1
Nếu hoài niệm về Thành xưa, tôi có thể kể vanh vách những món ăn mà tôi tin chắc thế hệ tôi, lớp tuổi 5-6X ở Thành Diên Khánh, sẽ “đồ” theo tôi với một trời hồi ức ùa về!
Tuy nhiên, tôi lúng túng không biết bắt đầu từ đâu. Cho phép tôi nhớ gì kể nấy nhé!
Ngôi nhà đầu tiên kể từ khi tôi sinh ra đến năm chín tuổi là nhà ba tôi thuê. Bằng cái nhìn thuở chập chững, với tôi đó là ngôi nhà rất rộng. Đặc biệt, trước nhà, hai bên có hai lan can là nơi mấy anh em chúng tôi ngồi chơi, mài đũng quần đến nỗi mặt xi măng láng bóng. Cạnh lan can tay phải có một cây mãng cầu, cành lá sum sê, rất mát. Thềm nhà rất cao (ở Thành khi ấy thường có lụt lớn, nước mấp mé thềm nhà) nên chỗ lan can ngồi nhìn xuống, với chúng tôi là một đại dương tuổi thơ (để khám phá) rất thú vị. Ấn tượng nhất, dưới gốc cây mãng cầu có một cái chum nhỏ mà chủ nhân của nó là ai đó trong “mấy người đi đón”, theo cách gọi của má tôi.
Cách chợ độ trăm mét, nhà tôi là điểm xe lam trả khách. Sáng sớm, những người đi đón đến đây chờ mua các sản vật của những người ở quê mang ra phố như rau củ, gà, vịt, heo con… sau đó mang lên chợ Thành hay đem xuống Nha Trang bán lại kiếm lời.
Còn một đội quân ồn ào nữa là những người gánh cá. Một thời tuổi thơ của tôi được “ướp” đủ các loại âm thanh: tiếng xe lam nổ máy phành phạch, tiếng tranh giành gánh hàng, cãi nhau, trả giá, khen chê…
Ngày ấy, với tôi, cái chum dưới gốc cây mãng cầu là cả một bí mật. Thường tầm 9 - 10 giờ sáng, có một người mang gói bún lọn (mua ở chợ) đến gốc cây mãng cầu đã có vài người ngồi đợi (là những người đi đón và gánh cá). Bún gói trong lá chuối, được đặt vào cái rổ. Một người mở nắp chum ra, múc một muỗng (sau này tôi mới biết đó là mắm nêm họ tự muối với cá cơm tươi chở từ Nha Trang lên Thành) cho vào chén nhỏ rồi dằm ớt xiêm, vắt chanh, bỏ xíu đường. Những người đàn bà xúm quanh rổ bún nói chuyện rôm rả. Tôi thấy họ múc mắm nêm ra chén rồi chấm bún lọn, vừa ăn vừa hít hà.
Đứa bé 5, 7 tuổi là tôi khi ấy làm sao biết được họ ăn ngon như thế nào, nhưng đó là một kỷ niệm in đậm trong ký ức của tôi cho đến lớn. Món bún chấm mắm nêm luôn gợi tôi nhớ tới những người phụ nữ tảo tần khuya sớm bên dưới gốc cây mãng cầu sát lan can ngôi nhà cũ.
2
Có lần, tôi viết một status trên Facebook kể chuyện hồi học trường Tiểu học Khánh Hòa. Buổi chiều đi học sớm, nếu trong túi rủng rẻng tiền, tôi ghé xe gỏi ông Nùng đậu dưới gốc cây cóc (hồi đó cây cóc to sum sê, tỏa bóng mát một khoảng rộng, làm nên một địa chỉ “chỗ cây cóc trong Thành”, bây giờ là công viên gần Uỷ ban huyện Diên Khánh) mua một dĩa gỏi, sang nữa thì kêu thêm ly nước cam.
Ông Nùng lấy cái dĩa nhôm nhỏ, bỏ nhúm đu đủ bào sợi, cầm kéo xắp xắp mấy miếng bò khô và ít rau thơm rồi chan đủ thứ nước gia vị lên đó. Với tôi, gỏi ngon nhưng không ấn tượng bằng nước cam. Hồi đó tôi không biết, cứ nghĩ là nước cam. Bây giờ tôi đoán có thể đó là hỗn hợp: nước, phẩm màu (cam), đường và bột cam… được ông Nùng chế biến thành một thứ nước cam ngon tuyệt.
Cho đá bào vào ly, ông Nùng rót nước cam rồi múc kem (bằng dụng cụ múc kem), tiện tay ông chế chút sữa đặc và thêm muỗng nhỏ đậu phộng rang giã dập. Thưởng thức riêng phần kem phía trên cũng ngon mà dằm kem với nước cam cũng “bá cháy bọ chét”.
Liền có bình luận của chị Oanh (học trên tôi ba lớp): “Chị nhớ ông Nùng đen, thấp. Món gỏi của ông vẫn ngon muôn đời. Tương ớt cay xé lưỡi. Bò khô thơm đậm đà, có rau răm, đậu phộng... Món nước cam càng ngon nếu được vừa uống vừa ngồi vắt vẻo trên yên xe hàng của ông Nùng. Bán ở gần trường xong, ông đạp xe ra chợ Thành, dừng chỗ tiệm thuốc tây Nam Hải. Buổi trưa đi hoc về đứa nào cũng chạy ù ra thật nhanh để chiếm ghế ngồi... thượng hạng. Chị mê nước bạc hà màu xanh hơn, ngon lắm!”.
Bình luận của Thanh (bạn tôi thời tiểu học): “Làm nhớ cà rem ông Cảnh già, ngon ơi là ngon”.
Bình luận của Phát (bạn tôi thời trung học và bạn “đồng nghiệp” cùng dạy bổ túc văn hóa mùa hè năm 1976): “Nhà ông Nùng ở gần rạp hát Tân Tiến. Xe gỏi của ông buổi chiều tối thì đậu ở tiệm thuốc tây Nam Hải hay trước nhà mình, hay lưu động ở những ngã ba, ngã tư, hay thường bán gần rạp xi-nê Tân Tiến sau khi tan rạp. Ông Nùng nói được tiếng Việt và tiếng Quảng Đông. Người ở Thành ai cũng biết ông Nùng vì món gỏi đu đủ khô bò và nước chấm pha bằng xì-dầu ngon tuyệt vời. Ăn món gỏi ông Nùng, mình thường xin thêm nước tương, ăn hết gỏi rồi húp sạch nước luôn. Nước cam thì mình không ấn tượng lắm. Một đĩa gỏi khô bò đã đưa mình lên mây xanh rồi!”
3
Một lần bạn bè của tôi thời học trường Trung học Diên Khánh (bây giờ là trường Hoàng Hoa Thám) ngồi lại với nhau. Những câu chuyện tiếp nối nhau về các món ăn thời đi học. Mỗi khi có tiền (thường thì luôn không có tiền) và được nghỉ hai tiết cuối chúng tôi rủ nhau đi ăn chè quán Cây dầu. Bởi “lần ăn lần khó” nên phải ăn hết sạch ly chè, không chừa lại, mấy chữ viết tắt UCKCC (uống chè không chừa cặn) ra đời từ đó. Rồi chúng tôi vòng trở lại quán chè ông bà cai, phía sau trường, gần nhà để xe. Do lũ học trò ăn quỵt nhiều quá nên lúc nào ông cai cũng phải lặp đi lặp lại câu hát: “có tiền là có chè/ có tiền là có chè”, nghe vui tai gì đâu.
Cả đám kết luận, cái ly chè thời còn bé ngon không thể nào quên!
Chưa hết, chỉ một cú “click chuột” vào bộ nhớ ai đó lập tức thêm ra một món khác, cả đám nhao nhao: bánh mì Hai Lưởng, là món mà hầu như lứa tuổi tôi cũng như lớp tuổi lớn lên trước 1975 ở Thành đều biết, chỉ cần bánh mì chan nước thôi đã thấy cả... thiên đường.
Cái xoong nước màu cam, hơi sắc chút xíu, mặn mặn, ngọt ngọt... Ôi! Bao giờ mới tìm lại được ngày xưa!
Tối đói bụng, trời mưa chẳng ngại, tôi lấy cây dù, rón rén đi bộ ra phố (Thành), đến hàng bánh mì bà Hai Lưởng, sang thì xíu mại, còn không thì chan nước thôi. Ôi những đêm mùa đông sao mà ngọt ngào và ấm áp quá đỗi!
Đang cơn thèm bánh mì, tôi liền than thở trên Facebook và lập tức có một anh bạn vào bình luận: “Em làm anh nhớ bánh mì chan nước ở gốc cây bàng Phương Câu (Nha Trang). Sau 1975, nhà đông người, không có tiền, sáng nào cũng ra mua gần chục ổ bánh mì chan nước thịt, mỗi người một ổ. Ngon ơi là ngon!”.
Còn nhiều bình luận nữa, đa phần là nhớ và tiếc ổ bánh mì xưa giờ không còn như cũ.
Thế đấy, chỉ bánh mì chan nước thôi mà nhắc lại cả một thời tuổi nhỏ của bao nhiêu người.
4
Thành xưa và những món ăn tuổi thơ của tôi còn có tiệm phở gần cửa Đông của một người Bắc di cư. Mỗi trưa đi học về ngang tiệm phở, ngửi mùi thơm của hồi, quế, thịt bò, đúng là “tra tấn” khi bụng đang réo sôi. Thời đó, đây là món ăn sang, tôi chỉ được ba chiêu đãi còn chưa bao giờ có tiền để đĩnh đạc bước vào quán.
Tôi lại gợi hoài niệm phở của bạn bè trên Facebook.
Đa phần các anh chị lớn hơn tôi đều công nhận đó là tô phở ngon nhất trên trần đời. Tái, gàu, sụn đều ngon. Cái thời ông “Bắc” chưa mở tiệm, còn đạp xe bán rong (xưa lắm, khoảng thập niên 60), những đêm mưa nghe tiếng ông rao phở là phải chạy ra mua cho bằng được tô phở thơm nức mũi và ngon như… cổ tích.
Thanh (bạn tôi, ở trên): “Tiệm phở đối diện nhà mình, quán phở không có tên nhưng vì ông chủ quán là người Bắc nên người ta gọi chung chung là phở “ông Bắc”. Hương vị phở rất riêng. Mình qua chơi thấy nồi xương hầm thật to. Lâu lâu được ăn ké miếng gỏi gân bò ba sai mua về trộn với bắp chuối hột, sao mà lúc đó ăn ngon quá chừng. Nhắc đến lại thấy thèm!”
Thành xưa còn có bánh ướt Phú Khánh đủ các phụ liệu chứ không thiếu như bây giờ: đậu xanh, ruốc tôm, mỡ hành... Cái bánh ướt mềm chứ không dai và nước mắm pha đặc, chanh, ớt, tỏi nổi lềnh. Dĩa bánh ướt Phú Khánh theo thời gian, giản lược, bớt đi nhiều hương vị cũ, chỉ còn cái tiếng cho người hoài cổ ghé đến, ăn xong để rồi cứ xuýt xoa, tiếc mãi hương vị xưa…
Thành xưa còn gì nữa? Nhiều lắm làm sao nhớ hết như bánh tráng dày, có thể nướng hay không cần nướng mà chỉ phơi nắng gọi là bánh tráng dang, đậu hũ nóng, bắp nướng mỡ hành, bánh bò, chè các kiểu… ăn vặt giấc xế.
Bấy nhiêu thứ trên đây thôi, tôi nghĩ, cũng đủ cứa vào nỗi nhớ của người xa xứ, của dân Thành xưa. Kỷ niệm như rêu, níu vào trượt ngã, nhất là mỗi cuối năm, xuân về Tết đến…