Trong những năm chiến tranh phá hoại miền Bắc, đế quốc Mỹ đã sử dụng hàng trăm máy bay không người lái (drone) để trinh sát sân bay, trận địa phòng không, các tuyến đường, nhà ga tàu hỏa, kho tàng... của ta, nhằm thu thập thông tin tình báo, cung cấp về các cơ sở không quân Mỹ lập kế hoạch đánh phá.
Thủ đoạn trinh sát của Mỹ thường dùng là sử dụng máy bay vận tải C-130 bay dọc ven biển mang theo các drone treo dưới cánh. Khu vực phóng drone tùy từng mục tiêu cần trinh sát, thường từ cửa Ba Lạt (Nam Định) hoặc đảo Hòn Mê (Thanh Hóa). Sau khi rời máy bay mẹ, drone bay theo hành trình cài đặt sẵn, đi rất thấp, chừng 300m cách mặt đất dọc các tuyến Đường 10, Đường 5 từ Hải Phòng về qua ga Yên Viên, cầu Đuống (Hà Nội). Từ đây, nếu địch trinh sát tuyến Đường 1, chúng sẽ bay xuống Văn Điển, rồi đến Phủ Lý (Hà Nam) thì kéo lên cao 7-8km; sau đó bay qua Lào, rồi về căn cứ ở Thái Lan, nó tự tách làm hai và có dù hãm để chạm đất nhẹ nhàng.
Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Đức Soát giao lưu với bạn đọc trong buổi ra mắt sách, tháng 12-2020. Ảnh: PHƯƠNG LINH
Sau quá trình trinh sát, cuộn phim mà drone mang về sẽ được bộ phận chuyên môn giải mã. Nếu địch trinh sát tuyến đường số 2, drone sẽ bay từ Yên Viên qua sân bay Đa Phúc (nay là sân bay Nội Bài), rồi theo dọc đường số 2 bay qua Việt Trì, Phú Thọ. Hành trình đó, drone nâng dần độ cao để tránh va vào núi và cũng bay qua Lào về Thái Lan. Một thủ đoạn trinh sát khác của Mỹ đó là cho drone bay ở tầm cao (khoảng 18km). Tuy nhiên, ngày 4-3-1966, phi công Nguyễn Hồng Nhị của ta đã bắn rơi một chiếc drone ở độ cao đó nên địch đã bỏ thủ đoạn này.
Theo các phi công, cái khó khi đánh drone là do máy bay trinh sát thường nhỏ, lại bay ở tầm thấp nên radar khó bắt mục tiêu. “Để đánh được drone, chúng tôi đã sáng tạo ra bài bay số 33 cho sát thực tế”, Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân cho biết. Trận đánh drone đầu tiên bằng bài bay 33 của phi công Nguyễn Đức Soát ngày 13-3-1969 đã đạt hiệu quả cao.
Phi công Nguyễn Đức Soát (thứ hai, từ trái sang) trao đổi kinh nghiệm chiến đấu với đồng đội, năm 1972. Ảnh do nhân vật cung cấp
Ông kể: “Hôm đó, tại sân bay Đa Phúc. 8 giờ sáng, đơn vị báo động. 8 giờ 15 phút, biên đội cất cánh. Do drone bay thấp, radar không bám được nên tôi đã dùng máy ngắm quang học PKI để "tóm" chúng. Nhưng tốc độ máy bay tiêm kích lớn, tôi phải hết sức nhẹ nhàng mới giữ được điểm ngắm ổn định. Tôi ước lượng ở cự ly 1,5km và bóp cò. Xèo!... Một đám lửa to hơn cái nia với nhiều mảnh như xác pháo tung ra. Tôi reo lên: “Trúng rồi! Cháy rồi!”. Qua bộ đàm, tiếng anh Bùi Đức Nhu lúc đó là Đại đội trưởng cũng vang lên: "Hoan hô! Trúng rồi, về thôi!”. Cũng theo Trung tướng Nguyễn Đức Soát, nhờ được huấn luyện thuần thục kỹ thuật, chiến thuật và đúc rút kinh nghiệm nên trong những năm chiến tranh, không quân của ta đã bắn rơi hơn 30 chiếc drone của Mỹ.
THÁI KIÊN