đạo của người trí vậy”. Vì thế, người lãnh đạo cần trở thành một người có sức mạnh vĩ đại, có thể nhẫn nhịn được những việc mà người khác không thể nhẫn, vì cấp dưới mà gánh vác nhiều trọng trách, giúp người giải quyết nhiều vấn đề, cần có tâm lượng rằng: “Khổ nạn để tôi gánh vác, phú quý vui vẻ tặng cho người”. Có thể trưởng dưỡng được lòng nhẫn nại như thế thì còn sợ không phục được quần chúng hay sao?
5.4. Tinh tiến
Trong quản lý học, sự tinh tiến là rất quan trọng. Bởi vì trong quản lý coi trọng mọi việc đều có tiến triển, phát triển, thuận lợi, an toàn, và mang lại lợi ích. Nếu như người thi hành không tinh tiến, gặp việc thì chán nản xử lý, thì làm sao có thể thành tựu đây? Vì thế, duy chỉ có tinh tiến, việc hôm nay thì hôm nay phải làm cho xong, thì mới có thể tiến bộ, phát triển được.
Tinh tiến chính là siêng năng, đó gọi là “siêng năng thì làm nên sự nghiệp, vui chơi cũng chỉ vô ích mà thôi”, loài chim còn phải dậy sớm mới tìm được thức ăn; vàng ròng theo dòng thủy triều mà lộ ra nhưng cũng cần con người dậy sớm để vớt; vàng ở bên dưới hàng giậu nếu như không đào, thì làm sao phát hiện ra? Tất cả mọi việc đều dựa trên sự siêng năng mới có thu hoạch.
Phật giáo nói có bốn loại tinh tiến: Một là việc thiện chưa làm cần nỗ lực siêng làm; hai là việc thiện đã làm cần siêng năng, khẩn trương làm hơn nữa; ba là việc ác chưa làm thì cần dụng tâm trừ bỏ nó, không để nó nảy sinh; bốn là việc ác đã làm thì cần sám hối sửa đổi, không tái phạm.
Ngày nay, các nhà lãnh đạo quản lý luôn yêu cầu nhân viên phải siêng năng, nỗ lực, nhưng siêng năng, nỗ lực không phải là do ta ra lệnh cho họ mà có được, yêu cầu họ phải nghe theo lệnh, như vậy cũng chỉ là sự phục tùng nhất thời, khó mà lâu dài. Vì thế, thân giáo vẫn hay hơn ngôn giáo, đặc biệt cần để cho cấp dưới hiểu được mục tiêu và ý nghĩa của công việc, biết được mối quan hệ giữa bản thân và công việc. Bản tính của con người là sẽ thoái thác và làm không nghiêm túc việc của người khác; nhưng nếu là việc của bản thân mình thì sẽ nhiệt tình và chu toàn. Có những vị ở các công ty lớn tuy đã đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo cao cấp, nhưng mỗi ngày lại qua loa chiếu lệ làm việc qua ngày; có những người tuy chỉ mở một tiệm cơm nhỏ, hoặc bày hàng quán buôn bán, nhưng mỗi ngày từ sớm đến tối nghiêm túc làm việc, bởi họ nhận thức rõ công việc này liên hệ đến chính mình, là bổn phận, công việc của chính mình, vì thế mà họ nỗ lực làm việc.
Từ đây có thể nói đến sự trợ lực của niềm tin trong quản lý. Có người bởi vì tin tưởng nhân quả, biết rằng mọi việc đều có liên hệ với nhau, cho nên làm việc không dám tùy tiện, qua loa; có người bởi vì tin tưởng vào mục tiêu, tầm nhìn trong tương lai mà nỗ lực không ngừng để đạt được mục tiêu ấy. Thông thường, con người ta làm việc luôn thích so đo bao nhiêu ngày nghỉ, kiếm bao nhiêu tiền lương, ngày ngày đều hy vọng được nghỉ, tăng lương, nếu như bạn có thể trình bày cho anh ta hiểu được ý nghĩa của công việc, tầm quan trọng của sự phát tâm, có được mục tiêu cuộc đời rồi, thì tự nhiên anh ta sẽ tự nguyện mà làm, dễ dàng đạt được mục tiêu đã định. Vì thế, muốn gia tăng sự tinh tiến của người khác, đầu tiên cần đáp ứng yêu cầu của người ấy.
Trước đây, Hiệu phó trường Đại học Đài Loan (Trung Quốc) - Thang Minh Triết đến thăm tôi, ông từng thẳng thắn trình bày: “Khi làm việc, các cư sĩ tại gia chúng tôi đều yêu cầu có bao nhiêu ngày nghỉ phép, càng nhiều càng tốt; đều yêu cầu được hưởng bao nhiêu tiền lương, hơn nữa có thể tăng lương càng nhiều càng tốt, nhưng lại không quá chú trọng thành quả công việc. Thế mà, tôi thấy các vị xuất gia ở Phật Quang Sơn đã không có nghỉ phép, cũng không có lương, mỗi ngày lại hết sức bận rộn, nhưng ai nấy đều nghiêm túc, siêng năng làm việc, thậm chí còn tăng ca làm đêm mà không nửa lời oán thán. Sức mạnh như vậy có được từ đâu vậy?”
Tôi nghe thấy không sai, quả thật là như vậy, bèn nói với giáo sư ấy: “Người trong xã hội ngày nay sống đời sống lấy ‘có’ làm vui, đương nhiên hy vọng có ngày nghỉ, có tiền lương, v.v. tất cả đều cần ‘sở hữu’; người xuất gia sống đời sống lấy ‘không’ làm bạn, việc gì cũng chú ý đến, cho đi không suy nghĩ, hoá độ mọi người không kể thân sơ, không tính toán lợi ích bản thân, bởi thế nên họ không đòi hỏi ngày nghỉ, đãi ngộ, làm việc thì lại rất nhiệt tình, không cần người ta ra lệnh cũng tự mình phát tâm làm, tự mình tinh tiến, đương nhiên mọi việc cũng dễ thành tựu”. Giáo sư Thang Minh Triết nghe xong thì cảm thấy tưởng như hiểu nhưng dường như không hiểu.
Tóm lại, người ở Phật Quang Sơn có thể nỗ lực làm việc hơn người, là bởi vì họ không tính toán ngày nghỉ và đãi ngộ, họ quan tâm đến: “Tôi phụng sự vì tin tưởng, vì đại chúng, vì thường trụ, phục vụ cho xã hội, cho nên tôi phải dốc hết toàn lực”. Do đó, nếu như mỗi một người đều có thể đạt được trình độ làm nhưng không yêu cầu, đòi hỏi, không mong mỏi sở hữu mà tự có thì khi làm mọi việc cũng trở nên vô cùng thuận lợi.
5.5. Thiền định
Thiền định trong đời người, không nhất định yêu cầu bạn phải tu hành, theo đuổi giải thoát sinh tử, cũng không yêu cầu bạn thân thẳng tọa thiền, nhập định như một người tu hành lão luyện. Mục đích của thiền định chỉ hy vọng bạn có được một chút tu dưỡng, làm bất cứ việc gì cũng đừng nên bộp chộp, xốc nổi mà cần có kế hoạch chu toàn, tìm hiểu rõ ràng. “Động nhanh như thỏ, tĩnh lặng như cọp”, trong động có tĩnh, trong tĩnh có động, động tĩnh làm một, ắt có thể thành tựu mọi việc.
Thiền định vô cùng quan trọng. Giống như chiến tranh nơi tiền tuyến, nếu tướng quân lãnh đạo đoàn quân đi chiến đấu mà không có một chút định lực, hấp tấp, lúng túng thì làm sao chỉ huy đại quân? Hoặc như một trận bóng vậy, chưa bắt đầu thi đấu nhưng các cầu thủ đã bất an, thiếu tự tin, thì làm sao họ chơi tốt được? Vì thế, định lực chính là trong mưa bão cuồng phong ta vẫn có thể an nhiên, tuy đối diện trước hàng triệu người nhưng lòng vẫn không khiếp sợ.
Trước đây ở Thái Lan có một nhà máy, quy định nhân viên mỗi ngày 8 giờ sáng đi làm, trước tiên mọi người không vội bắt đầu công việc, mà dành thời gian nửa tiếng để tụng kinh, ngồi thiền. Có người ý kiến: “Như vậy chẳng phải lãng phí thời gian đấy sao?”
Nhưng người quản lý nói: “Điều này không những không lãng phí thời gian, mà còn giúp nâng cao hiệu quả làm việc. Bởi vì mỗi một người có được một khoảng thời gian để lắng đọng, tu tập, từ đó họ không chỉ tăng thêm sự hiểu biết về quan hệ nhân quả, mà còn học được cách giải tỏa tâm trạng, khi làm việc sẽ đặc biệt có hiệu quả hơn”.
Do đó, vận dụng tu tập thiền định vào trong quản lý học thật sự mang lại hiệu quả. Bạn tin hay không tin Phật giáo là một chuyện, nhưng bạn cần sự sáng tạo để lập nghiệp, và để làm được điều đó thì không thể không thiền định; tu thiền có thể hình thành trong bạn tính cách bình tĩnh, tăng trưởng sự bao dung rộng lượng, không so đo tính toán với ai và bất cứ việc gì, tinh thần luôn phấn chấn, tư tưởng rõ ràng, thái độ an hòa, thì sẽ mang lại vô số lợi ích.
5.6. Bát nhã
Thế nào là “Bát nhã”1? Trong Bát nhã có trí tuệ, nhưng không thể hoàn toàn nói là trí tuệ, bởi trí tuệ còn có ý nghĩa là thông minh, trong xã hội này người thông minh bị chính sự thông minh của mình làm hại rất nhiều. Trong xã hội có nhiều loại quản lý, ít nhiều cũng đều hàm chứa bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, v.v. các thành phần của Lục độ trong đó, duy chỉ có Bát nhã là phương pháp quản lý đặc biệt chỉ có ở Phật giáo, phàm làm việc gì nếu không có sự chỉ dẫn của Bát nhã thì chỉ có thể xem đó là hành vi thế tục mà thôi.
Chú thích:
1 Bát nhã (S. Prajñā): Là thuật ngữ Phật giáo, hàm nghĩa trí tuệ, nhận thức. Bát nhã là một khái niệm trung tâm của Phật giáo Đại thừa, có nghĩa là trí tuệ nhưng không phải do suy luận hay kiến thức đem lại, mà là thứ trí tuệ của sự hiểu biết một cách toàn triệt. Điều khó của trí tuệ này là không đến từ kết quả của lý luận logic, tuy nhiên có thể hiểu được khi đi đến tận cùng của lý luận (các khái niệm, phủ định của khái niệm). Đạt được trí Bát nhã được xem là đồng nghĩa với giác ngộ và là một trong những yếu tố quan trọng của Phật quả. Bát nhã là một trong những hạnh Ba la mật đa (siêu việt) mà một Bồ tát phải đạt đến (Thập địa). Bát nhã là một cách thức, phương pháp để đạt được tới “trí tuệ toàn diện” (Nhất thiết chủng trí) của bậc Phật. Phương thức này tập trung vào việc chỉ rõ các hiểu biết hiện tại của não bộ và yêu cầu loại bỏ chúng (rốt ráo ly), nhờ việc loại bỏ này mà các “thông tin” mới liên tục được cập nhật, khiến nhận thức liên tục trở nên toàn vẹn hơn (xóa bỏ các sự che lấp do tính phân biệt của nhận thức tạo thành). Do vậy Bát nhã cũng được biết đến như sự “hiểu biết vô tận”. Phật Quang đại từ điển.
Bát nhã là căn bản trong Lục độ, là động lực vận hành. Ví dụ như bố thí: Thông thường người ta bố thí luôn hy vọng nhận được sự cảm ơn của người nhận, đó là bố thí còn có lòng tham cầu, có hình thức. Nếu như có Bát nhã chỉ dẫn, thì ta sẽ bố thí mà không hề keo kiệt, không mong cầu báo đáp, cũng chính là bố thí đầy đủ ý nghĩa nhất. Ví dụ như trì giới, pháp luật ở thế gian là từ bên ngoài quy định và yêu cầu người ta phải tuân thủ, giới luật của Phật giáo thì nhắc nhở mỗi người phải tự ý thức giữ gìn; bởi có Bát nhã, thì tự nhiên ta cũng sẽ hiểu được tầm quan trọng của việc giữ gìn giới luật. Lại như nhẫn nhục, thông thường con người ta đều vì bị kẻ khác ức hiếp, bản thân không thể phản kháng, chỉ đành nuốt giận nhẫn nhịn, nhưng nếu như có sự chỉ dẫn của Bát nhã, hiểu rằng quan hệ giữa người và ta là một thể thống nhất, cùng tồn tại, thì ta sẽ có cách nhìn khác, từ đó mà thái độ cũng khác. Từ xưa đến nay, tôi luôn đề xướng: “Anh lớn tôi nhỏ, anh đúng tôi sai, anh có tôi không, anh vui tôi khổ”, có người có thể sẽ cảm thấy rằng đó là sự hèn nhát, nhưng trên thực tế, nếu như họ có thể hiểu được ý nghĩa của việc suy nghĩ theo hướng ngược lại, thì sẽ gia tăng tốc độ, hiệu quả làm việc.
Phật giáo chia Bát nhã ra làm ba loại, gồm: văn tự Bát nhã, quán chiếu Bát nhã, thực tướng Bát nhã. Nếu như bạn có thể dùng tâm để thể ngộ, quán chiếu mọi việc ở thế gian, hiểu được thực tướng muôn màu muôn vẻ của vạn vật, thì sẽ thấy ta và người không phải là hai, mà là cùng một thể, là dung hòa, là dựa vào nhau mà tồn tại, đôi bên không đối lập, cũng chính là có thể hiểu được rằng: “Giữa người và ta là một”. Đặc biệt khi con người được Bát nhã dẫn dắt, thì từ một chúng ta có thể nhìn thấy nhiều, từ nhỏ có thể biết được lớn, có thể học một biết mười, linh hoạt ứng biến khi đối diện với mọi việc trên thế gian này.
Nói tóm lại, áp dụng Lục độ trong cách quản lý chính là áp dụng sáu phương pháp giúp chúng ta tự độ, cũng giúp người khác được độ, ta và người đều lợi lạc, đó là phương pháp quản lý hữu hiệu vô cùng trong quản lý học.
6. Quản lý theo quan điểm tất cả đều có thể
Thường ngày khi trò chuyện với nhau, để chỉ chung cho tất cả thì chúng ta thường dùng từ: “Những thứ này”; có khi nói: “Dời cái bàn này đi”; cũng có người nói chung chung: “Dời cái thứ này đi”. Cho dù là người thì cũng bị coi là đồ vật, chúng ta cũng thường nghe mọi người nói: “Anh là cái thứ gì!” “Thứ” vốn không có nghĩa tốt hay xấu, chúng ta cho đó là tốt thì đó là tốt, cho đó là xấu thì đó là xấu. Cũng giống như trong Phật giáo có câu rằng: “Tất cả không có tốt hay xấu cố định, tốt hay xấu chỉ là các hiện tượng do chúng ta nhận định từ một góc độ nào đó mà thôi”.
Trong xã hội, con người, sự vật và sự việc đều là “các hiện tượng” không nhất định là tốt hay xấu, giống như có lúc công ty này không cần tôi nữa, cho tôi nghỉ, nhưng sau khi tôi đến công ty khác làm việc, với quyết tâm phấn đấu vươn lên, không lâu sau tôi được lên chức quản lý. Cho nên, bạn nói ở đâu tốt, ở đâu không tốt? Không có một cái gì là nhất định cả, chỗ tốt chỗ xấu của tất cả các hiện tượng đều ở trong một ý niệm của chúng ta mà thôi. Ví dụ, chúng ta thường nói đánh người là hành vi không tốt, nhưng cha mẹ dạy dỗ đánh đòn con cái, xét cho cùng thì là thương hay ghét? Là đúng hay sai? Ví dụ khác, khi nói chuyện với người khác, có lúc chúng ta nghe có vẻ như họ đang dạy đời mình, nên cảm thấy không ưa, nhưng nếu bạn thật sự hiểu được “lời thật thì mất lòng”, thì những lời nói ấy của họ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cuộc đời của chúng ta. Cho nên những việc tốt ở trong cuộc đời, nếu người xấu sử dụng nó, thì việc tốt cũng trở thành việc xấu; ngược lại, việc xấu trong cuộc đời, nếu người thiện sử dụng, cũng có thể biến việc xấu trở thành việc tốt. Cho nên có thể kết luận rằng: tất cả hiện tượng đều có thể đổi thay.
Thậm chí, có người tuy sở hữu được những món đồ quý hiếm, nhưng không biết sử dụng thì cho dù là vàng ngọc đi nữa thì chúng cũng giống như đất cát mà thôi. Cũng có một số người cho dù đồ vật trước mắt họ có hư hỏng đi nữa, nhưng với sự khéo léo của bản thân, họ cũng có thể biến phế phẩm thành của báu. Cũng giống như trong bùn đất trồng được hoa sen, sườn đồi cũng trồng được cây ăn quả. Do đó, thiện ác, tốt xấu trên thế gian này là không nhất định đều do sự phân biệt trong tâm của chúng ta.
“Con người đâu phải là thánh hiền mà không phạm lỗi”, trong quản lý học không nên nói ai tốt hay ai xấu, càng không nên chỉ thấy lỗi của người, mà nên nhìn nhận cái tốt của họ, nếu như bạn biết được sở trường của họ rồi, và khéo trọng dụng cái hay của họ, đó cũng là đạt thành tựu rất lớn trong quản lý học.
7. Quản lý theo quan điểm một là tất cả
“Một là tất cả” cũng có nghĩa là “Nhiều hay ít cũng đều như nhau”. Phàm là một hạt bụi, một ngôi nhà, một thành phố, một quốc gia, một quả địa cầu, một cõi hư không, từ một hạt bụi nhỏ đến to lớn như hư không, tất cả các hiện tượng trên thế gian không phải đều là “một” hay sao? Cho nên, một chính là tất cả. Nếu hiểu được đạo lý này thì từ trong một hạt bụi, chúng ta cũng có thể thấy được ba ngàn Đại thiên thế giới1; từ trong một câu nói, cũng có thể ngộ được chân lý của đời người.
Chú thích:
1 Ba ngàn Đại thiên thế giới (S. Mahāsāhasra-lokadhātu): Còn gọi là Đại thiên giới, là vũ trụ quan của Ấn Độ cổ đại. Người Ấn Độ xưa lấy bốn châu lớn và mặt trời, mặt trăng làm một thế giới nhỏ; hợp 1.000 thế giới nhỏ lại thì trở thành Tiểu thiên thế giới; rồi kết hợp 1.000 Tiểu thiên thế giới lại thành Trung thiên thế giới; kết hợp 1.000 Trung thiên thế giới thì hình thành nên Đại thiên thế giới. Từ đó, nếu kết hợp cả Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới thì có ba ngàn Đại thiên thế giới. Người thống trị Đại thiên thế giới là Đại Phạm Thiên Vương của cõi Sắc Cứu Cánh Thiên (S. Akaniṣṭha). Đại thiên thế giới của chúng ta được gọi là thế giới Ta Bà (S. Sahā); mỗi Đại thiên thế giới đều có một Đức Phật hóa độ, cho nên Đức Phật Thích Ca (S. Śākya) là giáo chủ của cõi Ta Bà.
“Một” không thể bị xem thường, tưởng chừng một chỉ là một cơ số, nhưng trên thực tế một là tất cả, Đạo gia cũng đưa ra quan điểm: “Một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật”. Phật giáo cho rằng, tất cả các hiện tượng trên thế gian này đều là một, vũ trụ vạn hữu đều trong một ý niệm, hư không thế giới đều ở trong tâm chúng ta, cho nên “tâm bao khắp hư không, rộng vô số thế giới”, tâm lượng của chúng ta rộng bao nhiêu, thì sẽ bao dung bấy nhiêu.
Nếu đã nói rằng tất cả các hiện tượng đều ở trong tâm của chúng ta, thế thì tất cả mọi người trong vũ trụ này đều là người trong tâm ta; sông núi đất đai trong vũ trụ này, đều là sông núi đất đai trong tâm ta. Hay nói một cách khác, nếu bạn có thể bao dung tất cả mọi người trong thế gian này, thì họ cũng chính là bạn; nếu bạn không thể bao dung được, thì cho dù là vợ chồng cũng có thể ly hôn; dù là anh em cũng có thể chia cách, là tay chân cũng có thể cắt đứt; là cha con cũng có thể trở mặt từ nhau. Nên là của chúng ta, thì tất cả cũng là một, một là tất cả; không phải của chúng ta, thì cho dù là một cũng là không thuộc sở hữu của chúng ta. Vì vậy, “một là tất cả” hoàn toàn dựa vào tâm lượng lớn nhỏ của chúng ta có thể bao dung được bao nhiêu mà thôi.
Bất kể trong mối quan hệ xã giao hay mối quan hệ với đoàn thể trong xã hội, thậm chí là quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia, nếu không có đối lập thì bất cứ việc gì cũng đều là “biến nhiều thành một”, được vậy thì thiên hạ còn không thái bình sao?
8. Quản lý theo quan điểm không bỏ bất kỳ điều gì
Không bỏ bất kỳ điều gì tức là nói đối với bất cứ người nào, không vứt bỏ, không xả bỏ; Đối với bất cứ một việc gì, không xem nhẹ, không khinh thường; Đối với bất cứ đạo lý nào, một vật nào đều phải tôn trọng, phải yêu quý. Vạn sự, vạn vật trên thế gian đều tuân theo phép tắc tự nhiên của “duyên sinh duyên diệt”, nhân duyên đầy đủ thì sinh, nhân duyên phân tán thì diệt, cho nên ta cần phải trân quý nhân duyên hiện tại.
Cho dù một hạt bụi cũng là nguyên tố cấu thành nên thế gian này; cho dù là một tế bào cũng là một đơn vị hợp thành nên sinh mệnh; cho dù là một cái cây nhỏ không đáng chú ý bên sườn núi, nhưng khi có người bị rơi xuống núi cũng có thể cứu lấy sinh mệnh của họ. Thậm chí, nếu như bạn vứt bỏ đi một cái đinh, một con ốc trong cấu trúc của tòa nhà lớn, cũng sẽ tạo nên nguy hiểm. Một hạt giống đã trồng xuống có thể trở thành một cây to, cho ra hàng muôn vàn quả ngọt; một câu khi đã nói ra, thì cũng có thể cứu vớt hàng triệu sinh mệnh. Vì thế, đối với con người, sự việc, sự vật, chúng ta càng nên tôn trọng, giữ gìn, chăm sóc. Cho dù là một kẻ ác, nếu bạn có thể giáo hóa thích đáng thì hắn cũng sẽ hồi tâm chuyển ý, thay đổi thành một người tốt. Trong Phật giáo có câu: “Chuyển phiền não thành Bồ đề”, chẳng phải giống như vị chua chát của trái cây, trải qua gió thổi, phơi dưới ánh nắng mặt trời cũng sẽ trở nên ngọt lịm đấy sao?
Có câu: “Người thiện nói điều xấu, điều xấu cũng thành lành; Người xấu nói điều lành, điều lành cũng thành xấu”, tất cả đều có khả năng biến hóa, cho nên đối với mọi hiện tượng, chúng ta phải biết khéo ứng dụng, không nên tùy tiện bỏ đi mà hãy tôn trọng và yêu quý giữ gìn nó”.
Gần đây, xã hội phương Tây đang lưu truyền một câu chuyện. Có một chiếc xe đang lái dưới trời tuyết vào trong vùng núi hoang dã, không may bị lún sâu vào đống tuyết, muốn chạy về trước cũng không được, muốn lui ra sau cũng không xong. Lúc chủ xe không biết phải xoay sở thế nào thì xuất hiện tám con sói, có lẽ vì trong vùng bị tuyết đóng băng khó kiếm thức ăn, nên đàn sói nhìn thấy trong xe có người, chúng lần lượt nhào tới tấn công. Trong xe có một người đàn ông nhìn thấy sói hoang chạy đến, lập tức đem súng ra, bắn một phát, tám con sói nghe thấy liền núp dưới gầm xe.
Lúc tình thế như vậy, người trên xe đều không dám xuống xe. Có một người đưa ra ý kiến: “Có vẻ như những con sói này đang rất đói, chúng ta có nên lấy thức ăn trên xe cho chúng ăn không?” Mọi người đều đồng ý, thế là anh ta đem một đống thức ăn ra rồi đổ ra ngoài cửa sổ. Chỉ nhìn đàn sói vừa tiến tới, thì lập tức ăn hết, nhưng chúng nó vẫn chưa chịu đi, vì thế họ tiếp tục đem đống thức ăn thứ hai đổ ra ngoài cho chúng.
Rất nhanh, đàn sói lại ăn sạch, nhưng nhìn có vẻ chúng vẫn chưa no. Không cách nào khác, thức ăn còn lại thì không có nhiều, tất cả đều đổ cho chúng ăn hết rồi, cả bánh quy, bánh mì đều cho chúng ăn hết cả.
Đàn sói sau khi ăn xong phần thịt, thì không ăn bánh quy và bánh mì. Lúc này, những người trong xe nhìn thấy chúng ngoặm đến vài cành cây, để ở phía dưới bánh sau của xe. Với sự trợ lực của những cành cây khô trên bề mặt đất phủ tuyết, cuối cùng bánh xe đã có thể ma xát chuyển động. Lúc này, họ mới hiểu ra rằng: “À, thì ra đàn sói hoang cũng biết cách báo ân”.
Chiếc xe chạy chưa tới 100 mét thì lại bị lún vào tuyết tiếp. Không ngờ, tám con sói lại ngoặm cây khô tới. Sau nhiều lần như thế, cuối cùng họ đã rời khỏi khu vực nguy hiểm khoảng 2 km, thì mới không nhìn thấy bóng dáng của đàn sói dõi theo nữa.
Người ta thường nói: “Lòng lang dạ sói”, nhưng ngày nay ngay cả đàn sói cũng còn biết hướng thiện. Vì thế, đối với điều lành, chúng ta nên trân quý, đối với điều ác thì chúng ta cũng cần sửa đổi. Nếu cứ chối bỏ điều ác thì cũng không phải là cách vậy!
9. Quản lý theo ba học văn, tư, tu
Trong đạo Phật, có một câu nói rất nổi tiếng: “Dùng văn, tư, tu để đi vào thiền định”, nghĩa là sau khi nghe Phật pháp xong thì ta cần suy nghĩ, thực hành, rồi mới bước vào cảnh giới thiền định được. Trên thực tế, văn, tư, tu trong quản lý học là một phương pháp quản lý vô cùng quan trọng.
9.1. Văn
Trong một đoàn thể, muốn quản lý tốt tập thể của mình, người lãnh đạo cần truyền đạt cho cấp dưới phương châm tổ chức quản lý, yêu cầu và cả phúc lợi, để mọi người đạt được nhận thức chung, sau đó mới có thể phát huy được sức mạnh tập thể. Thậm chí, ngoài việc nói rõ với cấp dưới, thì với vai trò là người lãnh đạo, ta cũng cần quan tâm lắng nghe những đề xuất, ý kiến của cấp dưới và những người có liên quan, từ đó mới có thể kiện toàn chế độ và cách vận hành của đoàn thể. Do đó, văn - lắng nghe học hỏi, không chỉ là một phía, mà là cả đôi bên cần lắng nghe, cần đối thoại, trên dưới trao đổi ý kiến với nhau thì sẽ giảm bớt nhiều trở ngại.
Trong kinh Phật dạy, tai nghe còn quan trọng hơn cả mắt thấy. Bởi vì mắt chỉ có thể nhìn thấy những việc xảy ra ngay trước mắt, một khi hoàn cảnh thay đổi thì nhìn không thấy nữa, nhưng thông qua người khác truyền đạt, ta có thể hiểu được quá trình xảy ra sự việc; cách một bức tường, mắt không nhìn thấy được, nhưng âm thanh vẫn có thể nghe thấy; vật ở xa thì không nhìn thấy được, nhưng chỉ cần âm thanh lớn một chút thì có thể nghe thấy. Vì thế, trong một đoàn thể, nếu như khéo vận dụng cách quản lý “biết lắng nghe học hỏi”, bạn nói tôi nghe, tôi nói bạn nghe, đôi bên thấu hiểu, đạt được nhận thức chung thì dễ dàng nhanh chóng gặt hái thành công trong sự nghiệp.
9.2. Tư
Trong Phật giáo, cảnh giới cao nhất là vô tưởng (không nghĩ tưởng), đó là cảnh giới tu tập đạt được trạng thái tĩnh lặng, nhưng cũng chỉ là tương đối, còn khi tạo dựng sự nghiệp là đang tiến hành trong trạng thái động, lúc này tư duy là vô cùng quan trọng. Đạo Phật có câu: “Tư duy sinh khởi trí tuệ”, Khổng Tử cũng dạy: “Suy nghĩ ba lần mới thực hiện”, “học mà không tư duy thì sẽ mê hoặc sai lầm”, có thể thấy, tư duy có vai trò vô cùng quan trọng, quyết định thành bại của một việc.
Loài trâu ăn cỏ phải nhai lại mới biến thành dưỡng chất nuôi cơ thể, cũng vậy, mỗi một việc cần phải suy nghĩ thấu đáo, cặn kẽ, cân nhắc, hiểu rõ trước sau, thì mới có thể chu toàn, còn nếu lỗ mãng hành sự, không nghĩ tới hậu quả, thì rốt cuộc cũng chỉ hỏng việc mà thôi.
9.3. Tu
Thế nào là tu? Tu chính là thực hành. Trong Phật giáo, có rất nhiều vị cao tăng trải qua thực tế tu hành mà giải thoát được phiền não. Cũng vậy, trong cuộc sống này, bất luận làm việc gì, muốn thành tựu cần phải trải qua thực tế, không thì chỉ là lời nói suông, mãi mãi không gặt hái được thành công. Đặc biệt với vai trò là người lãnh đạo, bất cứ việc gì cũng cần phải thực hiện “Lời nói đi đôi với việc làm”, không nên liên tục thay đổi cách làm, nếu không sẽ làm tăng thêm sự bất mãn của cấp dưới. Người lãnh đạo cần giữ chữ tín, dựa theo phép tắc mà làm, để mọi người không phân tâm, dốc lòng mà làm thì mới thuận lợi hoàn thành được mục tiêu. Nhất tâm niệm Phật thì mới có thể vãng sinh Tịnh độ, nhất tâm làm việc thì đâu sợ không gặt hái được thành công.
Có câu “Dùng văn, tư, tu để đi vào thiền định”, văn (lắng nghe học hỏi), tư (tư duy, suy nghĩ), tu (thực hành tu tập) đều sinh khởi trí tuệ, cần tin sâu kiên định như thế.
10. Quản lý theo tín, nguyện, hạnh
Trong Phật giáo, Tịnh Độ tông nói rằng muốn vãng sinh cõi Tây Phương Cực Lạc cần có ba tư lương, cũng chính là ba điều có thể giúp chúng ta đến được cảnh giới Tịnh độ Phật quốc. Đó là tín, nguyện và hạnh.
Thế nào là tín? Tín chính là tin tưởng rằng có cõi Tây Phương Cực Lạc, có Đức Phật A Di Đà. Nếu như bạn không tin, không có mục tiêu, mà lại nói rằng muốn đến cõi Tịnh độ Cực Lạc thật là khó lắm thay. Trên thực tế, thay vì nói rằng tín ngưỡng Phật A Di Đà, tín ngưỡng cõi Tịnh độ Cực Lạc, chi bằng nói tin vào bản thân, tin rằng tôi có thể, tôi làm được! Có câu: “Lòng tin là mẹ sinh ra mọi công đức”, lòng tin là cội nguồn của đạo, là mẹ các công đức, có lòng tin thì mới có thể phát huy sức mạnh.
Có tín, lòng tin, kế đến là nguyện. Sau khi tin rồi thì cần có nguyện lực: “Tôi nguyện thân cận Đức Phật A Di Đà!” “Tôi nguyện hội ngộ cùng các bậc thiện nhân!” “Tôi nguyện từ trong thế giới Ta Bà khổ nạn này đến được cõi Tịnh độ Cực Lạc!” Nếu như quý vị không có nguyện lực như vậy, thế thì bất kỳ ai cũng không thể giúp được quý vị, giống như anh không muốn làm người tốt, thì ai cũng không thể giúp gì được. Ông bà ta có câu: “Có ước nguyện thì sẽ thành tựu”. Trong Phật giáo, Đại sư Tỉnh Am1 từng nói rằng: “Khi vào đạo, việc đầu tiên là cần phát tâm tu hành, việc cần kíp đầu tiên chính là lập nguyện. Có phát tâm thì ắt thành tựu, có lập nguyện thì có thể độ chúng sinh”. Một người tương lai có tiền đồ hay không thì phải xem anh ta có lập chí phát nguyện hay không. Sau khi đã có tín, nguyện rồi thì không thể nói suông, mà cần phải thực hành. Niệm Phật chính là sức mạnh chủ yếu của thực hành. Đặc biệt không thể thiếu phúc đức nhân duyên, cần bố thí, hành thiện, gieo duyên, v.v. các loại công đức, càng nhiều càng tốt. Sau khi đã đầy đủ tín, nguyện, hạnh rồi, thì có thể thành tựu đến cõi Tịnh độ Cực Lạc. Cũng vậy, nếu như ở trong một cơ quan, một đoàn thể, chúng ta cũng cần có tín, nguyện và hạnh. Được vậy thì lẽ nào bạn không nhận được sự tín nhiệm của lãnh đạo, không có được tình hữu nghị của đồng nghiệp, không thể cống hiến cho tập thể ấy sao? Vì thế, tín, nguyện và hạnh là phương pháp hữu hiệu nhất trong cách đối nhân xử thế, làm việc cùng đoàn thể.
Chú thích:
1 Đại sư Tỉnh Am (1686 - 1734): Đại sư là vị tổ thứ mười trong Liên Tông, họ Thời, tự Tư Tề, người xứ Thường Thục, ngài xuất gia thuở bảy tuổi, thọ đại giới lúc 24 tuổi, đối với thiền, giáo, tính, tướng đều suốt thông. Đại sư từng ở chùa Chân Tịch, duyệt tạng kinh, niệm Phật, qua ba năm, nguồn biện luận như thác đổ. Ngài lại đến chùa Dục Vương lễ tháp, cảm xá lợi phóng quang; nhân đó soạn ra sám Niết bàn và Văn khuyến phát Bồ đề tâm, người đọc phần nhiều rơi lệ. Lúc tuổi già, đại sư về ở chùa Phạm Thiên tại Hàng Châu, kết liên xã để khuyên nhắc lẫn nhau chuyên tu Tịnh nghiệp. Mùa đông năm Ung Chính thứ 11, Đại sư dự biết ngày 14 tháng 4 năm sau mình sẽ vãng sinh. Đến kỳ hạn, ngài nói: “Mười hôm trước ta đã thấy Phật nay lại được thấy”. Nói xong, niệm Phật mà quy Tây.
11. Quản lý theo căn, trần, thức
Trong xã hội ngày nay, mỗi một người đều là chủ thể, ăn, mặc, ở, đi lại là khách thể bên ngoài, chủ và khách dung hòa là vô cùng quan trọng. Nhưng con người ta vẫn “khi nói như đã ngộ, nhưng gặp việc vẫn mê”, sức mạnh hướng thiện, hướng thượng, hướng đến những điều tốt đẹp thì rất yếu, lại dễ rơi vào đường ác, đọa lạc.
Nói đến quan hệ giữa con người và vũ trụ, con người có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, gọi là căn có nghĩa là sản sinh. Bởi vì, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì sẽ sản sinh ra sáu loại nhận thức phân biệt, gọi là sáu thức. Ví dụ, mắt thấy sắc thì có nhãn thức; tai nghe âm thanh thì có nhĩ thức; mũi ngửi mùi thì có tỵ thức; lưỡi nếm vị thì có thiệt thức; thân tiếp xúc với vật chất thì có cảm giác êm ái dễ chịu hoặc khó chịu; tâm khi tiếp xúc với các hiện tượng thì nảy sinh các lối suy nghĩ, tư tưởng quá khứ, hiện tại, vị lai.
Trong căn, trần, thức thì sáu căn là thuộc về sinh lý, sáu trần thuộc về vật lý, sáu thức thuộc về tâm lý. Con người ở thế gian, thì có sự luân chuyển giữa sinh lý, vật lý, tâm lý, nương tựa nhau, liên kết với nhau.
Sáu trần có tốt có xấu, phải xem tâm ta quản lý năm căn gồm mắt, mũi, tai, lưỡi, thân như thế nào mà làm nên việc lành hoặc việc dữ. Nếu như đối diện ngoại cảnh, không phân biệt tốt hoặc xấu, mà lại tùy tiện để tâm chuyển theo ngoại cảnh thì thật là nguy hiểm. Vì thế, cần phải giữ gìn thật tốt sáu căn này, khéo dùng sáu thức, nhận biết sáu trần tốt xấu ra sao. Được vậy thì mới có thể “được lòng người thì mọi việc hưng thịnh”, còn ngược lại “mất lòng người thì lắm sự gian nan”.
Nói tóm lại, sáu trần không nhất định đều là những cảnh không tốt, phải xem cách bạn vận dụng thế nào, có năng lực phân biệt thiện và bất thiện hay không? Quản lý căn, trần, thức trong cuộc đời quả thật là một việc vô cùng quan trọng.
12. Quản lý bằng cách trợ duyên cho người
Trong đời người, nếu chỉ biết nhận ở người khác thì thể hiện bản thân bần cùng; thích cho người, gieo duyên với người khác, hẳn là người giàu có. Hay nói cách khác, một người biết cảm ơn, làm việc gì cũng mong muốn đền đáp cho người, thì trong lòng nhất định sẽ giàu có; người không biết cảm ơn, cho dù có tiền muôn bạc vạn, cũng sẽ muốn có thêm nữa, người ta càng không biết cho đi thì nội tâm càng trở nên bần cùng. Bởi thế, giàu nghèo trong đời người không chỉ dựa vào số lượng nhiều ít để ước lượng, mà phải dựa vào tâm lượng nhiều ít làm chuẩn.
Trong xã hội ngày nay, có người nhận được sự trợ duyên của người khác mà thành công, có người nhờ gieo duyên với người khác mà thành công, và đương nhiên những người như vậy chiếm đa số. Trong nhà Phật, thường khích lệ người ta cần “rộng kết thiện duyên”, làm việc gì cũng nên cho người một chút nhân duyên, huống hồ con người đến với thế gian này, thọ nhận sự dưỡng dục của cha mẹ, cho ta rất nhiều nhân duyên; thầy cô dạy dỗ ta, cho ta rất nhiều nhân duyên; sĩ, nông, công, thương cung cấp cho ta các phương tiện ăn, mặc, ở, đi lại, cho ta rất nhiều nhân duyên, thế giới này đã cho ta nhiều như thế, vậy thì tại sao ta lại không cho người nhân duyên tốt đẹp chứ?
Đương nhiên, người ta cho, ta cần có lòng biết ơn; thế nhưng, khi ta cho người, ta cũng cần cảm ơn vì đối phương đã tiếp nhận. Có được suy nghĩ, tâm lượng như vậy thì các công đức bố thí, gieo duyên sẽ rộng lớn không thể hạn lượng.
Có câu: “Thế giới của sự cảm thông là tuyệt vời nhất”, đối với người tốt việc tốt, ta cần có lòng cảm thông, bản thân ta cũng cần làm người tốt, việc tốt để khiến người cảm động. Trong xã hội này rất cần có sự cảm thông, tương trợ nhau. Bất luận là quản lý học, hay quan hệ giao tiếp giữa ta với người, hoặc xây dựng tình hữu nghị cũng vậy, tất cả đều không thể sánh bằng việc khiến người cảm thông, gieo duyên lành với người.
13. Quản lý theo quan hệ bình đẳng cho và nhận
Trong Phật giáo, nói đến bố thí, có người đời sống tương đối khá giả, có thể dùng tiền tài để giúp đỡ người nghèo khó, có người có sức mạnh có thể dùng sức lực để giúp đỡ người yếu đuối. Tóm lại, con người chỉ cần có nhân duyên, có năng lực thì có thể tương trợ người khác. Đương nhiên, cũng có một số người đời sống nghèo khổ, cũng chẳng có năng lực, chỉ có thể nhận sự giúp đỡ, tương trợ, khuyến khích của người khác. Một bên cho, một bên nhận.
Thực ra, trong nhà Phật, người cho, kẻ nhận đều lợi ích như nhau. Dựa theo sức của bản thân mà bố thí, cũng không cần phân biệt tôi là người bố thí, anh là người nhận bố thí, ta nên cảm ơn người đã chấp nhận sự bố thí của mình, cho mình có cơ hội gieo duyên lành. Hay nói cách khác, đối với người nhận sự giúp đỡ, bố thí, ta không nên có tâm ngạo mạn, mà nên sinh tâm cảm ơn. Giống như mời khách ăn cơm vậy, trước đây, khi khách dùng cơm xong thì cảm ơn chủ nhà đã tiếp đãi, nhưng ngày nay thì khác, ăn cơm xong, ngược lại chủ nhà lại cảm ơn vì khách đã đến, làm tăng thêm niềm vinh dự cho gia chủ. Bởi vì suy cho cùng, nếu chủ nhân mời khách mà khách không đến thì cũng biết làm sao? Anh muốn bố thí nhưng người ta không muốn nhận, thì làm sao làm nên việc? Cũng giống như chơi bóng rổ vậy, tuy hai đội giao chiến, nhưng rốt cuộc ta phải biết cảm ơn đối phương, bởi vì không có đối phương thì không thể làm nên trận đấu.
Lại ví dụ như, ở trong chùa tổ chức trai tăng. Trai chủ cúng dường, họ cảm ơn chư vị cao tăng đại đức đã thụ nhận cúng dường, cho đến tháng bảy hằng năm, Phật giáo tổ chức lễ Vu Lan, các vị Phật tử không chỉ được cúng dường các bậc cao tăng đại đức, ngoài ra họ còn nương nhờ công đức tu hành của chư vị xuất gia ấy, mong có thể cứu khổ cứu nạn cho người thân đã quá vãng, cũng mang ý nghĩa cho nhận bình đẳng. Người bố thí thì tăng trưởng lòng từ bi, có thể được độ; người thụ nhận thì được giúp đỡ, cũng có thể được độ. Bởi thế, người thụ nhận cảm ơn người đã trao tặng, người trao tặng cũng cảm ơn người thụ nhận.
Sau trận động đất ở Tứ Xuyên năm 2008, có một lần tôi đến Tứ xuyên quyên góp xây dựng trường học, bệnh viện, xe cứu thương, và phát biểu: “Tôi không phải đến cứu tế, mà là đến để báo ơn, bởi tôi từ nhỏ đã đọc Tam quốc diễn nghĩa, ngâm thơ Đỗ Phủ, đọc văn tập của Tô Đông Pha, Tứ Xuyên là nơi đã nuôi dưỡng tôi trưởng thành”.
Vì thế, trao tặng cũng là báo ơn, báo ơn cũng là trao tặng, chỉ có người biết báo ơn, biết cho đi mới là người giàu có. Có điều là, người nhận cũng không nên cảm thấy tự ti, bạn có thể nhận cơ hội này, đó là do nhân duyên phúc đức của mình; bạn đã trồng một nhân duyên tốt đẹp, là nhân duyên của đôi bên, cần cảm ơn lẫn nhau.
Nếu như có thể đem suy nghĩ “người cho và người nhận đều được lợi như nhau” mở rộng đến các đoàn thể cùng làm việc, đối với người được ta giúp đỡ ta không ngạo mạn mà ngược lại còn phải cảm ơn họ đã cho ta cơ hội góp một phần sức lực. Có được thái độ bình đẳng, tôn kính, biết ơn này, thì sẽ mang lại hiệu quả gấp bội trong cách quản lý và cả sự nghiệp.
14. Quản lý theo phương châm “ba tốt”
Hiện nay, Phật Quang Sơn đang tích cực phát động phong trào ba tốt, ở trường học, công sở và trong gia đình, v.v. hy vọng trong cuộc đời mỗi người đều có thể làm được: “Thân làm việc tốt, miệng nói lời tốt, tâm giữ ý tốt”. Mọi nơi, mọi lúc, ai ai cũng làm việc tốt thì nào có sợ kẻ thù. Nói lời tốt thì làm sao khiến người ta buồn giận được? Tâm giữ ý thiện thì đôi bên lẽ nào không thích nhau? Ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh rồi, thì có thể thực hiện được cảnh giới chân thiện mỹ.
Phật giáo cho rằng đời người kéo dài từ quá khứ đến hiện tại, hiện tại đến vị lai, tùy theo nghiệp lực mà không ngừng luân hồi, hành vi của thân, khẩu, ý quyết định tất cả tương lai, đối với việc tốt xấu, được mất của một người có sự ảnh hưởng rất lớn, do đó không nên xem thường ba tốt. Nếu như mỗi một cá nhân, gia đình, trường học, tổ chức xã hội, thậm chí là mỗi một quốc gia, toàn dân đều làm việc tốt, miệng nói lời hay, tâm giữ ý thiện, thì thiên hạ thái bình.
15. Quản lý với nguyên tắc “bốn tặng”
Khi thành lập Phật Quang Sơn, tôi đã nghĩ đến: “Làm sao để Phật Quang Sơn trở thành một nơi được sự coi trọng của mọi người trong xã hội, làm thế nào để không chỉ trong Phật giáo, mà cả xã hội cho đến toàn thế giới, đều nhận được nhân duyên mà khi chúng tôi bắt đầu xây dựng Phật Quang Sơn muốn tặng cho mọi người”. Vì thế, tôi đề xuất chủ trương bốn tặng. Thế nào là “bốn tặng”?
Một là, tặng người niềm tin, có câu: “Vua Thuấn1 là ai, còn ta là ai, người làm nên việc thì giống như là vua Thuấn vậy”; “không có trời sinh Di Lặc, cũng chẳng tự nhiên có Thích Ca”, phàm việc gì có niềm tin thì sẽ thành tựu. Bởi thế, tôi cần cho mọi người niềm tin, để người ta tin vào bản thân: “Tôi có thể làm được, tôi sẽ làm được”. Có thể nói, “cho người niềm tin” có ý nghĩa và sức mạnh vô cùng to lớn đối với cách quản lý của bản thân, thăng hoa và mở rộng tầm ảnh hưởng của bản thân.
Chú thích:
1 Vua Thuấn: Cũng gọi là Ngu Thuấn, ông được Đế Nghiêu nhường ngôi, trở thành vua Trung Hoa. Cùng với các Đế Nghiêu và Đại Vũ, Đế Thuấn được Nho giáo coi là một trong những vị quân vương kiểu mẫu, và là những tấm gương đạo đức trong văn hóa Trung Hoa.
Hai là, tặng người hy vọng, ý nghĩa lớn nhất của con người sống trên đời này chính là có hy vọng vào tương lai, nếu như không có hy vọng, không có chí tiến thủ thì con người giống như là xác sống vậy, tuy sống mà như đã chết. Nói đến hy vọng, hy vọng của con người có hai loại, hy vọng nhiễm ô là dục vọng bất thiện, còn hướng đến điều lành là hy vọng tốt đẹp. Ví dụ, tôi có thể lấy việc trở thành thánh hiền làm mục tiêu, hy vọng; có hy vọng thì có tương lai, điều này có gì là không tốt chứ? Thậm chí tôi còn thể mang lại hy vọng cho người khác, việc này chẳng phải là càng tốt hay sao?
Ba là, tặng người hoan hỷ, trong xã hội ngày nay, cho bạn tiền bạc, nhưng tiền bạc rồi cũng có lúc dùng hết; cho bạn chút tình cảm, nhưng tình cảm thì vô thường, không thực tế. Nếu như tôi có thể giúp người an tâm, trợ duyên cho người, giúp người nhận được sự tôn trọng, bao dung, để người nhận được sự giúp đỡ của tôi sinh tâm hoan hỷ, thế thì thế giới này sẽ tốt đẹp biết bao.
Bốn là, tặng người thuận tiện, thuận tiện có nghĩa là phục vụ cho người, cho người cơ hội, cho người không gian phát huy, hỗ trợ năng lực cho người. Bạn khát nước, tôi cho bạn một ly nước, để bạn giải khát. Bạn không cảm ơn sao? Bạn không có nơi ở, tôi cho bạn một gian phòng trong nhà mình, để bạn ở qua một đêm, bạn không hoan hỷ sao? Bạn nghèo khó, tôi giúp bạn kiếm một công việc, để bạn có được công việc ổn định, cải thiện cuộc sống của bạn, lẽ nào bạn không cảm động?
Tóm lại, bốn tặng là cách quản lý diệu dụng trong quản lý học, nếu như có thể khéo sử dụng thì sẽ mang lại lợi ích vô cùng!
16. Quản lý theo nguyên tắc năm hòa
Chúng ta thường nghe câu: “Dĩ hòa vi quý”. Trong xã hội ngày nay, mặc dù có sự khác nhau về vị trí địa lý, giàu nghèo, nhận thức, lý tưởng, đảng phái, nhưng ta cũng không nên có thái độ đối lập hay thậm chí là tiêu diệt những người khác với ta. Bởi vì thế giới này là nơi cùng chung sống, là một thế giới đa nguyên, nếu như không có sự tồn tại của người khác, không có sự khác biệt ngành nghề, thì làm sao giải quyết được vấn đề ăn, mặc, ở, đi lại trong đời sống? Chúng ta làm sao có thể sinh tồn? Do đó, không ai là kẻ thù của chúng ta, họ là ân nhân của chúng ta, bởi vì có họ, ta mới có thể sinh tồn. Nếu như bạn có được suy nghĩ như vậy, thì chứng tỏ bạn coi trọng nhân hòa. Có nhân hòa thì làm việc gì cũng thành công, có kế hoạch thì kế hoạch nào cũng có thể hoàn thành.
Thế nào là năm hòa? Thứ nhất là tự hài hoà. “Hòa” cần bắt đầu từ bản thân mình, nếu một người ngay cả bản thân còn không nghe lời của chính mình, rõ ràng biết rằng cần phải làm một người tốt, nhưng lại không có chủ kiến mà hành xử theo kiểu nước chảy bèo trôi, thì thật là vô dụng, yếu đuối; ngược lại, một người có chủ kiến, có thể tự tìm thấy niềm vui thì cuộc sống của họ sẽ vui tươi, muôn màu muôn vẻ.
Thứ hai là gia đình hòa thuận. Trong gia đình, nếu như cha mẹ, anh chị em, vợ chồng bất hòa, thì nhà sẽ là Địa ngục. Ngược lại, nếu gia đình hòa thuận thì nhà là Thiên đường. Vì thế, mỗi người không những cần xây dựng nên sự hài hòa trong gia đình, còn cần tôn trọng lẫn nhau, đôi bên tùy thuận.
Thứ ba là mình và người hòa kính. Trong xã hội tồn tại các mối quan hệ cấp trên, bạn bè, đồng nghiệp, bạn học, đồng hương. Nếu như bạn và người khác không thể chung sống hòa bình, không biết tôn trọng bao dung, thậm chí xem người khác là kẻ thù, sinh tâm đố kị, tất nhiên đối phương sẽ chịu sự tổn hại từ bạn, nhưng bản thân bạn có được lợi ích gì chăng? Vì thế, kính trọng, hài hòa giữa người và ta thực sự là một khâu quan trọng trong việc quản lý xã hội.
Thứ tư là xã hội hài hòa. Trong xã hội này có rất nhiều sự khác biệt. Song, cho dù là có khác biệt thì cũng không sao cả, hòa hợp thì có thể thành công. Ví dụ: vật liệu xây dựng thì có gạch, ngói, cát đá, chúng hợp lại với nhau để xây dựng nên một tòa nhà; mùi vị cũng có chua, ngọt, đắng, cay khác nhau, khi phối hợp khéo léo các vị với nhau thì làm nên món ngon. Cho dù là trong một đoàn thể xã hội cũng có các ngành nghề sĩ, nông, công, thương, giàu nghèo bần tiện, thân phận khác nhau, thậm chí “lòng người khác nhau như mỗi người có một gương mặt riêng vậy”, mỗi người là một sự khác biệt. Nhưng trong những sự khác biệt ấy, vẫn có một thứ mà ai nấy đều giống nhau, đó chính là hài hòa, tôi tôn trọng anh, anh tôn trọng tôi, tôi bao dung anh, anh bao dung tôi, mọi người giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau, xã hội hài hòa rồi thì còn lo thế giới chẳng hòa bình sao?
Thứ năm là thế giới hòa bình. Từ xưa đến nay, người nhân đức, quân tử, thánh hiền đều đề xướng thế giới hòa bình, nhưng thế giới có thể hòa bình không? Thật là khó vậy. Nếu như dân số hơn bảy tỷ người trên toàn thế giới này có thể tự mình làm vui, dần dần sẽ làm được ai nấy một lòng, kính người thì được người tôn kính; giúp người thì được người giúp, thế thì lo gì thế giới không hòa bình?
17. Quản lý bằng phương pháp tuân theo chân lý
Phật giáo là do Tam bảo Phật, pháp, tăng, hợp thành, Phật, pháp, tăng giống như ba chân của một cái đỉnh, là căn bản quan trọng hình thành nên giáo đoàn. Nhưng sẽ có người hỏi: Thế thì trong Phật, pháp, tăng cái nào quan trọng nhất? Cái nào là cứu cánh nhất? Thông thường người ta đều cho rằng Phật là lớn nhất, thật ra không phải như vậy. Phật cũng từng nói: “Tuân theo giáo pháp chân lý mới có thể thành Phật, không có giáo pháp chân lý thì làm sao có Phật?” Vì thế, Tam bảo lấy giáo pháp làm trọng yếu.
Giống trong kinh, Đức Phật cũng dạy: “Trong các loại cúng dường, cúng dường giáo pháp là bậc nhất”. Thế nào là giáo pháp? Đó là chân lý, Phật Thích Ca Mâu Ni là người phát hiện ra chân lý chứ không phải là người phát minh ra chân lý. Chân lý vốn có, là “xưa nay vốn có không thay đổi, trải qua vạn kiếp vẫn vẹn nguyên”.
Thậm chí quy y Tam bảo thì quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng tuy quan trọng như nhau, nhưng trong kinh điển có một câu tuyên ngôn vô cùng vĩ đại là: “Nương tựa vào chính mình, nương tựa vào giáo pháp, không dựa vào bất cứ cái gì khác”. Cũng chính là nói, quy y cần quy y bản thân, quy y chân lý, mà không quy y cái khác. Đó cũng là điểm siêu việt của Phật giáo so với các tôn giáo khác ở thế gian.
Nói một cách khác, cần “y pháp bất y nhân” , dựa theo chân lý mà không dựa vào cái khác. Chân lý là từ tự tâm bản tính mà hiển lộ, chỉ cần bạn chịu tin theo, thực hành, thì đó là sự thăng hoa tối thượng trong đời, siêu việt nhất đời. Có thể nói, “pháp y chỉ” mang lại cho nhân loại tôn nghiêm tối cao, điểm tựa vĩ đại.
18. Quản lý bằng sự bình đẳng
Trên thế giới này có rất nhiều tôn giáo, mỗi một tôn giáo có chủ trương, đạo lý riêng, Phật giáo thường nhắc đến từ bi, nhẫn nại, trí tuệ, cũng chính là đạo lý quý báu vậy. Nhưng trong tất cả các đạo lý ấy, đạo lý quan trọng nhất chính là bình đẳng.
Phật giáo nhìn nhân loại bình đẳng, không có cao thấp. Tại sao nhân loại lại có tranh chấp? Là bởi vì có sự so bì hơn thua, có chấp trước, có so đo, vì thế mà xã hội không có lấy một ngày yên ổn, lòng người mãi tham, sân, si. Nếu như có thể lấy tâm bình đẳng để đối đãi với vạn vật trong vũ trụ, không có phân biệt cao thấp, không có so đo lớn nhỏ, không có thiện ác theo quan điểm riêng của mình, thì cũng sẽ không có đối lập. Nói cách khác, nếu như có thể bình đẳng đối đãi với người khác, thì sẽ không sinh tâm chán ghét; nếu như có thể sống với tâm bình đẳng, thì sẽ không nảy sinh oán sầu; nếu như có thể an trụ bản thân với tâm bình đẳng, thì sẽ cảm thấy an ổn.
Trong một đơn vị hành chính sự nghiệp, Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc cho đến quản lý, công nhân, v.v. tưởng chừng như địa vị, thân phận có cao thấp khác nhau, nhưng thực tế họ đều ở trong một đoàn thể. Nếu như trong đoàn thể này thiếu đi Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc thì không có người lãnh đạo, hoặc thiếu đi nhân viên vệ sinh sẽ không có ai quét dọn, môi trường làm việc sẽ bừa bộn vô cùng, làm sao có thể an tâm cống hiến?
Vì thế, Phật giáo cho rằng, nên xem người khác như chính bản thân mình, trong bạn có tôi, trong tôi có bạn. Nếu như gia đình, nhà máy, đoàn thể, thậm chí là mỗi một người trong bộ máy nhà nước, quốc gia đều có thể nhận thức được sự bình đẳng thì chắc rằng gia đình, đoàn thể, quốc gia sẽ ngày càng hưng thịnh.
19. Quản lý theo cách lợi mình lợi người
Tất cả mọi người, mọi việc trong xã hội này đều ở sự đối đãi, giống như cao thấp, lớn nhỏ, thiện ác, tốt xấu, nam nữ, trời đất, anh và tôi, đều là đối đãi cả. Trong sự đối đãi ấy, đôi bên có lập trường riêng, sẽ có đối lập, có phân biệt, có tranh chấp. Ví dụ như vợ chồng vốn yêu thương lẫn nhau, nhưng bởi ý kiến bất đồng mà trở nên đối lập, vui vẻ gặp gỡ rồi vui vẻ chia ly thì cũng chẳng sao, nhưng có người lại ép người khác vào chỗ chết, biến yêu thành hận, gây bất lợi với cả hai. Từ đó có thể thấy rằng, cách quản lý công bằng nhất trên thế giới này chính là lợi mình lợi người, luôn tìm cách để lợi người lợi mình mới là cách thỏa đáng nhất. Nói rằng phải hy sinh bản thân để cho đối phương được lợi thì con người ta khó tránh có lúc cảm thấy không cam lòng; nhưng muốn đối phương chịu thiệt để bản thân hưởng lợi thì cũng là không công bằng.
Làm bất cứ việc gì cũng không nên ích kỷ, không nên chỉ nghĩ đến bản thân mình, ta cần tôn trọng người khác, cách quản lý sao cho mọi việc yên ổn, mà vẫn được lòng mọi người là điều hết sức quan trọng.
Trong Phật giáo, hai chữ Đức Phật có nghĩa là tự giác giác tha, việc làm của Đức Phật thể hiện phong cách tự độ, độ người. Thời cận đại, Pháp sư Từ Hàng1 trước khi lâm chung cũng để lại lời dạy: “Nếu như còn một người vẫn chưa được độ, thì làm sao bản thân mình được giải thoát”, tức là tu hành theo cách lợi mình lợi người.
Chú thích:
1 Pháp sư Từ Hàng (1893 - 1954): Thế danh là Ngãi Thế Vinh, người miền Bắc Phúc Kiến, 17 tuổi xuất gia tại Đại Kim Hồ, Phúc Kiến, về sau theo học với Đại sư Thái Hư, đến các nơi trong nước hoằng pháp. Ngài từng viếng thăm Đông Nam Á, tuyên truyền quốc sách chống Nhật; sáng lập Phật học viện Đài Loan (Trung Quốc) mở màn cho nền giáo dục Tăng già Đài Loan. Ngài còn thu nhận những vị tăng trẻ từ Đại Lục (Trung Quốc) đến Đài Loan (Trung Quốc). Năm 1949, ngài bị vu cáo tội làm gián điệp và bị chính quyền Đài Loan (Trung Quốc) bắt giam. Năm 1954, Pháp sư Từ Hàng viên tịch trong phòng giam, để lại kim thân bất hoại. Hiện tại kim thân của Pháp sư Từ Hàng được phụng thờ trong nội viện Di Lặc ở Đài Loan (Trung Quốc).
Bởi thế, trong vô số phương pháp tu hành, xem người như bản thân mình cũng là một cách tu hành. Có người hỏi: “Tại sao tôi phải đối tốt với người, phải từ bi với người?” Nếu như bạn có thể suy nghĩ trên lập trường: “Hòa hợp giữa bản thân và người khác”, thì sẽ cảm nhận được nỗi khổ của người và ta không khác, từ đó mà có sự đồng cảm và ra sức giúp đỡ. Thậm chí, nếu như chúng ta có thể như Phạm Trọng Yêm với tâm lượng “lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, ai cũng có suy nghĩ “người trong bốn biển đều là anh em”, thì anh và tôi tuy hai mà một, chỉ cần đồng tâm hiệp lực. Lý tưởng thế giới đại đồng sẽ không còn khó thực hiện nữa, cảnh giới thiện mỹ tối cao nhất ở nhân loại có thể thành hiện thực.
20. Quản lý theo cách hòa nhập chứ không hòa tan
Quan sát trong xã hội ngày nay, về phương diện sự nghiệp có những tính chất khác nhau, về lĩnh vực học thuật có những tư tưởng khác nhau, về lĩnh vực chính trị có các đảng phái khác nhau, về lĩnh vực kinh tế có những quan niệm khác nhau, về lĩnh vực giáo dục có các phương pháp khác nhau, cho đến đoàn thể, thôn xóm, láng giềng, anh chị em trong gia đình, bởi có những cách nhìn, suy nghĩ và cách sống khác nhau nên có sự chia bè kết đảng. Do đó, thực hiện nhân hòa quả thật khó khăn vô cùng.
Song, nếu có thể làm được “hòa nhập nhưng không hòa tan” là việc không hề dễ dàng. Ví dụ như, tôi và anh ở chung một nhà, nhưng anh làm việc không chính đáng, tôi cũng không hợp tác cùng; tôi và anh là bạn bè, nhưng anh làm việc xấu thì tôi cũng không nhập cuộc cùng; cho dù là bất kỳ việc gì ngoài xã hội, đảng phái chính trị, tôi cũng không gây thù địch, chung sống hòa bình với mọi người, nhưng nếu như có người cấu kết phạm pháp, thì bất luận thế nào tôi cũng không thể cá mè một lứa với họ.
Con người cần khéo tùy duyên, nhưng cũng cần có những nguyên tắc không thay đổi. Tự bảo vệ mình lại không làm tổn hại đến người khác, hòa nhập chứ không hòa tan chính là cách tốt nhất để bảo vệ chính mình, tôn trọng người khác.
21. Quản lý sao cho ai nấy đều vui vẻ
Trong xã hội ngày nay, giữa người với người thường xảy ra một vài tranh chấp, giữa các nước, các dân tộc, đảng phái nảy sinh sự đối lập, thậm chí là sự đối lập giữa quan lớn và quan nhỏ, đôi bên mất đi sự tin tưởng, thì khi hợp tác cũng cần ký hợp đồng, để tránh bị đối phương ức hiếp, lừa gạt.
Thực ra, nếu như nhân loại có thể buông bỏ những chấp trước, phân biệt, so đo này, làm việc gì cũng nghĩ đến người khác, không ích kỷ, thì cho dù lập hợp đồng gì, nói lời gì, làm việc gì, chúng ta đều có thể cùng đi đến thắng lợi, ai nấy đều hoan hỷ, nhưng điều này phải xem bản lĩnh trong cách quản lý của bạn thế nào mà thôi.
22. Quản lý theo cách thuận theo lẽ phải
Con người ta thưởng thức hàng trăm bữa cơm giống nhau, thì có hàng trăm loại cảm nhận khác nhau. Có người rõ ràng nhìn thấy người khác làm đúng, nhưng vì sự ích kỷ cá nhân mà phản bác, không để cho người ta gặt hái thành công; rõ ràng biết điều này là không hợp lý, nhưng lại cứ cố chấp bắt người ta phải chấp nhận. Vì thế, trong xã hội ngày nay, nếu muốn một người biết thuận theo lẽ phải, thì quả thật khó vô cùng.
Thông thường, người thấu tình đạt lý thì không nhất định phải có sở trường gì, cũng không nhất định có những kiến giải độc đáo, có điều đối với những lời hay, việc thiện của người khác, họ có thái độ ủng hộ, giúp đỡ và thuận theo lẽ phải. Thật ra, trong nhà Phật nói đến bố thí, không nhất định là bố thí tiền tài, người có tiền lấy tiền làm công đức, điều này tương đối dễ dàng; người có sức thì ra sức cũng không khó. Song cũng có người sẽ nói, tôi không có sức. Không sao cả, bạn có thể nói lời hay, khen ngợi người khác, thì cũng là công đức. Nếu như bạn nói rằng, tôi không biết nói lời hay, không sao cả, chỉ cần bạn biết tùy hỷ, chúc phúc, giúp đỡ cho những việc tốt, người tốt thì cũng là làm công đức rồi.
Thế nào là thuận theo lẽ phải? Ví dụ trong Phật giáo, có người muốn giảng kinh thuyết pháp, chúng ta khen ngợi lòng nhiệt tình muốn hoằng pháp của họ; có người muốn lập trường học, chúng ta khen ngợi lòng nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục của họ; có người muốn sửa chữa đường sá, chúng ta khen ngợi sự nhiệt tình của họ đối với công tác xã hội.
Thực ra, từ lời nói của người thân, bạn bè bên cạnh hoặc những người chúng ta không quen biết có thể nghe thấy người tốt việc tốt thật là nhiều không biết là bao nhiêu mà kể, nhưng chỉ cần ta thuận theo lẽ phải, sau khi đã quen rồi thì bản thân cũng dần trở thành người thiện mà thôi.
Đáng tiếc thay, có người lại không muốn giúp người khác thành tựu, không muốn giúp người làm nên việc tốt. Rõ ràng là một câu nói với ý tốt, anh ta lại hiểu theo một cách khác; rõ ràng là một việc tốt, anh ta cũng muốn phá hoại. Có thể nói, những điều khiếm khuyết như thế hoàn toàn là do con người tạo nên. Một cá nhân có thể làm nên việc tốt cho đời, cũng có thể phá hoại việc tốt ở đời.
Trước đây tôi có một người họ hàng, tôi khó khăn lắm mới giúp được anh ta từ Đại Lục (Trung Quốc) đến Los Angeles, thậm chí vì để giúp anh có thể sinh sống, phát triển ở đó, tôi còn kiếm việc cho anh ta. Nhưng ngờ đâu, chỉ vì một việc không được hoàn toàn như ý mình mà anh ta căm giận nói với người khác rằng: “Đại sư Tinh Vân mất 20 năm để xây dựng chùa Tây Lai, tôi chỉ cần 20 phút thì có thể hủy hoại ngôi chùa ấy”. Anh ta không chỉ không thuận theo lẽ phải, mà còn mang tâm oán hận, loại tâm lý này thật đáng sợ.
Có một thầy giáo nói với hai anh em rằng: “Hai con hãy tiến cử người mà con thân nhất, mật thiết nhất”. Anh cả bèn tiến cử một vị ân nhân đã từng giúp đỡ mình, người em thì tìm một người từng được bản thân giúp đỡ. Không ngờ, sau đó người em lại bị người mà anh ta giúp đỡ hãm hại đến mức thân bại danh liệt.
Người tốt thì là người tốt, người xấu thì là người xấu, thuận theo lẽ phải thật chẳng dễ dàng gì. Vì thế, chúng ta khi quan sát một người. Chúng ta cần giống như ông Tăng Quốc Phiên1 vậy, biết cách nhìn người, người biết thuận theo lẽ phải thì nhất định là người tốt.
Chú thích:
1 Tăng Quốc Phiên (1811 - 1872): Tên tự là Bá Hàm, hiệu Điều Sinh, người Tương Hương, tỉnh Hồ Nam, đỗ Tiến sĩ triều Đạo Quang, giữ chức vụ Thị lang các bộ Binh, Lễ, Lại, Hình, đồng thời là một nhà Nho theo phái Đông Thành, nhân vật tiêu biểu của địa chủ người Hán, sau được bổ nhiệm chức Học sĩ Nội các trong triều đình Mãn Thanh. Ông là tướng lĩnh chỉ huy Tương quân (đoàn quân khởi phát ở Tương Hương), cánh quân chủ lực trong cuộc chiến chống quân Thái Bình Thiên Quốc. Tăng Quốc Phiên cùng với Tả Tông Đường và Lý Hồng Chương là ba nhân vật người Hán có quyền thế và ảnh hưởng lớn đến Trung Quốc cuối thời nhà Thanh.
23. Quản lý theo cách tôn trọng sự khác biệt
Trong xã hội loài người, có người thiện, người ác, người tốt, người xấu, đấng trượng phụ, kẻ tiểu nhân, có người tâm địa như vầng nhật nguyệt, có người lại đầy rẫy ác ý, khác nhau muôn màu muôn vẻ. Cho dù là thân như cha mẹ, anh chị em, thì cách họ làm người, đối nhân xử thế, suy nghĩ cũng sẽ có sự khác biệt, cho đến những đồng nghiệp làm cùng cơ quan, những bạn cùng học cùng một trường cũng có những kế hoạch riêng. Vì thế, xã hội này vốn là đa nguyên, muốn ép người khác giống y như mình e rằng rất khó. Hơn nữa, có lúc bản thân mình cũng mất kiểm soát, bản thân không nghe theo lời nói của chính mình thì làm sao có thể yêu cầu người khác giống mình được chứ?
Cho dù nói đến sự hài hòa trong xã hội, đạt được nhận thức chung, cùng chung một nghiệp đi chăng nữa, đôi bên cũng không nhất định là hoàn toàn giống nhau, vẫn có những điểm khác biệt. Anh có suy nghĩ của riêng anh, tôi có suy nghĩ của riêng tôi, anh có thể làm việc theo nguyên tắc của anh, tôi có thể làm việc theo nguyên tắc của tôi, chỉ cần đôi bên tôn trọng, bao dung, thì rất nhiều sự khác biệt sẽ dễ dàng được chấp nhận. Suy cho cùng, mỗi người có một chí hướng riêng, không cần việc gì cũng như nhau. Nếu như anh có thể tôn trọng sự khác biệt, thì nhân duyên sẽ ngày thêm rộng mở.
24. Quản lý phải hợp chân lý hợp căn cơ
Trước kia, khi Đức Phật còn tại thế thuyết pháp cho đại chúng, có một nguyên tắc quan trọng: Phật pháp cần “hợp chân lý, hợp căn cơ”, “yêu cầu thứ nhất là hợp với chân lý của chư Phật, yêu cầu thứ hai là hợp với căn cơ của chúng sinh”, hợp đạo lý, hợp căn cơ thì mới có hiệu quả.
Nói đến hợp chân lý, ngày nay khi giảng kinh thuyết pháp, không ít người thích nói những điều huyền diệu, ba hoa chích chòe, lại không phải là tâm ý của Đức Phật, không hợp với ý của Đức Phật, không thể khế hợp với chân lý Phật pháp. Loại đạo lý dường như đúng nhưng thực tế là sai này đã làm cho người ta hiểu sai, không thể khế hợp chân lý, chỉ dẫn đến mê mờ.
Đương nhiên, hoằng dương Phật pháp, phổ độ chúng sinh ngoài hợp chân lý ra, thì hợp căn cơ cũng hết sức quan trọng. Nếu như hợp chân lý mà chẳng hợp căn cơ thì khó mà mang lại lợi ích cho người nghe giáo pháp. Mỗi người có một căn cơ khác nhau. Người có căn cơ thượng đẳng, chỉ cần bạn nói một câu thì anh ta đã có thể nhập môn; người có căn cơ hạ đẳng, cho dù bạn nói thật nhiều, nhưng cũng không thể tương ưng. Vì thế, một người thực sự biết giảng kinh thuyết pháp, đầu tiên phải hiểu rõ căn cơ của đối phương, xem họ có thể hiểu được đạo lý của Phật pháp Đại thừa không? Nói không nói có, nói tâm nói thức, anh ta có thể chấp nhận không?
Ngày nay, nhiều vị thầy hoằng pháp khi giảng đạo lý thường cố chấp vào ý kiến của riêng mình, mà không quan tâm có thích hợp với người khác hay không, việc họ làm cũng chỉ là khăng khăng làm theo ý mình mà không nghĩ cho người khác, như vậy thật khó mà truyền bá Phật pháp sâu rộng được.
Sở dĩ pháp môn niệm Phật của Tịnh Độ tông có thể thịnh hành, là bởi pháp môn ấy phù hợp với căn tính của tất cả chúng sinh, bất luận là người thượng căn, trung căn, hạ căn chỉ cần niệm một câu: “Nam mô A Di Đà Phật” là đã hữu dụng rồi. Chỉ là nói, con người ta ngày nay muôn màu muôn vẻ, vô số tính cách, căn cơ, nào chỉ có ba căn thượng, trung và hạ? Do đó, ngày nay, người làm lãnh đạo không chỉ cần thấu tình đạt lý mà còn cần phải biết khế hợp với căn cơ nữa!
Đạo lý không hợp thì khó mà phục chúng; không hợp căn cơ thì khó mà khiến người ta chấp nhận. Nhà Phật nói pháp môn hợp chân lý, hợp căn cơ áp dụng vào trong hợp tác làm việc, đối nhân xử thế, trong đời sống hằng ngày, quả thật là một cách quản lý vô cùng quan trọng.
25. Quản lý bằng sự phát tâm
Trong Phật giáo, động lực có từ hai chữ phát tâm. Phát tâm mang lại trợ duyên, trợ lực rất nhiều cho mọi người. Bất kỳ ai muốn có được nhân duyên, được người chấp nhận thì cần phát tâm, cần siêng năng, lễ độ, có tinh thần trách nhiệm. Bình thường quét dọn, pha trà, nấu cơm, làm Phật sự cũng cần phát tâm, cho dù là ăn cơm, cũng cần phát tâm mới có thể cảm nhận được cái ngon của thức ăn; cho dù là đi ngủ cũng cần phát tâm mới có thể ngủ ngon.
Người ta thường nói: “Thế gian không có việc gì khó, chỉ sợ ở lòng người nhỏ”. Bởi thế, nếu muốn học Phật, đầu tiên chúng ta cần phát tâm, chỉ cần phát tâm thì nhân duyên sẽ thành tựu, chỉ cần phát tâm thì không việc gì là không thể làm.
Thế nào là phát tâm, phát là khai mở, khai thác, tâm là ruộng đất. Vì thế, phát tâm chính là khai mở, khai thác ruộng tâm của chúng ta. Một mảnh đất ở sườn núi, bạn khai thác nó, thì sẽ có cây cối sinh trưởng cho quả ngọt hương thơm; một mảnh đất bạn khai thác nó, có thể xây dựng một tòa nhà, một mảnh ruộng bạn khai thác nó có thể trồng trọt ngũ cốc. Vì thế, khai thác ruộng tâm là yếu tố quan trọng giúp chúng ta thành công.
Phát tâm trong Phật giáo cũng rất đa dạng. Nếu như bạn muốn lập nghiệp thành công, vinh hoa phú quý thì cần phát tâm hướng thượng, làm nhiều việc thiện mới đạt được mục đích; nếu muốn tu tập hành đạo, bạn cần phát tâm xuất ly, xem nhẹ tài sản, ái tình, công danh lợi lộc ở cuộc đời, xem nhẹ sự sở hữu ở thế gian, thì đạo nghiệp mới thăng hoa; nếu muốn làm một vị Bồ tát chân chính, bạn cần phát Bồ đề tâm, cần có tâm nhập thế vào đời giúp đỡ mọi người, và tâm xuất ly sự ràng buộc của cuộc đời.
Trước đây có câu: “Quan văn không màng tiền tài, tướng võ không sợ chết chóc thì quốc gia nhất định sẽ hưng thịnh”. Cũng vậy, chúng ta theo tín ngưỡng tôn giáo, nếu như có tư tưởng xuất thế, tinh thần nhập thế, thì cuộc đời sẽ càng thêm viên mãn, tương lai sẽ gặt hái nhiều thành tựu.
Vì thế, chúng ta nên luôn luôn ghi nhớ hai chữ phát tâm này: Tôi cần phát tâm từ bi, tôi cần phát tâm tu đạo, tôi cần phát tâm làm lợi cho người, thậm chí tôi cần phát tâm tụng kinh, tôi cần phát tâm làm lợi lạc cho mọi người, tôi cần phát tâm làm việc, tôi cần phát tâm vì Phật giáo, vì xã hội, vì quốc gia. Tóm lại, thành công là bắt đầu từ sự phát tâm.
Quản lý học không khó, chỉ cần có thể khiến cho quần chúng, tập thể đều phát tâm, không vì bản thân mình thì không lo không gặt hái được thành công.
26. Quản lý theo phương châm không có gì
Trong Phật giáo, có một đạo lý cao thâm, vi diệu nhất đó chính là: Không có gì. Không có gì cao thâm vi diệu nên người thường không dễ gì hiểu được. Trong xã hội, ai ai cũng muốn sự nghiệp phát đạt, có con gái con trai, thăng quan phát tài, công danh phú quý, thực ra Có không nhất định là tốt. Ví dụ như có nhiều con, tuy là phúc (phúc khí), nhưng khó tránh khỏi cũng có lúc nổi giận; tiền tài nhiều, tuy không lo cơm ăn áo mặc, nhưng tiền tài lại bị trộm cướp, chiến tranh, con cái bất hiếu, bệnh tật, thiên tai chi phối, rất nhiều người vì tiền tài mà chết. Thậm chí giữa người với người, ở cùng rất hợp nhưng một khi chia lìa sẽ cảm thấy đau khổ; làm cùng cơ quan với người không hợp ý cũng khiến bạn không vui lòng.
Vì vậy, đối với Có, có gia đình thì có phiền não trong gia đình; có tiền tài thì có phiền não của tiền tài; có tình yêu thì có phiền não của tình yêu; có địa vị quyền lực thì có phiền não của địa vị và quyền lực. Trong cuộc sống tồn tại khái niệm Có này thì có tốt có xấu, tốt nhất là có hoan hỷ, có tự tại, có an tâm, có bình an, nhưng những loại Có này chẳng được ai xem trọng, họ chỉ coi trọng công danh phú quý có hình tướng mà thôi. Đương nhiên, tùy theo công danh phú quý mà có những phiền não tương ứng.
Thực ra, Không có gì là tốt nhất, Không có gì không phải là không có, to lớn như hư không, không phải có thể dung nạp vạn vật đấy sao? Không gian nhà kho rất lớn, chẳng phải là chứa đựng rất nhiều đồ đạc đấy sao? Đất trống rất lớn, chẳng phải là có thể xây dựng cao ốc đấy sao? Trong túi trống rỗng, chẳng phải là có thể đựng nhiều tiền hơn đấy sao? Vì thế, trong cái Không cũng có cái Có vô cùng vi diệu.
Nhưng con người ta không hiểu được Không, đều cho rằng Không có nghĩa là không có gì, trống rỗng, mà không biết là từ Không có thể xây dựng nên cái Có. Nếu như thế gian này không có không gian, ly trà không trống rỗng thì làm sao đựng được nước? Cái bát không trống rỗng thì làm sao đựng cơm? Vì thế, chúng ta cần hiểu được ý nghĩa của Không trong thế gian vạn hữu, đem Không điều hòa phối hợp với Có, như trong Bát nhã tâm kinh có nói: “Không tức là vật chất, vật chất tức là không”. Không và Có vốn không phân biệt rạch ròi mà có quan hệ qua lại mật thiết với nhau.
Đối diện với vạn sự, vạn vật chúng ta không nên chấp trước. Cho dù ngày hôm nay bạn ở tòa cao ốc biệt thự, thì ngày mai có thể chỉ vì một trận hỏa hoạn, một trận động đất bạn cũng có thể khuynh gia bại sản. Ngược lại, ngày nay bạn không có gì cả, một khi nhân duyên thành thục, lợi ích tự nhiên sẽ tìm đến bạn. Vì thế, giữa người với người, hoặc trên phương diện quản lý, Có chỉ là một mặt, Không có gì mới bao hàm tất cả.
Giống như thiên tai bão lũ là điều khó tránh khỏi, nhưng vẫn có người trong họa có phúc. Có một thương nhân làm về nghề mộc, vốn định đem vật liệu gỗ vận chuyển đến Nhật Bản, bởi mưa bão ập đến nên trì hoãn kế hoạch hết một tuần. Nào ngờ, sau khi lùi thời gian lại, giá gỗ ở Nhật tăng lên gấp ba lần, đột nhiên anh ăn nên làm ra. Từ đó có thể thấy, thiên tai bão lũ chẳng phải là tăng thượng duyên của anh ta đấy sao? Bởi thế, mỗi người có một nhân duyên khác nhau, chúng ta không nên ngưỡng mộ người khác mà quên không chịu phấn đấu cho bản thân.
Nhân duyên cũng chính là tư tưởng Không có gì, vốn là không có, nhờ nhân duyên đến mà thành ra Có; vốn là Có, bởi vì không có duyên nên giống như vịt đã vào nồi lại bay mất. Nếu như bạn có thể nhận thức được đạo lý Không có gì này rồi, thì có thể có được quan hệ ta và người tốt nhất, vi diệu nhất thế gian, đối nhân xử thế càng thêm thuận buồm xuôi gió.
27. Quản lý năm dục vọng
Thường có người hỏi: “Con người từ đâu tới?” Không cần nói cũng biết, con người sinh ra trên thế gian này từ ái dục. Thông thường người ta cho rằng, chấp trước ái dục mới là sinh mệnh của họ. Nhưng trên thực tế, vất vả trong ái dục luôn luôn là khi ta cần thì yêu quý nó; nhưng khi ta không cần thì lại hận nó. Mỗi ngày sống trong yêu và hận thì làm sao vui vẻ được. Bởi vì ái mà con người sinh ra rất nhiều dục vọng, giống như tham tài mê sắc, muốn danh muốn lợi, chìm đắm trong ăn ngon mặc đẹp, tham thú hưởng thụ năm dục, tự tư chấp ngã.
Đương nhiên con người sống trong thế gian này, chúng ta không thể nói năm điều ham muốn không quan trọng. Nó quả thật có thể mang lại chút vị ngọt cho con người, chỉ là nguy hiểm mà nó mang lại lớn hơn chút vị ngọt nhỏ bé ấy rất nhiều. Trong kinh Phật di giáo có giảng, năm dục vọng tiền tài, sắc đẹp, danh dự, ăn uống và ngủ nghỉ như mật ngọt trên lưỡi dao, tuy có một chút vị ngọt nhưng tiềm ẩn cái họa đứt lưỡi.
Trong kinh Phật có một câu chuyện thế này: “Có một người đi du ngoạn, không cẩn thận rơi vào một cái giếng sâu. May thay trên giếng có một sợi dây thừng, anh ta nắm lấy nó nên mới không bị rơi xuống. Tuy rằng, người đó thử men theo dây thừng mà trèo lên, nhưng bởi sức lực không đủ nên suýt chút nữa thì anh ta rơi xuống. Đang lúc đung đưa như vậy, anh ta nhìn xuống phía dưới thì thấy: 'Ôi chao, dưới đáy giếng là bốn con rắn độc'. Đang trong lúc bất lực thì lại có hai con chuột trắng, đen kéo đến, không ngừng cắn sợi dây thừng mà anh ta đang đeo bám. Anh ta nghĩ: sợi dây thừng này giống như là sinh mệnh của con người vậy, nếu như đứt đi thì coi như xong đời. Đang lúc nguy cấp đó, lại có năm con ong mật ở đâu bay đến, lòng vòng trên không, rồi đột nhiên nhỏ xuống năm giọt mật, vị mật ngọt làm anh quên đi mọi nguy hiểm”.
Năm giọt mật ong này tượng trưng cho năm dục tài, sắc, danh, thực, thụy; mật ngọt trên lưỡi dao tiềm ẩn nguy cơ đứt lưỡi. Năm dục là những thứ con người ta theo đuổi, nhưng nếu tham cầu quá mức, nó sẽ khiến con người ta khổ sở vô cùng.
Dục vọng có cái thiện, có cái nhiễm ô. Ví dụ, ăn uống chơi bời, cá độ lười biếng là những dục vọng không tốt. Ngược lại, tôi ham thích học hành, tôi hy vọng tiến bộ, tôi muốn có đạo đức, tôi muốn làm người tốt, tôi hy vọng được siêu thoát, tôi cần có tín ngưỡng, tôi cần có Phật giáo, tôi muốn tu hành thành Phật, thành Tổ, v.v. đều là những dục vọng tốt. Một người nếu như tăng trưởng dục vọng tốt thì sẽ trừ bớt đi dục vọng xấu, giảm thiểu khổ đau, tăng thêm niềm vui trong cuộc sống.
Vì thế, năm dục giống như năm mũi tên vậy, có thể dùng để phòng thân, cũng thể thể khiến chúng ta rơi vào ranh giới sinh tử. Đối với dục vọng, nếu như chúng ta không quản lý tốt, mà để mặc cho chúng sai khiến thì tai nạn, khổ đau sẽ theo đó mà tìm đến. Bởi thế, đối diện dục vọng, chúng ta không thể không có mãnh lực, hãy dùng chính tri, chính kiến để hàng phục nó; đồng thời giảm thiểu dục vọng, sống đạm bạc, thì chúng ta mới có thể bình an hạnh phúc. Thế nào là “Tâm an thì ở nhà tranh cũng an, tính định thì cọng rau cũng thơm ngon”, không cần nghĩ cách quản lý người khác, quản lý thiên hạ, chỉ cần quản lý tốt năm tên giặc dục vọng của mình thì tất cả sẽ được bình an.
28. Quản lý bằng năm giới
Trong quá trình hoằng pháp của tôi, đặc biệt là ở Mỹ thật là kỳ diệu, người Mỹ đều rất thích năm giới, mỗi khi chùa Tây Lai tổ chức lễ truyền thụ năm giới, thì số người Mỹ tham gia nhiều hơn cả số Hoa kiều. Tôi nghĩ, chủ yếu là do nước Mỹ xưa nay vốn là một quốc gia cai trị bằng pháp luật, nhân dân biết dùng pháp luật để quản lý bản thân mình.
Năm giới nghe thì có vẻ như yêu cầu chúng ta cái này không được làm, cái kia không được làm, không được sát sinh, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được vọng ngữ, không được sử dụng chất gây nghiện. Có vô số những ràng buộc, song trên thực tế giữ giới là tự do, bạn không phạm giới thì tất cả đều có thể tự do. Quan sát những tù nhân đang chịu hình phạt trong trại giam, chẳng phải là vì phạm năm giới mà phải vào tù, mất đi tự do đấy sao?
Vì thế, chúng ta có thể dùng năm giới để quản lý bản thân mình. Ví dụ như không sát sinh là tôn trọng tự do sinh mạng của người khác, không xâm phạm đến sinh mạng của người khác; không trộm cắp chính là tôn trọng quyền sở hữu, không xâm phạm tài sản của người khác; không tà dâm là tôn trọng tự do thân thể của người khác, không xâm phạm danh tiết, như vậy, gia đình của mình cũng sẽ được hòa thuận êm ấm; không vọng ngữ, không nói dối làm hại người khác, xem trọng thành tín, thì sẽ được người ta tôn trọng; không sử dụng chất gây nghiện, không uống rượu sẽ bảo toàn được tiền tài, sức khỏe và bảo vệ được danh dự bản thân.
Nếu như mỗi một thành viên trong gia đình đều có thể giữ gìn năm giới, dùng năm giới để quản lý gia đình; trong đoàn thể ai nấy đều thụ năm giới, lấy năm giới để quản lý đoàn thể, như vậy thì ai nấy đều kiện toàn cả. Lại nói, làm người, không thụ năm giới, lẽ nào có thể sát, đạo, dâm, vọng ư? Bạn thụ năm giới, mới thể hiện bản thân giống một con người, một con người có thể giữ gìn năm giới, mọi người cũng không sợ hãi bạn.
Đối với sự tự do của giới, tôn trọng giới, tôn nghiêm giới và lợi ích mà giới mang lại quả không kể xiết. Tóm lại, bạn có thể giữ gìn, tuân thủ năm giới thì nhân cách đạo đức sẽ được tôn trọng, quan hệ với mọi người cũng sẽ hài hòa. Từ đó suy ra, nếu nhân dân cả nước đều thụ năm giới, thì lẽ nào đất nước ấy không thái bình sao?
29. Quản lý theo cách nhẫn chịu thiệt thòi
Trong xã hội, vì dục vọng nên con người luôn ham muốn chiếm lợi. Thực ra, thứ không phải là của bạn, bạn tham cầu muốn có được thì thật là nguy hiểm lắm thay. Khi đến trại giam có thể thấy rõ việc này, nhiều người bị giam cầm, cũng bởi vì tham lam vô độ mới rơi vào lưới pháp luật, mất đi tự do của bản thân.
Vì thế, nếu một người chỉ muốn chiếm lợi từ người khác, đó là đang đưa mình vào hoàn cảnh rất nguy hiểm. Có câu: “Chịu chút thiệt thòi có đáng chi, nhường người một chút chẳng ngại gì”. Có lúc chịu khó đi xa một chút, nhường cho người một chút, xem ra như là bản thân đang chịu thiệt thòi, thực tế là “mất cái này để được cái kia”, tạo thêm nhân duyên cho chính mình. Việc được mất, tốt xấu ở thế gian này không thể nhìn vào hoàn cảnh nhất thời, cũng không thể so đo về mặt hình thức.
Nếu được chia cho một mảnh đất 10 hecta đi chăng nữa, nhưng bạn không trồng trọt thì nó cũng chỉ là một vùng đất hoang, không có tác dụng gì; còn chỉ có 1 hecta đất, nhưng tôi siêng năng cày cấy, canh tác, ngũ cốc bội thu. Tưởng chừng được chia ít đất là thiệt thòi, nhưng chỉ cần bạn siêng năng nỗ lực, thì ít cũng thành nhiều.
Chịu thiệt là phúc. Bạn không muốn chịu thiệt, việc gì cũng tham muốn, chấp trước, cho dù có nhiều đi chăng nữa, một khi gặp phải trộm cướp, lừa gạt, thì tài sản ấy cũng chẳng còn thuộc về bạn. Mọi thứ trên thế gian, nếu là của mình thì sẽ mãi là của thuộc về mình, không phải là của mình thì không nên cưỡng cầu, tất cả là duyên. Trong đoàn thể cũng vậy, trong việc đối nhân xử thế sẽ có một số người chịu thiệt thòi, tôi làm nhiều, anh làm ít, tôi lương thấp, anh lương cao. Nhưng đừng vì vậy mà cảm thấy trở ngại, chỉ cần bạn chịu nỗ lực, có được thiện nhân thiện duyên thì nào sợ hạt giống gieo trồng trên ruộng ấy không có thu hoạch. Vì thế, người chịu thiệt mới là người thật sự có phúc.
30. Quản lý theo cách tôn trọng tất cả
Trong xã hội này, có những nhân vật quan trọng, có những nhân vật thứ yếu, có người thiện, kẻ ác, v.v. Gặp được người thiện, chúng ta đương nhiên tôn trọng, gặp phải kẻ ác, cũng không nên đắc tội họ. Bạn đắc tội với người hiền, người hiền sẽ tha thứ cho bạn, không tính toán gì cả, nhưng nếu bạn đắc tội với kẻ ác hậu quả thật khó lường. Vì thế, giao tiếp với kẻ ác ta cần thu mình lại, không ngạo mạn, cần có lòng bao dung, không xem thường họ. Giống như tôi xem anh là một học giả, một người thầy, lẽ nào anh không thích sao? Tôi xem anh là quan lớn, là lãnh đạo, lẽ nào anh không vui? Vì thế, làm người cần khiêm tốn một chút, hạ thấp mình một chút, cần tôn trọng hơn, khen ngợi người khác nhiều hơn. Bất luận anh là lãnh đạo hay chỉ là nhân viên, làm lãnh đạo không nên xem thường nhân viên, làm nhân viên cũng không được khinh miệt lãnh đạo. Nếu như có thể vận dụng nguyên tắc tôn trọng tất cả vào cuộc sống, xem trọng người khác, hạ thấp bản thân một chút thì nhất định không phải là thiệt thòi. Thế gian này tự có công bằng. Chỉ cần là người tốt, làm việc tốt, thì cho dù trước mắt tưởng chừng như là chịu tổn thất, nhưng về lâu dài nhất định chúng ta sẽ thu được lợi ích tốt đẹp.
Như Hồng Tự Thành triều Minh từng nói: “Giao lưu với người ác, như dao mài trên đá tuy không nhìn thấy giảm sút, nhưng thật sự là đang bị bào mòn theo ngày tháng, thân cận với người hiền, như vào nhà cỏ lan cỏ chi, tuy không thấy tăng trưởng, nhưng dần thấm nhuận hương thơm”. Trong cách đối nhân xử thế nếu như có thể hình thành thói quen luôn tôn trọng người khác, thì có thể mang đến nhiều lợi ích.
31. Quản lý tham, sân, si
Trong kinh Phật, có hai câu pháp ngữ quan trọng: “Siêng tu giới định tuệ, trừ diệt tham, sân, si”. Con người sở dĩ không thể siêu phàm nhập thánh, không thể giải thoát tự tại, là bởi vì bị ba tên giặc tham, sân, si mê hoặc tự tâm, chiếm lấy tâm mình.
Con người vì tham dục, thứ gì cũng muốn thuộc sở hữu của mình, không chịu nghĩ cho người khác, nên lòng dạ vô cùng hẹp hòi; bởi sân hận, cho nên: “Một niệm sân sinh khởi thì muôn vạn cánh cửa khó khăn mở ra”, “lửa sân thiêu rụi rừng công đức”, một khi ngọn lửa sân hận sinh khởi, thì thiêu hết tất cả tiền đồ của chính mình. Mọi vấn đề trên thế gian này chỉ cần nổi nóng là có thể giải quyết được hay sao? Cho dù nổi nóng có thể khiến cho đối phương không dám phản kháng, nhưng trong lòng họ không phục thì vấn đề vẫn chưa được giải quyết, thậm chí còn nghiêm trọng hơn; chỉ có hòa bình, yêu thương thì mới có thể giải quyết vấn đề.
Ngu si, vô minh càng đáng sợ hơn. Trên thế gian này, phàm việc gì cũng đều có đạo lý. Người có đạo lý của người, vật có đạo lý của vật, trời có đạo lý của trời, đất có đạo lý của đất, tâm có tâm lý, tình có tình lý, đạo có đạo lý. Không nói lý lẽ là ngu si, giống như không có đường đi, không có phương hướng, không nhìn thấu quan hệ giữa anh và tôi trong thế giới này, quan hệ giữa ta và vật, quan hệ giữa trời đất và vạn vật cùng tồn tại vậy. Có thể nói, tham, sân, si đã làm hại cuộc đời, làm trở ngại cho tiền đồ, trói buộc thân tâm, khiến chúng ta không thể tự do tự tại.
Trong kinh Phật có nhắc đến, muốn hàng phục tham, sân, si thì dùng giới, định, tuệ. Khi tâm tham khởi lên thì dùng giới để đối trị, không đáp ứng theo dục vọng tham lam, không tham của cải bất nghĩa có được bằng thủ đoạn bất chính; khi tâm sân khởi lên thì dùng định để đối trị, an nhàn tự tại, không tùy ý sân si, nghi hoặc, đố kị, oán trời trách người, chung sống hòa bình với người; khi tâm si khởi lên thì dùng trí tuệ để hàng phục, trí tuệ như ánh sáng xua đi bóng tối si mê, khi đèn tuệ được thắp sáng thì bóng tối của ngu si sẽ bị xua tan. Giống như thiền môn từng nói: “Căn phòng tối ngàn năm, chỉ cần một ngọn đèn là có thể bừng sáng lập tức”.
Vì thế, với các tật xấu là tham, sân, si, khổ nạn của đời người chỉ có dùng giới, định, tuệ của Phật pháp đối trị mới là cách tốt nhất.
32. Quản lý cách đối trị người xấu
Khi Phật nhập niết bàn, chúng đệ tử có hỏi: “Thưa Thầy! Khi Thầy trụ thế, chúng con gặp phải người xấu thì Thầy ứng phó; sau khi Thầy niết bàn, chúng con lại gặp người xấu thì phải làm sao?” Đức Phật dạy: “Mặc tấn!” là đừng để ý đến hắn.
Điều này quả thật hợp lý. Giống như có một con chó điên, nó sủa bạn thì bạn không nên để ý, dần dần nó sẽ tự khắc dừng sủa; nếu như bạn càng để ý, thì nó sẽ sủa càng dữ dội hơn. Đắc tội người hiền ít có hậu quả; đắc tội kẻ ác hậu quả khôn lường.
Đương nhiên, đối diện kẻ ác, nói rằng dùng mọi cách lễ độ để đối đãi thì quả là khó mà làm được song “tôn kính quỷ thần nhưng tránh xa ra” thì không khó. Thiện ác sẽ ảnh hưởng đến bạn, kết giao với người thiện tự nhiên bạn cũng sẽ hướng thiện; chơi với người xấu thì bạn sẽ làm việc xấu lúc nào không hay. Vì thế, đối với người xấu, cách tốt nhất là không để ý đến, cũng đừng tiếp xúc quá nhiều.
Thế nào là người xấu, có người tính toán quá nhiều, có người hoài nghi quá nhiều, có người ngạo mạn quá nhiều, có người thì tâm xâm phạm quá nhiều, gặp phải những người như vậy, chúng ta cần phải cảnh giác, nhưng cũng không nên đắc tội với họ. Nếu lỡ như đắc tội thì thật là không có ngày kết thúc, “không để ý” đến thì sẽ không có chuyện gì.
Nói đến việc giao tiếp giữa người với người, chúng ta cần tránh xa kẻ xấu, giữa bạn bè thân thiết thì không nên nợ nần chuyện tiền bạc, như vậy mới có thể duy trì tình bạn lâu dài; giữa những người đồng nghiệp tốt với nhau, nên xem như “quân tử chi giao”, không nên quá nhiệt tình, bởi nhiệt tình rốt cuộc cũng chỉ là nhất thời, sẽ có lúc lạnh nhạt, tâm bình thường mới là cách cộng sự lâu dài. Giống như mỗi ngày cho bạn ăn ngon với thịt cá đủ đầy, ăn lâu rồi lẽ nào không ngán? Ngược lại, tuy cơm rau đạm bạc, nhưng ngày tháng lâu dần ăn cũng không thấy ngán. Vì thế, điềm đạm thì mới lâu dài, đời người sống trong trung đạo là bình an nhất.
33. Quản lý đối trị người cố chấp
Phật pháp nói rõ sự ngu si của con người là do hai nguyên nhân lớn, một là cố chấp vào cái tôi, hai là cố chấp vào cái bên ngoài. Hai loại cố chấp này khiến cho nhân loại như bị trói buộc vậy, không thể giải thoát được.
Thế nào là cố chấp vào cái tôi? Chính là tự tư tự lợi, làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến bản thân, tiền tài là của tôi, đất đai là của tôi, vật chất là của tôi. Thực ra, trái đất này không chỉ có một mình tôi, trên trái đất có vạn vật, có bạn, có anh ấy, còn có mọi người, trái đất là của chung.
Bởi con người cố chấp vào cái tôi, nên con người tự hạn chế chính mình không thể giải thoát tự tại. Trong Phật giáo, cách đối trị điều đó là vô ngã. Vô ngã hoàn toàn không phải là bảo người ta phải tự sát, tự tiêu diệt chính mình, mà là nói không nên chấp trước vào bản thân, cần đem cái cá nhân chuyển thành cái chung, chí công vô tư, thậm chí tôi cũng là anh và anh cũng là tôi, tôi và anh là một thể thống nhất. Không chấp ngã thì thế giới nội tâm tự nhiên sẽ trở nên rộng lớn.
Thế nào là cố chấp vào cái bên ngoài? Ví dụ như: Vì một câu nói của người ta, vì một sự việc không hài lòng, vì một món đồ, vì quyền lợi mà tranh chấp; vì đôi bên có tư tưởng và ý kiến khác nhau mà nảy sinh thù hận, tuyệt giao không qua lại, v.v. đó đều là cố chấp vào cái bên ngoài.
Một người tu hành nếu không trừ đi cố chấp vào cái tôi, cố chấp vào bên ngoài thì không thể đắc đạo. Cũng vậy, con người sống trong xã hội, gia đình, nếu như cha mẹ, anh chị em đều chấp vào ý riêng của mình, thì gia đình sẽ không hòa thuận; trong một đoàn thể, nếu như mọi người chỉ coi trọng lợi ích riêng, không chịu vì cái chung, thì đoàn thể đó không thể phát triển; trong một quốc gia, nếu như mỗi một người đều cố chấp vào bản thân, không chịu chấp nhận ý kiến của mọi người, không vì lợi ích chung của mọi người, tất cả đều xem mình là trung tâm, chấp vào ý kiến, suy nghĩ, sở hữu, dục vọng của bản thân thì không thể có thành tựu.
Vì thế, với tư cách là một thành viên trong đoàn thể, trong một quốc gia, ta nên lấy đại chúng làm trung tâm, bản thân mình chỉ là một phần tử trong tập thể mà thôi, ta cần phải ra sức vì đoàn thể, giúp đoàn thể phát triển, tiến bộ.
Tóm lại, muốn quản lý tốt bản thân cần buông bỏ cố chấp vào cái tôi, cố chấp vào bên ngoài; muốn quản lý tốt đoàn thể cần giảm bớt so đo giữa ta và người; muốn quản lý tốt một đất nước cần có quan niệm vì đất nước không theo chủ nghĩa cá nhân. Dùng giải thoát để đối trị chấp trước, dùng buông bỏ để giải trừ chấp trước; một khi giải trừ được chấp trước rồi, thì mọi việc trở nên biển rộng trời cao, thân tâm còn không tự tại hay sao?
34. Quản lý theo tôn ti trật tự
Trong xã hội ngày nay có rất nhiều người lớn tiếng kêu gọi phục hưng văn hóa Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa là gì? Ôn hòa, lương thiện, cung kính, tiết kiệm chính là văn hóa Trung Hoa; trung hiếu, nhân ái, tín nghĩa, hòa bình là văn hóa Trung Hoa; thậm chí Phật giáo nói từ bi, nhân quả, không những là văn hóa Trung Hoa mà còn là sự tôn nghiêm, văn hóa tối cao của nhân loại trên thế gian này.
Văn hóa chủ yếu là cần có đạo đức, có trật tự. Ví dụ giữa cha mẹ và con cái cần có đạo đức gia đình; giữa thầy và trò cần có đạo đức thầy trò; giữa cấp trên và nhân viên cần có đạo đức làm việc. Nếu như không có đạo đức, trật tự trên dưới, không có thứ bậc, thế thì cho dù là đoàn thể, gia đình hay cá nhân cũng sẽ không có hòa bình, không có an ổn.
Tôn ti trật tự là khâu quan trọng trong văn hóa. Từ đó nếu chúng ta muốn phục hưng văn hóa Trung Hoa, thì cần phải xây dựng đạo đức luân lý, xây dựng trật tự xã hội, xây dựng quan hệ cùng tồn tại, cùng vinh quang. Giữa người và ta không thể xâm phạm lẫn nhau, cần có sự tôn trọng, giữ gìn tôn nghiêm cho đôi bên.
Một dân tộc muốn tốt đẹp thì mỗi một cá nhân đều cần quản lý tốt chính mình, cử chỉ hành vi phải phù hợp với thân phận, là quân nhân thì phải biết bảo vệ nhân dân và đất nước; là thương nhân thì phải đảm bảo cho việc mua bán lưu thông hàng hóa trôi chảy; là nông dân thì phải sản xuất phục vụ quốc gia, v.v. Mỗi người cần làm tốt chức năng nhiệm vụ của mình, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau.
Thế nào là tôn ti trật tự? Con người tuy có phân biệt trên dưới tôn ti, nhưng ai nấy có vai trò của họ, nên tôn trọng lẫn nhau trong quản lý học cũng là một điều hết sức quan trọng. Ví dụ: Cha ngồi trên, con ngồi dưới là bình đẳng; giáo viên đứng trên bục giảng, học trò ngồi ở dưới là bình đẳng; nếu như con ngồi trên cha hoặc học trò đứng trên bục giảng, giáo viên ngồi bên dưới, như thế là không bình đẳng. Bởi vì bình đẳng phải căn cứ vào thân phận, cần phù hợp với thân phận, phát huy sức mạnh của bản thân, không phải nói rằng muốn tất cả mọi người đều làm lãnh đạo, huống hồ làm gì có nhiều vị trí lãnh đạo đến thế để đảm đương? Nếu như mọi người đều làm cha mẹ, thì ai sẽ làm con cái đây? Vì thế, cha mẹ con cái, lãnh đạo nhân viên, thầy trò, đều tuân theo lập trường của mình mà làm tròn nhiệm vụ, thì đó mới là bình đẳng, mới gọi là văn hóa.
35. Quản lý theo cách bảo vệ môi trường
Ngày nay trên thế giới nảy sinh rất nhiều vấn đề, ví dụ: Chiến tranh, hòa bình, môi trường, v.v. Đặc biệt là bảo vệ môi trường đã trở thành vấn đề quan trọng của toàn cầu.
Trái đất này là ngôi nhà chung của toàn nhân loại, một hạt cát một viên đá, một ngọn cỏ một cái cây đều liên hệ đến chúng ta, thậm chí có liên hệ đến con cháu trong tương lai. Vì thế, chúng ta không thể không bảo vệ, giữ gìn. Bảo vệ, giữ gìn trái đất đầu tiên chính là bảo vệ môi trường. Yêu thế giới, yêu đất nước, yêu nhân dân, yêu gia đình, trong đó yêu thế giới trước tiên là cần phải bảo vệ môi trường. Trong kinh Phật có Bồ tát Trì Địa, Ngài yêu quý giữ gìn trái đất, như trong kinh có nói: “Ngài đi thật nhẹ nhàng sợ làm đau mặt đất, nói chuyện không dám nói lớn vì sợ đánh thức mặt đất; không dám tùy tiện vứt rác, sợ ô nhiễm mặt đất”. Những cử chỉ ấy thể hiện chủ trương bảo vệ môi trường của Ngài.
Trong Phật giáo, trước đây chư tăng khai khẩn núi rừng, trồng trọt, làm đường giữ gìn nguồn đất và nước, núi rừng thành những khu vườn thanh tịnh tuyệt đẹp, bởi vậy mà sau này có câu khen ngợi: “Những ngọn núi nổi tiếng trong thiên hạ phần nhiều là nơi chư tăng cư trú”. Có thể thấy rằng, chư tăng nhà Phật không những coi trọng quan hệ giữa người với người, mà đối với môi trường sống, họ cũng hết sức tôn trọng, thân thiện, đến nỗi xem thiên nhiên là Pháp thân, là Bát nhã: “Suối reo pháp âm bất tuyệt, màu non kia chân thể Như Lai”; “Trúc biếc xanh rờn đâu khác Bát nhã, hoa vàng nở rộ vốn là diệu đế”, trên mặt đất tất cả mọi thứ đều có sinh mệnh, con người cần yêu quý, giữ gìn, chăm sóc.
Nếu như nhân loại có thể yêu quý, giữ gìn, chăm sóc tất cả sinh mệnh trên trái đất này, tương lai nhất định sẽ nhận được sự báo đáp của chúng, cung cấp cho quý vị những gì mình cần. Vì thế, chúng ta cần xem trọng việc giữ gìn nguồn nước, đất đai, bảo vệ môi trường, sinh thái, cần tôn trọng sự nghỉ ngơi của các loại động vật, chim, thú, cá, tôm, không được giết hại vô độ, để cho chúng có thể sinh tồn. Giống như các quốc gia phương Tây có quy định đánh bắt vậy, nếu như câu phải con cá không đủ kích thước săn bắt thì không được đem về mà phải thả chúng. Những sinh mệnh non nớt ấy cần được giữ gìn để chúng tiếp tục trưởng thành.
Vì thế, nhân loại không những phải quản lý tốt chính mình, quản lý tốt gia đình, quản lý tốt xã hội, quản lý tốt đất nước mà còn phải khéo giữ gìn, yêu quý và tôn trọng trái đất. Như vậy, mọi sinh vật trên trái đất này sẽ sinh trưởng tốt tươi, sống hòa bình cùng nhân loại thì trái đất này mới có thể trường tồn.
36. Quản lý theo kiểu chơi bóng
Tôi sinh ra ở Giang Tô, thành phố Dương Châu, nhà ở bên bờ sông Dương Tử, cho nên từ nhỏ tầm ba, bốn tuổi tôi đã học cách bơi lội. Tuy gia đình nghèo khó, nhưng niềm vui bơi lội trong nước thật không vì thế mà vơi đi. Năm 12 tuổi sau khi xuất gia, ở núi Thê Hà ngay cả hồ nước cũng không có, đột nhiên từ con vịt nước trở thành vịt cạn. Tuy phút chốc khó mà thích ứng, song nghĩ đến tương lai trong cuộc đời, không được bơi lội thì cũng có cách khác, đọc sách, bồi dưỡng kỹ năng, có năng lực thì mới có thể tồn tại trong xã hội. Vì thế, đọc sách, nhẫn nại, tu hành, đã trở thành mục tiêu xuất gia của tôi.
Trong tự viện, tôi đề xướng thể thao nhưng không được một số vị giáo viên bảo thủ chấp nhận, tôi bị khai trừ. Từ đó về sau, tôi chỉ đành giấu diếm sở thích chơi thể thao của mình. Sau khi đến Đài Loan, tôi làm giáo vụ hội thực tập hoằng pháp Phật giáo Đài Loan, đề xướng học viên cần tập đánh bóng chuyền, nhưng học trò nhìn thấy bóng thì không đón lấy, cứ tránh né. Tôi liền nghĩ, tôi thật đáng thương, trước đây khi làm học trò đề xướng thể thao thì bị giáo viên khai trừ; ngày nay làm giáo viên, đề xướng thể thao thì học trò lại không dám tham gia đánh bóng.
Sau khi thành lập Phật Quang Sơn, gặp lúc môn bóng rổ ở Đài Loan thịnh hành, các danh tướng trong các đội bóng Khắc Nan, Đại Bàng, Lục Quang, Thất Hổ, v.v. như: Giả Chí Quân, Đường Tuyết Phảng, Trần Tổ Liệt, Hoàng Quốc Dương, Vương Nghị Quân, đến nay tôi đều khó mà quên được họ.
Tôi cảm thấy chơi bóng rổ quả thực là môn mà thanh niên Phật giáo xuất gia của chúng tôi cần học. Nó là môn học giúp ta quản lý đời sống của bản thân, có ý nghĩa giáo dục trong cách đối nhân xử thế. Trong trận bóng rổ, tuy phân làm hai đội, nhưng đối thủ không phải là kẻ thù mà là bạn bè; không có đối phương thì không thể thi đấu. Vì thế, trên thế gian này, phàm việc gì cũng cần có lòng bao dung, có tâm từ bi thì sẽ không có kẻ thù.
Trên sân bóng, các cầu thủ tuy thể hiện hết sức mạnh mẽ, nhưng trên thực tế là vô cùng nhân từ, đặc biệt quan trọng là trong quá trình đánh bóng, không được va chạm hay đánh người. Nếu như va chạm hoặc đánh trúng tay người khác, thì là phạm quy, phải giơ tay nhận lỗi, xin lỗi đối phương. Nhận lỗi là dũng khí lớn nhất của nhân loại, và môn bóng rổ giúp hình thành thói quen nhận lỗi tốt đẹp này.
Ngoài ra, chơi bóng rổ cần tranh thủ thời gian và tốc độ. Nếu động tác chậm một chút, chỉ trong vài giây thôi cũng mất đi cơ hội giành chiến thắng. Càng quan trọng hơn, cần phải có tinh thần đồng đội, phải tạo cơ hội cho thành viên trong đội của mình mà không thể đơn đả độc đấu, trong lòng phải có người khác, phải có tập thể, nên dũng cảm thì dũng cảm, nên phòng thủ thì phòng thủ, tiến thoái nhanh chậm khéo léo phối hợp, chiến lược tấn công và phòng thủ được chuẩn bị rất chu đáo.
Tóm lại, chơi bóng rổ không những yêu cầu kỹ thuật cao siêu, mà nhân cách đạo đức cũng hết sức quan trọng. Môn bóng rổ có tác dụng vô cùng to lớn đối với việc huấn luyện người trẻ. Rất nhiều người đều biết tôi thích môn bóng rổ, đương nhiên nay đã già rồi, không thể chơi được nữa, nhưng cách giáo dục của môn bóng rổ đối với người trẻ vẫn được tôi hết sức coi trọng.
37. Quản lý theo cách “Đến thì đón tiếp, đi thì tiễn chân”
Khi thành lập Hội Phật Quang Quốc tế, tôi có viết một câu trong điều lệ rằng, chúng tôi yêu cầu hội viên: “Đối với người đến thì đón tiếp, đối với người đi thì tiễn chân”. Câu nói này xem ra rất đơn giản, quả thật mọi người ai cũng có thể làm được, nhưng kết quả lại không thể dùng lời để diễn tả cho hết.
Nói đến bản thân tôi, bất luận là đến thăm nơi nào, đều được người ta hoan nghênh. Người ta đến thăm, tôi cũng nhiệt tình đón tiếp, như vậy làm sao không vui được chứ? Nếu như bạn từ biệt người ta, thế mà anh ta lại chẳng thèm để ý, bạn sẽ cảm thấy buồn chán chứ? Nếu như anh ta nhiệt tình đưa tiễn, thì bạn làm sao không cảm thấy không vui đây? Thậm chí khi bạn trở về quê, nhìn thấy bao nhiêu người thân, bạn bè đến sân bay, bến xe đón tiếp, bạn sẽ rất vui mừng. Cho dù bạn sắp rời xa một nơi, nhưng có bạn bè biết tin lập tức đến đưa tiễn, bạn sẽ cảm thấy rất vui. Vì thế, từ tâm lý của con người mà nói, ai ai cũng thích được người khác hoan nghênh, đưa tiễn. Trong mối quan hệ giao tiếp, “đến thì hoan nghênh, đi thì đưa tiễn” sẽ làm tăng thêm tình hữu nghị, thiện duyên. Nếu như hoan nghênh và đưa tiễn khéo léo đúng thời, thì việc tiếp theo là kết giao bạn bè, bàn việc sẽ trở nên thuận lợi hơn, được nhiều thiện duyên thiện quả.
Tóm lại, “người đến chính là khách”, cần dùng lễ nghĩa để đối đãi, đến lúc chia xa, tuy không cần “tiễn anh ngàn dặm”, nhưng nếu có thể quan tâm một chút, thì họ cũng sẽ cảm kích trong lòng. Giữa người với người không nhất định là phải tính toán qua lại với nhau về tiền bạc, vật chất là bao nhiêu, ngay việc nghênh đón tiễn đưa này cũng sẽ khiến mọi người hoan hỷ.
Nghênh đón, tiễn đưa là một khâu quan trọng trong giao tiếp. Để làm cho người được hoan hỷ, gieo trồng thiện nhân thiện duyên, những việc ai nấy đều vui mà dễ dàng làm được, tại sao chúng ta không làm?