Lời nói đầu
Ở nội dung trước, tôi đã thảo luận về nghệ thuật quản lý từ phương diện tùng lâm tự viện và kinh điển, nay tôi tiếp tục viết về các chủ đề quản lý nhân sự, xã hội, cảnh sát, quân đội, giáo dục và trại giam, v.v. Ở đây, tôi xin chia sẻ về nghệ thuật quản lý của Phật giáo để mọi người tham khảo.
Sau khi Phật Quang Sơn khai sơn được mười năm, từng có một vị giáo sư của Đại học Đài Loan (Trung Quốc) mời tôi đến giảng về quản lý học. Thực sự, tôi nào biết gì về quản lý học, nhưng vị ấy nói: “Không phải là ngài đã quản lý Phật Quang Sơn rất tốt đấy sao? Vì thế, ngài có thể chia sẻ cho chúng tôi về nghệ thuật quản lý của Phật giáo không?”
Tôi không biết Phật giáo có quản lý học. Phật giáo là bình đẳng, cùng tạo điều kiện thuận lợi cho người dựa trên nguyên tắc và giới luật. Không dám nói là quản lý, nhưng cách thức mà Phật giáo ứng dụng trong cuộc sống lại không để xảy ra bất cứ tranh chấp to tát nào về nhân sự.
Vì thế, những nhân sĩ ngoài Phật giáo luôn cho rằng tôi có một phương pháp quản lý độc đáo, hy vọng tôi có thể giảng dạy về quản lý học. Tôi nghiên cứu chi tiết lại toàn bộ Phật pháp và thấy rằng, mọi thứ trong đó đều là quản lý học cả. Nhưng, nếu chúng ta không để tâm thì bất luận quản lý gì cũng chỉ là việc nhỏ hóa lớn, việc lớn làm cho nghiêm trọng thêm, thế thì sẽ rất phức tạp.
Quản lý học là gì? Đó không phải là đấu tranh với người, đối lập với người, càng không phải là cố chấp, chỉ nghĩ tới lợi ích của bản thân. Quản lý học thật sự, nhất định phải nghĩ đến lập trường của người khác, khiến cho đối phương có thể chấp nhận, giúp mọi người đều thành tựu, ai nấy đều hoan hỷ. Tôi nghĩ đó mới là phương pháp quản lý hoàn hảo nhất.
Một vị học trò của tôi thưa: “Cả đời ngài tự thấy tính cách của mình như thế nào?”
Tôi nói: “Thiện lành với người, luôn luôn hướng thiện, tính cách của tôi đại khái là như thế!”
Dưới đây, tôi xin trình bày một số cách giải quyết vấn đề liên quan trong mối quan hệ giữa người với người, cũng như cách tôi đã vận dụng nghĩa lý kinh văn Phật pháp để làm phương pháp hóa độ chúng sinh.
1. Pháp sư Từ Huệ
Đối với lớp trẻ, nếu bảo họ ra nước ngoài hoặc tới một nơi khác xa xôi để xử lý công việc, tất nhiên, lúc đầu rất nhiều người sẽ có chút lo lắng đắn đo, không dám trực tiếp đảm nhiệm. Nhưng, đối với họ, tôi cũng có phương pháp phù hợp. Ví dụ, ông Diệp Tiểu Văn, Cục trưởng Cục Tôn giáo Quốc gia và ông Triệu Phác Sơ, Hội trưởng Giáo hội Phật giáo hy vọng tôi hiến tặng một tòa thư viện mang tên đại sư Giám Chân1, để xây dựng Đại học Giám Chân trong tương lai. Xưa nay, tôi luôn tâm nguyện cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, nhưng đến Dương Châu để xây dựng một thư viện có thể sẽ mất thời gian hai đến ba năm, chưa kể còn phải liên lạc với các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương và làm rất nhiều thủ tục.
Chú thích:
1 Đại sư Giám Chân (688 - 763): Luật sư Trung Quốc. Sư đến Nhật Bản năm 754 và sáng lập Luật tông nơi đây. Sư quê ở Dương Châu. Năm 14 tuổi sư theo cha vào chùa, nhìn tượng Phật cảm động và xin xuất gia. Sư thông Tam tạng, giữ giới nghiêm chỉnh vì vậy tiếng tăm lừng lẫy. Ðến năm 55 tuổi, sư có ý nguyện đi Nhật Bản vì có hai Tăng sĩ người Nhật khẩn thiết mời sư sang giáo hóa. Môn đệ của sư ngăn cản vì đường sang Nhật rất nguy hiểm. Sư nghe vậy liền nói: “Ðây là việc pháp, tiếc gì tính mệnh, mọi người không đi, một mình ta đi”. Nghe vậy nhiều môn đệ xin đi, tổng cộng có 21 người. Chuyến đi hoằng hóa Nhật Bản đầy gian nan, năm lần thất bại, lần thứ sáu sau 11 năm mới toại nguyện. Trong suốt hành trình này có tất cả 36 Tỳ kheo chết và chính sư cũng bị mù hai mắt. Sư đến Nhật năm 66 tuổi, đem theo rất nhiều kinh sách. Nơi đây, sư được cả nước Nhật hoan nghênh sùng ngưỡng và được Nhật hoàng phong chức Truyền Ðăng Ðại Pháp Sư. Vì tinh thông y dược nên sư cũng có cống hiến lớn cho y dược học Nhật Bản. Sư tịch năm 763 sau mười năm truyền bá rất thành công tại đây, thọ 77 tuổi (Theo Phật Quang Đại từ điển, mục từ 6907).
Để giải quyết việc này, tôi nghĩ đến pháp sư Từ Huệ - người mà tôi luôn xem trọng, đã giúp tôi nhiều trong công tác giáo dục. Cô ấy làm việc với tôi hơn 60 năm và đang đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng Học viện Tùng Lâm Phật Quang Sơn. Pháp sư Từ Huệ giỏi về ngôn ngữ, giúp tôi phiên dịch tiếng Nhật, tiếng Đài, lại rất tháo vát, khéo phân tích, nắm bắt, quản lý toàn diện, đặc biệt có sở trường đối ngoại. Nhưng khi nghe phải đến Dương Châu với tư cách là một vị Tỳ kheo ni Đài Loan (Trung Quốc) đến Đại Lục (Trung Quốc) để xây dựng công trình, cô ấy có phần lo lắng. Lúc đầu, tôi đề nghị cô đến ký hợp tác với lãnh đạo địa phương, đưa ra phương pháp, vẽ thiết kế và lập kế hoạch xây thư viện. Cô ấy vừa nghe xong liền nói: “Sư phụ, con làm sao có thể làm được nhiều việc như vậy?” Cô ấy có phần khó xử.
Đương nhiên tôi biết, nếu như tiếp tục khuyên, cô sẽ nói rất khó cho cô, cô không dám và hy vọng tôi phái người khác. Tôi chỉ nói với cô: “Pháp sư Từ Huệ, nếu cô không đi thì thật sự ở đây không tìm được ai đủ năng lực như cô. Cô không đi thì chỉ có tôi đảm nhiệm mà thôi. Nhưng, nếu tôi thường xuyên đến Đại Lục, ký kết hợp tác, thì nhất định sẽ có phần trễ nải những công việc khác. Đó cũng là một sự tổn thất, thật sự khó cả đôi đường!” Vừa nghe nói nếu cô ấy không đi, thì tôi sẽ phụ trách, đương nhiên cô cảm thấy không nỡ, bởi công việc của tôi còn nhiều hơn cô rất nhiều lần: chuyện giao thiệp, đối nội đối ngoại, còn thêm việc giảng pháp, xây dựng, v.v. Cô ấy cũng biết tôi bận rộn vô cùng, bèn dứt khoát nhận lời: “Thôi được! Sư phụ, con xin đảm nhiệm việc này”.
Vậy là, tôi không cần khuyên hay mời cô ấy thêm, chỉ dùng một phương pháp khác, để cô ấy cảm thấy việc này không làm không được, để cô ấy tự phán đoán tình hình, đánh giá tầm quan trọng của mỗi việc và tự thay đổi suy nghĩ. Sau đó pháp sư Từ Huệ chỉ mất thời gian hai năm đã xây dựng được Thư viện Giám Chân.
Mười năm qua, Diễn đàn Dương Châu được tổ chức ở Thư viện Giám Chân, giúp phục hưng và phát huy văn hóa Trung Hoa. Hàng trăm vị học giả có tên tuổi đã thuyết giảng tại đây, mỗi lần như vậy có hơn ngàn thính chúng. Có thể khẳng định Thư viện Giám Chân đã có những cống hiến thiết thực cho văn hóa Trung Hoa. Đối với việc này thật không thể không nhắc tới công lao của pháp sư Từ Huệ.
Tôi nghĩ quản lý học chính là: Bất luận thế nào, bạn cần đạt được mục tiêu. Vậy cần khiến cho đối phương hiểu, cảm động và hành động tự giác, tự nguyện, cam tâm. Được vậy thì không việc gì là không thành tựu.
2. Pháp sư Từ Dung
Ban đầu các hoạt động do Phật giáo tổ chức nhiều lắm cũng chỉ mấy chục người tham gia. Dù dùng hết sức lực của những người tổ chức để giảng kinh thuyết pháp cũng chỉ mới giảng được cho hai, ba trăm người. Đến cả một lễ hội có quy mô toàn xã hội thì số lượng người tham gia cũng chỉ tầm hai, ba trăm. Vậy nên muốn tổ chức hoạt động Phật giáo cho hơn nghìn người tham gia thật sự rất khó.
Năm 1978, tôi đến Nhà Tưởng niệm Quốc phụ ở Đài Bắc thuyết giảng. Tôi biết rằng có người sẽ chăm chú lắng nghe, nhưng cũng sẽ có người không mấy hứng thú đối với việc nghe giảng. Bởi muốn tín chúng học tập Phật pháp, thực hành giáo pháp, nên tôi nghĩ nếu như việc truyền giáo giống như những hình ảnh trong bức bích họa cổ đại ở Đôn Hoàng1: có kỹ nhạc, ca hát, vũ đạo kết hợp để giảng, dùng cách thức động để truyền bá tinh thần và sức sống của Phật giáo, sẽ khơi dậy được sự quan tâm của đại chúng hơn.
Chú thích:
1 Đôn Hoàng là một thành phố thuộc tỉnh Cam Túc, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Đôn Hoàng nằm trong một ốc đảo sa mạc, đây vừa là điểm dừng chân cũng là nơi chiếm vị trí rất quan trọng trên con đường Tơ lụa cổ đại. Đôn Hoàng nổi tiếng bởi thạch động Đôn Hoàng bao gồm hang Mạc Cao, động Thiên Phật, hang Du Lâm với tổng cộng 552 hang, là quần thể thạch động ước tính khoảng 50.000m2 có nhiều bức bích họa Phật giáo nhất thế giới với nội dung vô cùng phong phú.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Đài Loan (Trung Quốc) có rất ít nguồn nhân lực để biểu diễn, bản thân chúng tôi cũng rất thiếu nhân tài về lĩnh vực này. Vì thế, từ những người trẻ tuổi, tôi chọn ra một vị khéo léo trong hoạt động truyền bá giáo pháp là pháp sư Từ Dung, mời cô ấy đến lập kế hoạch diễn thuyết kết hợp hoạt động biểu diễn mới lạ. Lúc đầu, cô ấy cảm thấy có chút khó khăn. Vì sao? Bởi Nhà Tưởng niệm Quốc phụ có 3.000 đến 5.000 chỗ ngồi, biểu diễn ca hát và vũ đạo trước mặt ngần ấy khán giả, ngoài việc tuyển chọn người phù hợp, người biểu diễn cũng phải chọn ra được người có dũng khí lớn.
Tôi nói với cô ấy: “Em gái của cô không phải đang giảng dạy ở Trường Đại học Nghệ thuật Đài Bắc sao?
Cô không cần tìm ai khác, chỉ cần nhờ em cô tìm giảng viên, sinh viên của trường đến tham gia, giúp cho các em vẫn đang theo học tại trường có dịp được biểu diễn trước đông đảo quần chúng, cũng là một thành tựu lớn cho họ vậy!”
Sau khi nghe những lời tôi nói, cô ấy thấy rất hợp lý, bèn đảm nhiệm công việc hoằng pháp đó. Có thể nói, từ đây việc hoằng pháp của Phật giáo bắt đầu mang một diện mạo mới. Sau đó, trong suốt 30 năm truyền bá Phật giáo ở Nhà Tưởng niệm Quốc phụ, mỗi lần tổ chức khán giả đều đầy ắp, thậm chí lối đi hai bên vách cũng chật kín. Người trong Nhà Tưởng niệm Quốc phụ cũng nói, từ lúc Nhà Tưởng niệm được xây dựng đến nay, họ chưa từng thấy có đông người đến tham gia hội họp, nhưng lại giữ gìn trật tự như thế. Đương nhiên mỗi năm sẽ có những tiết mục khác nhau kết hợp với nội dung chúng tôi muốn truyền tải, đồng thời kết hợp với các loại hình hoạt động nghệ thuật Phật giáo.
Tôi nghĩ, điều này không hoàn toàn là do tôi giảng Phật pháp hay, mà sự trợ giúp của đoàn ca vũ cũng góp phần không nhỏ. Nhưng, để pháp sư Từ Dung có thể phát huy được trong lĩnh vực này, tôi cũng phải khuyến khích và hướng dẫn cô ấy, để cô ấy có dũng khí hoằng pháp theo một hình thức sáng tạo mới. Vì thế, các buổi giảng pháp quy mô lớn hoặc các đại hội âm nhạc Phật giáo tổ chức tại Nhà Tưởng niệm Quốc phụ ở Đài Bắc hay ở Nhà Thi đấu thể thao đa năng Đài Bắc, Cao Hùng, không chỉ cho thấy được sự phát triển của Phật giáo, mà sau đó những hoạt động quy mô lớn của xã hội cũng đều có biểu diễn ca vũ, điều này ít nhiều cũng chịu sự ảnh hưởng của pháp sư Từ Dung.
Trong việc quản lý các hoạt động cộng đồng, chúng ta nhất định cần phải có sự hòa hợp của nhiều mối nhân duyên, cần có sự kết hợp của rất nhiều nhân tài. Quản lý không phải là chuyên quyền độc tài, cố chấp theo cái riêng, mà để cho mọi người cùng tham gia, đó mới là sự tuyệt diệu trong quản lý học.
3. Pháp sư Giác Bồi
Trước khi xuất gia ở Phật Quang Sơn, pháp sư Giác Bồi là kỹ sư tốt nghiệp ở Đại học Argentina. Có một năm, trong chuyến đi hoằng pháp ở Brazil, được sự tiến cử của pháp sư Giác Thành, anh ấy theo tôi đến châu Âu hoằng pháp.
Tôi nói với anh ấy rằng, có vấn đề gì anh có thể hỏi tôi. Dọc đường, quả thật anh ấy không ngừng hỏi tôi nhiều vấn đề, tôi cũng dựa theo cái mình biết mà trả lời.
Suốt cả chặng đường đến lúc chuyến hoằng pháp kết thúc viên mãn, Giác Bồi hỏi tôi hàng trăm câu hỏi.
Đã gọi là học vấn nghĩa là học thì phải hỏi, có hỏi thì mới có thể giải đáp. Anh ấy muốn học thì phải hỏi, tôi sẽ trả lời. Tôi nghĩ, thông qua việc hỏi đáp, anh ấy nhất định sẽ tiến bộ. Giác Bồi muốn xuất gia ở một đạo tràng khác, nhưng cuối cùng lại chọn Phật Quang Sơn, chúng tôi cũng rất hoan hỷ. Tôi mất hai ngày để giải đáp câu hỏi của anh ấy và đã có được một nhân tài ưu tú để thành lập hội đọc sách, Hội Phật Quang, v.v.
Tôi cảm thấy, trong quản lý học, có lúc cần xuất phát từ việc “biết” cách giúp người tiến bộ, giúp họ có nhận thức về giáo lý nhà Phật, để cho họ sống trong giáo pháp của Phật. Bởi vì khi chúng ta giảng cho họ nghe, họ sẽ tăng thêm sự hiểu biết và sinh lòng cung kính. Khi tín ngưỡng đã thành thục thì việc tu tập hành đạo sẽ dễ dàng hơn. Có người “sinh ra vốn đã biết”, có người “học rồi sau mới biết”, có người “trong khốn khó mà biết”. Bất luận là gì, chỉ cần họ hiểu rồi, biết rồi, thì có thể thông thạo.
Hơn nữa, tôi không hề kêu gọi: “Anh cần đến Phật Quang Sơn”. Tôi không thể lấy việc anh ấy hỏi tôi vài vấn đề như một điều kiện để chiêu binh mãi mã, kêu gọi anh ấy đến, không phải như thế. Tôi cho rằng, sau khi nghe tôi giảng giải, anh ấy tự có cách nhìn của chính mình và đưa ra lựa chọn. Giống như loài chim bồ câu thông minh, dù bay xa đến mấy cũng biết đường bay trở lại, hoặc như một con ngựa tốt tự nhiên biết đường mà đi. Trình độ của Giác Bồi rất cao, sau khi đã giải quyết xong nhiều vấn đề thì tự nhiên anh ấy sẽ biết mình nên đi đâu, về đâu.
Kỳ thực, quản lý học theo phương pháp của tôi chính là “không quản lý gì”. Trong cái không quản lý đã quản lý rất nhiều rồi. Ứng dụng quản lý học không nhất định là cách quản lý có sự hạn chế, không quản lý gì đôi khi cũng là một phương pháp rất hay.
4. Pháp sư Như Thường, Giác Nguyên
Khi tôi ở Phật Quang Sơn biên tập Bộ sách giáo khoa Phật Quang1, đột nhiên có hai vị đệ tử đến tìm tôi, một vị tên là Như Thường, một vị là Giác Nguyên. Họ đều tốt nghiệp thạc sĩ ở sở nghiên cứu, được phái đến phục vụ các cơ sở ở Phật Quang Sơn. Tôi nghĩ họ không hợp với cách lãnh đạo của người quản lý, gặp phải khó khăn nên đến tìm tôi để bày tỏ vướng mắc của mình.
Chú thích:
1 Bộ sách giáo khoa 12 tập, bao gồm: Tam bảo Phật Pháp Tăng, Chân lý Phật giáo, Bồ tát hành chứng, Phật giáo sử, Tông phái khái luận, Thực dụng Phật giáo, Phật giáo thường thức, Phật giáo và thế học, Các vấn đề Phật giáo, Khái luận tôn giáo, Phật Quang học, Tổng quan các tác phẩm Phật giáo.
Bản thân tôi tự ví mình là cái “thùng rác”, mọi người ai có rác bẩn, khổ sở phiền não đều tìm đến tôi. Khi họ vui vẻ hoan hỷ thì không đến tìm tôi. Đến tìm tôi đều là những người hết sức ưu tú, vì họ biết tìm đến tôi sẽ có “lối thoát”, có thể giúp họ giải quyết vấn đề. Nhưng có một số người không thật sự ưu tú, không biết tìm đến người có thể giúp mình mà lại tự quyết định, dùng tình cảm để xử lý vấn đề, như thế có thể sẽ dẫn đến hậu quả thật khó lường.
Như Thường và Giác Nguyên đến tìm tôi. Khi đó họ đã ở Phật Quang Sơn hơn mười năm, học và tốt nghiệp Học viện Tùng Lâm, sau đó học tiếp lên thạc sĩ, rồi được phái đến phục vụ ở các cơ sở. Họ cảm thấy công việc đó không thích hợp, không phải vì họ vô dụng, chỉ là nhân duyên không khế hợp. Khi ấy, tôi cũng không biết họ có năng lực thế nào, có xu hướng, nguyện vọng phát triển ra sao. Họ đột nhiên đến, thì tôi cũng hết cách. Tôi liền nói: “Thôi thế này đi, nay tôi đang soạn Bộ sách giáo khoa Phật Quang, hai vị đến giúp tôi ghi chép, đánh máy, trước hết sẽ tạm thời ở đây vậy”. Hai người họ rất hoan hỷ, tham gia vào công việc của tôi và cả hai đều làm rất tốt.
Bộ sách giáo khoa Phật Quang có rất nhiều hình minh họa, đều là do Như Thường thay tôi sắp xếp, trình bày. Nếu như không có vị ấy, bộ sách của tôi có lẽ không thể đẹp như vậy. Ngoài ra, lúc đó, tôi thường đề xuất sử dụng phương thức ca hát để hoằng pháp, trong khi giọng ca của Giác Nguyên lảnh lót, nếu như cần đi biểu diễn thì cũng có thể đảm nhiệm được. Cho nên, họ đã ở chỗ của tôi phục vụ như vậy. Tôi cần tổ chức sự kiện thì Giác Nguyên dùng lời ca để hoằng pháp; tôi cần biên tập thì Như Thường thiết kế hình minh họa, họ phát huy sở trường khi làm việc cùng tôi.
Mọi người đều an ổn, ai làm việc nấy. Sau khi tôi hiểu thì phân việc cho họ, ai nấy đều có thể phát triển năng lực chuyên môn của mình. Như Thường giúp tôi lập Quỹ Văn hóa Giáo dục, xe sách thư viện di động Vân Thủy, quản lý Trung tâm Tưởng niệm Đức Phật. Giác Nguyên đi Đài Nam xây phân viện Nam Đài, sau đó đến Đạo tràng Đài Bắc đảm nhiệm trụ trì. Cả hai người đều vui vẻ đảm nhận nhiệm vụ, đều có thể hoằng hóa một phương, mỗi người phát huy sở trường của mình. Có thể nói, ngày nay họ đã trở thành những vị lãnh đạo ưu tú của Phật Quang Sơn.
Nếu như họ đến tìm tôi, tôi liền giáo huấn họ, có thể họ sẽ không phục, cho rằng bản thân đã chịu uất ức, đến chỗ tôi lại thêm uất ức nữa. Cho nên, tôi không dám nói là ai đúng ai sai, chỉ để họ an ổn ở lại chỗ tôi. Tôi cảm thấy, khi mới tiếp xúc với người khác trong chốc lát thì đừng nên trách móc, hay tán thán họ quá nhiều. Trong chốc lát, chúng ta không thể nào đưa ra nhận xét, đánh giá bạn thế này, anh thế kia rồi trách họ, như vậy ngược lại chỉ làm cho sự việc càng tồi tệ hơn. Chi bằng trước tiên chúng ta tìm hiểu xu hướng phát triển của họ, để họ có thể tự nhiên phát huy sở trường, sở học.
Cho nên, đối với Như Thường, Giác Nguyên tôi dùng phương pháp không quản lý mà quản lý, không bàn luận thị phi, không nói chuyện tốt xấu, chỉ cần chân thật làm việc, đem những chuyện ai đúng ai sai gác qua một bên, ai tốt ai xấu cũng không cần quản họ, lấy Phật pháp làm trọng, lấy sự nghiệp làm trọng, không đặt chuyện nhân ngã ở trong lòng, không có đối lập, thì có việc gì mà không thể làm được chứ!
5. Pháp sư Diệu Hương
Tôi thấy một cô gái trẻ tên là Chu Văn Tĩnh tới lui ở Phật Quang Sơn khoảng bảy, tám năm rồi. Vóc dáng cô tuy không cao nhưng rất linh hoạt, mặc một bộ đồ giống nữ sinh, tinh thần sung mãn, động tác linh hoạt khéo léo. Từ sau khi thôi giữ vị trí trụ trì, đối với việc nhân sự ở Phật Quang Sơn, tôi không can thiệp nhiều, vì tôi tôn trọng quản lý của từng bộ phận. Mọi người đến đi, tôi đều để họ tự do quyết định. Nhưng mấy năm sau, có một lần tôi nhìn thấy cô ấy đang lau sàn, đổ rác ở lầu Truyền Đăng, đột nhiên nhớ ra tôi bèn hỏi tên họ của cô. Cô nói cô tên Chu Văn Tĩnh. Tôi hỏi: “Con tới lui ở đây đã bao nhiêu năm rồi, tại sao con không xuất gia?”
Cô ấy thưa: “Bởi vì đơn xin của con không được chấp thuận, cho nên con không có cơ hội xuất gia”.
Tôi cũng cảm thấy rất kỳ lạ, một người thông minh khéo léo như vậy, đã phục vụ bao nhiêu năm ở chùa, tại sao không được xuất gia?
Tôi hỏi cô ấy: “Con từng làm những công việc gì?”
Cô ấy nói đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành y tá, đã từng vừa học vừa làm, bán hàng bên đường, cũng từng làm công cho quán cơm, sau đó có mấy năm làm y tá ở phòng chăm sóc tích cực. Tôi nghĩ, một con người chịu khó, siêng năng lao động, có thể làm công việc cực khổ như vậy, đã tốt nghiệp đại học lại từng là y tá, thực là nhân tài mà Phật Quang Sơn đang rất cần. Tôi nói: “Như vậy nhé, thầy cho con xuất gia, con đồng ý không?”
Cô ấy lập tức đáp rằng: “Được ạ! Con cầu mong còn không được”.
Sau đó, cô ấy xuất gia với pháp danh là Diệu Hương.
Tôi nghĩ, cô ấy từng bán hàng ở vỉa hè, từng làm công, phục vụ tại phòng chăm sóc tích cực, những việc vất vả ấy cô đều có thể siêng năng đảm nhiệm, không sợ khổ, còn sợ tương lai không thể tu hành khổ hạnh và chăm sóc đại chúng sao?
Quả nhiên sau khi xuất gia, cô ấy làm công tác chăm sóc trực tiếp ở Hội Truyền Đăng và cân đối điều hành nhân sự trong đại chúng, cùng rất nhiều công việc quản lý. Cũng giống như công việc của y tá vậy, đối với bệnh nhân cô chăm sóc chu đáo, thậm chí đi từ bệnh viện đến Phật Quang Sơn phải mất hai tiếng đồng hồ, nhưng một ngày cô ấy có thể tới lui ba bốn lần, phục vụ rất nhiều người bệnh, quả thật rất nhiệt tình.
Chưa kể trong thời gian xây dựng Trung tâm Tưởng niệm Đức Phật, khi gặp khó khăn trong vấn đề điện và nước, cô cũng đứng ra xử lý rất nhiều. Cô Chu Văn Tĩnh xuất gia bao nhiêu năm nay, bởi tính cách nhiệt tình phục vụ nên được mọi người ghi nhận, cảm ơn. Tôi cũng cảm thấy hoan hỷ vì bản thân đã quyết định cho cô ấy xuất gia.
Vì sao? Bởi việc quản lý nhân sự, không phải chỉ xem vẻ bề ngoài, mà cần phải xem nhân phẩm, sự khổ học, chuyên tâm, nhẫn nại, có chí hướng thượng, chịu vì người khác, rộng kết thiện duyên, mới có thể phục vụ được trong đoàn thể Phật Quang. Cho nên, việc thành tựu nhân duyên cho cô Chu Văn Tĩnh xuất gia, khiến cho tôi cảm thấy bản thân vẫn có năng lực nhìn người trên phương diện quản lý, tôi tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn có thể thành tựu cho người, cũng có thể làm được một việc tốt.
6. Cô Dương Từ Mãn
Cô Dương Từ Mãn (1932) là người Nghi Lan. Từ năm 1952 tôi được mời đến chùa Lôi Âm ở Nghi Lan hoằng pháp, cô ấy là kế toán Hội Niệm Phật Nghi Lan, mỗi tháng phụ trách thu hội viên một đồng hội phí. Mười năm sau, tôi đến Cao Hùng thành lập Phật Quang Sơn. Bản thân tôi không biết quản lý tiền bạc nên mời cô đến Cao Hùng làm kế toán, cô cũng vui vẻ đồng ý và sắp xếp đến. Cô chỉ học hết tiểu học, nhưng khi ấy sổ sách kế toán không có gì phức tạp, nhiều lắm cũng chỉ vài phép cộng trừ nhân chia mà thôi. Cô làm việc rất có tâm, mỗi ngày đều ghi chép tiền chi, thu rõ ràng, tường tận.
Cô Dương Từ Mãn rất có trách nhiệm, nhưng trong việc giao tiếp lại không khéo léo. Ở Phật Quang Sơn, mỗi khi gặp khó khăn về tài chính, cô lại nói với tôi là không có tiền, tôi cũng biết “nàng dâu khéo nếu không có gạo thì cũng không nấu được bữa cơm ngon”, cô phát tâm quản lý tiền bạc, tôi làm sao để cho cô chịu áp lực này được? Một lần nọ, tôi nói cô có thể chuyển tiền quỹ ở công việc khác chưa sử dụng đến sang để sử dụng, nhưng cô không chịu, lại còn biện luận rằng: “Món tiền đó nên để tương lai làm việc này, việc kia, không thể lấy ra sử dụng trước”.
Tôi nghĩ, việc tương lai cứ để tương lai rồi nghĩ cách, bây giờ cần gấp thì nên lấy ra dùng, việc cũng có khẩn cấp, trước sau mà, nhưng cô ấy lại khăng khăng không nghe. Mỗi lần tôi nói tới đây thì cô đều nói: “Con không quản lý nữa, không làm nữa”.
Tôi cũng biết cô là người có tinh thần trách nhiệm cao, nhưng khi cô nói không quản lý nữa, tôi cũng trả lời: “Được, cô không quản lý nữa”.
Tôi cố ý nói sẽ tìm một người không đủ năng lực và sẽ mời người đó đến làm quản lý. Cô vừa nghe xong thì vội nói: “Như vậy làm sao được, họ có biết gì đâu, họ cũng không biết làm”.
Tôi nói: “Cô đã không quản lý nữa, thì cô không cần hỏi thêm”. Nhưng rốt cuộc cô vẫn là người rất có tinh thần trách nhiệm, mỗi lần nói không làm nữa thì lúc sau vẫn tiếp tục làm. “Thỉnh tướng không bằng khích tướng” là như vậy đấy. Tôi nắm rõ tâm lý, nhắm vào suy nghĩ của cô ấy mà áp dụng phương pháp đối trị.
Cho nên, đối với người nào nói câu: “Tôi không quản lý nữa, tôi không làm nữa” thì tôi sẽ không khuyên hay khuyến khích họ tiếp tục, bởi làm như vậy chỉ khiến họ tăng thêm tính tự cao, tự đại mà thôi. Tôi chỉ cho họ thấy, anh không làm cũng không sao cả, tôi tìm người khác.
Là một người có trách nhiệm và phát tâm tín ngưỡng Phật giáo, đương nhiên cô sẽ không nỡ để công việc giao cho người không phù hợp đảm nhiệm, chỉ có bản thân đã hiểu rồi lại phát tâm tiếp tục làm. Mấy mươi năm qua ở Phật Quang Sơn, chúng tôi cứ thế làm việc cùng cô.
Mãi cho đến năm 1981, có cô Tiêu Bích Hà đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Hội quán Triều Sơn, là người được cô Dương Từ Mãn luôn trân trọng và tín nhiệm. Lúc ấy, tôi nhìn thấy công việc quả thật đã vượt quá năng lực của cô Dương Từ Mãn, cho nên nói: “Cô giao lại sổ sách cho cô Tiêu Bích Hà đi!”
Cô Tiêu Bích Hà là sinh viên tốt nghiệp hạng ưu ở Trường Đại học Chính trị. Tuy kế toán là chuyên môn của cô ấy, nhưng cô là người tự trọng, thanh cao, không chịu đụng đến tiền bạc. Cô đã quyên góp tất cả số tiền về hưu của bản thân và của cha mình cho Phật Quang Sơn, có thể nói tất cả mọi việc cô ấy làm đều vì việc công. Vì cô ấy không chịu nhận chức vụ này, nên tôi đành bảo cô làm đại diện trước, tôi nói: “Nếu không như vậy, tổ trưởng Dương Từ Mãn sẽ không chịu giao việc kế toán cho người khác, vả lại không phải cô cũng thấy bây giờ cô Dương đã là một bà lão tóc bạc rồi sao?” Nhờ vậy mà cô Tiêu Bích Hà đồng ý, cuối cùng mọi vấn đề được giải quyết một cách thuận lợi.
Tôi nghĩ, trong tất cả các loại hình quản lý trên thế giới, quản lý đồ vật hay quản lý công việc, tiền bạc, thời gian, không gian đều vẫn xem là dễ. Bởi vì, đồ vật vừa không biết phát biểu ý kiến, cũng không biết phản đối, tranh cãi với bạn, bạn sắp xếp thế nào thì nó sẽ phát huy tác dụng thế ấy. Xử lý công việc cũng có những nguyên tắc nhất định, nếu như bạn biết sắp xếp thỏa đáng, làm rõ tốt xấu, được mất thì quản lý cũng chẳng có gì là khó.
Thế nhưng trong quản lý học, khó nhất chính là quản lý “con người”, bởi vì con người khác nhau về tư tưởng, thói quen, cách nhìn, khác nhau về cả ý kiến, v.v. Trong vô số sự khác biệt ấy, để đạt được sự thống nhất là việc vô cùng khó khăn. Dù vậy, tôi cảm thấy cách cư xử, đối đãi với người chỉ cần dựa vào tình yêu thương, trách nhiệm và sự chân thành, mọi người ở cùng nhau thì giống như bạn tốt, như người một nhà. Đối với việc quản lý nhân sự, chỉ cần bạn biết quan sát, thấu hiểu căn cơ của mỗi người thì có thể giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng.
Sau đó, cô Dương Từ Mãn đến ở Tịnh xá Phật Quang và Phật Quang Sơn đã chăm sóc, giúp cô ấy an dưỡng phần đời còn lại. Đây cũng là nghĩa cử báo đáp của chúng tôi dành cho cô vì những năm tháng cô đã vất vả cống hiến cho Hội Niệm Phật Nghi Lan và Phật Quang Sơn từ khi còn trẻ.
Bởi trong Phật môn không có tiền lương, không có đãi ngộ, chỉ dựa vào sự phát tâm nên rất khó tìm nhân tài. Thanh niên, các vị cư sĩ có duyên phát tâm cũng giống như là Bồ tát Quán Thế Âm, phát nguyện nơi nào khẩn cầu thì xuất hiện nơi đó để giúp đỡ, luôn lắng nghe tiếng kêu cứu khổ, cứu nạn mà hỗ trợ. Những vị phát tâm ở Phật Quang Sơn đều thật sự đang hành Bồ tát đạo.
7. Trương Thiếu Tề
Trương Thiếu Tề1 và sư phụ tôi, Chí Khai Thượng nhân2 là người cùng thế hệ, nên tôi tôn ông là bậc thầy. Nói tới mối nhân duyên của tôi và Trương lão thì thật bất khả tư nghì.
Năm tôi 30 tuổi, ông đến đề nghị tôi giúp ông chủ biên tuần san Giác thế3 và mời tôi làm tổng biên tập. Bởi tôi tôn kính ông, cũng cảm thấy nhân việc này có thể học tập kinh nghiệm nên đã đồng ý. Kỳ thực, tôi nào biết biên tập báo chí, nhưng nhận được sự tin tưởng, tôi làm rất xuất sắc. Sau đó, ông Trương hoàn toàn giao tuần san Giác thế cho tôi, từ đó tôi liên tục làm suốt 40 năm chưa từng gián đoạn.
Năm 2000, tờ Nhân gian phúc báo được sáng lập. Tôi bèn đem Giác thế chuyển thành Nhân gian phúc báovà tiếp tục phát hành, bản phụ của Nhân gian phúc báo cũng gọi là bản phụ Giác thế. Nếu tính cả thời gian ấy thì Giác thế đã phát hành gần 60 năm rồi.
Ông Trương từng thành lập Nhà xuất bản Tân Văn Phong4. Ông ấy muốn in ấn, phát hành Đại Tạng Kinhvà mời tôi làm trong ban thường trực hội đồng quản trị. Vào thời điểm nghèo khó ấy, tôi lấy đâu ra tiền đầu tư xưởng in để in ấn Đại Tạng Kinh? Nhưng ông có ý tốt mời tôi, tôi cũng không thể không gom góp tặng cho ông 5.000 Đài tệ, dù rằng vào thời kỳ đầu hoằng pháp, đời sống ăn ở, chi tiêu vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
Chú thích:
1 Trương Thiếu Tề (1907 - 2001): Quê tại Như Hao, tỉnh Giang Tô. Ông nghiên cứu Phật học tại Viện Nghiên cứu Thái Châu và Kim Lăng, giảng dạy ở Phật học viện Quang Hiếu Thái Châu và Tỳ Lô, Nam Kinh.
2 Chí Khai Thượng nhân (1912 - 1987): Quê tại Hải An, tỉnh Giang Tô. Ngài cùng với thầy Đại Bổn, Giác Dân, v.v. thành lập Học viện Luật Thê Hà, đảm nhiệm trụ trì chùa Thê Hà, sư phụ của đại sư Tinh Vân.
3 Tuần san Giác thế, do hai cha con Trương Thiếu Tề và Trương Nhược Hư thành lập vào năm 1957. Đại sư Tinh Vân phụ trách tổng biên tập, với chủ trương: “Phát huy văn hóa vốn có, xiển dương giáo lý Phật giáo, cứu nhân độ đời, hộ quốc an dân”.
4 Nhà xuất bản Tân Văn Phong được thành lập vào năm 1973. Đây là nơi xuất bản điển tịch Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo và những trước tác nghiên cứu về truyền thống văn hóa Trung Quốc.
Chưa đầy hai, ba tháng, ông lại nói với tôi: “Chúng ta cũng không biết lập xưởng in, thôi đem xưởng in này giao cho một vị đạo hữu họ Lưu, mời ông ấy đến kinh doanh”. Tôi cảm thấy ý tưởng này rất hay, nên tùy hỷ tán thành. Và như thế, danh hiệu thường trực hội đồng quản trị đầu tiên của tôi cũng chẳng còn.
Nhưng quan hệ đôi bên tương trợ giữa chúng tôi vẫn hết sức tốt đẹp. Thậm chí, khi biết tôi làm biên tập tạp chí, dù không phải là một nhà văn, nhưng để giúp tôi biên tập tạp chí Nhân sinh1 ông Trương cũng nỗ lực viết một vài bài đăng nhằm ủng hộ tôi.
Lúc đầu, Nhà văn hóa Phật giáo Trung Hoa nằm ở Bắc Đầu, một địa điểm rất tốt, giá đất cũng rất cao. Nhưng pháp sư Đông Sơ2 rất kỳ lạ, trong di chúc ngài không giao Nhà văn hóa Phật giáo Trung Hoa cho đệ tử là pháp sư Thánh Nghiêm3 đảm nhiệm chức chủ tịch, mà lại giao cho một cư sĩ tại gia là ông Trương Thiếu Tề. Khi nhận di chúc thì tuổi tác của ông cũng đã lớn, không thể tiếp tục phục vụ xã hội được nữa, nhưng tôi nghĩ Nhà văn hóa Phật giáo Trung Hoa cần được phát triển, làm nhiều việc cho Phật giáo.
Chú thích:
1 Tạp chí Nhân sinh được thành lập vào năm 1949. Đây là một tạp chí Phật giáo chuyên nghiệp đứng từ góc độ Phật giáo phân tích các sự kiện phát sinh trong xã hội, nhằm đưa ra một cái nhìn đa chiều cho độc giả.
2 Pháp sư Đông Sơ (1908 - 1977): Sư họ Phạm, pháp danh Đăng Lãng, pháp hiệu Đông Sơ, mọi người gọi sư là Đăng Lãng Đông Sơ. Sư là vị thiền sư nổi tiếng thời cận đại và được công nhận là truyền thừa của Tào Động tông và Lâm Tế tông.
3 Pháp sư Thánh Nghiêm (1930 - 2009): Sư nguyên quán tại tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Sư xuất gia năm 13 tuổi. Năm 1975 tốt nghiệp Tiến sĩ Văn học tại Đại học Rissho, Nhật Bản. Năm 1985, sư thành lập Viện Nghiên cứu Phật học Trung Hoa; năm 2005 hoàn thành xây dựng Pháp Cổ Sơn, tiến đến thành lập Trường Đại học Tăng già, Đại học Xã hội Pháp Cổ Sơn, Học viện Phật học Pháp Cổ.
Cho nên một ngày nọ, trong lúc trò chuyện với ông Trương, tôi vô tình nói với ông rằng: “Ông hà tất phải giữ chức chủ tịch này? Ông nên giao cho pháp sư Thánh Nghiêm, thầy ấy còn trẻ lại có chí hoằng dương Phật pháp, rất có tiền đồ”. Tôi nói xong, ông đột nhiên im lặng, suy nghĩ một hồi. Đương nhiên, tôi cũng không biết khi ấy ông suy nghĩ ra sao, nhưng sau đó pháp sư Thánh Nghiêm được giao làm chủ tịch, lập nên Pháp Cổ Sơn. Tôi nghĩ, đối với việc trọng đại này, tôi cũng có phần trợ duyên, không thể nói là không có cống hiến gì.
Cả đời tôi không thích mừng sinh nhật, nhưng năm 30 tuổi, ông Trương lại huy động tín đồ chuẩn bị buổi tiệc long trọng chúc mừng sinh nhật tôi, tấm thịnh tình của ông khiến tôi cảm niệm trong lòng. Cảm niệm ông đã quan tâm, lắng nghe ý kiến của tôi và thương mến tôi, 30 năm trước, tôi đã giúp ông di cư sang Hoa Kỳ. Đệ tử của tôi ở Hoa Kỳ cũng giúp gia đình ông được an cư lạc nghiệp, ông mới mất cách đây vài năm, thọ hơn 100 tuổi.
Ông Trương Thiếu Tề là một vị tiền bối có duyên với tôi, tôi và ông luôn trân trọng tấm lòng của nhau. Có lẽ ông cảm thấy tôi là một người thành tín, một người có trách nhiệm đối với người khác, với bạn bè cũng không tính toán, nghi ngờ hoặc có mưu đồ gì, có thể thẳng thắn qua lại. Tôi cũng cảm thấy ông là một bậc chính nhân quân tử, cho nên cả đời chúng tôi tôn trọng nhau, tử tế với nhau. Giữa người với người cần có sự thành tín, tương trợ, kết duyên không kết oán. Đó chính là nguyên tắc cùng chung sống, cũng chính là điểm quan trọng trong quản lý.
8. Chu Kiều (Chu Gia Tuấn)
Chu Kiều chính là Chu Gia Tuấn. Anh vốn là một sĩ quan văn thư của Trường Sĩ quan Thông tin Nghi Lan, sau đó anh đến giúp Đoàn Thanh niên cứu quốc ở Nghi Lan biên tập tạp chí Thanh niên Lan Dương. Nhìn ra tài năng của Chu Kiều, tôi bèn gọi anh đến giúp việc biên tập tuần san Giác thế, Phật giáo ngày nay. Chu Kiều là một người biên tập tài hoa, luôn đưa ra tiêu đề, hình minh họa để nâng tầm ý nghĩa nội dung trong phạm vi vốn có của tạp chí, thể hiện sự sáng tạo trong thiết kế, cho nên tạp chí do anh biên tập thực sự rất đẹp. Đôi khi anh cũng sáng tác một vài bài viết, lấy bút danh là Chu Kiều.
Sau đó ở Đài Bắc, anh nói với tôi, tạp chí Văn nghệ ấu sư - một tạp chí văn nghệ thanh niên có uy tín nhất Đài Loan (Trung Quốc) do Đoàn Thanh niên cứu quốc sáng lập, mời anh làm chủ biên. Tôi biết, tôi không thể giữ được một nhân tài như anh, anh nhất định sẽ được các tổ chức quan trọng trong xã hội chào mời đến làm việc, dù sao tôi cũng rất mừng vì anh có thể đi làm chủ biên cho tạp chí văn nghệ. Một sĩ quan trẻ tài hoa như vậy lại đi theo tôi, thay tôi bưng cơm rót trà, lấy bát đũa, lau bàn ghế, chỉ làm những việc như vậy thì thật uổng. Nhưng trước đó, tôi cũng đã phục vụ anh, khi anh biên tập tạp chí, tôi pha sữa cho anh; anh làm việc vò đầu bứt tóc để suy nghĩ, tôi đem trái cây đến cho anh; đôi khi, tôi ngồi xuống nói chuyện cùng anh, giải tỏa những áp lực trong công việc. Chúng tôi tương tác, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên không phân biệt. Bởi thế nên tôi nhận được ở anh sự tận tâm, hết lòng giúp đỡ. Tuy chúng tôi là thầy trò, tuổi tác chênh lệch nhưng giống như cha con, anh rất tin tưởng tôi.
Sau đó Chu Kiều rơi vào lưới tình và xảy ra một số tranh chấp trong tình cảm, đó là điều khó tránh khỏi của những người trẻ tuổi, nhưng thật đáng tiếc, cuối cùng anh lại tự vẫn vì tình. Nếu như tôi ở Đài Bắc, có lẽ tôi đã có thể giúp được anh, nhưng khi ấy tôi ở Cao Hùng. Thật đáng tiếc khi mất đi một người đệ tử Phật đầy tài hoa ấy. Trong cuộc sống, tôi và anh giao lưu, qua lại dựa trên sự tôn trọng, đôi bên không câu nệ, tất cả đều là quan hệ giữa sư trưởng và bạn bè. Trong công việc, đó là sự thông cảm giữa đôi bên. Có lúc anh làm việc tới khuya vẫn không nghỉ ngơi, tôi cũng pha trà, lấy thức ăn cho anh, tôi không coi anh như đệ tử mà đối đãi giống như một người bạn tốt vậy.
Ngoài Chu Kiều ra, khi ấy còn có Dương Tích Minh, Châu Quảng Du, thượng tá Cầu Đức Giám, thượng tá Quách Ngôn. Họ đều là thành viên của đội ca Nghi Lan, đội Hoằng Pháp, cũng là những vị hộ pháp chân chính, giúp đỡ tôi tạo nền tảng vững chắc cho Phật giáo nhân gian. Đứng trước rất nhiều sĩ quan, tuy trong quân đội chức vị của họ rất cao, nhưng tôi không thấy tự ti, cũng chẳng có tự đại. Mọi người tôn trọng lẫn nhau, họ vui vẻ qua lại với tôi, đôi bên đối xử chân thành, công bằng.
Trong quân đội thường nói, muốn dẫn binh trước hết phải dẫn tâm, phương thức đối đãi của tôi chính là, dù bạn bè, thầy trò, cha con hay với bất kỳ ai cũng đều cần đạt đến sự tâm giao (đồng điệu về mặt tâm hồn và cảm xúc). Đó chính là nghệ thuật “Quản lý nhưng không quản lý” của quản lý học.
9. Trương Hữu Lương (cô Từ Liên)
Trong đội ca Nghi Lan, nổi bật nhất là cô Trương Hữu Lương. Cô tốt nghiệp Trường Nữ Trung học Lan Dương1, trước những năm 1950, 1960, cô được ví như đứa con cưng của trời. Ngoài ra, vì có tiếng tăm lớn, nên mọi người đều gọi cô là “Tiểu Chu Tuyền”2. Người tài hoa như cô đến đâu cũng giúp đỡ mọi người, trao giải thưởng cho người khác, làm người dẫn chương trình, v.v. nổi tiếng khắp Nghi Lan. Vì muốn ca hát mà cô Trương Hữu Lương tham gia vào đội ca Nghi Lan. Lúc đầu khi tôi nói chuyện với cô, cô cũng không để ý, bởi cô đã quen được người khác tôn trọng nên có phong thái ngôi sao, đương nhiên cũng không nể nang người xuất gia. Nhưng, tôi là người thành lập đội ca Nghi Lan, những lúc tổ chức hội họp, tôi đều nói chuyện với mọi người vài câu. Cô Trương nghe xong dần dần cũng có niềm tin đối với Phật giáo, cho nên lâu lâu cũng đến tham gia Hội niệm Phật Nghi Lan.
Chú thích:
1 Trường có vị trí tại huyện Lan Dương, thành phố Nghi Lan, đặc biệt trường có mở lớp đào tạo vũ đạo rất nổi tiếng.
2 Chu Tuyền (1920 - 1957): Tên khai sinh của bà là Tô Phác, là ca sĩ và ngôi sao điện ảnh nổi tiếng bậc nhất ở Trung Quốc.
Một ngày nọ, cô thưa với tôi: “Sư phụ, chúng ta niệm Phật thì niệm Phật, tại sao lại phải lạy Phật? Đầu con phải cúi sát xuống mặt đất để lạy Phật trông thật là khó coi”.
Tôi giảng giải: “Con nói không sai, vậy con không cần cúi đầu, cũng không cần lạy, sau này người ta lạy, con chỉ cần đứng, như nhau thôi”.
Nhưng khi mọi người đều lạy xuống, chỉ một mình cô đứng tại chỗ, cô cũng cảm thấy ngại. Sau đó, cô lại ý kiến với tôi: “Lạy Phật cũng thật tốt, nhưng tại sao lại nhiễu Phật? Đi tới đi lui một chỗ chẳng có ý nghĩa gì”.
Tôi tiếp tục chia sẻ: “Con nói cũng không sai, con có thể không cùng mọi người nhiễu Phật. Khi họ nhiễu con đứng bên cạnh, đợi họ nhiễu xong thì con quay lại vị trí của mình, như vậy là được rồi”.
Tôi nói vậy, cô ấy không có cách nào phản bác lại, mọi việc tôi đều tùy thuận cho cô. Nhưng khi mọi người nhiễu Phật, cô làm sao có thể một mình đứng bên cạnh, cô ắt phải theo mọi người. Sau đó, cô lại rất ngây thơ kết luận với tôi: “Lạy Phật thật tốt, nhiễu Phật cũng hay, thật quá ý nghĩa”.
Tôi cảm thấy, cô gái trẻ kiêu ngạo này từ từ rồi cũng có được đạo tâm, biết cách đối nhân xử thế. Một ngày nọ, tôi nghĩ phải chăng là cơ duyên đã chín muồi, bèn nói với cô: “Cô Trương, bây giờ tôi có công việc cần ra ngoài, ở đây còn có thanh niên, hội học sinh, lớp nhi đồng, sau khi tôi đi khỏi, cô giúp tôi quan tâm, yêu thương chăm sóc và giúp đỡ họ được không?”
Cô Trương nhìn tôi trả lời: “Tại sao con phải quan tâm họ? Tại sao con phải yêu thương, chăm sóc họ?”
Tôi nghe xong rất thất vọng, tưởng rằng cô đang dần dần có nền tảng trong việc đối nhân xử thế của người trưởng thành. Song, không vì thế mà tôi ghét bỏ, tôi cho rằng cô vẫn sẽ từ từ tiến bộ.
Sau đó cô quy y, pháp danh là Từ Liên. Ở Hội niệm Phật Nghi Lan, cô và Từ Trang, Từ Huệ có thể nói là chia ba thiên hạ, ai nấy có sở trường riêng. Từ Trang giỏi về nghi lễ, tụng kinh niệm Phật, Từ Huệ giỏi về phiên dịch, thuyết pháp, Từ Liên giỏi về ca hát. Cô cũng phụng sự trong lớp nhi đồng, làm giáo viên chủ nhiệm, hội trưởng hội học sinh khoảng 20 năm vẫn không thoái từ.
Cho nên trong quản lý học, bồi dưỡng nhân tài không nhất định một lần là thành công ngay, mà cần dẫn dắt từng bước, có sự bao dung tùy thuận, cần thời gian bồi dưỡng, nhân duyên hội đủ tự nhiên sẽ thành tựu.
10. Tạ Từ Phạm
Cô Tạ Từ Phạm xuất thân là quý tộc ở Nghi Lan. Cô tốt nghiệp Học viện Âm nhạc Quốc lập Hàng Châu, là một giọng nữ cao trong làng thanh nhạc chuyên nghiệp. Đáng tiếc vì hơn 60 năm trước chưa có đài truyền hình, nếu không dựa vào giọng ca và vóc dáng, cô nhất định sẽ trở thành ca sĩ được nhiều người yêu thích.
Khi ấy, nhà cô ở đối diện chùa Lôi Âm, Nghi Lan của chúng tôi. Mẹ cô thường đến chùa lễ Phật, anh trai và chị dâu cô đôi khi cũng đến, nhưng cô thì không. Sau đó khi cô lập gia đình, cha mẹ cô không chỉ sắp xếp hầu gái theo cùng, còn tặng một bộ Đại Tạng Kinh làm của hồi môn.
Tuy sinh ra trong gia đình thâm tín Phật giáo, nhưng cô chỉ giữ thái độ “tôn trọng mà xa cách”, không thèm để ý đến chùa viện. Có một lần, rất nhiều Phật tử muốn đến rạp để xem bộ phim điện ảnh Quán Âm đắc đạo và họ muốn mời tôi cùng đi. Tôi nghĩ, điều này cũng chẳng sao, mình có thể tìm hiểu một chút hình ảnh Bồ tát Quán Âm được thể hiện trong phim ngày nay như thế nào.
Khi đó, nhìn thấy có hơn 20 Phật tử tiền hô hậu ủng theo tôi, cô cảm thấy rất kỳ lạ. Từ rạp phim đi ra, lúc về đạo tràng, cô nói với tôi: “Con có một số câu hỏi về Phật giáo, ngày mai có thể thỉnh giáo thầy được không?” Tôi nói: “Đương nhiên, tôi rất hoan nghênh”. Hôm sau, cô đến hỏi tôi một số vấn đề Phật giáo. Sau đó cô phát tâm quy y, pháp danh là Từ Phạm.
Năm 1956, Nhà văn hóa Phật giáo Trung Hoa muốn sao in, ấn hành Đại Tạng Kinh. Vì muốn nhận được sự tài trợ của xã hội, họ đã thành lập một đội tuyên truyền do Trưởng lão Nam Đình làm trưởng đoàn, tôi đảm nhiệm việc dẫn đội, một số thanh niên của đội ca Nghi Lan làm đoàn viên, hơn 20 người khí thế hào hùng.
Đôi khi đang truyền bá Phật giáo, cô Tạ Từ Phạm cất cao giọng hát một bài, giọng hát lảnh lót của cô khiến người nghe cảm thấy choáng ngợp, hợp thời hấp dẫn ánh nhìn của khán giả, cho nên cô cũng tham gia theo đoàn. Nhưng cô vốn là một tiểu thư quý tộc, ở trong đoàn của chúng tôi có thể tùy chúng được chăng? Tôi rất lo lắng, tuy nhiên nhìn thấy cô cũng như những thành viên khác, có thể chịu cực chịu khổ, vận chuyển những thiết bị hoằng pháp, tôi cũng an tâm hơn. Trong đoàn không thể để xảy ra việc anh xem thường tôi, tôi xem thường anh, mà mọi người phải cùng chung sống, cùng hướng đến một mục tiêu chung.
Khi đến Gia Nghĩa, tôi dặn dò mọi người trình tự hoạt động hoằng pháp đêm nay, phải nói những gì, hát những gì tôi đều lập kế hoạch và thông báo trước. Nhưng sau khi thống nhất, cô lại nghe theo ý kiến của một vị cư sĩ tự ý hát bài khác mà không hát theo bài đã chuẩn bị trước. Tôi nói: “Tại sao cô lại tự ý thay đổi quy định khi chưa được sự cho phép?” Tôi lập tức loại cô ra khỏi nhóm, gửi cô lộ phí và yêu cầu cô ngày mai trở về Đài Bắc, tuyên bố đoàn chúng tôi không cần cô nữa.
Kết quả là, những người trẻ trong đoàn đều cảm thấy rất hoang mang. Họ nói: “Sao đột nhiên thầy nghiêm khắc vậy? Đây là việc nhỏ, chỉ cần khiển trách là được, tại sao thầy phải loại bỏ cô ấy?”
Sau đó, có một cô gái tên là Ái Cô, người chăm sóc sức khỏe cho mọi người trong đoàn, đến xin tôi lượng thứ cho cô Tạ. Ái Cô thưa: “Cô Tạ là con nhà quý tộc, rất ưu tú. Tham gia cùng chúng ta cô ấy cũng đã chịu rất nhiều thiệt thòi, nay thầy loại bỏ, để cô về thì thực làm mất mặt cô ấy”.
Tôi nói: “Không được! Chính bởi vì cô Tạ xuất thân quý tộc, còn ở trong đoàn của chúng ta không có ai là quý tộc, tất cả mọi người đều bình đẳng. Cô ấy đã không tuân thủ quy định của đoàn, tôi không có cách nào lãnh đạo cả”, tôi kiên quyết bắt cô phải rời khỏi đoàn. Sau đó, cô cũng nhờ rất nhiều người đến nói giúp, nhưng không có tác dụng. Tôi làm như vậy thật ra là vì kỷ luật của đoàn đội, kỷ luật một người để làm gương cho người khác. Tôi không vì cô là quý tộc cao quý mà xử lý thiếu quyết đoán, bởi như vậy sẽ không công bằng. Cho nên, trong 40 ngày, đoàn tuyên truyền của chúng tôi đã hoàn thành chương trình truyền giáo khắp Đài Loan (Trung Quốc), hàng chục người ở cùng nhau nhưng không xảy ra một ý kiến bất đồng hay tranh chấp, mọi người hòa bình chung sống, giúp đỡ lẫn nhau. Tôi nghĩ đó là vì tôi đã đối xử công bằng với tất cả mọi người. Trong việc quản lý nhân sự, đó là điều quan trọng mấu chốt.
Sau đó, chồng cô Tạ không may qua đời vì tai nạn giao thông, cũng từ đó cô một mình gánh vác việc gia đình suốt nhiều năm sống ở Đài Bắc. Mãi đến khi cô hơn 70 tuổi, còn tôi cũng tầm 80 tuổi, cô đến Hoa Kỳ thăm con trai vừa tốt nghiệp mới gặp lại tôi ở chùa Tây Lai.
Nghĩ lại việc 40 năm trước, một cô gái tài năng vô song, vì gia đình, tình yêu, trải qua năm tháng vô thường nay tóc đã bạc trắng, tôi thật không khỏi bùi ngùi.
Nhưng đối với việc tôi loại cô khỏi đoàn, làm cô mất mặt, không biết đến bây giờ cô có còn nhớ hay không? Nếu như còn khắc ghi thì tôi thật lòng xin lỗi cô, hy vọng cô có thể thấu hiểu và giải tỏa nỗi niềm này.
11. Ở Nghi Lan khen thưởng thanh niên, lần sau là đến lượt bạn
Khi xưa, ở Nghi Lan có hơn trăm thanh niên Phật tử, tất cả họ đều rất ưu tú. Mỗi lần ra nước ngoài, tôi đều muốn mang một chút quà nhỏ về tặng họ, nhưng một hai trăm người của hội thanh niên, nếu mỗi người nhận một phần quà thì tôi thật không mua nổi, cho nên lâu lâu tôi cũng chỉ có một cây bút, một quyển sổ ghi chép tặng một người nào đó mà thôi. Tôi không tặng họ sau lưng mà công khai tặng trước đại chúng, để mọi người vỗ tay và chúc mừng, người nhận có được sự khen thưởng, khích lệ. Tại sao mọi người không đố kỵ? Tại sao tặng anh ta mà không tặng tôi?
Thông thường tình trạng như vậy sẽ xảy ra, nhưng trong đoàn đội của tôi không có việc đó. Tại sao? Vì tôi nói với họ, mọi người không nên có tâm đố kỵ, nếu có tâm đố kỵ tôi sẽ không dám tặng nữa, mọi người đều sẽ không có quà. Bạn để tôi tặng anh ta, lần sau sẽ đến lượt bạn. Cho nên, mỗi lần tôi tặng quà cho những người trẻ tuổi, ai cũng mừng cho người được nhận sớm hơn, bởi họ biết lần sau là đến lượt mình. Để cho người trẻ đoàn kết, hiểu được đạo lý tương thân tương ái, không tham sân si, đố kỵ, để họ hy vọng vào tương lai, tôi nghĩ đạo lý “Lần sau là đến lượt bạn” cũng là một cách công bằng để quản lý nhân sự.
12. Vạn người thưởng thức nghệ thuật bonsai
Năm mươi năm trước, sau khi khai sơn Phật Quang Sơn, việc giao lưu với người dân dưới chân núi không mấy thuận lợi bởi vì “Bụt chùa nhà không thiêng”. Người trong thôn liên kết lại với nhau không chịu bán đất cho tôi, việc ở chùa họ cũng không thèm tham gia, giống như chừng nào chúng tôi còn ở đây thì Phật giáo và người dân còn đối lập nhau vậy. Ở địa phương có một ngôi miếu gọi là Côn Luân Cung, là nơi người dân đến lễ bái thần thánh, nên họ không cần đến Phật Quang Sơn. Nhưng tôi luôn tâm niệm, bán bà con xa không bằng mua láng giềng gần, nhất định phải giữ mối giao hảo với họ. Tôi hy vọng có thể thân cận với hơn nửa số dân trong thôn, không nên để họ không có thiện cảm với chúng tôi.
Tôi rất có thành ý, mùa đông hàng năm đều tổ chức hoạt động từ thiện, tết đến thì phát lì xì, mời họ đến dự tiệc, nhưng họ chỉ bảo trẻ em vào chùa tham gia mà người lớn lại không chịu đến. Thậm chí, khi người dân trong thôn tổ chức họp mặt, tôi cũng cung cấp hội trường và cả bữa nhẹ nhưng họ cũng không mấy mặn mà. Hơn 30 năm, Phật Quang Sơn và người dân địa phương cứ sống trong tình trạng bế tắc như vậy. Tuy tôi rất có thành ý sửa chữa đường sá, xây dựng trường mầm non, thậm chí xây trường Trung học Phổ Môn để con em họ có chỗ học hành, giúp họ lắp đặt điện thoại, v.v. tôi vì người dân trong thôn mà làm rất nhiều công trình, nhưng họ vẫn chưa từng bày tỏ lời cảm ơn. Tôi nghĩ, có lẽ vì tôi là người tỉnh khác, nên có đôi phần không thể giao lưu với họ cả về ngôn ngữ lẫn tâm lý.
Một lần tình cờ, tôi thấy có mấy chậu bonsai trong nhà trưởng thôn Tăng Kim Ích. Những chậu cây ấy quả thật rất đáng để ngắm nhìn, một cây tùng ít nhất cũng một, hai trăm tuổi, có cây lên tới vài trăm tuổi. Tuy chúng chỉ sinh trưởng trong một cái chậu nhưng lại phát triển thành hình dạng kỳ lạ đặc sắc, thật sự rất đẹp. Tôi bèn nói với ông: “Trưởng thôn, ông có những chậu bonsai đẹp như vậy, nếu chỉ đặt ở nhà ông thì không ai ngắm được. Tết đến, ông có thể đem những chậu bonsai này đến Phật Quang Sơn, đặt ngay trước Đại Hùng bảo điện để triển lãm, như thế sẽ giúp cho nhiều người có cơ hội thưởng thức”.
Mới đầu ông đáp lời: “Tôi chỉ có mấy chậu chẳng đáng là gì”.
Tôi nói: “Vậy ông hãy mời tất cả những người bạn có sở thích trồng cây bonsai trong toàn tỉnh tham gia. Ông có thể hẹn họ cùng đem cây đến trước Đại Hùng bảo điện, mở một hội chợ triển lãm bonsai”.
Sau khi nghe tôi nói, ông ấy cũng cảm thấy điều ấy rất có ý nghĩa, bèn mời những người bạn trong Hiệp hội Bonsai cùng tham gia. Vì thế vào dịp tết năm 2005, một cuộc triển lãm bonsai đã được tổ chức ở Phật Quang Sơn. Vào thời điểm đó, ở Đài Loan (Trung Quốc) có rất ít những buổi triển lãm như vậy, và những người đến chùa lễ Phật khi nhìn thấy hình thù kỳ lạ của những chậu cây đều tấm tắc khen là hiếm có. Sau tết, tôi cũng đặc biệt trao tặng ông Tăng Kim Ích một tấm bằng khen để cảm ơn ông vì những việc làm tốt và mời ông tiếp tục tổ chức triển lãm bonsai vào năm tới.
Bao nhiêu năm qua, triển lãm bonsai luôn được tổ chức vào mỗi dịp tết Nguyên Đán. Ngoài việc tạo sân chơi cho người dân có nơi thưởng nghệ thuật bonsai còn giúp cho những tín đồ lên núi lễ Phật cảm thấy Phật Quang Sơn thật đẹp. Trưởng thôn Tăng bộc bạch, số người đến ngắm bonsai ở Phật Quang Sơn một ngày còn nhiều hơn số người đến ngắm bonsai tại vườn của ông ấy trong vòng một năm. Nhờ một cuộc triển lãm bonsai mà ai ai cũng đều phát huy được sở trường của bản thân, đồng thời cũng giúp chúng tôi dần dần rút ngắn khoảng cách với người dân trong thôn. Lúc ấy, tôi cũng không nghĩ đến vấn đề quản lý nhân sự, chỉ hy vọng có thể giúp ích cho mọi người, song không ngờ, việc giúp người vô tình lại giúp mình. Tôi nghĩ, ai nấy hoan hỷ chính là cách quản lý tốt nhất.
13. Huynh Đệ tự (Chùa kết nghĩa anh em)
Mấy chục năm trước, nhằm thực hiện chủ trương mở rộng ngoại giao của chính phủ, rất nhiều thành phố đã kết nghĩa anh em, nhiều đoàn thể trong nước kết giao anh em với đoàn thể ngoại quốc. Tôi nghĩ, việc làm này cũng rất có ý nghĩa. Hai quốc gia, hai thành phố giống như anh em vậy. Hai đoàn thể, bạn ở phương Đông, tôi ở phương Tây, kết giao thành anh em để tăng cường giao lưu qua lại.
Giống như đất nước ta, trước đây người khác họ cũng vẫn có thể kết bái huynh đệ như: Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi, câu chuyện kết nghĩa vườn đào1 của Lưu, Quan, Trương được lưu truyền thiên cổ. Nhạc Phi cùng Thang Hoài, Trương Hiển, Vương Quý, Ngưu Cao kết thành huynh đệ, tề tâm hợp lực bảo vệ giang sơn Đại Tống.
Thậm chí, trong tiểu thuyết dân gian cũng có Thất hiệp ngũ nghĩa2, Thủy hử truyện3, họ kết thành huynh đệ tỷ muội để giúp đỡ, chăm sóc lẫn nhau, tăng cường tình hữu nghị, sức mạnh và giúp việc giao lưu qua lại được thuận lợi. Đây cũng là một phương thức để quản lý các mối quan hệ.
Chùa Thông Độ4 là ngôi chùa lớn nhất Hàn Quốc, với diện tích hơn ngàn hecta, đặc biệt nơi đây có chiếc y cà sa của Phật, cho nên mọi người còn gọi là chùa Phật Bảo. Chùa có lịch sử 1.500 năm. Trụ trì chùa là pháp sư Tính Ba và trưởng lão Nguyệt Hạ bàn bạc nhau, có ý nguyện cùng với Phật Quang Sơn kết thành chùa anh em. Khi đó, Phật Quang Sơn thành lập chưa đến 30 năm, làm gì có tư cách cùng với một ngôi chùa có lịch sử lâu đời bậc nhất Hàn Quốc kết làm anh em, quả thực là trèo quá cao rồi.
Chú thích:
1 Kết nghĩa vườn đào, còn gọi là Đào viên tam kết nghĩa, Đào viên minh. Đây là thuật ngữ xuất xứ từ Tam Quốc diễn nghĩa, nói lên câu chuyện kết nghĩa huynh đệ của ba nhân vật Lưu Bị (161 - 223), Quan Vũ (? - 219) và Trương Phi (? - 221) trong vườn đào của Trương Phi. Hồi thứ 15 trong Tam Quốc diễn nghĩa có câu: “Chúng ta ba người kết nghĩa vườn đào, chẳng mong sinh cùng, chỉ nguyện chết cùng”.
2 Thất hiệp ngũ nghĩa, trước đó còn có tên Trung liệt nghĩa hiệp truyện và Tam hiệp ngũ nghĩa, là một tiểu thuyết của Trung Quốc viết theo thể chương hồi vào thế kỷ XIX, gồm 100 hồi. Nguyên bản tiểu thuyết là những câu chuyện kể về Bao Công của Thạch Ngọc Côn - người kể chuyện thời nhà Thanh, được biên tập và soạn thành sách. Tiểu thuyết lấy bối cảnh vào thế kỷ XI thời nhà Tống, xoay quanh cuộc đời của vị quan nổi tiếng Bao Công, cùng các du hiệp đã giúp đỡ ông phá nhiều vụ kỳ án.
3 Thủy hử hay Thủy hử truyện, nghĩa đen là “bến nước”. Đây là một trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa. Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am (1296 - 1370), cũng có ý kiến cho rằng, người sáng tác Thủy hử là La Quán Trung. Truyện được viết dựa theo sách Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.
4 Chùa Thông Độ (Tongdosa) là ngôi chùa tổ của Tào Khê tông, nằm ở phía Nam của núi Chiseosan, gần thành phố Yangsan, tỉnh Gyeongsang Nam, Hàn Quốc. Đây được coi là một trong những ngôi chùa linh thiêng nhất Hàn Quốc và là một trong ba Tam bảo. Ngôi chùa được xây dựng dưới triều đại của Thiện Đức (Seondeok) nữ vương triều Tân La (Shilla), bởi nhà sư Từ Tạng (Jajang) sau khi sư trở về từ Đại Đường năm 646. Ngôi chùa phát triển trong suốt thời kỳ Tân La thống nhất, thời kỳ Cao Ly (Goryeo) và tiếp tục phát triển mạnh mẽ đến thời nhà Triều Tiên. Chùa Thông Độ được cho là giữ nhiều di vật của Đức Phật, bao gồm cà sa, bình bát, xá lợi là những di vật mà sư Từ Tạng đã mang về từ chuyến du hành đến Trung Quốc.
Nhưng pháp sư Tính Ba nói chùa Thông Độ tuy có lịch sử lâu đời, nhưng cũng đã già nua, không còn phù hợp với dòng chảy của thời đại ngày nay. Phật Quang Sơn là một đạo tràng mới, theo đuổi sự nghiệp giáo dục, văn hóa, từ thiện, hoằng pháp, đó đều là những việc làm đi trước thời đại. Để một đạo tràng có bề dày lịch sử kết hợp với một đạo tràng hiện đại, cùng nhau tiến lên thì đúng là một sự dung hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Ngài ấy nói những lời này đã thuyết phục được tôi, cho nên vào ngày 23 tháng 10 năm 1982, tại Trung tâm Văn hóa Trung Chính thành phố Cao Hùng, chúng tôi tổ chức lễ kết nghĩa giữa hai ngôi chùa trước sự chứng kiến của hơn 5.000 người.
Sau khi kết nghĩa, Phật tử Hàn Quốc không ngừng đến Phật Quang Sơn, Phật tử của Phật Quang Sơn cũng đến Hàn Quốc và nhận được tiếp đãi thịnh tình của họ. Đặc biệt, khi Phật Quang Sơn xây dựng đạo tràng ở thành phố Seoul cũng đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của Phật tử ở Hàn Quốc, cùng các du học sinh đến Hàn Quốc học tập. Có thể thấy, nếu bạn sẵn lòng hợp tác, giao lưu, sẵn lòng tán đồng người khác thì thế gian này sẽ trở nên tốt đẹp, thân thiện, từ đó tiếp thêm sức mạnh cho bản thân. Tôi cảm thấy giữa người với người, giữa các quốc gia, dân tộc cần có sự công nhận lẫn nhau, bởi vì việc đó sẽ tiếp thêm sức mạnh của đôi bên, và một khi chia rẽ, đôi bên nhất định sẽ đều chịu tổn thất. Chúng ta cùng sống trên trái đất này, mong rằng mọi người có thể thân thiết như anh em một nhà.
Việc Phật Quang Sơn kết nghĩa với chùa Thông Độ ở Hàn Quốc là sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống; kết nghĩa với chùa Wat Dhammakaya1 ở Thái Lan là sự kết hợp giữa Bắc truyền và Nam truyền. Tuy có sự khác biệt về mặt tín ngưỡng, lịch sử, bối cảnh, giáo dục, nhưng tất cả mọi người đều là đệ tử của Phật, đều có một niềm tín ngưỡng chung là Đức Phật. Cùng là đệ tử Phật tại sao chúng ta lại không thể hợp tác? Có thể hợp tác thì có thể hòa thuận, có thể hòa thuận thì cùng đi đến thắng lợi. Hiểu được cách quản lý này thì đôi bên cùng có lợi.
Chú thích:
1 Chùa Wat Dhammakaya nằm cách thủ đô Bangkok khoảng 16 km về phía Bắc, đây là ngôi chùa có quy mô rộng lớn nhất Thái Lan. Được khởi công xây dựng vào năm 1995, chùa Wat Dhammakaya sở hữu vẻ đẹp ấn tượng cùng lối kiến trúc độc đáo, hoành tráng.
14. Không quản lý mà quản lý, tự nhiên nhưng có trật tự
Thường có người hỏi tôi rằng: “Đệ tử xuất gia tại Phật Quang Sơn số hơn nghìn người, mọi người ở cùng nhau, tại sao không xảy ra tranh chấp? Sao họ có thể hòa thuận như vậy? Ngài đã quản lý như thế nào?” Kỳ thực, tôi cũng không hiểu quản lý là gì, tôi chỉ nghĩ đến nguyên nhân của việc tranh chấp đều do sự phân biệt, đối lập giữa người với người. Cho nên, đệ tử đã nhập đạo ở Phật Quang Sơn thì không còn mối quan hệ riêng, không phân biệt đại sư huynh, nhị sư huynh, tam sư huynh, cũng không có học trò của anh, học trò của tôi. Bởi nếu phân biệt như vậy, thì sư phụ tuy không có tranh chấp, nhưng học trò của họ cũng sẽ có sự phân biệt, đây là sư phụ tôi, kia là sư phụ tôi. Cho nên, ban đầu vốn không có vấn đề gì, nhưng bởi quan hệ danh phận mà xảy ra tranh chấp của tôi, của anh.
Vì thế, khi bắt đầu thu nhận đệ tử, tôi có quan niệm: Đệ tử không phải là tài sản cá nhân, đệ tử thuộc sở hữu của Phật giáo, đều là tín đồ Phật giáo, ba phần là thầy trò, bảy phần là bạn đạo, tất cả đồ chúng không có truyền thống thu nhận đệ tử riêng, nhưng có chế độ niên đại. Mọi người phân làm đời thứ nhất, đời thứ hai, đời thứ ba, v.v. ví dụ, đời thứ nhất là người từ số thứ tự 001 đến 199, từ 200 đến 399 là đời thứ hai, 400 đến 599 là đời thứ ba. Người thuộc đời thứ hai thì không thể tranh chấp với người đời thứ nhất, đời thứ ba không thể tranh chấp với đời thứ hai, tất cả cần có luân lý trước sau.
“Người vào đạo trước là sư huynh”. Ở Phật Quang Sơn đều dựa theo danh tự, ví dụ như chữ Từ, chữ Y, chữ Vĩnh, quản lý theo từng thế hệ như vậy sẽ đem lại trật tự, quy chế và không có phân biệt tôi anh, thay vào đó y theo giáo pháp mà kết nối đại chúng. Cách quản lý này gọi là quản lý mà không quản lý, tự nhiên nhưng có trật tự. Vì thế, quan hệ giữa các cá nhân ở Phật Quang Sơn rất có trật tự, như việc sắp xếp vị trí chỗ ngồi, ai ở vị trí trước sau trên dưới đều có thứ tự rõ ràng, giữa mọi người tự nhiên sẽ có sự tôn trọng, hài hòa, nên không bao giờ xảy ra tranh chấp. Tôi nghĩ, đó chính là cách quản lý nhân sự “Quản lý nhưng không quản lý” vậy!
15. Bát kính pháp (Bát kỉnh pháp)
Khi Phật Quang Sơn mới thành lập, có một vị sĩ quan không quân họ Quách đến tìm tôi. Anh muốn xuất gia ở một chùa nọ, tôi nói: “Rất tốt, tôi chúc mừng, chúc phúc cho anh. Anh muốn phát đạo tâm, lìa tục nhập đạo, có thể hướng thượng là một việc tốt”. Nhưng anh thưa với tôi: “Con có năm đứa con, đứa lớn nhất 12 tuổi, đứa nhỏ nhất mới ba tuổi, con không biết làm thế nào?”
Tôi nghe nói anh có năm đứa trẻ, cũng rất tốt. Tôi vừa muốn mở một trường mầm non, phút chốc có năm đứa trẻ vào học như thế, không khí trong trường càng thêm vui vẻ. Tôi nói: “Được thôi, anh hãy giao năm đứa con để cho tôi nuôi dưỡng”. Thế là anh xuất gia, còn năm đứa con thì ở tại trường của chúng tôi.
Tuy đã xuất gia, nhưng vì phụ tử tình thâm, đôi khi anh cũng đến Phật Quang Sơn thăm nom con cái. Sau vài lần đến, có một lần anh gặp tôi bèn nói: “Tỳ kheo ni ở Phật Quang Sơn chẳng biết phép tắc, nhìn thấy Tỳ kheo mà không đỉnh lễ, thực không hiểu Bát kính pháp1 là gì?”
Chú thích:
1 Bát kính pháp là tám điều:
1. Một Tỳ kheo ni, dẫu có trăm tuổi hạ khi gặp thầy Tỳ kheo mới thụ Cụ túc giới cũng phải chào hỏi, đỉnh lễ và thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2. Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3. Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4. Muốn thụ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo.
5. Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa) trong thời gian nửa tháng.
6. Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7. Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8. Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: thấy, nghe và nghi.
Tôi thầm nghĩ: Thật không biết xấu hổ, một lúc anh đem năm đứa con thơ cho tôi nuôi dưỡng, để bản thân được xuất gia giải thoát, anh còn đòi Tỳ kheo ni phải đỉnh lễ với anh, anh có công có đức gì với Tỳ kheo ni ở Phật Quang Sơn? Khi đó, tuy Phật Quang Sơn khai sơn chưa được bao lâu, nhưng rất nhiều Tỳ kheo ni của Phật Quang Sơn đã tu hành hơn 20 năm. Họ lại có thể đỉnh lễ với người mới xuất gia hai, ba năm như anh sao?
Bát kính pháp là gì? Tôi dường như am hiểu chưa tường tận, nhưng tôi nghĩ nên chỉ giáo anh một chút. Tôi nói: “Hiện nay, Viện trưởng Học viện Tùng Lâm là pháp sư Từ Huệ, cô ấy từng đi du học Nhật Bản, cũng là Đại Tỳ kheo ni của Phật Quang Sơn; pháp sư Từ Dung là hiệu trưởng trường mầm non, năm đứa con của anh đều do cô ấy thay anh chăm sóc. Anh đến đây để cảm ơn họ hay đến để họ đỉnh lễ vậy? Anh tự suy nghĩ đi, tôi sẽ sắp xếp cho”.
Anh nghe xong thì xấu hổ nói: “Con xin lỗi, không phải con cần họ cung kính, chỉ là con nghĩ đến trong Phật giáo có Bát kính pháp”.
Tôi hỏi: “Bát kính pháp là ai đặt ra? Phật tổ đặt ra sao? Anh lấy gì chứng minh? Sau này anh không được nói đến Bát kính pháp. Anh cần phải cảm ơn xã hội, cảm ơn những người đã giúp đỡ, làm lợi lạc cho anh, phải tôn trọng họ, đó mới là đạo làm người. Hơn nữa, chúng ta cần phải để người ta tự động cung kính, chứ không phải đòi hỏi người khác cung kính mình”.
Sau khi nghe những lời tôi nói, anh hiếm khi đến Phật Quang Sơn thăm con cái nữa. Tôi nghĩ, đức hạnh của anh đã có sự tiến bộ hơn rồi. Quản lý chính là, đối với người cần lợi ích thì mang đến cho họ lợi ích, người cần hiểu lý lẽ thì làm giúp họ hiểu lý lẽ, thậm chí, có lúc cần phải giáng đòn cảnh cáo, điều này hết sức quan trọng trong quản lý học.
16. Thập tu ca
Gần đây các đệ tử bàn nhau về việc kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Phật Quang Sơn. Năm mươi năm qua việc kỷ niệm đều do tôi chủ trương, đưa ra ý kiến, họ chỉ dựa theo đó mà làm. Nhưng bây giờ tôi đã già, tôi nói tương lai 50 năm tới sẽ giao lại cho họ. Do đó mọi người thảo luận rất nhiều về vấn đề quản lý trong tương lai, và tôi cũng kể cho họ về một số kinh nghiệm quản lý trong quá khứ của mình.
Quản lý chính là mối quan hệ giữa người với người, là cách chúng ta xử lý một vấn đề nào đó. Để việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không, có thứ bậc, an hòa lợi lạc, mọi người cùng hưởng an vui, đó chính là mục tiêu của quản lý. Nói về việc quản lý trong tương lai, tôi nhớ 20 năm trước, khi mẹ tôi đến Đài Loan (Trung Quốc), bà chia sẻ Thập tu ca cho các nữ đệ tử của tôi nghe:
Một tu, không bị bố mẹ chồng giận
Hai tu, không bị chồng hiềm nghi
Ba tu, không khổ vì bếp núc
Bốn tu, không bận việc nhà
Năm tu, trong lòng không vướng bận con cái
Sáu tu, không để khuê phòng lạnh
Bảy tu, không buồn chuyện nhu yếu phẩm đắt đỏ
Tám tu, không bị chị em bạn dì chê bai
Chín tu, gánh vác chuyện gia đình
Mười tu, được quả lành công đức viên mãn.
Ý nói một người phụ nữ xuất gia thì không bị ràng buộc như người ngoài xã hội, ở Phật Quang Sơn giống như thiên đường vậy.
Thập tu ca của mẹ tôi nói về những điều đáng quý, khó có được của người nữ khi xuất gia tu đạo. Kỳ thực con người cần tu thân, tu tâm, tu trong công việc, để thế giới này cùng thịnh vượng, lợi lạc. Vì thế, tôi đã tự mình viết một bài Thập tu ca rằng:
Một tu không tính toán gì
Hai tu chẳng muốn so bì với ai
Ba tu lễ độ khoan thai
Bốn tu cười mỉm, hoa mai tặng đời
Năm tu nhận thiệt mười mươi
Sáu tu hậu đạo với người thập phương
Bảy tu phiền não đâu vương
Tám tu lời nói thơm hương phi phàm
Chín tu quân tử đạo đàm
Mười tu thành Phật nguyện làm Như Lai.
Nếu như ai cũng tu mười điều này, thì sẽ được tiêu dao nơi Tịnh độ Phật quốc. Tôi nghĩ, có thể lấy Thập tu ca làm chuẩn mực cho gia đình, xã hội, đoàn thể, quốc gia. Khi mọi người cùng hợp tác, sinh sống theo Thập tu ca, thì trong đó bao đã hàm tính cách, tư tưởng và đời sống của một vị Bồ tát rồi.
Nếu như chúng ta không có ý thức quản lý bản thân, không có một chuẩn mực để tôn trọng người khác, thì xã hội này rất khó có được sự an toàn, bình an. Tôi chủ trương không so đo, mình không so đo với người, thì làm sao có thể nổi sân hận? Đôi bên không so bì thì có việc gì mà không thể bỏ qua? Nếu chúng ta đối xử thân thiết, niềm nở với mọi người thì dù có xảy ra vấn đề gì cũng sẽ có thể thay đổi. Với một cái gật đầu, một cử chỉ lễ độ, mọi người tự nhiên sẽ hòa hợp, nhường nhịn mà không tranh giành. Hãy học cách chịu thiệt, vì thật ra chịu thiệt cũng là đang làm lợi cho mình.
Cần học cách đối đãi chân thành với mọi người. Trước đây tôi thường nói: “Lấy tâm trách người để trách mình, lấy tâm tha thứ cho mình để tha thứ cho người”. Chúng ta cần nghiêm khắc với chính mình, đối đãi với người cần khoan dung độ lượng, nếu làm được như thế giữa nhân và ngã sẽ không còn xảy ra bất cứ vấn đề gì. Không cần quản lý, thiên hạ tự nhiên vô sự.
Trong lòng không có những phiền não tham, sân, si, nghi ngờ. Nếu mọi người khen ngợi nhau, nói lời hay, không làm tổn thương người khác, thì những người ta kết giao đều là những bậc quân tử chân thành. Như vậy không phải chúng ta sẽ thành thánh, thành Phật sao? Tôi cảm thấy nội dung Thập tu ca cũng chính là chuẩn mực mà xã hội, người lãnh đạo, người cán bộ ngày nay cần tuân thủ. Vì thế tôi đem Thập tu ca ứng dụng ở đây, cũng xem như là một chút trợ duyên cho quản lý học.
17. Phòng thư ký
Phật Quang Sơn là một giáo đoàn có hơn ngàn người, trong đó mỗi người lại có một tính cách khác biệt. Cho nên mỗi bộ phận sẽ khó tránh khỏi việc xích mích, va chạm giữa các nhân sự. Đôi khi, một số vị làm việc nhưng lại không hợp với lãnh đạo, lãnh đạo cũng không dùng đến họ nữa, vậy họ sẽ đi đâu? Do đó, tôi thành lập một phòng thư ký, chỉ cần có người nào không hợp với lãnh đạo hoặc không muốn tiếp tục phục vụ ở bất kỳ bộ phận nào thì tôi khuyên họ trước tiên đến phòng thư ký làm việc. Cho nên, phòng thư ký của tôi giống như một nhà tình thương, phàm những ai không hợp với lãnh đạo, lãnh đạo không cần thì hãy đến chỗ của tôi.
Tôi có một số sư huynh, trưởng lão như pháp sư Từ Trang, v.v. đã theo tôi lâu năm, bất luận là đệ tử nào, tốt hay không tốt, khi được phân công đến bộ phận của họ, họ đều tiếp nhận, quản lý và dẫn dắt tốt những vị đệ tử ấy. Nhưng, cũng có một số vị lãnh đạo trẻ tuổi, chưa khéo léo trong việc quản lý nhân sự. Cho nên, tôi chỉ có thể giúp những nhân sự ấy có một nơi để tạm hoãn xung đột, đó gọi là phòng thư ký. Tôi cũng không biết ở phòng thư ký tổng cộng có bao nhiêu người, lúc ít thì chỉ hai, ba, lúc nhiều thì 10, 20 người, tất cả đều dựa theo tình hình mà quyết định.
Chúng tôi không đặt ra hạn định một người được ở phòng thư ký bao lâu. Có người ở một, hai tháng, nếu họ có chuyên môn thì lại đến nơi khác nhận nhiệm vụ. Có người thì ở tới tám năm, mười năm mà vẫn không rời đi. Họ cứ ở đó phụ công việc tìm tài liệu, quản lý hồ sơ, gửi phát thư tịch, ghi chép, v.v. Phần nhiều họ đều rất thích ở phòng thư ký và không muốn rời đi, bởi phòng dưới sự quản lý của tôi. Tôi không tính toán năng lực của họ thế nào, không so đo thành tích công việc của họ ra sao, cũng không quá biểu dương, không quá chỉ trích, trách cứ họ, tất cả đều lấy thiên hạ vô sự làm tiêu chuẩn. Cách quản lý của tôi là: Mọi người cần tôn trọng lẫn nhau, thông cảm cho nhau, đừng xâm phạm người khác, cho nên mọi người đều tuân thủ đời sống tự quản lý chính mình.
Phòng thư ký của tôi do pháp sư Diệu Quảng làm chủ nhiệm. Cô ấy là người an phận giữ mình, bất luận là người nào đến, cô đều tiếp nhận, ai muốn rời đi, cô ấy cũng để họ đi. Bởi cô an phận giữ mình, lấy mình làm gương, nên mọi người đều học theo cô, không nói chuyện thị phi của người, không bàn chuyện tốt xấu của người, quản lý tốt chính mình là được. Cho nên mấy mươi năm qua, phòng thư ký đã phát huy công dụng hòa giải nhân sự, đóng góp rất lớn cho việc an định Tăng đoàn ở Phật Quang Sơn.
Tôi cảm thấy giữa người và người không nên có thành kiến, không nên gay gắt, chỉ trích, so đo với nhau. Phàm việc gì cũng nên thông cảm một chút, cho họ tự do và nhìn vào khả năng mà sắp xếp, không nên so sánh họ với nhau, bởi nếu so sánh thì sẽ sinh tức giận. Ai cũng có sở trường riêng, đợi khi nhân duyên thích hợp, mối quan hệ giữa mọi người thích hợp thì họ sẽ tự do phát triển. Khi đôi bên có sự tôn trọng và bao dung, giữa họ tự nhiên sẽ an ổn vô sự. Tôi nghĩ, trong quản lý học, nên lấy việc vô sự làm mục tiêu, đó là cách quản lý sáng suốt.
18. Phật giáo đường Cao Hùng
Phật giáo đường Cao Hùng do tôi phát khởi xây dựng, nhưng tôi không cảm thấy ngôi chùa đó thuộc quyền sở hữu của cá nhân tôi, mà là của Phật giáo, là của đại chúng. Vì thế, sau khi công trình chính được hoàn thành, tôi mời pháp sư Nguyệt Cơ (1914 - 1987) đảm nhiệm chức vị trụ trì.
Nhưng tôi nghĩ, bên cạnh Phật giáo đường còn có một căn nhà nhỏ, có thể thành lập trường mầm non. Bởi vì ở Nghi Lan tôi đã có Trường Mầm non Từ Ái, tôi cảm thấy có thể để người trẻ ở Phật giáo đường Cao Hùng đến đây xây dựng Trường Mầm non Từ Dục.
Vào thời điểm đó, có một vài vị trẻ tuổi cũng tán đồng ý kiến của tôi, đã đến Đài Trung tham gia lớp tập huấn giáo viên mầm non do chính quyền tỉnh tổ chức, và đang chuẩn bị trở về Cao Hùng. Tôi nghĩ rằng, Trường Mầm non Từ Dục nên đăng ký hồ sơ và chiêu sinh càng sớm càng tốt, để cho những vị trẻ tuổi này có thể tiếp quản khi họ quay trở lại. Nhưng khi tôi tổ chức cuộc họp với hơn 40, 50 người tham gia, phần lớn nam giới đều nói: “Không gấp, năm nay không kịp rồi, năm sau chúng ta hãy bàn”.
Lúc đầu, tôi không hiểu ý của họ. Tại sao mọi người đều muốn trì hoãn thay vì tranh thủ thời gian sớm hoàn thành? Sau đó tôi mới biết, bởi vì tôi không bầu ra ban quản trị trước, chưa ai biết rõ trách nhiệm của bản thân nên họ đều không chịu ủng hộ. Tôi nói tới nói lui, tuy họ nhất trí rồi, nhưng dường như đều hy vọng lùi thời gian lại. Cuối cùng tôi thẳng thắn nói: “Thế thì các vị tự đi mà xử lý, tôi không hỏi nữa”.
Tôi nói với trụ trì là pháp sư Nguyệt Cơ rằng: “Thưa thầy, xin thầy thông cảm, sau này việc của Phật giáo đường, thầy đừng tìm con làm giám viện nữa, con không quản lý nữa”. Trong lúc buồn tủi, tôi chạy về phòng rồi nhắm mắt ngồi thiền. Họ cũng thấy như vậy không được, sau đó họ nhìn thấy tôi thì nói chuyện với tôi, nhưng tôi cũng không mở mắt nhìn họ. Cuối cùng hơn 30 người này bèn cùng với Vương Từ Thư (Vương Tuấn Hùng) - Chủ tịch nhà hàng Chân Hảo Vị và Lý Khánh Vân, người thành lập Thư cục Khánh Phương đến quỳ ở trước cửa, từng người khẩn cầu tôi: “Tuân theo ý của thầy, chúng con đều nghe lời thầy”.
Trong lòng tôi nghĩ, nếu tha thứ được cho người thì nên tha thứ, có thể bỏ qua thì bỏ qua, không nên chấp trước vào cái tôi làm gì. Vì thế tôi cũng an ủi họ, khuyến khích họ, nói rõ công tác giáo dục có ý nghĩa quan trọng thế nào đối với sự phát triển của Phật giáo trong tương lai.
Sau đó mọi người vẫn đoàn kết nhất trí, Trường Mầm non Từ Dục trở thành trường mẫu giáo đứng đầu ở Cao Hùng, đạt được thành tích rất tốt. Với sự phát tâm của pháp sư Từ Hoa và pháp sư Từ Dung, ngôi trường phát triển mạnh mẽ, đào tạo ra rất nhiều nhân tài và Phật tử ưu tú cho Phật giáo.
Tôi nghĩ, ứng dụng quản lý học chính là đừng nên cố chấp, có thể lấy lùi làm tiến khi đối mặt với khó khăn: Tôi không quản lý nữa, tôi nhượng bộ, tôi không cần. Sự nhượng bộ và không cần đó có thể giúp người ta có thêm thời gian để suy nghĩ. Ví dụ như, họ đến nói chuyện cùng tôi, mắt tôi vẫn không mở, tôi không để ý. Nhưng con người ta cũng thật kỳ lạ, bạn càng không muốn quản lý thì người ta lại càng hy vọng bạn quản lý. Cho nên, nếu muốn quản lý tốt đoàn đội, quần chúng thì chúng ta không thể không để tâm đến ẩn ý, uyên thâm của lòng người.
Ngoài ra, Phật giáo đường Cao Hùng vốn có tên gọi là Trụ sở hoằng pháp khu Linh Nhã, thuộc về một nhóm Phật tử ở khu Linh Nhã. Khi tôi đến và đổi lại thành Phật giáo đường Cao Hùng, từ đó tín đồ của những khu vực như Tân Hưng, Diêm Trình, Tam Dân và toàn thành phố Cao Hùng cũng lần lượt kéo đến.
Nhưng, tư tưởng phân biệt vùng miền của người dân Cao Hùng rất nặng nề. Họ luôn cảm thấy Phật giáo đường là của khu Linh Nhã, nay thấy người ở khu Tam Dân, Tân Hưng đến, họ cảm thấy như bị người khác chiếm cứ địa bàn của mình. Cho nên, bề ngoài mọi người có vẻ hòa thuận, nhưng trong lòng mỗi cá nhân đều có sự phân biệt, có quan niệm vùng miền. Thậm chí, khi đó còn có phái Đài Nam, phái Bành Hồ và phái Cao Hùng, mọi người đều dựa vào vùng miền để so bì sức mạnh, so xem bạn là người ở vùng miền nào, anh là người ở đâu. Trong một đoàn đội mà có sự phân biệt, đối lập, có sự so đo, so sánh quan hệ tôi và anh thì làm sao có thể phát triển?
Sau đó tôi nghĩ ra một cách rất hay. Ở điện Phật vốn nên phụng thờ tượng Phật, nhưng tôi nói không cần. Tôi triệu tập các Phật tử và nói với họ rằng: “Bởi Phật Thích Ca Mâu Ni là người Ấn Độ nên chúng ta hãy để Ngài ấy quay về. Chúng ta không cần Phật tổ từ Ấn Độ”.
Mọi người nghe xong hết sức bối rối, không hiểu ý của tôi thế nào. Vì vậy, tôi nói: “Mọi người đều cho rằng đây là nơi của mình, thế thì hãy để cho Phật Thích Ca Mâu Ni trở về Ấn Độ, tôi còn phải về Nghi Lan bởi tôi cũng không cần ở lại Cao Hùng, mọi người tự thu xếp vậy”.
Lúc này mọi người mới tỉnh ngộ, nói: “Mô Phật! Sư phụ dạy phải. Chúng con không nên phân biệt vùng này vùng kia, sau này ở Phật giáo đường Cao Hùng, chúng con sẽ đoàn kết hợp tác, đôi bên tương trợ. Chúng con sẽ cùng nhau hoằng dương Phật giáo, tịnh hóa tín ngưỡng của chính mình dưới sự lãnh đạo của Đức Phật và thầy”.
Tôi khen ngợi họ rằng: “Mọi người như vậy mới thật sự là hiểu về Phật giáo! Phật giáo không chỉ ở tại Cao Hùng của chúng ta, mà Phật giáo đến từ Đài Loan (Trung Quốc), đến từ Trung Hoa, đến từ thế giới. Phật giáo là cả hư không vũ trụ nhân loại, sao các vị lại đem Phật giáo thu hẹp lại thành nhà của mình, khu của mình? Như thế làm sao có thể khế hợp với Phật giáo?”
Sau đó, mọi người ở Phật giáo đường Cao Hùng đều hòa thuận chung sống. Tôi nghĩ, lần nói rõ này đã có ảnh hưởng rất lớn đến họ. Tôi cảm thấy trong việc quản lý quần chúng, chúng ta cần phải nắm bắt thời điểm then chốt, rồi giáng một đòn cảnh tỉnh để họ tỉnh ngộ thì mọi việc sẽ dễ dàng có được thành tựu.
19. Xe hoa mừng Đại lễ Phật đản
Bởi vì tôi có kinh nghiệm tổ chức diễu hành mừng Đại lễ Phật đản ở Nghi Lan, cho nên sau khi đến Cao Hùng, Giáo hội Phật giáo Cao Hùng bèn đem nhiệm vụ tổ chức mừng Đại lễ Phật đản giao cho tôi. Dựa theo kinh nghiệm làm việc với cảnh sát trước đây, tôi biết không thể dùng chữ “diễu hành”, mà nên gọi là “Xe hoa mừng Đại lễ Phật đản”. Tôi đã yêu cầu các chùa chuẩn bị xe hoa và đi khắp các đường lớn, ngõ nhỏ ở thành phố Cao Hùng, để mọi người biết được sự rầm rộ của Đại lễ Phật đản. Nhưng mọi người đều sợ việc này khó khăn. Tại sao vậy? Bởi vì trang trí một xe hoa tốn không ít tiền, và mọi người đều khó khăn về mặt tài chính. Vì vậy, tôi nghĩ ra một cách, đó là tổ chức một cuộc thi xe hoa và sẽ khen thưởng cho chiếc xe nào được trang trí đẹp nhất.
Khi đó, ở Cao Hùng có hơn 30 ngôi chùa. Song tôi vẫn đến từng nơi để thăm hỏi và trình bày với họ cách làm của mình: Viết chữ nên viết theo mẫu nào, viết ngang viết dọc ra sao, làm thế nào để trang trí xe hoa, v.v. mọi việc tôi đều trình bày với họ thật rõ ràng, nhưng vẫn có người đùn đẩy, thoái thác. Tôi bèn nói: “Thầy không làm cũng không sao, nhưng chùa khác làm, người dân Cao Hùng nhìn thấy, Phật tử biết đến chùa của họ, nếu thầy không làm thì không ai biết đến chùa của thầy, thầy sẽ từ từ bị tụt hậu. Chỉ có tham gia cuộc thi thì mới có thể tiến bước”.
Họ có tiếp thu lời khuyên của tôi hay không, đương nhiên tôi cũng không quan tâm đến kết quả, chỉ là tôi muốn làm theo cách của mình để cổ vũ mọi người tham gia. Vào lễ Phật đản năm 1964, chỉ riêng chùa Thọ Sơn đã có mười mấy chiếc xe hoa, tất cả là do Phật tử phân công, hợp tác để làm. Sau đó, những chùa khác biết tin cũng đua nhau tham gia, tổng cộng có 200, 300 chiếc xe hoa diễu hành rầm rộ ở Cao Hùng. Tôi nhớ rằng, từ đầu đến cuối con đường Ngũ Phúc Tứ Lộ, trước cửa chùa Thọ Sơn, pháo được treo từ lầu cao thả xuống, tiếng pháo nổ ngập trời, khói bay mờ mịt, tuy việc này cũng có phần ảnh hưởng đến giao thông, nhưng cảnh sát dường như không đến can thiệp. Bởi vì, chúng tôi không diễu hành mà là rước xe hoa mừng Phật đản.
Tôi cảm thấy, việc tập hợp quần chúng để tổ chức các hoạt động sẽ tạo ra một số lợi ích như: Một là, đem lại niềm hy vọng, vinh dự cho Phật tử, để họ cảm nhận được thành tựu trong tương lai. Hai là, trước đó chúng tôi cũng đã tuyên truyền, nói với các chủ tiệm, doanh nghiệp rằng: “Đức Phật đến rồi, chúc phúc các vị”.
Thời kỳ đầu, hoạt động mừng Phật đản được nhiều người hoan nghênh, nếu cứ tiếp tục phát huy thì Phật giáo Đài Loan (Trung Quốc) sẽ phát triển mạnh mẽ. Đáng tiếc rằng có nhiều vị ngăn cản, cho rằng không nên lãng phí, không nên dùng tiền vào việc này. Không dùng tiền, không lãng phí, vậy thì nên dùng tiền vào việc gì?
Vì Đại lễ Phật đản, vì hoằng pháp, tại sao không chịu bỏ ra chút tiền để cống hiến? Nếu như có các vị lớn lãnh đạo, danh chính ngôn thuận thì hiệu quả của hoạt động này sẽ càng to lớn hơn.
Trong hoàn cảnh không nhận được hầu hết sự ủng hộ của người trong giới, tôi chỉ có thể dựa vào tâm thành ý của bản thân để tổ chức vài cuộc diễu hành mừng Đại lễ Phật đản từ Nghi Lan đến Cao Hùng.
Thậm chí, tôi cũng đứng ra phụ trách hoạt động diễu hành chào mừng Đại hội Tăng sĩ Hoa kiều ở hải ngoại. Dòng người từ ga xe lửa Cao Hùng nhiễu Phụng Sơn một vòng rồi về lại bến xe Cao Hùng vẫn nối dài không gián đoạn, không khí hết sức trang trọng. Đáng tiếc, nhiều vị không chịu phát động các hoạt động ấy, thậm chí còn khuyên tôi đừng nên để tín đồ, chùa chiền tốn tiền, ý nói tôi không nên làm việc này. Tôi cũng chỉ đành thở dài vậy.
Nhưng tôi cảm thấy nếu áp dụng phương pháp, kế hoạch và sự dẫn dắt của tôi vào quản lý học trong tương lai rất có thể sẽ làm nên sự nghiệp. Đáng tiếc, người trong giới không nhiệt tình ủng hộ, tôi chỉ có thể thở dài, đành chịu vậy thôi.
20. Nhân duyên làm nên một con đường
Năm mươi năm trước, khi tôi đến Phật Quang Sơn khai sơn, con đường từ Chuyên Tử Diêu đến Phật Quang Sơn dài hơn 20 km đều là đường đất. Mỗi khi trời mưa, đường lắm bùn lầy rất khó đi, nhưng khi đó tôi không có đủ sức để làm một con đường mới. Thành lập chùa không bao lâu, ông Nghê Tư Tằng, cục trưởng Cục quản lý Công trình đường bộ III đến khảo sát. Tất cả đường sá ở miền Nam đều thuộc quyền quản lý của ông. Có một lần, sau khi tham quan Phật Quang Sơn xong, tôi giữ ông lại dùng cơm trưa ở Hoài Ân Đường (khi ấy còn lợp bằng cỏ). Ông cũng rất tùy duyên, ăn xong thì hoan hỷ nói: “Tương lai ở đây nên xây dựng một ngôi chùa để cho người dân đến lễ bái, như thế sẽ có tác dụng rất lớn trong việc cải thiện nếp sống xã hội và thanh tịnh lòng người”.
Tôi bèn trình bày: “Cục trưởng Nghê, từ Chuyên Tử Diêu đến Phật Quang Sơn toàn là đường đất, bình thường đã rất khó đi, mưa xuống đi lại càng khó hơn nữa, giao thông không thuận tiện, nên không ai muốn đến để thanh lọc thân tâm”.
Ông ấy nghe xong thì nói: “Con đường này là thuộc quyền sở hữu của huyện, nhưng Cục quản lý Công trình đường bộ chúng tôi vẫn có quyền quản lý. Tôi sẽ suy nghĩ lời thầy nói để sửa sang con đường này thành đường nhựa”.
Tôi nói: “Thế thì công đức của cục trưởng lớn nhất”. Như thế, không bao lâu sau thì có một con đường nhựa. Nhờ có con đường mới mà tôi vận chuyển nguyên vật liệu xây chùa, người dân đi lại cũng thuận tiện hơn.
Sau đó, có một lần bão táp ập đến, mưa gió dữ dội, lũ to bất ngờ, nước từ cả ngọn núi đổ xuống khiến con đường bị tàn phá nặng nề, việc đi lại của người dân cũng vô cùng bất tiện. Tôi bèn chụp ảnh lại hiện trạng của con đường, nói rõ nguyên nhân hư hỏng là bởi con đường không có cống thoát nước, khi lũ ập đến thì nước không thể rút đi. Ý kiến này được đăng lên báo và cục trưởng Nghê nhìn thấy. Vì ông là một chuyên gia nên đương nhiên sẽ biết nhược điểm nằm ở đâu. Sau đó ông đã cố gắng xin kinh phí từ các ban ngành rồi lập kế hoạch sửa chữa lại con đường cho rộng hơn, đồng thời lắp đặt thêm cống thoát nước. Từ đó, việc đi lại được thuận tiện và an toàn hơn.
Khoảng bảy, tám năm sau khi khai sơn, con đường dần có nhiều người và xe cộ qua lại, độ rộng cũng không đủ, hơn nữa đường nhựa cũng chỉ thuộc cấp hai, không giống đường cấp một bằng phẳng như đường cao tốc.
Trước đây, khi mẹ của chủ tịch tỉnh Khâu Sáng Hoán qua đời, tôi đã tổ chức tang lễ hết sức trang nghiêm cho bà ấy. Ông cảm niệm tôi không nhận đồng tiền cúng dường nào, cho nên có một lần ông dẫn theo thị trưởng đến thăm chùa. Tôi rất nhiệt tình tiếp đãi, cũng nhân cơ hội này nói rõ với ông rằng đường sá ở huyện Cao Hùng vẫn chưa sánh kịp với đường sá các huyện khác ở Đài Loan (Trung Quốc). Đường sá các huyện khác bằng phẳng và thẳng tắp, chỉ có đường ở huyện Cao Hùng vòng vèo khúc khuỷu, đi lại bất tiện. Ông nghe xong thì trầm tư và rất muốn xây dựng địa phương, bên cạnh đó cũng xem việc này như cách biểu thị tâm ý đối với tôi. Sau đó ông cho nới rộng con đường và xây mặt đường đạt chuẩn cấp một, hơn nữa còn sửa lại những đoạn khúc khuỷu cho thẳng lại, đó chính là công đức của chủ tịch tỉnh Khâu Sáng Hoán.
Tôi cho rằng, trong việc quản lý không thể chỉ muốn người ta cho, tặng mình, mà trước tiên mình cần nghĩ cách gieo thiện duyên với người. Con đường này làm sao mà có được? Chính là do gieo thiện duyên mà có. Người có duyên với tôi, tôi có thể gieo thiện duyên với họ, cho họ sự thuận lợi, sự hoan hỷ. Cũng từ đây bốn phương châm quản lý của Phật Quang Sơn là: “Cho người niềm tin, cho người hoan hỷ, cho người hy vọng, cho người thuận tiện” được ra đời.
Trong quản lý học, giúp người thấu hiểu là bước rất quan trọng, đối phương sau khi hiểu rồi mới có thể trợ lực cho chúng ta. Tuy không có sức mạnh, nhưng chúng ta có một cái miệng, có thể nói với người đủ sức, để họ hiểu rõ tình hình. Có thể đặt mình vào vị trí của họ mà vì dân phục vụ, thì việc gì cũng không còn khó khăn nữa.
21. Giày cho chư Tăng ni thuở ban sơ
Thời gian đầu, khi tôi mới đến Đài Loan (Trung Quốc), bởi Phật giáo rất suy vi, nên muốn mặc một bộ tăng phục, thay một đôi giày cũng không có nơi để mua, thậm chí tìm không ra người làm. Sau đó, có một vị cư sĩ họ Diệp ở Đài Nam đã phát tâm làm giày để bán cho chư Tăng. Năm 1964, anh đến chùa Thọ Sơn để giới thiệu mặt hàng, tôi hỏi anh: “Một đôi giày La hán bao nhiêu tiền?”
Anh nói: “Dạ, một đôi giá 25 đồng”.
Tôi nói: “Tôi lấy hai đôi, mỗi đôi 30 đồng, tôi gửi anh 60 đồng”.
Anh ấy nghe xong thì không hiểu bèn hỏi: “Tại sao vậy ạ? Con bán 25 đồng một đôi, hai đôi là 50 đồng”.
Tôi nói: “Với 50 đồng, anh không thể kiếm được tiền lời, vì thế chất lượng sản phẩm cũng sẽ không được cải thiện, không kiếm được tiền thì làm sao anh có thể tiếp tục sản xuất. Nếu anh không sản xuất, chúng tôi sẽ không có giày để đi. Cho anh thêm năm đồng là giúp anh, nếu như mọi người đều nghĩ như vậy sẽ khích lệ anh làm giày và y phục cho tu sĩ, anh có thể phát tâm mở tiệm, thành lập công ty, như vậy sẽ thuận tiện hơn cho chúng tôi. Cho nên, đây không phải chỉ là giúp anh, mà còn giúp bản thân chúng tôi nữa”.
Nghe những lời tôi nói, anh cảm thấy rất có lý bèn chấp nhận cho tôi mua hai đôi giày với giá 60 đồng. Sau đó, anh không những thường xuyên đến Phật Quang Sơn giới thiệu giày mà còn gửi con trai là Diệp Bằng Thắng xuất gia ở đây.
Tôi cảm thấy, quan hệ giữa người với người cũng giống như việc quản lý, giao lưu, trao đổi. Có lúc chúng ta không nên chỉ chăm chăm nghĩ đến lợi ích của bản thân, mà hãy nghĩ đến lợi ích của người khác. Kỳ thực, khi người ta có lợi ích thì chúng ta cũng được hưởng nhờ.
Đối với việc quản lý ở xã hội, những điều tôi nghĩ đến đều là nhân duyên: Anh giúp tôi, tôi giúp anh, không nhất định phải trả giá kỳ kèo với người, bản thân thì mưu lợi, còn để người khác chịu thiệt là không được. Cho người lợi ích, cho người thuận tiện, nếu làm được như vậy sẽ đạt được hiệu quả gấp bội trong công tác quản lý.
22. Chơi bóng rổ
Tôi sinh ra ở tỉnh Giang Tô, thành phố Dương Châu, gia đình tôi sống bên bờ sông Dương Tử. Từ lúc 3, 4 tuổi tôi đã biết bơi lội, vì vậy tuy gia cảnh nghèo khó, nhưng tôi không hề thiếu trò vui chơi. Năm 12 tuổi tôi xuất gia, khi đó ở núi Thê Hà thậm chí không có lấy một ao nước, bỗng chốc tôi giống như một con vịt nước biến thành con vịt cạn vậy. Thật khó để thích nghi với những thói quen mà tôi đã hình thành từ nhỏ, nhưng tôi nghĩ đến tương lai của cuộc đời không phải ở việc bơi lội, mà tôi ý thức rằng cần phải học tập, cần có nhiều kỹ năng mới có thể sinh tồn được trong xã hội.
Từ đó, nhẫn nại, tu hành, học tập trở thành mục tiêu xuất gia của tôi. Sau đó, khi tôi ủng hộ việc đề xướng thể thao trong tùng lâm tự viện, những vị giáo thọ bảo thủ không chấp nhận, tôi lại từ bỏ thói quen thích thể thao của mình. Cho nên, sau khi đến Đài Loan (Trung Quốc), làm chủ nhiệm giáo vụ ở Hội Thực tập Hoằng pháp Phật giáo Đài Loan (Trung Quốc), tôi liền đề xướng cho Tăng ni sinh học bóng chuyền. Nhưng học trò nhìn thấy bóng lại không dám đón lấy, mà cứ lùi về phía sau. Thật đáng thương, trước đây khi là Tăng sinh, tôi đề xướng thể dục thì không được giáo thọ sư chấp nhận, nay tôi làm giáo thọ đề xướng thể dục thì học trò lại không dám tham gia, không dám đánh bóng.
Sau khi Phật Quang Sơn được xây dựng, lúc đó phong trào chơi bóng rổ ở Đài Loan (Trung Quốc) phát triển rất mạnh mẽ, có đội Khắc Nan, đội Đại Bàng, đội Lục Quang, đội Thất Hổ. Có rất nhiều cầu thủ nổi tiếng như: Giả Chí Quân, Đường Tuyết Phảng, Trần Tổ Liệt, Hoàng Quốc Dương, Vương Nghị Quân, đến nay tôi cũng khó mà quên được họ. Tôi cảm thấy bóng rổ thật sự là môn thể thao mà các tu sĩ Phật giáo trẻ nên học. Bởi vì chơi bóng rổ có ý nghĩa rất lớn đối với việc giáo dục nhân sinh, quản lý chính mình, thậm chí là quan hệ nhân ngã.
Ví dụ: Chơi bóng rổ tuy là môn thể thao đối kháng, nhưng đội bên kia không phải kẻ thù mà là bạn bè của ta. Bởi vì không có đối phương chúng ta không thể chơi bóng, tuy phân thành hai đội nhưng mọi người đều là bạn bè, không phải kẻ thù.
Từ bi thì không có kẻ thù. Tuy diễn biến thi đấu trên sân bóng rổ rất khốc liệt, nhưng trong đó chứa đựng sự nhân từ. Quan trọng hơn cả chính là bạn không thể chạm vào người, không thể đánh người. Nếu như bạn va vào người hoặc đánh người thì bạn sẽ phạm quy. Mỗi lần phạm quy đều phải giơ tay nhận lỗi với đối phương, tôi thấy như vậy rất hay. Dám nhận lỗi chính là dũng khí lớn nhất của con người và việc hình thành nên thói quen nhận lỗi là vô cùng quan trọng. Ngoài ra bóng rổ còn hình thành nên thói quen tranh thủ thời gian thi đấu. Trong thời gian chơi bóng, chỉ cần chậm một chút là bản thân sẽ đánh mất cơ hội.
Chơi bóng rổ cần có đồng đội, không thể đơn thương độc mã, phải tạo cơ hội cho người khác, cần tranh thủ thời gian, đó đều là những bài học cho chúng ta. Tóm lại, chơi bóng rổ không những cần kỹ thuật cao siêu mà nhân phẩm và đạo đức cũng hết sức quan trọng. Đối với việc huấn luyện một người trẻ tuổi mà nói, điều này hiệu dụng vô cùng. Rất nhiều người biết tôi thích bóng rổ, tuy nay đã có tuổi, nhưng tôi vẫn rất thích thưởng thức môn thể thao này. Khi cần dũng cảm thì dũng cảm, khi cần phòng thủ thì phòng thủ. Tiến thoái, nhanh chậm, chiến thuật hay tạo cơ hội cho người, v.v. chẳng phải đều là quản lý học đấy sao?