• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Sự hiền hòa của sói
  3. Trang 4

  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • Sau

MẤT TÍCH

Lần cuối cùng tôi gặp Laurent Jammet là khi anh đứng trong cửa hàng của Ông Scott với xác một con chó sói vắt ngang vai. Tôi đang tìm mua ít kim may, còn anh ấy đến để thu tiền thưởng. Scott đòi phải có nguyên cái xác con thú, vì đã có lần bị một người Mỹ lừa bịp bằng cách mang đến cặp vành tai rồi nhận tiền thưởng, sau đấy mang đến bộ vuốt để nhận thêm một đô la, rồi cuối cùng là cái đuôi. Lúc ấy là vào mùa đông nên những phần cơ thể con thú còn tươi, nhưng nhiều người đã biết đến mánh khóe này, thế nên Scott tỏ ra ghét cay ghét đắng. Vì vậy khi tôi bước vào cửa hàng thì vật đầu tiên tôi thấy là cái đầu con chó sói. Lưỡi con thú thè ra, cửa miệng bị kéo lại trong bộ dạng như là nhăn nhó. Dù đã cố trấn tĩnh, tôi vẫn cảm thấy chùn bước. Scott lớn tiếng la lên, còn Jammet thì ríu rít xin lỗi. Khó mà giận dữ với Jammet, vốn là con người dễ mến lại thêm thương tật phải đi khập khiễng. Rồi cái xác con chó sói được đưa vào ở đâu đấy phía sau cửa hàng, và khi tôi đang nhìn quanh quất, họ bắt đầu tranh cãi về tấm da thú cũ rích treo phía trên khung cửa cái. Jammet đùa cợt đề nghị Scott nên thay bằng tấm da mới. Phía dưới tấm da là hàng chữ "Canis lupus(1) (đực), chó sói đầu tiên bắt được ở Thị trấn Caulfield, 11 tháng Hai, 1860". Hàng chữ cho bạn biết đôi điều về John Scott, chỉ ra ông ta có thái độ khoe khoang như là người hiểu biết, cho mình là quan trọng, không tôn trọng sự thật. Chắc chắn đấy không phải là con chó sói đầu tiên người ta bắt được ở vùng này, và nói đúng hơn cũng không có thị trấn nào mang tên Caulfield, tuy rằng ông ta mong muốn có thị trấn như vậy, vì như thế sẽ có Hội đồng thị trấn còn ông có thể làm Thị trưởng.

"Dù sao chăng nữa, đấy là con sói cái. Con đực có lông quanh cổ đậm hơn, và thân hình to hơn. Con này là rất nhỏ."

Jammet biết rõ về đề tài mình đang nói, vì anh đã bắt được nhiều chó sói hơn bất kỳ ai khác tôi đã từng quen biết. Anh mỉm cười cho thấy mình không có ý xúc phạm, nhưng Scott cảm thấy bị xúc phạm và cáu giận như thể câu nói ấy là không phải phép.

"Anh Jammet, anh nhớ rõ hơn tôi phải không?"

Jammet nhún vai. Vì vào năm 1860 anh không có mặt ở đây, và cũng vì là người Pháp, không giống như bọn chúng tôi, nên anh phải dè chừng.

Đến lúc ấy, tôi bước đến quầy phục vụ, nói: "Ông Scott ạ, tôi nghĩ đấy là con sói cái. Tôi còn nhớ rõ người mang xác nó vào nói đàn con của nó tru suốt đêm."

Và tôi còn nhớ cách Scott nắm hai chân sau kéo lê cái xác ra bên ngoài cửa hàng cho mọi người cùng há hốc nhìn. Trước đấy tôi chưa từng trông thấy chó sói, và tôi lấy làm ngạc nhiên vì cái xác trông nhỏ bé. Con thú bị treo lên với đầu mũi chĩa xuống mặt đất, đôi mắt nhắm nghiền như là bị xấu hổ. Người lớn chế nhạo cái xác, trẻ em vui cười, đứa này thách đứa kia thò tay vào miệng cái xác. Chúng đứng gần cái xác rồi cười đùa với nhau.

Đôi mắt nhỏ, tròng màu xanh lam nhạt của Scott hướng đến tôi, không hiểu đấy là thái độ đương đầu vì tôi đã về hùa với một người nước ngoài, hoặc đơn giản chỉ là đương đầu.

Doc Wade, người đã mang cái xác con sói kia đến để lĩnh thưởng rồi chết đuối mùa xuân năm sau, nói như thể nghi ngờ suy xét của Scott: "Nhìn xem ông ấy kìa..."

Jammet nhún vai và nheo mắt với tôi: "À, thế đó..."

Theo cách nào đấy - mà tôi nghĩ Scott mào đầu - chúng tôi nói chuyện với nhau về các cô gái tội nghiệp ấy, như cách người ta vẫn làm thế khi nói về chó sói. Dù có nhiều phụ nữ gặp số phận không may ở đây (tôi biết qua một số), các "cô gái tội nghiệp" là để chỉ hai người - hai chị em nhà Seton, đã mất tích nhiều năm về trước. Chúng tôi có ít phút thoải mái, trò chuyện không đâu vào đâu, rồi thình lình chuông cửa reo vang và Bà Knox bước vào. Laurent Jammet nhận lấy đồng đô la tiền thưởng, cúi đầu chào tôi và Bà Knox, rồi rời đi. Chuông cửa vẫn còn reo một hồi dài sau khi anh bước ra ngoài.

Chỉ có thế, không có gì là quan trọng cả. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp anh.

Laurent Jammet là người hàng xóm gần gũi với tôi nhất. Dù vậy, cuộc đời anh vẫn là bí ẩn đối với chúng tôi. Tôi thường thắc mắc làm thế nào anh đi săn chó sói với chân bước khập khiễng, và rồi có người nói cho tôi biết anh dùng thịt nai tẩm strychnine(2) để bẫy chó sói. Cần có kỹ năng lần theo vết chân con sói bị ngộ độc để đi tìm xác của nó. Nhưng tôi không hiểu rõ; theo những gì tôi được biết thì có vẻ như đấy không phải là môn săn thú. Tôi biết chó sói đã tiếp thu được bài học là cần ở ngoài tầm bắn của súng trường Winchester, thế nên chúng không phải hoàn toàn ngu dốt, nhưng chúng không tinh khôn đến mức từ chối món quà thực phẩm, và liệu có nên theo dõi dấu vết con vật vô phúc cho đến điểm cuối cùng hay không? Còn có những điểm bất thường về anh ấy: nhiều chuyến đi dài ngày vào những vùng đất xa lạ; gặp gỡ những kẻ xa lạ kín tiếng tìm đến anh; và những giây phút ngắn ngủi tỏ ra hào phóng, trái ngược hẳn với ngôi nhà gỗ xác xơ. Chúng tôi biết anh ấy quê ở Québec. Chúng tôi biết anh ấy theo Công giáo, mặc dù anh không đi lễ nhà thờ hoặc xưng tội thường xuyên (tuy anh có làm những việc này trong thời gian vắng mặt lâu ngày). Anh là người lễ phép và vui tính, cho dù anh không có bạn bè nào đặc biệt, và giữ khoảng cách với mọi người. Tôi dám nói anh là người đẹp trai, với mái tóc và đôi mắt hầu như đen tuyền, và cử chỉ trông như anh vừa nở nụ cười mỉm hoặc sắp cười mỉm. Anh không kết hôn và không cho thấy ý định kết hôn, nhưng tôi nhận xét là có một số đàn ông cảm thấy hạnh phúc hơn khi sống một mình, đặc biệt khi họ có những thói quen luộm thuộm và bất thường.

Một số người thu hút nỗi ghen tị vẩn vơ và hoàn toàn không có ác ý. Jammet là một người như thế, lười biếng và tốt bụng, người sống mà không phải tất bật hoặc nỗ lực. Tôi nghĩ anh được may mắn, bởi vì có vẻ như anh không lo lắng gì đến những chuyện khiến cho đám người còn lại bọn tôi phải bạc đầu. Anh không có tóc bạc, nhưng anh có một quá khứ mà anh giữ cho riêng mình. Tôi đoán anh hình dung mình có một tương lai, nhưng anh không thật sự hình dung như thế. Có lẽ anh khoảng bốn mươi tuổi. Đấy là tuổi mà anh có thể sống thọ được.

***

Đấy là một buổi sáng thứ Năm vào giữa tháng Mười một, khoảng hai tuần sau cuộc gặp gỡ ở cửa hàng. Tôi đi dọc con đường từ nhà trong tâm trạng chán ngấy, đang cẩn thận chuẩn bị cho bài giảng của mình. Thường thì tôi cất tiếng tập giảng bài - một trong những thói quen kỳ lạ thường diễn ra trên mấy khoảnh rừng hẻo lánh. Con đường - thật ra chỉ là một đường mòn do móng thú kéo và bánh xe tạo ra - đi theo con sông với một loạt những thác nước nhỏ. Trong các tán cây, từng mảng rong rêu lấp lánh dưới ánh mặt trời. Lá vàng phủ mặt đất, khô dòn vì sương giá trong đêm, vỡ vụn dưới chân tôi, tiếng xì xào báo hiệu mùa đông sắp về. Bầu trời xanh ngắt. Tôi bước vội trong nỗi bực dọc, ngẩng cao đầu. Có lẽ làm như thế tạo cho tôi bề ngoài tươi vui.

Ngôi nhà gỗ của Jammet nằm ngăn cách với bờ sông bởi một trảng cỏ dại mà người ta có thể xem đấy là thảm cỏ sân vườn. Tường của ngôi nhà được lắp ghép bằng gỗ súc còn nguyên cả vỏ cây, phai màu theo năm tháng cho đến lúc cả ngôi nhà trông trắng xám và lùi xùi, như là một vật thể sống chứ không phải là nơi cư ngụ. Nó là cái gì đấy còn sót lại từ thuở xa xưa: cánh cửa là tấm da nai được căng ra giữa một khung gỗ; các cửa sổ được lót bằng da cừu còn dính lớp mỡ. Anh hẳn phải rét run vào mùa đông. Đấy không phải là nơi chốn mà các phụ nữ vùng Sông Dove muốn đến thăm, còn riêng tôi đã nhiều tháng không đến đây, nhưng bây giờ tôi không biết đi đâu khác.

Không có dấu hiệu sự sống bên trong, nhưng cánh cửa khép hờ; tấm da nai lấm bẩn vì bàn tay người. Tôi cất tiếng gọi, rồi gõ lên thành tường. Không có tiếng đáp trả, nên tôi hé nhìn vào trong, và khi đôi mắt đã làm quen với bóng tối, tôi nhận ra Jammet, thoải mái như khi ở nhà, và theo đúng cung cách, đang nằm ngủ trên giường vào giờ này buổi sáng. Tôi suýt bước ra ngoài lúc ấy vì nghĩ không ích gì phải đánh thức anh, nhưng vì chán nản mà tôi thêm quyết tâm. Tôi không muốn đi cả quãng đường đến đây mà không nên chuyện gì cả.

Tôi cất tiếng, mà đầu óc nghĩ đấy như là cách nói hoạt bát kèm nỗi bực dọc: "Anh Jammet, xin lỗi phải làm phiền anh, nhưng tôi phải hỏi..."

Laurent Jammet đang êm đềm nằm ngủ. Vòng quanh cổ anh là chiếc khăn quấn cổ màu đỏ mà anh vẫn thường dùng khi đi săn, với mục đích để các thợ săn khác không nhìn nhầm anh là một con gấu mà bắn anh. Một bàn chân anh thò ra khỏi cạnh giường, trong chiếc bít tất bẩn thỉu. Chiếc khăn quấn cổ màu đỏ nằm trên mặt bàn... Tôi đã nắm lấy cánh cửa. Thình lình, mọi thứ từ tình trạng bình thường thay đổi hoàn toàn: ruồi nhặng bay quanh bữa tiệc cuối thu; chiếc khăn quấn cổ màu đỏ không phải vòng quanh cổ anh, không thể được, bởi vì nó đang nằm trên mặt bàn, và điều này có nghĩa là...

Tôi kêu lên "Ôi! Không!", và tiếng nói khiến cho tôi cảm thấy sốc trong ngôi nhà gỗ tĩnh lặng.

Tôi bám lấy cánh cửa, cố trấn tĩnh mà không bỏ chạy, mặc dù trong tích tắc kế tôi nhận ra mình không cử động được dù có muốn.

Màu đỏ quanh cổ Jammet đã thấm vào tấm nệm từ một vết cắt. Một vết cắt. Tôi thở dốc, như thể vừa chạy bộ. Khung cửa là vật quan trọng nhất trên đời bây giờ. Không có nó, tôi không biết phải làm gì.

Chiếc khăn quấn cổ màu đỏ đã không phục vụ mục đích. Nó đã không ngăn chặn được cái chết của anh.

Tôi không giả vờ làm người có can đảm, và thật ra từ lâu đã từ bỏ ý nghĩ cho rằng mình có phẩm chất đặc biệt, nhưng tôi thấy ngạc nhiên vì đã tỏ ra bình tĩnh mà nhìn quanh ngôi nhà. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là Jammet đã tự hủy hoại đời anh, nhưng hai tay anh không cầm vật gì cả, và không thấy món vũ khí nào chung quanh. Một bàn tay buông thõng khỏi mặt giường. Đầu óc tôi không có ý nghĩ nào khiến cho tôi sợ hãi. Tôi biết chắc rằng bất kỳ ai gây ra việc này đã đi xa - ngôi nhà trống trơn. Ngay cả thi hài nằm trên giường cũng trống trơn. Thi hài không còn có tính chất gì cả - vẻ tươi vui và luộm thuộm, tài bắn súng chính xác, tính hào phóng và chai lì - tất cả đã ra đi.

Có một điểm khác mà tôi không đặng đừng phải chú ý, vì khuôn mặt anh quay đi một ít khỏi tầm mắt tôi. Tôi không muốn nhìn khuôn mặt nhưng nó hiện diện ở đấy, và nó xác định rằng tôi đã miễn cưỡng chấp nhận - rằng số phận của Laurent Jammet là một trong số những chuyện trên đời mà người ta không hề biết rõ. Đây không phải là tai nạn, mà cũng không phải là vụ tự tử. Anh đã bị thanh toán.

Cuối cùng, dù có lẽ chỉ là vài giây đồng hồ sau đấy, tôi bước ra ngoài rồi đóng cánh cửa lại, và khi không còn nhìn thấy anh nữa thì tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Cả ngày hôm ấy và nhiều ngày sau, bàn tay phải của tôi bị tê nhức vì đã nắm chặt lấy khung cửa, như thể tôi đã cố bóp nát tấm gỗ giữa các ngón tay mình, như cách người ta nhồi bột.

***

Chúng tôi sống ở vùng Sông Dove, bên bờ bắc của Vịnh Georgian. Hai vợ chồng tôi đã từ Scotland di cư đến đây khoảng mười năm trước, vì lý do giống như nhiều người khác. Một triệu rưỡi người đã đến Bắc Mỹ chỉ trong vài năm, nhưng tuy số người có cao, tuy họ chen chúc kín mít trên nhiều con tàu khiến cho bạn nghĩ Tân Thế giới không có đủ đất cho họ sống, nhưng khi đến Halifax và Montreal chúng tôi đã tản đi khắp hướng giống như những chi lưu của một con sông, rồi từng người mất hút trong vùng hoang dã. Miền đất này nuốt chửng lấy chúng tôi, mà vẫn còn như đói khát muốn nuốt thêm người. Chúng tôi khai phá rừng để canh tác, đặt địa danh theo những thứ gì chúng tôi đã trông thấy - một con chim, một con thú - hoặc tên của những thị trấn quê nhà chúng tôi; những gợi nhớ đầy tình cảm về mấy vùng đất không có tình cảm đối với chúng tôi. Bạn cảm thấy dễ chịu hơn khi chứng tỏ rằng mình không thể bỏ lại thứ gì sau lưng. Bạn mang theo mình mọi thứ, dù muốn hay không.

Khoảng mười năm trước, vùng đất chỉ có cây cối chứ không có thứ gì khác. Ở phía bắc là loại đất trung bình, không có đầm lầy và không có sỏi đá, nơi mà thậm chí liễu và thông cũng không mọc nổi. Nhưng ở vùng dọc con sông, đất mềm và sâu, cây rừng chung quanh xanh thẫm hầu như có màu đen, bầu không khí tĩnh lặng tạo cảm giác sâu thẳm và mênh mông như bầu trời. Khi nhìn thấy quang cảnh này lần đầu tiên, phản ứng đầu tiên của tôi là bật khóc. Cỗ xe ngựa chở chúng tôi kêu lạch cạch, và tôi luôn vương vấn với ý nghĩ rằng dù cho mình có kêu to đến đâu thì chỉ có tiếng gió đáp lại. Tuy thế, nếu có mục đích là tìm kiếm sự bình an và tĩnh lặng, thì chúng tôi đã thành công. Chồng tôi chờ cho cơn kích động của tôi lắng xuống, rồi nói với nụ cười cứng cỏi: "Ở ngoài này không có gì lớn lao hơn Thượng đế."

Nếu bạn tin như thế thì có vẻ đấy là điều chắc chắn.

Dần dà tôi cảm thấy quen thuộc với không gian tĩnh lặng và bầu không khí loãng làm cho mọi thứ có vẻ như sáng sủa và sắc nét hơn là ở quê nhà. Thậm chí tôi còn mến thích. Và tôi đặt tên cho vùng này, vì không ai biết nó có tên gì: Sông Dove.

Bản thân tôi vẫn còn tình cảm ủy mị.

Những người khác cũng đến định cư. Rồi John Scott xây nên một nhà máy xay xát gần cửa sông. Sau khi đã bỏ ra nhiều tiền cho nhà máy và thấy có khung cảnh đẹp, ông quyết định sống luôn ở đây. Bằng cách nào đấy, việc này khởi đầu cho sở thích sống gần bờ sông, mà chúng tôi không giải thích được vì đã định cư ở vùng thượng nguồn chính vì để né tránh các cơn giông tố gào thét khi vùng Vịnh có vẻ như biến thành một đại dương cuồng nộ chỉ chực cướp lại vùng đất mà chúng tôi đã tự tiện đến định cư. Nhưng Caulfield (lại chuyện tình cảm nữa; quê của Scott là ở Dumfriesshire) có đặc tính mà Sông Dove không bao giờ có được - bởi vì đất có nhiều tầng còn rừng thì thưa thớt, và bởi vì Scott đã mở một cửa hiệu tạp hóa khiến cho cuộc sống trong miền rừng vùng xa được thuận tiện hơn rất nhiều. Bây giờ có một cộng đồng gồm trên một trăm cư dân - một sự pha trộn lạ kỳ giữa người Scotland và người Bắc Mỹ. Và thêm Laurent Jammet. Anh này đã cư ngụ ở đây không lâu lắm, và hẳn đã không bao giờ dời đến đây nếu anh không chiếm được một khoảnh đất mà không ai khác muốn đụng đến.

Bốn năm trước, anh mua một nông trại ở đoạn hạ lưu con sông. Trong một thời gian, người chủ trước (một ông già Scotland) đã bỏ hoang nông trại này. Doc Wade đến miền Sông Dove để tìm mua đất giá rẻ, nơi mà ông không chịu ảnh hưởng bởi những người cứ muốn xét nét ông - em gái và em rể giàu có của ông sống ở Toronto. Người ta gọi ông là Doc(3), dù ông chẳng phải là bác sĩ gì cả, mà chỉ là một người có văn hóa vốn chưa tìm thấy nơi chốn ở Tân Thế giới đánh giá cao tài năng đa dạng nhưng mù mờ của ông. Điều không may là Sông Dove không thuộc hàng ngoại lệ mà ông đang tìm kiếm. Như nhiều người đã nhận ra, làm trang trại là cách chậm rãi nhưng chắc chắn để bạn bị phá sản, sức khỏe bị hao mòn, tinh thần đâm ra chán nản. Công việc quá nặng nhọc so với tuổi tác của ông, và ông không có hứng thú. Năng suất hoa màu của ông kém cỏi, đàn lợn của ông chạy lang thang trong rừng, mái ngôi nhà gỗ của ông bốc cháy. Một buổi chiều, ông leo lên tảng đá tạo nên cầu tàu thiên nhiên trước ngôi nhà, rồi sau đấy người ta tìm thấy ông nằm sâu dưới ghềnh dốc đứng mang tên Horsehead (do người Canada vì thiếu óc tưởng tượng nên cứ đặt địa danh đúng theo hình dạng của đỉnh dốc trông giống đầu ngựa). Một số người nói rằng sau những phiền muộn trong cuộc đời thì cái chết như thế giúp giải thoát cho ông. Những người khác gọi đó là một thảm kịch - một thứ thảm kịch nhỏ trong gia đình diễn ra đầy dẫy khắp vùng.

Tôi nghĩ mình đã tưởng tượng theo cách khác. Cũng như phần lớn đàn ông, Wade thích uống rượu. Một đêm nọ, khi không còn tiền và đã cạn whisky, khi không còn việc gì để làm trên trần thế này, ông đi xuống bờ sông, nhìn ngắm dòng nước lạnh và đen chảy xiết. Tôi tưởng tượng ông nhìn lên bầu trời lần cuối cùng, cảm nhận con sông đang cuồn cuộn lôi kéo mình, rồi buông mình vào lòng khoan dung vĩnh hằng của dòng nước.

Sau đấy, có lời đồn đại trong vùng rằng mảnh đất ấy mang đến vận xui xẻo, nhưng có giá hạ và Jammet không phải là người tin dị đoan, tuy rằng có lẽ anh nên tin. Lúc trước, anh phụ trách chuyên chở hàng hóa cho Công ty, và ngã xuống dưới một chiếc ca nô trong khi đang kéo nó qua một ghềnh thác. Tai nạn khiến cho anh phải đi khập khiễng, và họ trả một khoản đền bù cho anh. Có vẻ như anh cảm thấy biết ơn đối với tai nạn chứ không trách móc, vì nhờ nó mà anh có đủ tiền để mua đất. Anh thích nói mình là con người biếng nhác, và chắc chắn là anh không làm công việc của trang trại mà phần lớn đàn ông không thể tránh được. Anh bán đi phần lớn đất của Wade rồi sinh sống bằng cách săn chó sói để lĩnh thưởng và buôn bán lặt vặt. Mỗi mùa xuân đều có từng đoàn người đến từ miền tây-bắc xa xôi với thuyền ca nô và ba lô. Họ thấy anh là người buôn bán tâm đắc với họ.

Nửa tiếng đồng hồ sau, tôi đang gõ cửa một trong những ngôi nhà lớn nhất tại Caulfield. Tôi co dãn các ngón bàn tay phải trong khi chờ lời đáp trả - các ngón tay như thể gấp lại thành một thứ móng vuốt.

Ông Knox có nước da màu xám xấu xí khiến cho tôi nghĩ đến loại thuốc nước chữa chứng khó tiêu, có khổ người cao và gầy, khuôn mặt nhìn nghiêng hình lưỡi cày như thể sẵn sàng bổ xuống kẻ vô lại - là đặc tính hữu ích đối với một vị quan tòa. Thình lình tôi cảm thấy thân người mình rỗng không như thể cả tuần chưa ăn gì.

"À, Bà Ross... một niềm vui bất ngờ..."

Nói đúng ra, ông có vẻ hoảng hốt khi thấy tôi. Có lẽ đối với ai ông cũng nhìn như thế, nhưng tôi có cảm tưởng như ông biết về tôi nhiều hơn là tôi thích, và như thế ông biết tôi không phải là mẫu người mà ông muốn các con gái của mình giao du.

"Ông Knox... Tôi e đây không phải là chuyện vui. Có một... một tai nạn kinh khủng."

Đoán ra có đề tài phong phú để buôn chuyện, một phút sau Bà Knox đi vào, và tôi kể cho hai người về sự kiện xảy ra trong ngôi nhà gỗ bên bờ sông. Bà Knox nắm chặt lấy cây thánh giá nhỏ ở cổ họng. Knox tiếp nhận tin với vẻ điềm tĩnh, nhưng có lúc quay mặt đi, rồi quay lại, mà tôi có cảm tưởng như ông đã sửa tư thái cho đúng mực - hung hãn, nghiêm nghị, quyết đoán, đại loại như thế.

Bà Knox ngồi kế bên tôi, bóp lấy bàn tay tôi trong khi tôi cố kiềm chế rút tay về: "Nghĩ mà xem, lần cuối tôi thấy anh ấy là ở cửa hiệu lúc đó. Anh ấy trông rất..."

Tôi gật đầu đồng ý, thầm nghĩ làm thế nào chúng tôi đã rơi vào sự im lặng với mặc cảm phạm tội. Sau nhiều câu bày tỏ lòng cảm thông bị sốc và lời khuyên đối với tinh thần bị khủng hoảng, bà chạy ra để báo tin cho hai cô con gái theo cách thức thích hợp (nói cách khác, có nhiều chi tiết hơn là nếu người cha cùng hiện diện). Ông Knox phái người đi Fort Edgar (Pháo đài Edgar) để gọi vài nhân viên Công ty đến. Ông quay đi để tôi ngắm nhìn quang cảnh, rồi trở lại nói mình đã cho đi gọi John Scott (người làm chủ cửa hiệu và nhà máy xay xát, cùng vài kho chứa hàng và nhiều đất đai) để cùng ông đi xem xét ngôi nhà và ngăn chặn việc "xâm nhập" cho đến khi đại diện của Công ty đến. Đấy là từ ngữ ông dùng, và tôi cảm nhận ý phê phán nào đấy. Không phải là ông phiền trách tôi đã khám phá ra thi hài, nhưng tôi chắc chắn ông lấy làm tiếc rằng người vợ một nông dân đã làm xáo trộn hiện trường trước khi ông có cơ hội hành xử tài năng vượt trội của ông. Nhưng tôi còn cảm nhận một vẻ gì khác trong con người của ông, ngoài ý chê bai - đấy là nỗi phấn khích. Ông thấy mình có cơ hội để tỏa sáng trong một thảm kịch có tính cấp bách hơn là bất kỳ thảm kịch nào khác trong vùng rừng xa xôi: ông sẽ đứng ra điều tra. Tôi đoán ông kéo theo Scott để vụ việc mang tính chính thức và có nhân chứng xác nhận thiên tài của ông, và cũng vì tuổi tác cùng tài sản của Scott tạo cho ông một vị thế. Việc này không liên quan gì đến trí thông minh - Scott là bằng chứng sống cho thấy người giàu có không nhất thiết phải giỏi hơn hoặc nhanh trí hơn những người còn lại trong chúng tôi.

Chúng tôi ngược dòng sông để đi đến cái bẫy của Knox. Vì lẽ ngôi nhà gỗ của Jammet ở gần nhà tôi, họ không thể ngăn tôi đi theo họ, và vì lẽ chúng tôi đi đến ngôi nhà của anh ấy trước, tôi ngỏ ý cùng đi với họ.

Knox nhíu mày theo cách lo lắng của bậc cha chú: "Bà hẳn đã mệt nhọc sau cú sốc kinh khủng. Tôi nhất quyết khuyên bà trở về nhà nghỉ ngơi."

Scott thêm: "Chúng tôi có thể nhận ra bất cứ cái gì bà đã nhìn thấy". Và ông có ý nói họ còn nhận ra nhiều hơn thế nữa.

Tôi quay lưng về phía Scott - không ích gì mà tranh luận với một vài hạng người - để trao đổi với Knox. Tôi nhận ra rằng Knox cảm thấy bị sỉ nhục vì bản chất phụ nữ lại mang ý nghĩ đối mặt với cảnh kinh khủng ấy lần nữa. Nhưng lòng tôi đã nhất quyết chống lại ý tưởng của ông cho rằng chỉ có một mình ông là người rút ra được kết luận đúng đắn. Hoặc có lẽ vì tôi không thích người ta bảo ban tôi phải làm gì. Tôi bảo mình có thể nói với họ liệu có cái gì đã bị xáo trộn, mà họ không thể phủ nhận, và dù sao chăng nữa, họ không thể làm cách nào khác nếu không lôi kéo tôi về và nhốt tôi trong nhà mình.

Khí hậu mùa thu mát mẻ, nhưng có mùi ẩm mốc nhẹ khi Knox mở cánh cửa. Tôi đã không để ý đến mùi này. Knox bước vào, thở qua miệng và đặt các ngón tay lên bàn tay của Jammet rồi cho biết thi hài đã lạnh. Hai người nhỏ nhẹ trao đổi với nhau, hầu như là thì thầm. Tôi hiểu ra: nói lớn tiếng là tỏ ra thô lỗ. Scott rút ra một quyển sổ tay và ghi chép lời của Knox trong khi ông này quan sát vị trí của thi hài, nhiệt độ của bếp, cách bài trí vật dụng trong gian phòng. Rồi Knox đứng một lúc mà không làm gì cả, nhưng vẫn cố ra vẻ có chủ đích - một tai nạn của môn cơ thể học mà tôi chú tâm quan sát. Có vài dấu chân trên nền nhà phủ bụi, nhưng không có vật lạ, không có vũ khí loại nào. Đầu mối duy nhất là vết thương trông dễ sợ vòng quanh đầu của Jammet. Knox nghĩ hung thủ có thể là một người Da Đỏ sống ngoài vòng pháp luật. Scott đồng ý: không người da trắng nào có hành động dã man như thế. Tôi nhớ đến khuôn mặt của vợ ông mùa đông rồi, sưng vù và bầm tím mà bà nói mình đã ngã trên một phiến băng, nhưng ai cũng biết sự thật.

Hai người đàn ông đi lên lầu để vào phòng kia. Tôi có thể nhận ra họ đang đi đến đâu qua tiếng răng rắc khi bàn chân họ dẫm lên mặt sàn gỗ và qua màn bụi rơi xuống bắt lấy ánh sáng. Bụi rơi trên thi hài Jammet, phủ nhẹ một lớp trên gò má anh, giống như bông tuyết. Bụi rơi trên đôi mắt còn mở của anh và tôi không thể quay mặt đi. Tôi muốn ra về và dẹp bỏ mọi chuyện, bảo họ phải ngưng làm xáo trộn các thứ, nhưng tôi không làm được gì cả. Tôi không có can đảm chạm đến anh.

Khi họ quay xuống, dùng khăn tay phủi lớp bụi trên quần, Knox nói: "Trong nhiều ngày qua không có ai bước lên đó". Ông đã mang một tấm vải sạch từ tầng trên, giũ ra, khiến cho nhiều hạt bụi bay quanh gian phòng như một đàn ong dưới ánh mặt trời.

Ông phủ tấm vải lên thi hài trên giường: "Này, làm thế để ngăn ruồi nhặng." Ông nói với giọng điệu tự mãn, dù cho bất kỳ người dốt nát nào cũng có thể thấy việc này là không đúng.

Chúng tôi - hoặc hai người đàn ông thì đúng hơn - nghĩ rằng không thể làm gì thêm. Khi ra về, Knox khép lại cánh cửa rồi dùng một sợi kẽm và một viên sáp để giữ cánh cửa được đóng kín, đấy là một chi tiết gây ấn tượng, cho dù tôi không muốn nhìn nhận.

***

Khi trời trở lạnh, Andrew Knox cảm nhận một cách đau khổ về tuổi tác của mình. Đã qua nhiều năm rồi, cứ vào độ thu là các khớp xương của ông bắt đầu đau nhức và tiếp tục hành hạ ông mặc cho bao lớp vải và len dầy quấn quanh người. Ông phải bước đi một cách rón rén để đối phó với cơn đau buốt ở mỗi bên bẹn. Vào mỗi mùa thu, cơn đau đều bắt đầu sớm hơn năm trước.

Nhưng hôm nay, sự mệt mỏi lan khắp tâm hồn ông. Ông tự nhủ đó là điều dễ hiểu - một biến cố như án mạng hẳn phải gây chấn động cho bất kỳ người nào. Nhưng còn hơn thế nữa. Trong suốt lịch sử của hai ngôi làng chưa từng có ai bị hạ sát. Ông nghĩ chúng tôi đã đến đây để thoát khỏi những chuyện như thế: chúng tôi hẳn đã bỏ lại đàng sau chuyện này khi xa rời các thành phố. Tuy thế, điều kỳ dị đã xảy ra... một vụ giết người dã man, giống như chuyện gì đấy xảy ra ở các Bang miền nam. Dĩ nhiên là trong mấy năm qua đã có vài người chết vì tuổi già, vì bị sốt hoặc tai nạn, chưa kể đến các cô gái tội nghiệp... Nhưng chưa có ai bị sát hại, không có ai chống cự với đôi chân chỉ mang bít tất. Ông cảm thấy khó chịu vì nạn nhân không mang giày.

Sau bữa ăn tối, ông đọc qua ghi chép của Scott, và cố giữ bình tĩnh. Bếp lò cao gần một mét và rộng nửa mét, khi sờ còn nhận ra hơi ấm. Ông nghĩ chi tiết này có thể giúp ích. Giả sử vào lúc án mạng xảy ra lửa trong lò còn cháy đỏ, thì có thể cần ba mươi sáu giờ lò mới lạnh. Vì vậy, án mạng xảy ra vào ngày trước. Trừ khi lửa đã bắt đầu tàn lụi khi Jammet thở hơi cuối cùng, trong trường hợp này án mạng xảy ra trong đêm. Nhưng cũng có thể xảy ra đêm trước nữa. Khi tìm kiếm thêm chi tiết, họ không nhận ra gì nhiều. Không có dấu vết rõ ràng cho thấy có vật lộn; không có vết máu nào khác ngoại trừ máu trên giường, hẳn là vị trí Jammet bị tấn công. Họ trao đổi với nhau việc liệu ngôi nhà đã bị lục lọi hay không, nhưng các vật dụng của anh nằm rải rác theo ngẫu nhiên - mà theo Bà Ross đó là tình trạng bình thường - nhưng không thể nào biết chắc. Scott lớn tiếng cho rằng hung thủ là người bản địa: không người da trắng nào lại hành động dã man đến thế. Knox không tỏ ra chắc chắn như vậy. Vài năm trước, Knox được mời đến một trang trại gần Coppermine(4), sau một sự cố đáng tiếc nào đấy. Trong một số cộng đồng, có cách hành xử để hạ nhục một chú rể vào ngày cưới. Người ta gọi việc này là "tiếng thét", có nghĩa là thái độ phản kháng như khi một người đàn ông lớn tuổi cưới một cô gái nhỏ tuổi hơn nhiều. Trong trường hợp này, chú rể lớn tuổi bị phết hắc ín, cắm lông gà lên da rồi bị treo lên một cành cây trước nhà ông ta, trong khi bọn người trẻ tuổi mang mặt nạ đi vòng quanh, đập nồi chảo và huýt sáo.

Một trò đùa nghịch. Thái độ hung hăng của lớp người trẻ.

Nhưng không hiểu sao, người đàn ông qua đời. Knox biết ít nhất có một anh trai trẻ chắc chắn đã can dự, nhưng không ai muốn nói ra dù họ cảm thấy tiếc. Một trò đùa nghịch gây hậu quả khôn lường? Scott đã không nhìn thấy khuôn mặt bị phù nề của người đàn ông; các sợi dây kẽm cắt sâu vào hai gót chân sưng vù. Andrew Knox thấy khó mà loại bỏ cả một sắc tộc khỏi vòng nghi vấn với lý do là họ không có khả năng gây bạo lực.

Ông để ý đến những âm thanh bên ngoài khung cửa sổ. Ngoài kia có thể có sức mạnh của quỷ dữ. Có lẽ một hạng người xảo quyệt đã nghĩ đến việc lột da người để tạo nghi vấn cho người có màu da khác. Xin Chúa ban phước, đó không phải là người ở Caulfield. Và có thể có động lực gì cho cái chết này? Chắc chắn đó không phải là vì muốn cướp mấy vật dụng cũ kỹ vô ích của Jammet. Liệu anh ấy có cất giấu tài sản lớn không? Liệu anh ấy có kẻ thù trong số những người buôn bán với anh - có lẽ là một món nợ chưa trả?

Ông thở dài, bất mãn với những ý nghĩ của mình. Ông đã tự tin rằng một khi đã nhìn qua ngôi nhà mình có thể nhận ra manh mối nếu không phải là câu trả lời, nhưng giờ đây ông lại càng hoang mang hơn. Tính phù hoa bị tổn thương khi ông phải nhìn nhận rằng mình không nhận ra được các dấu hiệu, đặc biệt là trước mặt Bà Ross - người phụ nữ có tính khiêu khích vốn lúc nào cũng làm cho ông khó chịu. Ánh mắt của bà luôn tỏ vẻ khinh thường, ngay cả khi mô tả những gì kinh hoàng đã phát hiện, hoặc đối mặt ở lần thứ hai. Bà không được lòng người trong thị trấn vì tật hay chúi mũi vào chuyện của người khác, dù rằng theo mọi lời bàn (và ông đã nghe vài tiếng đồn dựng tóc gáy) bà không có gì để làm cao. Tuy nhiên, khi nhìn bà và khi nhớ lại một số mẩu chuyện ghê gớm thì mới thấy tất cả đều khó tin: bà thuộc dòng dõi hoàng tộc, có khuôn mặt phải công nhận là đẹp, dù cử chỉ hay cáu bẳn không phù hợp với vẻ đẹp thật sự. Ông đã để ý đến ánh mắt của bà nhìn mình khi ông bước đến thi hài để sờ tìm hơi ấm. Ông cố giữ cho bàn tay mình khỏi run rẩy - có vẻ như không có khoảng da nào không dính máu để ông chạm vào. Ông hít một hơi thở sâu (chỉ khiến cho ông buồn nôn) và đặt các ngón tay mình lên cổ tay của người chết.

Làn da lạnh, nhưng ông vẫn cảm nhận đó là da người, bình thường; giống như da của chính mình. Ông cố không nhìn thẳng vào những vết thương gớm ghiếc, nhưng giống như ruồi nhặng, ông khó mà quay mặt đi. Đôi mắt của Jammet nhìn trừng trừng lên ông, và ông có ý nghĩ là mình đang đứng ở vị trí mà kẻ sát nhân hẳn đã đứng khi ra tay. Nạn nhân đã không ngủ, không ngủ lúc vụ việc diễn ra. Ông cảm thấy mình phải vuốt mắt cho anh nhưng biết mình không thể nào làm việc này. Ngay sau đó, ông tìm được một tấm vải trên lầu để phủ lấy thi hài. Máu đã khô cứng và sẽ không loang ra, ông nói vậy - như thể đó là điều quan trọng. Ông cố khỏa lấp cơn bối rối với lời nhận xét khác, tự thấy không thích ngữ âm nồng nàn của mình. Ít nhất là ngày may, ông sẽ không phải là người duy nhất gánh lấy trách nhiệm - nhân viên của Công ty sẽ đến và có lẽ họ sẽ biết phải làm gì. Có lẽ điều gì đó sẽ trở thành hiển nhiên, sẽ có người thấy cái gì đó, và đến buổi chiều vụ việc sẽ được giải quyết.

Với tia hy vọng giả dối như thế, Knox xếp lại các giấy tờ cho ngăn nắp rồi thổi tắt ngọn đèn.

***

Đã quá nửa đêm, nhưng tôi vẫn còn ngồi với ngọn đèn sáng và quyển sách mà mình không thể đọc được, mong chờ một bước chân, chờ cho cánh cửa mở ra và gió lạnh lùa vào lấp đầy gian bếp. Tôi lại nghĩ về các cô gái tội nghiệp. Mọi người ở Sông Dove và Caulfield đều biết về câu chuyện này, và kể lại cho bất kỳ ai mới đến đây, hoặc vào những đêm đông trước lò sưởi kể đi kể lại với mấy chi tiết thay đổi. Cũng như tất cả câu chuyện hay ho nhất, đấy là một thảm kịch.

Nhà Seton là một gia đình danh giá có gốc gác ở St Pierre La Roche. Charles Seton là bác sĩ; bà vợ Maria là dân Scotland mới nhập cư. Họ có hai con gái vốn là niềm tự hào và cũng là nguồn vui (theo cách họ nói, tuy rằng đứa con nào mà chả vậy?). Vào một ngày tháng Chín, Amy lên mười lăm tuổi và Eve, mười ba, rủ đứa bạn là Cathy Sloan đi hái dâu và ăn picnic bên bờ hồ. Chúng biết lối đi; cả ba đứa trẻ đều lớn lên trong vùng rừng bụi, đều quen thuộc với những hiểm nguy và biết đề phòng: không bao giờ đi xa khỏi đường mòn, luôn về đến nhà trước khi trời tối. Cathy trông rất đẹp, nổi tiếng cả thị trấn vì vóc dáng của cô. Người ta luôn thêu dệt thêm chi tiết khiến cho câu chuyện càng bi thương hơn, tuy rằng bản thân tôi không thấy điều này là quan trọng.

Ba cô gái ra đi từ chín giờ sáng, mang theo các món ăn thức uống. Đến bốn giờ chiều, là thời điểm mà đáng lẽ họ phải trở về, vẫn không thấy bóng dáng các cô. Cha mẹ họ ngóng chờ thêm một giờ, rồi hai người cha lên đường đi tìm dấu vết con mình. Sau khi đã đi quanh quất, luôn miệng kêu gọi, họ đi đến bờ hồ rồi tiếp tục tìm kiếm, vẫn kêu gọi, cho đến trời tối, nhưng không thấy bóng dáng ba cô. Rồi họ quay về, nghĩ rằng ba cô hẳn đã trở về bằng đường khác và giờ này đã về đến nhà, nhưng không thấy chúng.

Cư dân tổ chức một cuộc truy tìm; mọi người đều tham gia trợ giúp. Bà Seton ngất lên ngất xuống. Vào buổi tối ngày kế, Cathy Sloan trở về St Pierre. Cô xuống sức, còn quần áo thì lấm lem. Cô đã mất áo vét và một chiếc giày, nhưng vẫn còn cầm trên tay cái giỏ đựng thức ăn cho ba người, mà theo lời kể có lẽ là không đúng, chỉ đựng đầy lá cây. Lại có thêm nỗ lực tìm kiếm hai cô bé kia, nhưng không ai tìm được gì cả. Họ không hề tìm thấy một chiếc giày hoặc một mảnh trang phục, thậm chí một dấu chân cũng không thấy. Đó như thể là đất nứt ra một lỗ hổng và nuốt chửng hai cô bé.

Cathy Sloan được đưa lên giường nằm nghỉ, tuy rằng liệu cô có thực sự ngã bệnh hay không là điều người ta còn tranh luận với nhau. Cô nói mình đã cãi vã với Eve ít lâu sau khi rời khỏi nhà, và đã lẽo đẽo theo sau hai cô kia cho đến khi không còn thấy bóng dáng họ. Cô đi đến bờ hồ và cất tiếng gọi, nghĩ rằng họ cố tình trốn lánh mình. Rồi cô bị mất phương hướng trong vùng rừng và không thể tìm lại con đường mòn. Cô không gặp lại hai chị em nhà Seton nữa.

Cư dân vẫn tiếp tục tìm kiếm, phái người đi đến các làng của thổ dân Da Đỏ, vì lẽ tự nhiên là họ nghi ngờ thổ dân có liên can, cũng tự nhiên như là mưa từ trên trời rơi xuống. Nhưng không chỉ thổ dân thề thốt trên quyển Kinh Thánh là họ vô tội, mà lại không hề có dấu hiệu gì cho thấy đó là vụ bắt cóc. Gia đình nhà Seton tìm kiếm càng ngày càng xa hơn trong các vùng rừng. Charles Seton thuê người đi tìm kiếm giúp ông, kể cả một người Da Đỏ giỏi việc theo dấu chân. Sau khi bà vợ qua đời hẳn là vì quá buồn khổ, ông lại thuê thêm một người Mỹ chuyên nghề truy tìm - có biệt hiệu là Người Dò tìm. Người này đi đến các bộ tộc Da Đỏ ở vùng Thượng Canada và xa hơn nữa, nhưng không tìm thấy gì.

Nhiều tháng rồi nhiều năm trôi qua. Ở vào tuổi 52, Charles Seton qua đời, kiệt lực, không đồng xu dính túi, và hoang mang. Cathy Sloan không còn có vẻ đẹp như xưa. Có vẻ như cô vô tri vô giác và đần độn - hoặc là lúc nào cô vẫn thế? Không ai còn nhớ được ra sao. Câu chuyện lan xa, càng được thêm thắt chi tiết, rồi biến thành một huyền thoại, lan truyền trong đám học sinh theo nhiều tình tiết mâu thuẫn nhau, do các bà mẹ mệt mỏi kể lại khi tỏ ý cấm con cái họ đi chơi lang thang. Càng ngày càng có nhiều giả thuyết bừa bãi để giải thích chuyện gì đã xảy ra cho hai cô bé; nhiều người phương xa gửi thư đến cho biết đã trông thấy hai cô, hoặc đã cưới hai cô, hoặc nhận mình là hai cô, nhưng không ai minh chứng được thông tin của mình là chính xác. Cuối cùng, không lời giải thích nào có thể trả lời cho nghi vấn trong việc Amy Seton và Eve Seton mất tích.

Tất cả vụ việc đã xảy ra mười lăm năm về trước, hay hơn nữa. Lúc này thì cả hai ông bà Seton đã qua đời; khởi đầu là người mẹ vì đau buồn, kế đến là người cha vì khánh tận và kiệt lực do nỗ lực tìm kiếm. Nhưng câu chuyện về hai cô bé vẫn còn có liên quan đến chúng tôi bởi vì em gái Bà Seton cưới Ông Knox, và vì thế chúng tôi đã rơi vào sự im lặng với mặc cảm phạm tội khi bà bước vào cửa hiệu ngày hôm ấy. Tôi không thân thiết lắm với bà, nhưng tôi biết rõ rằng bà không bao giờ muốn nói về câu chuyện ấy. Có lẽ là vào những buổi tối mùa đông, trước lò sưởi, bà nói về những chuyện nào khác.

Vẫn có chuyện người ta ở đâu đó bị mất tích. Tôi cố không nghĩ đến tình huống tồi tệ nhất, nhưng bây giờ tôi bị ám ảnh bởi những câu chuyện khủng khiếp về việc hai cô bé bị mất tích. Chồng tôi đã đi ngủ. Hoặc anh không lo lắng, hoặc anh tỏ ra dửng dưng - đã nhiều năm rồi tôi không thể hiểu trong đầu anh đang nghĩ gì. Tôi đoán bản chất của hôn nhân là thế, hoặc có lẽ bởi vì tôi nhận thức kém cỏi.

Chị hàng xóm Ann Pretty hẳn có ý nghĩ thiên về trường hợp thứ hai; chị có hàng nghìn cách thức để hàm ý rằng tôi khiếm khuyết trong bổn phận làm vợ - mà khi bạn nghĩ về điều này thì đấy là cả một kỳ công đáng ngạc nhiên đối với một phụ nữ không được đi học đến nơi đến chốn. Chị ấy cho rằng việc tôi không có con cái là dấu hiệu thất bại khi tôi làm nhiệm vụ di dân, tức là đáng lẽ tôi phải tạo nguồn nhân lực để làm việc cho trang trại mà không cần phải thuê người ngoài. Trong một xứ sở đất rộng người thưa thì đấy là lời phê phán phổ biến. Đôi lúc tôi nghĩ rằng các di dân sinh đẻ nhiều như là cách đáp ứng với miền đất bao la và hoang vắng, như thể họ hy vọng sẽ lấp đầy miền đất này với con cháu của họ. Hoặc có thể họ e rằng có thể dễ dàng mất một đứa con, nên phải lo sinh đẻ thêm. Có thể họ đã nghĩ đúng.

Chiều hôm ấy, khi tôi quay về nhà, Angus cũng trở về. Tôi kể cho anh nghe về cái chết của Jammet. Anh mân mê chiếc dọc tẩu một hồi lâu, theo thói quen khi chìm vào suy tư. Tôi gần như bật khóc, tuy tôi không quen biết Jammet nhiều. Angus chơi thân với anh ấy hơn; đôi lúc cùng đi săn với anh ấy. Nhưng tôi không thể đọc được ý nghĩ của chồng mình. Sau đấy, chúng tôi ngồi vào chỗ thường ngày trong gian bếp, dùng bữa trong im lặng. Giữa hai chúng tôi là một chiếc đĩa khác. Không ai trong chúng tôi nhắc đến chiếc đĩa này.

Nhiều năm trước, chồng tôi lên đường đi miền đông. Anh đi được ba tuần rồi gửi cho tôi một bức điện tín bảo rằng anh sẽ về ngày Chủ nhật. Trong bốn năm chúng tôi chưa từng sống xa nhau đêm nào, nên tôi thấp thỏm ngóng chờ ngày anh về. Khi nghe tiếng bánh xe lạo xạo trên con đường, tôi chạy ra đón, rồi kinh ngạc mà thấy có hai người ngồi trên cỗ xe. Khi cỗ xe chạy đến gần, tôi thấy đấy là một đứa trẻ khoảng năm tuổi, một bé gái. Angus ghì cương ngựa và tôi chạy đến bên cạnh, tim đập mạnh. Con bé đang ngủ, lông mi dài, hai gò má tái xám. Mái tóc đen. Lông mày đen. Những tĩnh mạch tím hiện qua mi mắt. Con bé trông xinh xắn. Và tôi không thốt được nên lời. Tôi chỉ chăm chăm nhìn.

"Các bà sơ người Pháp nuôi nấng chúng. Cha mẹ bọn chúng qua đời vì bệnh dịch hạch. Anh nghe nói về bọn chúng và tìm đến tu viện. Có nhiều đứa trẻ ở đấy. Anh cố tìm một trẻ có tuổi thích hợp, nhưng..." Anh bỏ lửng câu nói. Đứa con gái nhỏ của chúng tôi đã chết năm trước. "Nhưng con bé này là dễ thương nhất." Anh hít một hơi thở sâu: "Chúng ta có thể gọi con bé là Olivia. Anh không rõ em có muốn nhận nuôi không, hoặc là..."

Tôi giăng hai cánh tay choàng qua cổ anh, và bỗng dưng thấy khuôn mặt mình ướt đẫm. Anh ôm chặt lấy tôi, và lúc ấy đứa trẻ mở mắt ra.

Con bé nói với ngữ âm Ireland: "Tên cháu là Frances." Con bé có vẻ tinh anh khi mở tròn đôi mắt; cũng có vẻ lanh lợi.

Tôi nói một cách bồn chồn: "Chào Frances." Liệu con bé không thích chúng tôi thì sao?

Con bé hỏi: "Bà sẽ là mẹ của con phải không?"

Tôi cảm thấy đôi má mình nóng bừng khi tôi gật đầu. Sau đấy, con bé giữ im lặng.

Chúng tôi dắt con bé vào nhà, rồi tôi chuẩn bị bữa ăn chiều ngon nhất mà tôi có khả năng làm được - cá, rau cải, trà pha nhiều đường, dù con bé ăn không nhiều, và nhìn chăm chăm món cá như thể không biết chắc đấy là món gì. Con bé không thốt nên lời nào, đôi mắt xanh lam đậm đảo qua đảo lại giữa hai chúng tôi. Con bé tỏ ra mỏi mệt. Tôi ôm lấy con bé và mang lên tầng trên. Cảm giác được ôm thân thể ấm áp, buông thõng làm cho tôi run rẩy vì cảm xúc. Tôi cảm nhận bộ xương con bé mảnh mai trong hai bàn tôi, và cơ thể nó có mùi như căn phòng thiếu thoáng khí. Vì con bé đã ngái ngủ, tôi chỉ cởi bộ áo ngoài, giày và bít tất của nó, rồi tấn một chiếc chăn quanh người nó. Tôi ngắm nhìn khi con bé co duỗi trong giấc ngủ.

Cha mẹ của Frances đã đi đến Đảo Belle trên chiếc tàu mang tên Sarah chứa đầy người Ireland ở Hạt Mayo, lúc ấy vẫn còn đang bị hoành hành vì nạn đói khoai tây. Họ bị nhiễm bệnh sốt phát ban trên tàu, tuy trận dịch đã qua đỉnh điểm tồi tệ nhất. Gần một trăm đàn ông, phụ nữ và trẻ em chết trên con tàu ấy, và con tàu bị chìm trên chuyến trở về cảng Liverpool ở Anh quốc. Một số trẻ em trở thành mồ côi và được đưa vào cô nhi viện cho đến khi có người nhận làm con nuôi.

Sáng hôm sau, tôi đi vào gian phòng nơi Frances vẫn còn say ngủ, nhưng khi đưa tay chạm nhẹ vai con bé, tôi có cảm tưởng nó giả vờ ngủ. Tôi nhận ra con bé đang sợ hãi; có lẽ nó đã nghe được mấy mẩu chuyện kinh hoàng về nông dân Canada và nghĩ chúng tôi sẽ đối xử với nó như là nô lệ. Mỉm cười với con bé, tôi cầm lấy bàn tay nó và dẫn nó bước xuống thang lầu, đến nơi tôi đã chuẩn bị một bồn tắm nước nóng đặt trước lò sưởi. Con bé cúi gằm mặt nhìn xuống sàn nhà khi giơ hai cánh tay lên cho tôi cởi chiếc áo choàng của nó.

Tôi chạy ra khỏi nhà, đi tìm Angus. Anh đang chẻ củi ở một góc nhà.

Tôi khẽ kêu: "Angus," cảm thấy vừa tức giận vừa ngốc nghếch.

Anh quay lại, chiếc rìu trên tay, nhíu mày nhìn tôi, hoang mang: "Có chuyện gì thế? Con bé có sao không?"

Tôi lắc đầu để trả lời câu hỏi thứ nhất. Tôi đoán rằng anh đã biết, nhưng tôi loại bỏ ý nghĩ này. Anh quay lại khúc gỗ; chiếc rìu bổ xuống; hai khúc củi nằm gọn trong cái giỏ.

"Angus, anh mang về một bé trai."

Anh đặt chiếc rìu xuống. Anh đã không biết. Chúng tôi trở vào, đi đến đứa trẻ đang đùa nghịch với viên xà phòng trong bồn tắm. Đôi mắt nó mở lớn và có vẻ cảnh giác. Nó không có vẻ ngạc nhiên khi thấy hai chúng tôi nhìn nó chăm chăm.

Anh hỏi: "Em muốn anh đi trở lại không?"

"Không, dĩ nhiên là không." Tôi quỳ xuống kế bên đứa trẻ, cầm lấy viên xà phòng từ tay nó. Hai tấm xương bả vai nhô ra trông giống như gốc hai cánh trên cái lưng khẳng khiu.

"Để mẹ giúp cho." Tôi cầm viên xà phòng và bắt đầu tắm rửa cho đứa trẻ, hy vọng hai bàn tay tôi tỏ lộ tình cảm với nó tốt hơn là ngôn từ.

Angus trở lại với đống củi, đóng mạnh cánh cửa sau lưng anh.

Có vẻ như Francis không bao giờ cảm thấy ngạc nhiên là nó được đưa đến nhà chúng tôi trong khi ăn mặc như con gái. Trong nhiều tiếng đồng hồ, hai vợ chồng chúng tôi suy nghĩ về động lực của các bà sơ người Pháp - họ đã nghĩ rằng trẻ gái dễ được chấp nhận làm con nuôi hơn là trẻ trai hay sao? Nhưng lại có nhiều đứa con trai trong số các trẻ mồ côi. Liệu họ chỉ phớt lờ, bị mờ mắt vì nét đẹp của gương mặt nó, và tròng cho nó bộ quần áo mà họ cho là thích hợp nhất? Bản thân Francis không có lời giải thích nào, hoặc tỏ ý xấu hổ, cũng không chống đối khi tôi may cho nó ít quần tây cùng áo sơ mi và cắt ngắn mái tóc dài của nó.

Cậu bé nghĩ chúng tôi không bao giờ tha thứ cho nó, nhưng đối với tôi thì không phải thế. Về phần chồng tôi thì tôi không chắc. Là dân gốc Cao nguyên Scotland(5), anh không thích bị người ta xem là dễ bị lừa phỉnh, và tôi không rõ liệu có lúc nào anh sẽ vượt qua được cú sốc hay không.

Khi Francis còn nhỏ thì mọi việc ổn thỏa. Có lúc nó trông buồn cười, thích làm trò hề, và khéo bắt chước. Nhưng chúng tôi đều già đi, nhiều sự việc thay đổi theo chiều hướng xấu hơn - lúc nào cũng thế. Khi Francis lớn lên, có vẻ như nó không hòa hợp tốt với những người khác. Tôi để ý thấy nó cố gắng để tỏ ra chịu đựng và rắn rỏi, để nuôi dưỡng lòng can đảm đến mức ngông cuồng, không màng gì đến mấy hiểm nguy vốn luôn rình rập trong vùng rừng xa xôi. Để trở thành đàn ông, người ta phải có dũng khí và chịu đựng giỏi, xem thường đau đớn và khổ nhọc. Không bao giờ than vãn. Không bao giờ chùn bước. Tôi thấy nó đã thất bại. Đáng lẽ chúng tôi phải cư ngụ ở Toronto hoặc New York, lúc ấy những tố chất kia có lẽ không quan trọng lắm. Cái mà người ta gọi là anh hùng tính trong một thế giới mềm mỏng hơn thì ở đây là chuyện thường ngày. Francis đã ngưng tỏ ra giống những người khác; nó trở nên lầm lầm lì lì, không còn đáp ứng lại niềm thương yêu, không còn muốn chạm đến tôi nữa.

Bây giờ, Francis lên mười bảy tuổi. Ngữ âm Ireland không còn nữa, nhưng theo cách khác nó vẫn giống như người xa lạ như tự bao giờ. Nó cứ giống như đứa trẻ thay thế(6); họ bảo nó có giòng máu Tây Ban Nha pha trộn máu Ireland; và khi nhìn Francis bạn hẳn tin điều ấy - trong khi hai vợ chồng tôi có nước da trắng thì ngược lại nó có làn da ngăm đen. Có lúc dì Pretty nói đùa rằng nó đến từ một trận dịch tễ và trở thành cơn bệnh cho riêng hai vợ chồng tôi. Tôi tức giận với bà (và dĩ nhiên là bà chế giễu lại tôi), nhưng lời ấy ghim vào đầu óc tôi mỗi khi Francis đóng sầm cánh cửa chạy ra khỏi nhà, càu nhàu như là không thể thốt nên lời. Tôi phải tự nhắc nhở rằng nó là đứa con trẻ dại của mình, thế nên tôi phải kiềm chế trong lời ăn tiếng nói. Chồng tôi thì không được khoan dung như vậy. Hai người có thể sống bên nhau trong nhiều ngày mà không trao đổi với nhau lời nào.

Đấy là lý do tại sao tôi ngại nói cho Angus biết rằng từ ngày hôm trước tôi đã không thấy Francis. Tuy thế, tôi vẫn bất mãn vì anh đã không hỏi han gì. Chẳng bao lâu là trời sáng, và đứa con trai của chúng tôi đã đi khỏi nhà được bốn mươi tám tiếng đồng hồ. Lúc trước, có lần nó đã làm thế - đi câu cá một mình cả hai hoặc ba ngày, rồi trở về mà không có con cá nào và cũng không nói nó đã làm gì. Tôi đoán nó không thích sát hại con vật nào; việc đi câu cá chỉ là cái cớ để nó muốn được một mình.

Hẳn tôi đã thiếp ngủ trên chiếc ghế, bởi vì khi tôi thức giấc thì trời đã gần sáng, khô và lạnh. Francis vẫn chưa trở về nhà. Dù đã cố nhủ thầm đây chỉ là sự trùng hợp, chỉ là thêm một chuyến đi câu mà không có cá, tôi vẫn khắc khoải với ý nghĩ rằng con trai tôi đã mất tích vào đúng ngày xảy ra vụ án mạng duy nhất từ trước đến giờ ở Sông Dove.

***

Những tia nắng đầu tiên trong ngày chiếu rọi xuống ba người cưỡi ngựa từ hướng tây đến. Họ đã đi trong nhiều tiếng đồng hồ, và cảm thấy dễ chịu với ánh nắng, nhất là đối với người đi sau cùng. Donald Moody thấy ánh sáng nhá nhem khiến cho đôi mắt kém của mình mệt nhọc thêm; dù cho đã cố ấn gọng kính sát vào sống mũi, anh vẫn thấy thế giới đơn sắc chứa đầy những hình thù mờ mịt, xa xăm và huyền ảo. Tay anh đều tê cứng và buốt lạnh cho dù anh đang mặc những lớp len và áo choàng da lót lông thú bên trong. Donald hít thở không khí thoáng đãng, ngọt ngào; khác hẳn với không khí ở Glasgow, vốn vào mùa này trong năm xám xịt và lạnh căm. Không khí trong lành đến nỗi ánh mặt trời trông như chiếu lan xa hơn; khi mặt trời vừa ló dạng khỏi đường chân trời, cái bóng của ba người luôn bám theo họ.

Con ngựa của Donald chạy vấp váp sát với người chạy trước, chúc mũi vào hai chân sau con ngựa trước, bị cái đuôi quất trúng.

Người chạy trước kêu lên: "Chết tiệt, Moody." Con ngựa của Donald tiếp tục hoặc rơi về phía sau hoặc húc vào mông ngựa của Mackinley.

"Xin lỗi ông". Donald kéo giật dây cương và con ngựa dỏng hai vành tai lên. Con thú đã được mua từ một người Pháp và có vẻ như nó được di truyền thiên kiến chống người Anh.

Con ngựa của Mackinley rất ngoan hiền, giống như con ngựa chạy trước nó. Nhưng Donald luôn bị nhắc nhở vì tính non nớt - anh chỉ mới sống ở Canada được hơn một năm và vẫn chưa thấm nhuần nghi thức phải phép của Công ty. Chưa ai từng cảnh báo trước cho anh, vì họ thích nhìn anh lếch thếch theo sau, sa vào các vũng lầy và làm cư dân địa phương phiền hà. Không phải hai người kia có ác ý, nhưng rõ ràng đó là cách thức ở đây: người tay mơ nhất phải cố học việc bằng cách làm trò cười cho người khác. Phần lớn nhân viên của Công ty có học thức, lòng can đảm và tinh thần phiêu lưu, thấy cuộc sống mình ở một đất nước bao la có phần nhàm chán. Có những hiểm nguy (như người ta vẫn thường quảng bá), nhưng đó là mối hiểm nguy do thời tiết giá lạnh chứ không phải như là chiến đấu tay không với thú dữ hoặc với người bản địa thù địch. Cuộc sống hàng ngày của họ chỉ là sự chịu đựng vặt vãnh - chịu đựng cái lạnh, đêm tối, sự đơn điệu, và thói uống các loại rượu xấu. Từ lúc đầu, Donald đã nhận ra rằng gia nhập Công ty giống như là bị đưa vào trại khổ sai, chỉ có điều là thêm công việc giấy tờ.

Người cưỡi ngựa chạy trước, Mackinley, là quản trị viên ở Pháo đài Edgar, và dẫn đầu là một nhân viên người bản địa, Jacob, luôn muốn tháp tùng Donald đi khắp nơi mặc cho anh này cảm thấy ngượng nghịu. Donald không quan tâm lắm đối với Mackinley, người thích mỉa mai và lừa phỉnh - phương pháp hai gọng kềm để phát hiện sự phê phán mà ông luôn nghi ngờ mọi phía. Anh đoán rằng Mackinley hay cáu bẳn như thế bởi vì ông cảm thấy tự ti về địa vị xã hội so với thuộc hạ của mình, kể cả Donald, và thường cảnh giác để nhận ra dấu hiệu thiếu tôn trọng. Donald biết rằng nếu Mackinley không quan tâm đến những chuyện ấy thì ông ta được tôn trọng hơn, nhưng bây giờ ông khó mà thay đổi tính nết. Về phần Donald, anh nhận ra rằng Mackinley và mấy người khác xem mình chỉ là một kế toán viên, tuy hữu dụng nhưng không phải là mẫu người thích phiêu lưu trong vùng hoang dã theo cách sống xưa kia.

Khi lên tàu ra đi từ Glasgow đến nơi định cư, anh muốn được tự chủ, và để mặc ai nghĩ về mình thế nào cũng được. Nhưng thật ra anh đã cố tìm cách cải thiện hình ảnh của mình trong con mắt của họ. Anh cố chịu đựng loại rượu nấu theo cách thô lậu mà người ta uống hàng ngày, tuy rằng anh không ưa thích gì cả. Khi mới đến, anh lịch sự nhấp ít rượu rum mà người ta chắt ra từ các vại hôi hám, thầm nghĩ mình chưa bao giờ nếm loại rượu nào có hương vị kinh tởm đến thế. Mấy nhân viên khác để ý thấy anh muốn kiêng khem, nên họ để mặc anh một mình rồi cùng nhau vừa chén tạc chén thù vừa bù khú với những câu chuyện lê thê, chán ngắt và cùng đùa cợt với những chuyện vui cười được kể đi kể lại. Donald cố chịu đựng tình trạng này trong một thời gian, rồi đến lúc cảm thấy cô đơn đến mức anh không còn chịu nổi nữa. Lần đầu tiên anh bị say xỉn một cách sống động, đám thanh niên hoan hô, vỗ lưng anh khi anh nôn mửa trên hai đầu gối. Qua nạn buồn nôn và nơi chốn ẩm ướt hôi hám, Donald tìm thấy một không khí ấm tình: anh là một thành viên - cuối cùng họ đã chấp nhận anh là người trong đám họ. Nhưng, tuy loại rượu rum đối với anh không còn có hương vị tồi tệ nữa, anh có cảm tưởng những người khác đối xử với anh trong vẻ chịu đựng thích thú. Anh vẫn còn là một kế toán viên cấp thấp.

Một ý tưởng thông minh khác mà anh muốn tự chứng tỏ là tổ chức một trận bóng bầu dục. Nói chung thì đây là một thảm họa, nhưng từ đó lóe lên một tia hy vọng giúp anh ngồi vững vàng hơn trên yên ngựa.

Pháo đài Edgar là một trong những trạm mậu dịch có tính văn minh trong số phần lớn các trạm của Công ty. Nó nằm ven bờ Ngũ Đại Hồ, gồm một số tòa nhà xây bằng gỗ phía sau một vách đá dốc đứng - tất cả được che chắn cách biệt với quang cảnh của những hòn đảo và một vịnh phía sau một vòng đai cây vân sam. Nhưng sắc thái làm cho Pháo đài Edgar có tính văn minh là các khu định cư nằm kề cận bên nhau, khu gần nhất là Caufield bên bờ Sông Dove. Cư dân Caulfield cảm thấy hạnh phúc được sống gần trạm mậu dịch có nhiều hàng hóa nhập từ Anh quốc và có nhiều nhân viên Công ty khỏe mạnh. Các thương nhân cũng cảm thấy vui khi làm việc gần Caulfield có nhiều phụ nữ da trắng nói tiếng Anh vốn thỉnh thoảng có thể làm đẹp cho những buổi khiêu vũ và những quan hệ xã hội khác - như các trận đấu bóng bầu dục.

Vào buổi sáng của trận đấu, Donald thấy mình trở nên bồn chồn. Các chàng trai thì đầu óc bần thần, mắt lờ đờ sau một chầu nhậu nhẹt, còn Donald cảm thấy bất an khi thấy một nhóm khách mời đi đến. Anh càng bất an hơn khi gặp gỡ họ - một ông có nét mặt nghiêm khắc như là cha cố thích giảng đạo, cùng hai cô con gái của ông phấn khích vì được các anh trai trẻ độc thân vây quanh.

Hai cô con gái nhà Knox ngắm nhìn các diễn tiến một cách lịch sự, hoàn toàn thấy lạ lẫm. Người cha tìm cách giải thích cho hai con luật chơi theo cách ông hiểu khi đi đến Pháo đài Edgar, nhưng sự hiểu biết thô thiển của ông chỉ khiến cho hai cô con gái hoang mang thêm. Các cầu thủ chạy lòng vòng trên sân bóng theo từng đám lộn xộn; quả bóng (một khối nặng nề do bà vợ một công nhân tải hàng khâu vá tạo thành) thì chìm lấp mà không ai theo dõi được.

Khi trận đấu tiếp diễn, tinh thần càng u tối thêm. Có vẻ như đội của Donald đã toa rập với nhau để cách ly anh khỏi cuộc chơi, luôn phớt lờ lời anh kêu gọi chuyền bóng cho mình. Donald chạy lên chạy xuống, hy vọng các cô gái không nghĩ mình là kẻ dư thừa, khi quả bóng lăn về phía anh, từng lọn lông thú trong quả bóng rơi ra lả tả. Anh nhặt quả bóng chạy lên tìm cơ hội ghi bàn, nhất quyết đặt dấu ấn cho mình, nhưng rồi thấy mình nằm trên mặt sân, mệt đứt hơi. Jacob đoạt lấy quả bóng và chạy đi. Donald đuổi theo, nhất quyết không muốn bỏ lỡ cơ hội. Anh phóng mình đến Jacob trong động thái tranh cướp quyết liệt nhưng hợp lệ. Một cầu thủ to lớn nhặt lấy quả bóng và ghi bàn.

Vẫn nằm trên mặt sân, từ cổ họng Donald thốt lên tiếng hoan hô chiến thắng. Anh nhấc lên hai bàn tay ấm và sẫm màu từ bụng mình, và Jacob đứng phía trên anh với một con dao trên tay, thần sắc anh này chầm chậm chuyển thành vẻ kinh dị.

Cuối cùng, khán giả nhận ra có chuyện không hay. Các cầu thủ tụ tập chung quanh Donald trong khi anh tỏ vẻ bối rối. Anh thấy vị quan tòa cúi xuống nhìn mình với vẻ lo lắng.

"... chỉ bị thương tí xíu. Tai nạn... trong lúc tranh bóng..."

Jacob lộ vẻ khổ sở, nước mắt lăn dài trên má. Knox xem xét vết thương: "Maria, đưa cho cha khăn choàng."

Maria, cô gái xấu hơn trong hai chị em, xé ra tấm khăn choàng, nhưng Donald nhìn chăm chăm khuôn mặt Susannah đang cúi xuống khi tấm khăn choàng được quấn quanh vết thương.

Anh bắt đầu có cảm giác đau nhức trong bụng, và nhận biết thân người mình trở lạnh. Trận đấu bị quên lãng, các cầu thủ đứng tụ tập một cách ngượng nghịu, hút dọc tẩu. Nhưng Donald bắt gặp ánh mắt của Susannah bày tỏ mối quan ngại, và thấy rằng mình không còn màng đến kết quả trận đấu, hoặc liệu mình đã tỏ lộ tính chất thô lỗ hay dũng mãnh, hoặc thậm chí cũng không màng máu anh đã thấm qua chiếc áo choàng và đang sậm màu. Anh đã biết yêu.

Vết thương mang đến hệ quả kỳ lạ là làm cho Jacob trở thành người bạn sinh tử của anh. Một ngày sau trận đấu, Jacob đi đến bên giường của Donald, rơi nước mắt tỏ ý ăn năn sâu sắc. Vì uống rượu nên anh này mới làm thế; anh đã bị ma ám, và sẽ chuộc lỗi đối với vết thương bằng cách chăm sóc cho Donald ngày nào mà anh chưa phải đi công tác xa. Donald cảm động, và khi anh mỉm cười với vẻ tha thứ và chìa bàn tay ra, Jacob mỉm cười lại với anh. Có lẽ đó là nụ cười của tình bạn thật sự mà anh nhận được ở xứ sở này.

Donald bước loạng choạng khi rời lưng ngựa và cố giúp máu lưu thông điều hòa trong tay chân. Anh bất đắc dĩ có ấn tượng với ngôi nhà rộng và thanh lịch nơi họ vừa đến; đặc biệt nghĩ về Susannah, và nghĩ ngôi nhà còn khiến cho cô xa cách với anh đến đâu.

Nhưng Knox bước ra và nở nụ cười nồng hậu, rồi nhìn Jacob với vẻ lo lắng không cần che giấu. Ông hỏi: "Người hướng đạo(7) của các anh đây hở?"

"Đây là Jacob," Donald đáp, cảm thấy đôi má nóng bừng, nhưng Jacob không có vẻ bị xúc phạm.

Mackinley cáu bẳn nói thêm: "Bạn tốt của Moody."

Vị quan tòa cảm thấy khó hiểu, vì ông hầu như chắc chắn rằng lần trước mình thấy anh chàng là lúc chàng ta đâm con dao vào bụng Donald. Ông nghĩ mình đã nhìn lầm.

Knox kể cho họ những gì ông biết và Donald ghi chép lại. Không cần mất thời giờ nhiều đã ghi xong các sự kiện nắm bắt được. Họ ngầm hiểu rằng không có hy vọng tìm ra hung thủ trừ khi có người trông thấy chuyện gì đó, nhưng trong một cộng đồng như thế này thì người ta luôn nói có người nọ trông thấy chuyện kia; ngồi lê đôi mách luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của các cộng đồng nhỏ.

Khi họ đứng dậy để chuẩn bị đi xem hiện trường, Donald xếp những tờ giấy mới phía trên các trang ghi chú của mình và vuốt cho thẳng thắn bằng một cái kẹp. Anh không mong chờ tham gia việc này và hy vọng mình không mất thể diện nếu bị chứng buồn nôn hoặc là - anh dằn vặt với chính mình khi tưởng tượng ra tình huống xấu nhất - nếu anh bật khóc thì sao? Anh chưa từng trông thấy một thi hài, ngay cả thi hài ông nội của mình. Anh tưởng tượng với nỗi kinh dị pha cảm giác thích thú sự trêu chọc mà mình sẽ phải chịu đựng, tuy rằng chuyện này khó xảy ra. Anh sẽ không bao giờ quên được; anh sẽ trở về Glasgow mai danh ẩn tích, có lẽ sẽ sống với một tên khác...

Trong tâm trạng chộn rộn như thế, chuyến đi đến ngôi nhà gỗ diễn ra chớp nhoáng.

***

Thomas Sturrock có ý nghĩ là tin tức lan truyền nhanh chóng trong mấy ngày này. Ngay cả khi không có đường xe, đường tàu hỏa, tin tức hoặc lời đồn đại mù mờ kháo nhau giữa các anh chị em, tin tức đều lan truyền như tia chớp qua những quãng đường dài. Đó là một hiện tượng lạ lùng, và người ta có thể được lợi nếu để ý đến một đầu óc cần mẫn như đầu óc của ông. Có lẽ là một bản thảo ngắn chăng? Tờ Globe hoặc tờ Star có thể quan tâm đến tin tức có nội dung hay như thế.

Trong mấy năm gần đây, ông đã cho phép nghĩ rằng mình đã trở nên dễ thương theo tuổi tác. Tóc ông đã bạc, được chải ngược từ một vầng trán cao và vòng quanh hai vành tai. Áo choàng của ông thuộc kiểu cổ xưa nhưng được may cắt chỉnh tề và trông khá ngông nghênh, có màu lam đậm tương hợp với đôi mắt vốn vẫn chưa nhòe mờ hơn so với ba mươi năm trước. Quần ông trông thẳng nếp. Khuôn mặt sắc nét như chim ưng, được bào mòn một cách dễ chịu nhờ nếp sống dã ngoại. Có một tấm gương soi mang những đốm lỗ chỗ và mờ mờ treo trên bức tường đối diện, và nó nhắc cho ông rằng, ngay cả trong những tình huống căng thẳng này, ông là hình ảnh hiếm hoi của một người đàn ông. Tính phù hoa bí mật này, mà ông tự ban cho mình một cách hiếm hoi như là một niềm vui nho nhỏ (và quan trọng hơn, không mất tiền), khiến cho ông mỉm cười với mình. Trong khi nhấm nháp cà phê lạnh, ông thầm nói với bóng hình mình trong tấm gương: "Mi chắc chắn là một ông già kỳ quặc."

Thomas Sturrock được giao cho công việc thường ngày là ngồi trong một quán cà phê hơi tồi tàn (quán này có tên Rising Sun - Mặt trời Mọc), uống một ly cà phê mất cả một hoặc hai giờ đồng hồ. Ông nhận ra rằng mình đã tỏ ra trầm ngâm vì tin tức và lời đồn đại từ một nơi nào đó, sau khi đã nghe được cuộc trò chuyện sau lưng mình. Không phải là nghe lén - ông không bao giờ hạ mình làm việc này - nhưng có cái gì đó khiến cho luồng tư tưởng lan man của ông phải chú ý, và bây giờ ông cố tìm hiểu xem chuyện gì đã lôi cuốn mình... Đúng rồi, Caulfield, có người nào đó nhắc đến Caulfield. Vốn có đầu óc và quần áo vẫn sắc nét như bao giờ, Sturrock quen biết với một người ở đó, dù trong một thời gian ông không gặp lại.

"Họ bảo chưa từng thấy chuyện nào như vậy. Máu đẫm cả người, vương vãi trên tường và mọi thứ... hẳn là do bọn cướp bóc Da Đỏ..."

(À, không trách bất kỳ ai được đã lắng nghe cuộc trò chuyện như thế.)

"Để cho thối rữa trong ngôi nhà... qua nhiều ngày. Ruồi nhặng bò chung quanh dầy đặc. Hãy tưởng tượng mùi hôi thối ra sao."

Người kia tỏ ý đồng tình.

"Không có động cơ nào cả, không món gì bị lấy đi. Bị giết trong giấc ngủ."

"Mẹ kiếp, tình hình đang trở nên tệ hại như ở Mỹ. Chiến tranh và cách mạng xảy ra cứ mỗi năm phút."

"Hẳn có thể là kẻ đào ngũ ấy, phải không?"

"Mấy nhà buôn sinh lôi thôi, đối phó với mọi chuyện... Hẳn là người nước ngoài, ta không bao giờ biết được..."

"Chúng ta sẽ ra sao đây..."

Vân vân. Vân vân.

Đến lúc này, Sturrock càng chú ý thêm. Sau khi nghĩ ngợi lan man thêm ít phút, ông không nhịn được nữa.

"Xin lỗi, hai ông..."

Có những ánh mắt mà ông muốn làm ngơ khi ông quay qua hai người đàn ông: xét theo loại quần áo rẻ tiền nhưng phô trương và thái độ hạ cấp thì họ hẳn là mấy con buôn hay đi đây đó.

"Tôi thật tình xin lỗi. Tôi biết chen vào câu chuyện của người khác là sự quấy rầy tệ hại, nhưng tôi có mối quan tâm cá nhân đến chuyện hai ông vừa bàn. Hai ông biết chứ, tôi có quan hệ làm ăn với một nhà buôn sống gần Caulfield, và tôi chẳng đặng đừng chú ý đến chuyện các ông mô tả - rất sống động - một vụ việc đặc biệt gây sốc và thê thảm. Hiển nhiên là tôi chẳng đặng đừng có mối quan ngại đối với câu chuyện, và tôi chỉ mong rằng nó không liên quan đến người tôi quen..."

Cả hai người đi buôn đều không giỏi đối ứng nên cảm thấy bất ngờ với lời lẽ hùng biện như thế, vốn ít khi thốt ra giữa bốn bức tường của quán Rising Sun. Người kể chuyện định thần trước, nhìn xuống khuy măng sét của Sturrock đang lủng lẳng phía sau ghế ngồi. Sturrock lập tức hiểu ra ý nghĩa của tia nhìn, cộng với cái đầu nghiêng xuống, một thoáng suy nghĩ, rồi nhìn lên khuôn mặt của mình.

Người kia vừa tính toán lợi lộc về tài chính từ việc bán thông tin - không lớn lắm, xét qua loại khuy măng sét, cho dù ngữ âm Mỹ miền Đông cho thấy có triển vọng nào đó. Anh ta thở dài, nhưng vẫn không giấu vẻ vui mừng tự nhiên khi loan tin xấu: "Gần Caulfield hả?"

"Vâng. Tôi nghĩ anh ấy sống trong một trang trại nhỏ hay đại loại như vậy, địa danh được gọi là Sông... tên con chim hoặc con thú, dường như là thế."

"Sông Dove."

"Vâng, đúng rồi. Sông Dove."

Người đàn ông liếc qua bạn đồng hành của mình: "Nhà buôn đó, có phải là người Pháp không?"

Sturrock cảm thấy lạnh xương sống. Hai người nhận ra điều này trên khuôn mặt ông. Không cần thiết phải nói gì thêm.

"Một nhà buôn người Pháp ở Sông Dove bị sát hại. Tôi không rõ có nhà buôn người Pháp nào khác hay không."

"Tôi nghĩ không có. Ông có... tình cờ nghe qua cái tên nào không?"

"Nhất thời tôi không nhớ ra - chỉ nhớ đó là tên Pháp."

"Người tôi quen có tên Laurent Jammet."

Đôi mắt người đàn ông lộ vẻ vui mừng: "Tôi lấy làm buồn, thật sự là vậy, vì tôi nghĩ đó là cái tên người ta nhắc tới."

Sturrock rơi vào cơn im lặng bất thường. Trong cuộc đời dài, ông đã đối phó với nhiều cơn sốc, và đầu óc ông đã nghĩ đến tác động của tin tức này. Hiển nhiên là thê thảm đối với Jammet. Ít nhất là đáng lo đối với anh ta. Bởi vì có một vụ làm ăn còn dang dở ở đó mà ông muốn tiến hành, chỉ chờ khi có đủ điều kiện tài chính. Bây giờ Jammet đã chết, phải tiến hành càng sớm càng tốt, nếu không cơ hội sẽ vĩnh viễn qua đi.

Hẳn ông đã lộ vẻ thật sự bị sốc nặng, bởi vì một lúc sau, khi nhìn xuống ông thấy một cốc cà phê và một ly rượu bourbon đã được đặt trên mặt bàn. Hai người đi buôn đang nhìn ông với vẻ quan tâm thật sự - một tin tức về chuyện bạo lực đã là đáng phấn khích, nhưng đằng này lại chạm trán một người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thảm kịch - còn gì hay hơn nữa? Tin tức này có giá trị vài bữa ăn tối.

Sturrock run rẩy đưa tay cầm ly rượu.

Một trong hai người nhận xét: "Ông có vẻ như người đưa ma."

Nhận ra mình cần phải làm gì, Sturrock ngập ngừng kể lại câu chuyện buồn về một món quà đã hứa cho người vợ đang bệnh, và một món nợ chưa trả xong. Thật ra ông không lập gia đình, nhưng có vẻ như hai người lữ hành không màng đến. Đến một lúc, ông dựa vào thành bàn, đôi mắt dõi theo một đĩa thịt hầm đang được đưa ngang qua, và hai phút sau một bữa tối với thịt nướng được dọn lên trước mặt. Ông thật sự nghĩ (không phải là lần thứ nhất) mình đánh mất năng khiếu cố hữu - đáng lẽ ông phải là nhà văn viết tiểu thuyết lãng mạn, vì đã dễ dàng dựng nên câu chuyện về một người vợ đang bị ho hen. Khi cuối cùng ông nghĩ mình đã trọng thưởng cho họ (không ai có thể kết án ông không hào phóng với trí tưởng tượng), ông bắt tay với họ và rời khỏi quán cà phê.

Trời đã về chiều và ngày đang trốn chạy ở chân trời phía tây. Ông chầm chậm bước về phòng trọ, đầu óc bận rộn về việc làm thế nào tìm ra số tiền để đi Caulfield, vì đấy là việc cần làm để nuôi dưỡng giấc mơ của ông.

Có lẽ còn có một người ở Toronto vẫn còn kiên nhẫn đối với ông, và nếu ông tiếp xúc với bà đúng cách, bà có thể cho ông vay khoảng hai mươi đô. Vì vậy, đến cuối đường ông rẽ về hướng khu vực trong lành dọc bờ hồ.

***

Một lúc lâu sau khi mặt trời mọc, khi không còn có thể giả vờ đấy là ban đêm, tôi đành phải đầu hàng sự mệt mỏi và bước lên cầu thang để đi ngủ. Bây giờ hẳn là đã gần trưa, nhưng tôi không thể ngồi dậy. Thân thể tôi không chịu nhận mệnh lệnh, hoặc nói đúng hơn, đầu óc tôi không còn muốn ra mệnh lệnh. Tôi nhìn chăm chăm trần nhà, cảm thấy chắc chắn là tất cả nỗ lực của con người - đặc biệt là nỗ lực của tôi - chỉ là vô vọng. Francis vẫn chưa trở về nhà, vì thế càng cho thấy tôi hoàn toàn bất tài, thiếu can đảm hoặc vô tích sự. Tôi lo lắng cho nó, nhưng nỗi quan ngại của tôi không sánh bằng việc tôi không có khả năng quyết định để làm việc gì. Tôi không lấy làm ngạc nhiên vì nó bỏ đi khỏi một người mẹ như thế.

Angus thức dậy khi tôi bước lên tầng trên, và không nói tiếng nào. Trước đây chúng tôi khó ăn nói với nhau về Francis, dù cho không phải lâm vào tình huống nặng nề. Angus thường lặp đi lặp lại rằng đứa con đã mười bảy tuổi và có thể tự lo cho nó; con trai ở tuổi này thường vắng mặt khỏi nhà nhiều ngày. Những lời lẽ không nói ra đè nặng lên tâm tư tôi trong căn phòng nhỏ: Francis đã đi vắng; người đàn ông đã chết. Dĩ nhiên là hai chuyện này không liên quan gì với nhau.

Một tiếng nói trong tâm tư tôi đặt nghi vấn liệu Angus có đau buồn lắm không nếu Francis không trở về. Đôi lúc hai người nhìn nhau một cách hằn học như là hai kẻ thù truyền kiếp. Tuần trước, Francis về muộn và từ chối làm một việc nhà được giao phó cho nó. Nó bảo sẽ làm việc này vào buổi sáng, thế là nó làm to chuyện bởi vì Angus vừa tranh cãi không có kết quả với James Pretty về hàng rào ranh giới đất. Angus bực tức nói với nó rằng nó là đứa trẻ ích kỷ, vô ơn. Khi anh nói đến từ "vô ơn", tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra. Francis nổi cơn giận dữ: Angus mong nó phải biết ơn vì đã cho nó chỗ cư trú; anh đối xử với nó như là một gia nhân có giao kèo; anh luôn ghét bỏ nó... Angus thoái lui, chỉ hơi lộ vẻ khinh thường khiến cho tôi thấy lạnh cả người. Lúc ấy tôi lớn tiếng mắng Francis, giọng tôi run run. Tôi không rõ nó có giận lây tôi hay không; trong một thời gian dài nó không nhìn thẳng vào mắt tôi.

Làm thế nào tôi đã có thể ngăn chặn chuyện này? Có lẽ Ann có lý khi chế nhạo tôi; tôi không có năng lực quán xuyến một gia đình, cho dù tôi thường tỏ ra khinh khi phụ nữ nào nghĩ đấy là điều quan trọng. Đấy không phải là vì tôi đã không tạo ra được cái gì có giá trị.

Trong khi thao thức, tôi có cảm tưởng như một cơn mộng du đang ám ảnh mình; tôi đã đọc câu chuyện về một người nhân tạo chán ghét thế giới do bề ngoài khiến cho người ta sợ hãi và có ác cảm. Vào cuối câu chuyện, người nhân tạo này bỏ đi đến miền Bắc Cực để trốn lánh nhân loại. Trong cơn mê sảng vào đêm tối, tôi thấy Francis đang bị vây đuổi, giống như con quái vật, do tội giết người... Đến sáng tôi thấy đấy quả là chuyện điên rồ; thậm chí một con cá hương Francis cũng không muốn giết. Nhưng nó đã đi khỏi nhà được một ngày một đêm.

Có một điều gì đấy vương vấn đầu óc khi tôi trăn trở giữa những tấm chăn, và cuối cùng khiến cho tôi đi vào phòng của Francis, lục lọi giữa mấy vật bừa bãi. Khó mà nói những vật gì còn lại và những vật gì đã mất đi, vì thế phải mất một lúc lâu tôi mới thấy được vật mình muốn tìm. Khi tìm được, tôi trở nên cuồng loạn, lấy ra mọi thứ trên ngăn tủ, cào bới dưới giường và xé toang những gì còn lại trong ngôi nhà để tìm kiếm. Nhưng không có kết quả - bởi vì tôi đang cầu nguyện cho những vật không hiện diện nhưng lại có ở đấy. Tôi tìm được hai cần câu của nó và một cần câu dự phòng mà Angus làm cho nó khi hai người vẫn còn thân thiện với nhau. Tôi tìm được chiếc hộp đựng đồ nghề đi câu và cái túi ngủ. Chỉ những thứ mất đi là một bộ quần áo và con dao của nó. Không nghĩ ngợi gì, tôi cầm lấy chiếc cần câu nó yêu thích mà bẻ gãy làm hai rồi mang giấu hai đoạn gẫy dưới đống củi. Khi xong việc, tôi thở dồn dập. Tôi cảm thấy phạm tội và nhơ bẩn như thể chính tôi đã kết án Francis, vì thế tôi đi vào trong nhà, nấu nước nóng để tắm. May mắn là lúc tôi chưa ngồi vào bồn tắm thì Ann Pretty đã đi vào gian bếp mà không hề gõ cửa nhà.

"À, chị Ross ạ, quả là chị có cuộc sống nhàn nhã! Tắm vào ban ngày... Ở tuổi này, chị nên thận trọng với việc tắm nước nóng. Chị biết không, em chồng tôi bị lên cơn tai biến trong bồn tắm."

Tôi biết, vì Ann đã kể cho tôi nghe ít nhất hai chục lần. Ann thích nhắc nhở tôi là chị trẻ hơn tôi ba tuổi, như thể đấy là cả một thế hệ. Về phần mình, tôi không muốn vạch ra rằng chị trông già trước tuổi và có thân hình như con gấu, trong khi tôi vẫn giữ vóc dáng và ít nhất khi còn trẻ đã được người ta cho là đẹp. Dù sao đi nữa thì chị ấy cũng chẳng màng.

"Chị có biết người ta đang điều tra không? Họ đã mời nhân viên Công ty đến. Cả một đoàn. Họ đang dọ hỏi suốt dọc dòng sông."

Tôi gật đầu một cách lửng lơ.

"Hora đã đến từ MacLarens và nói họ đang trao đổi với mọi người. Tôi đoán họ sắp đến đây." Chị nhìn quanh như muốn săm soi: "Ông ấy nói Francis đã đi vắng từ sáng hôm qua."

Tôi không muốn bận tâm sửa lời chị mà nói còn lâu hơn thế nữa. Tôi chỉ nói: "Nó sẽ bị sốc khi trở về."

"Lúc trước nó có đi săn với Jammet không?" Chị tỏ vẻ ranh mãnh, đôi mắt đảo quanh phòng như cú vọ; một con kền kền đang hăm hở tìm xác chết.

"Một đôi lần. Nó sẽ buồn khi nhận được tin. Nhưng hai người không thân thiết với nhau lắm."

"Kể cũng là chuyện kỳ quặc. Chúng ta rồi sẽ ra sao? Dù sao chăng nữa, anh ấy là người xa lạ. Người Pháp có tính nóng nảy, phải không? Khi còn ở Sault St Marie, tôi biết họ luôn thù hằn với nhau. Tôi nghĩ một người trong số họ đến đây để làm ăn."

Trước mặt tôi, chị không kết án Francis, nhưng tôi có thể mường tượng chị ta sẽ làm thế ở nơi khác. Chị vẫn thường nghĩ nó cũng là người xa lạ, với mái tóc đen và da sẫm màu. Chị ta tự cho mình là phụ nữ đã từng đi đây đi đó nhiều nơi, và từ mỗi nơi đi qua chị đều mang đi một định kiến như là món kỷ niệm.

"Vậy thì chừng nào cậu ấy trở về? Chị có lo lắng không, với một kẻ sát nhân đang lởn vởn quanh đây?"

"Nó đi câu. Có lẽ ngày mai mới về."

Bỗng dưng tôi ước muốn chị ta ra về. Chị nhận biết được, và hỏi mượn tôi ít trà khô - dấu hiệu cho thấy chị nghĩ không thể lấy của tôi món gì khác. Tôi trao trà cho chị theo cách sốt sắng hơn ngày thường, thêm ít hạt cà phê trong thái độ hào phóng để đảm bảo còn lâu chị mới quay trở lại, theo phép lịch sự của người sống nơi hoang dã là khi trở lại chị phải mang một món tương đương...

"À, tốt nhất là nên giữ mối giao hảo."

Tuy thế, chị vẫn chưa vội ra về, mà lại nhìn tôi với thái độ tôi chưa từng thấy trên gương mặt chị bao giờ. Không hiểu sao, tôi cảm thấy bứt rứt.

Nước nóng giúp cho tôi thư giãn. Trong tháng Mười một thì việc tắm rửa không phải là thiết yếu, nhưng tôi thấy đấy là phương pháp văn minh thay cho cách tắm gây sốc mà tôi đã trải qua trong bệnh viện tâm thần. Vào những ngày đầu ở đó, tôi chỉ kinh qua việc tắm vòi bông sen hai lần. Tuy lúc khởi đầu người ta kinh hãi, nhưng sau đấy cảm thấy êm dịu, thậm chí hồ hởi. Đấy là phương cách đơn giản mà bệnh nhân (trong trường hợp này, chính là tôi) mặc chiếc áo mỏng bị trói vào chiếc ghế gỗ với một cái chậu to đựng nước lạnh phía trên đầu. Một nhân viên kéo một chiếc cần và thế là cái chậu đổ nước lạnh như băng ụp xuống người bệnh nhân. Đấy là trước khi Paul - tức Bác sĩ Watson - được cử giữ chức trưởng khoa và chủ xướng cách thức hòa dịu hơn, ít nhất đối với phụ nữ. Cách thức ấy là may vá, cắm hoa và mọi việc không đâu vào đâu. Tôi chỉ đồng ý vào bệnh viện nhằm tránh mấy công việc như thế.

Khi nghĩ đến thời gian trong bệnh viện tâm thần, tôi luôn cảm thấy vui vui - tôi đoán đấy là lợi điểm của tuổi trẻ khốn khổ. Tôi cần phải nhớ chia sẻ với Francis về tinh hoa của sự từng trải này khi nó trở về.

Ông tự giới thiệu mình là Ông Mackinley, người đại diện Công ty ở Pháo đài Edgar. Ông là người mảnh khảnh, mái tóc dầy được cắt ngắn trông giống như lông thú. Tôi có cái gì đấy khiến cho ông ngạc nhiên - tôi nghĩ là ngữ âm của mình, vốn nghe thanh lịch và có lẽ không hòa hợp với nơi chốn này. Do đó mà thái độ của ông trông ngượng ngập, cho dù tôi thấy ông cố tỏ ra tự chủ. Dù sao chăng nữa, ông không phải là người hạnh phúc.

Ông hỏi một cách thiếu tự nhiên: "Chồng bà có nhà không?" Hẳn ông nghĩ vì tôi là phụ nữ nên hiển nhiên không biết được hết mọi chuyện.

"Anh ấy đi có công chuyện. Còn con trai chúng tôi đang đi câu. Tôi là Bà Ross. Tôi tìm ra thi thể."

"À, tôi hiểu rồi."

Ông là một trường hợp lạ lẫm - một trong số những người Scotland hiếm hoi mà nét mặt biểu lộ tâm tư. Khi tổng hợp tất cả thông tin của tôi, nét mặt ông lại thay đổi, ngoài vẻ ngạc nhiên, e dè, tử tế và có phần khinh rẻ còn có thêm mối quan tâm sâu sắc. Tôi có thể nhìn ông cả ngày, nhưng ông có việc phải làm. Tôi cũng có việc cho riêng mình.

Ông rút ra một quyển sổ ghi chép và tôi bảo ông rằng Angus sẽ trở về sau khi đã đi Sault St Marie từ chiều hôm qua, còn Francis đi câu sáng hôm qua. Đấy là lời nói dối, nhưng tôi đã suy nghĩ sẽ phải nói gì và không ai biết được sự khác biệt. Có vẻ như ông quan tâm đến Francis. Tôi nói nó đã đi Hồ Swallow, nhưng có thể đi tiếp nếu không câu được cá.

Tôi nói họ thân thiện với nhau. Ông ghi chép lại.

Tôi đã đắn đo suy nghĩ sẽ nói gì về Francis và Jammet và mối thân quen giữa hai người. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ Jammet là người bạn duy nhất của nó, cho dù lớn tuổi hơn nhiều và là người Pháp. Jammet đã thuyết phục Francis đi săn, việc mà Angus không hề nhúng tay vào. Lúc trước, vào mùa hè này, khi đi đến Maclaren và ngang qua ngôi nhà gỗ của anh, tôi nghe tiếng đàn vĩ cầm - âm thanh trong sáng, cuốn hút khác hẳn với loại âm nhạc ẻo lả của Scotland - tôi đoán đấy là một điệu nhạc dân gian của Pháp. Âm thanh hấp dẫn khiến cho tôi bước đến ngôi nhà để muốn nghe cho rõ thêm. Rồi cánh cửa bật mở, một bóng người vọt ra, tay chân vẫy đập, rồi mất hút vào bên trong, như trong một trò đùa nghịch. Chỉ một lúc sau tôi mới nghĩ ra đấy là Francis. Tôi khó nhận ra nó, có lẽ vì lúc ấy nó đang cười to tiếng.

Mackinley không phải là người khờ dại, người đàn ông này, cho dù nét mặt biểu hiện như thế. Nhưng có lẽ đấy là màn kịch - khiến cho người ta bị lạc hướng. Bây giờ, quả là kỳ lạ, thái độ của ông đổi khác - ông nhìn tôi với vẻ gần như hiền hòa, như thể nhận ra rằng tôi chỉ là con người tội nghiệp, vô hại đối với ông. Tôi không rõ mình đã làm gì khiến cho ông có ý nghĩ ấy, nhưng tôi cảm thấy phiền hà.

Qua khung cửa sổ tôi nhìn ông đi lên con đường dẫn đến trang trại của nhà Pretty và nghĩ đến chị Ann. Tôi thắc mắc liệu thái độ mình thấy trên gương mặt chị có phải là do lòng thương hại hay không.

***

Donald nhanh chóng học hỏi thêm đôi điều về Caulfield. Ít ra thì đó là khi anh gõ cửa một căn nhà khiến cho người trong nhà hốt hoảng - không ai lại gõ cửa khi không có chuyện gì bất thường. Khi hiểu ra rằng không có người thân nào của họ qua đời, bị thương hay bị bắt, người trong nhà kéo anh vào, pha trà cho anh rồi dồn dập hỏi han tin tức. Ghi chép của anh là mớ lộn xộn những thông tin đối chiếu nhau: gia đình đầu tiên không thấy gì nhưng nhắc đến một người anh em họ, là chồng của một phụ nữ mà anh phải chờ đợi cả một tiếng đồng hồ rồi nhận ra là người mình đã gặp lúc trước. Nhiều người chạy ra và nhiều người chạy vào để trao đổi các tin tức, giả thuyết, tiên đoán bi quan về tình hình đất nước. Cố hiểu ra những gì từ các trao đổi này thì giống như ôm lấy dòng sông trong hai cánh tay.

Đến khi trời sẫm tối thì anh đã hoàn tất một ngày làm việc thẩm vấn. Trong tiền sảnh ngôi nhà của Knox, anh cố rút ra kết luận từ những gì mình đã thu thập được. Ghi chép của anh cho thấy trong số những người được anh hỏi han, không người nào thấy điều gì bất thường - anh loại bỏ hành vi bất thường của một con sóc mà George Addamont trông thấy buổi sáng hôm ấy. Anh mệt mỏi vì đã được cho uống nhiều trà và sau đó là whisky. Anh đã hứa sẽ quay lại vài gia đình; nhưng anh tin chắc mình chưa gặp được kẻ giết người.

Anh đang băn khoăn làm thế nào hỏi lối vào phòng tắm thì cánh cửa mở, cô con gái kém xinh đẹp của nhà Knox bước vào. Donald lập tức đứng dậy và làm rơi vài tờ giấy; Maria nhặt lên và trao lại cho anh với nụ cười tinh quái. Donald đỏ mặt, nhưng thấy vui vì Maria chứ không phải Susannah phám khá sự vụng về của mình.

"Vậy là cha tôi đã trói buộc ông vào công việc thám tử phải không?"

Lập tức Donald nhận ra rằng cô đã thấy anh bất an đối với công việc ban chiều và đang chế giễu mình.

"Chắc hẳn là có người phải cố tìm ra kẻ thủ ác chứ?"

"Dĩ nhiên là tôi không có ý..." Cô bỏ lửng câu nói, lộ vẻ bực bội. Anh nhận ra rằng cô chỉ muốn nói chuyện vẩn vơ, nhưng đã muộn. Đáng lẽ anh nên tỏ ra đồng lòng một cách xởi lởi, hoặc nói ra lời châm biếm theo cách nào đó.

"Cô biết khi nào cha cô trở về không?"

"Không." Cô nhìn anh với vẻ tính toán như thế. "Tôi không có cách nào biết được." Rồi cô mỉm cười nhưng không có vẻ thân thiện: "Để tôi hỏi Susannah nhé? Có lẽ em tôi biết. Tôi đi tìm nó."

Maria đi ra ngoài, và Donald thắc mắc mình đã làm gì khiến cho cô gay gắt đến thế. Anh tưởng tượng hai chị em đang cười khúc khích với nhau vì anh thiếu lịch thiệp trong giao tiếp, và cảm thấy thân thương đối với các quyển sổ kế toán ở thị trấn pháo đài, chứa đầy những con số ngăn nắp, mà chỉ với ít tính toán anh luôn có kết quả chính xác. Anh lấy làm tự hào về năng lực kết toán cho mấy mục mơ hồ như công tác lau chùi do phụ nữ người bản địa làm, hoặc thực phẩm do thợ săn mang đến, cho đến nỗi họ cân đối được chi phí "hiếu khách" mà Công ty trả cho gia đình các thương nhân. Ước gì con người cũng dễ quản lý như vậy.

Một tiếng ho lịch sự đánh động anh về sự hiện diện của Susannah trước khi cô này mở cánh cửa.

"Anh Moody đó hả? À, anh đang bị bỏ rơi; tôi pha trà cho anh nhé?"

Cô mỉm cười duyên dáng, khác biệt với cô chị, nhưng vẫn khiến cho anh giật nảy người, tuy lần này anh vẫn cầm lấy được các trang ghi chép.

"Không, cám ơn, tôi đã được... À, vâng, có lẽ, thật là... Cám ơn cô." Anh cố không nghĩ đến hàng lít nước trà mình đã uống.

Khi mang trà đến, Susannah ngồi xuống để tiếp chuyện anh.

"Cô Knox ạ, đây là công tác kinh khủng. Tôi mong chúng ta gặp lại nhau trong tình huống vui vẻ hơn."

"Tôi biết. Quả là dễ sợ. Nhưng kỳ rồi cũng dễ sợ - anh bị... tấn công. Anh khỏi hẳn chưa? Trông kinh khiếp."

"Khỏi nhiều rồi, cám ơn cô." Donald mỉm cười, muốn tỏ ra vui vẻ với tin tốt lành, dù thật ra vết thương trên lớp mô mềm hay gây đau nhức.

"Anh kia có bị phạt không?"

Donald đã không nghĩ đến việc Jacob bị phạt: "Không, anh ấy rất ăn năn và đã trở thành người che chở chí cốt cho tôi. Tôi nghĩ đó là cách người Da Đỏ muốn dàn hòa đối với việc làm xấu. Còn hữu ích hơn là hình phạt, cô có nghĩ như vậy không?"

Susannah mở tròn mắt trong vẻ ngạc nhiên, và Donald nhận thấy đôi mắt cô đặc biệt thu hút với màu nâu lục nhạt, lấp lánh ánh vàng.

"Anh có tin nơi anh ấy không?"

Donald cười: "Có. Tôi nghĩ anh ấy khá chân thực. Anh ấy hiện giờ ở đây."

"Trời đất! Anh ấy trông thật dễ sợ."

"Tôi nghĩ thủ phạm thật sự là thói say xỉn, mà anh ấy đã thề từ bỏ. Anh ấy thực sự rất hiền - anh có hai đứa con gái nhỏ mà anh yêu mến hết mực. Cô biết không, tôi đang giúp anh ấy tập đọc, và anh bảo tôi anh mê đọc và viết ngang bằng mê đi săn nai."

"Thật vậy sao?" Cô cũng cười, rồi cả hai chìm vào im lặng.

"Anh nghĩ sẽ tìm ra hung thủ giết cái anh đáng thương kia không?"

Donald nhìn qua những dòng ghi chép của mình, vốn thực sự chẳng giúp được gì. Nhưng Susannah có cách nhìn anh với vẻ hiền dịu và tin tưởng đến nỗi anh mong mình giải quyết được không chỉ vụ án mạng, mà cả những lầm lỗi khác.

"Tôi nghĩ có ai đó hẳn phải thấy một người lạ ở nơi chốn như thế này - có vẻ như người ta đều biết được những người khác đang làm gì."

Cô nhăn mặt cười: "Đúng, họ biết được."

"Một chuyện kinh tởm như thế... chừng nào chưa đưa được người đó ra trước công lý thì chúng tôi sẽ không ngơi nghỉ. Cô không phải sống trong sợ hãi."

"À, tôi không sợ hãi." Susannah nghiêng đầu trong vẻ thách thức. Cô cúi người về phía anh, hạ thấp giọng: "Anh biết không, chúng tôi đã sống qua thảm kịch."

Đó là lời phát biểu lạ thường đến nỗi Donald nhìn chăm bẳm: "À, tôi đã không biết... Tôi rất lấy làm tiếc..."

Susannah có vẻ hài lòng. Vì là người nhỏ tuổi nhất trong gia đình, quả là điều hiếm hoi khi cô là người kể lại Câu chuyện Trọng đại - ai nấy ở Caulfield đều đã biết, và người xa lạ ít khi được cô buông tha. Cô hít một hơi dài, say sưa với khoảnh khắc của mình.

"Đã lâu lắm rồi, chuyện ấy xảy ra khi hai chị em tôi còn nhỏ nên tôi không nhớ được, anh biết không, đó là bà bác tôi."

Cánh cửa mở ra một cách bất ngờ đến nỗi Donald tin chắc Maria hẳn đã nấp sau đó mà nghe lỏm.

"Susannah! Em không được kể cho anh ấy nghe chuyện đó!" Mặt cô tái nhợt và căng thẳng, mặc dù qua lời lẽ khó biết được cô khó chịu vì Susannah kể chuyện hay vì Donald nghe chuyện. Cô quay qua Donald: "Anh đến đây, cha chúng tôi đã trở về."

Knox và Mackinley đang hiện diện trong phòng ăn; một chồng những trang ghi chép được đặt trên mặt bàn. Donald buồn rầu nhận thấy họ đã ghi chép nhiều hơn mình. Donald nhìn quanh quất để tìm Jacob: "Jacob đâu? Anh ấy sẽ dùng bữa với chúng ta chứ?"

"Jacob ổn. Anh ấy đang chăm sóc cho... à... thi hài."

"Anh ấy có ý kiến gì đối với các thương tích?"

Có phần tức giận, Mackinley chăm bẳm nhìn anh: "Tôi tin chắc anh ấy có ý kiến giống như chúng ta."

Knox khẽ ho, để kéo họ chú ý về vấn đề trước mắt, nhưng Donald nhận thấy ông này có phần thối lui, trong khi Mackinley tiến lên để chủ trì cuộc bàn thảo. Ông là người lĩnh trách nhiệm. Công ty đã nhận lấy công tác.

Mỗi người đúc kết nhận xét của mình, với kết luận là không ai trông thấy gì nhiều. Vài ngày trước, một thương nhân có tên Gros André đã đi qua đây. Và ngày hôm trước một người bán hàng rong tên Daniel Swan - mà ai nấy đều quen biết - đến Caulfield, rồi đi St Pierre. Knox đã gửi tin báo cho vị quan tòa ở đó. Mackinley tìm ra một đứa bé đã trông thấy Francis Ross đi đến ngôi nhà gỗ của Jammet vào một buổi tối - đứa bé không nhớ là tối hôm nào - và bây giờ Francis mất tung tích.

"Bà mẹ nói mình không biết khi nào cậu ấy trở về. Tôi đã hỏi han vài người hàng xóm về cậu. Xem chừng cậu ta là con người lập dị, giữ kín mọi chuyện cho riêng mình."

Knox xen vào: "Điều này không có nghĩa cậu ấy là hung thủ."

"Chúng ta phải xem xét mọi điều khả dĩ. Ta không biết một trong hai người kia có thăm viếng Jammet hay không."

"Hẳn là thương nhân kia đã thăm viếng chứ? Xem chừng anh ta là người Pháp. Lúc trước anh đã nói rằng có lẽ có chuyện tranh chấp trong công việc làm ăn."

Mackinley quay sang nhìn Donald: "Tôi đề nghị theo dõi anh ta, để tìm hiểu."

"À, tôi có nên theo dõi cái anh Swan kia không?"

Knox lắc đầu: "Không cần. Tôi đã phái một liên lạc viên và anh ta sẽ bị bắt giữ ở St Pierre. Tôi sẽ đích thân đi đến đó, nên tôi sẽ thẩm vấn anh ta. Chúng tôi đề nghị anh chờ ở đây với Jacob và thẩm vấn cậu Ross khi cậu ta trở về."

Trong một chốc Donald cảm thấy thất vọng, và rồi nhận ra rằng mình có cơ hội nên không ngờ mình được may mắn đến thế.

Mackinley nhíu mày: "Có lẽ theo dõi cậu ta thì họ sẽ làm được việc hơn. Nếu cậu ta trốn chạy thì không ích gì mà chờ đợi cho đến khi mất hẳn dấu vết."

"Nhưng họ truy tìm ở đâu? Có lẽ cậu ta đã không đi Hồ Swallow. Chúng ta chỉ nghe bà mẹ nói về việc này. Và cậu ta chỉ là một chú nhóc. Cậu ta không có động cơ để hạ thủ, theo những gì ta biết. Mà ngược lại; dường như hai người đã là bạn với nhau."

Mackinley nhìn trừng trừng: "Ta nên giữ đầu óc rộng mở(8)."

Knox nói: "Dĩ nhiên rồi. Nhưng tôi nghĩ Ông Moody sẽ tốn công vô ích khi đến hồ ấy." Ông quay qua Donald: "Có lẽ anh nên chờ ở đây một hoặc hai ngày; nếu cậu ta không trở về thì anh có thể đi tìm. Một ngày không tạo sự khác biệt nào đối với Jacob; chú nhóc không phải là dân Da Đỏ và sẽ dễ cho ta truy lùng dấu vết."

Jacob là tín đồ Cơ đốc, nhưng vẫn cảm thấy bất an với ý nghĩ chạm đến một thi hài, mà lại là thi hài bị hạ thủ theo cách gây thương tích nhếch nhác. Anh cùng hai người tình nguyện được trả công, một người làm hộ sinh, được phái đi mang thi hài về Caulfield, và cô này là người không ngại làm việc với mùi hôi thối. Cô hộ sinh chỉ tặc lưỡi trong thái độ vĩnh biệt, rồi bắt đầu lau chùi các vết máu khô. Xác chết đã mềm(9), nên họ kéo duỗi nạn nhân, vuốt hai mắt cho nhắm lại, và đặt một đồng tiền xu vào miệng. Cô hộ sinh buộc một dải khăn vòng quanh đầu để giữ cho miệng khép kín, che phủ các vết thương, rồi họ lấy một tấm chăn quấn lấy thi hài; chỉ có mùi hôi là còn tỏa ra. Con đường dẫn về Caulfield gập ghềnh đến nỗi Jacob phải lấy một tay giữ lấy thi hài tránh lăn khỏi cỗ xe. Ba người và gác dan của Scott đứng quanh chiếc bàn trong im lặng rồi quay đi. Họ đều cảm ơn thời tiết; quả là may mắn khi trời lạnh.

Donald lần bước theo mùi thuốc lá đến nhà kho, nơi Jacob đang hút dọc tẩu giữa một đống rơm, và ngồi xuống bên cạnh. Jacob mân mê các sợi thuốc lá trong chiếc bình. Nói về người chết sẽ là không may, anh nghĩ chắc như vậy. Nhưng anh biết chính Donald muốn nói về chuyện này.

"Cho tôi biết anh nghĩ gì."

Jacob đã quen với những câu hỏi lạ lùng của Donald. Anh này luôn hỏi Jacob nghĩ ra sao về chuyện này chuyện nọ. Dĩ nhiên là điều bình thường nếu được hỏi về thời tiết, hoặc khả năng săn được thú, hoặc thời gian di chuyển, nhưng Donald lại thích nói về những chuyện mù mờ và vụn vặt, như truyện mà anh vừa đọc, hoặc nhận xét của ai đó nói ra hai ngày trước. Jacob cố gắng nghĩ Donald muốn biết những gì.

"Anh biết mà, nạn nhân bị lột da đầu. Công việc nhanh chóng, sạch sẽ. Bị cắt ngang họng trong khi đang nằm, có lẽ là đang ngủ."

"Liệu một người da trắng có thể làm việc này không?"

Jacob nhăn nhở cười, hàm răng trắng sáng trong ánh đèn: "Bất kỳ người nào cũng có thể làm, nếu anh ta muốn."

"Anh có linh cảm... về việc ai có thể làm, hoặc tại sao, hay không? Anh đã ở đó."

"Ai làm hả? Tôi không biết. Ai đó không có chút tình gì đối với anh ta. Tại sao giết anh ta hả? Có lẽ anh ta đã làm chuyện gì đó trước kia. Có lẽ anh ta làm hại đến ai đó..." Jacob ngưng lại, đôi mắt dõi theo khói thuốc đang tỏa lên xà nhà, rồi tiếp: "Nhưng mà không. Nếu hung thủ muốn làm vậy, hắn muốn nạn nhân tỉnh giấc, để biết hắn đã chiến thắng."

Donald gật đầu tỏ ý khuyến khích cho Jacob nói tiếp.

"Có lẽ vì việc nào đó anh ấy định làm mà họ giết anh, để ngăn chặn. Nhưng tôi nghĩ trước kia có lẽ hung thủ đã từng gây án theo cùng cách thức."

Donald kể cho Jacob nghe về việc chờ cho cậu con trai Ross trở về, và theo dõi cậu này nếu cần. Mackinley sẽ theo dõi anh thương nhân, hiển nhiên là nghi phạm số một, thế là được tiếng tăm vì chính ông ta đã bắt được hung thủ.

Jacob cười: "Có lẽ ông ấy không nên đi một mình nếu quả thực người kia dữ dằn như vậy. Có thể hắn sẽ hạ sát ông ấy." Anh đưa một ngón tay quét ngang cổ mình.

Donald cố nén cười theo. Từ lúc làm bạn với Jacob, anh đã biết rằng nhiều người không ưa Mackinley.

"Anh có nghĩ đó là chuyện kỳ quặc vì không một ai đã từng thấy... à, những người Da Đỏ, trong vòng ít ngày trước? Ý tôi nói, nếu đúng là một người Da Đỏ đã giết anh ấy."

"Nếu người Da Đỏ không muốn ai thấy họ thì không ai thấy được. Ít nhất đối với sắc tộc của tôi thì là như vậy. Đối với mấy người khác..." Anh khịt mũi với vẻ miệt thị: "Chippewa, tôi không rõ, có thể họ không có tài truy tìm dấu vết." Anh cố ý cười mỉm, để cho Donald thấy mình chỉ nói đùa.

Đôi lúc Donald cảm thấy mình như là đứa trẻ bên cạnh anh con trai này, người chỉ lớn hơn anh vài ba tuổi. Sau khi vết thương anh đã lành, anh bắt đầu giúp Jacob tập đọc và viết, nhưng quan hệ giữa hai người không phải là thầy trò. Donald nghĩ rằng kiến thức từ sách vở mình truyền đạt cho Jacob không phải thực sự là kiến thức của mình để ban phát; anh chỉ tình cờ nắm được kiến thức ấy mà truyền tải, trong khi nếu Jacob nói chuyện gì cho anh nghe thì là do kiến thức hoàn toàn của anh này, như thể tuôn ra từ nhận thức riêng của anh này. Nhưng có lẽ Jacob có cùng ý nghĩ; dù sao chăng nữa thế giới quanh anh này chỉ là một chuỗi những dấu hiệu mà anh tình cờ hiểu ra, theo cùng cách thức như Donald có thể nhận ra ý nghĩa của từ ngữ trên giấy mà không cần phải suy nghĩ. Donald muốn biết Jacob nghĩ gì về chuyện này, nhưng không thể nghĩ ra làm thế nào khởi sự đặt câu hỏi.

***

Maria Knox đang quan sát một hiện tượng mà lúc trước cô đã thấy nhiều lần: ảnh hưởng của em gái đối với một anh trai trẻ. Cô đã quen với điều này, kể từ lúc cô lên mười bốn và cô em mười hai, các cậu con trai đã vây quanh Susannah, và thay đổi thái độ sau khi gặp gỡ, trở nên thô lỗ, nhút nhát, lớn tiếng hoặc huênh hoang - tùy bản chất từng người. Bọn con trai phớt lờ Maria; họ không thích chơi với cái cô thô kệch và thích châm biếm này, và cũng không thích chép bài làm ở nhà của cô. Nhưng Susannah có dáng vẻ tươi tắn, và khi lớn lên thêm điều hiển nhiên là cô em đẹp hơn chị. Cô không bao giờ kiểu cách; cô tỏ ra khéo léo trong các trò chơi, nếu biết mình đẹp (dĩ nhiên là cô biết) thì cô vẫn tỏ ra khiêm tốn, thậm chí tỏ ra bực bội khi người ta chú ý đến cô vì vẻ đẹp. Vì các thành viên của một gia đình (và hẳn là của xã hội nữa) nhận lãnh vai trò cho riêng mình và rồi bị gò bó vào đó, thế nên Susannah trở thành đứa con cưng của họ: được nuông chiều nhưng cũng được chỉ dạy nhằm bảo vệ tránh chuyện thiệt thòi trong xã hội như nhà vệ sinh bị tắc hoặc việc nộp thuế.

Cùng lúc, Maria trở thành một nữ học giả thích tranh cãi, đọc rất nhiều sách từ những năm mới trưởng thành, chú tâm đến Chủ nghĩa Bành trướng, chiến tranh ở miền Nam và những đề tài thường được cho là không thích hợp với các cô gái trẻ. Trong vòng ba năm trở lại đây, cô đã tự đặt mua một số báo Canada và nước ngoài. Cô công khai ủng hộ Đảng Cải cách (nhưng ngầm thiên về Đảng Tự do(10)), ngưỡng mộ Tupper(11), và tranh luận với người cha về việc ông thích George Brown(12). Tất cả những chuyện này hiện diện ở một thị trấn, nơi mà phụ nữ đọc một tờ báo bị xem là điều kỳ dị.

Nhưng Maria nhận ra rằng không có khác biệt nhiều về năng lực trí óc của Susannah và của chính cô. Trong khi Susannah tỏ ra giản đơn và vì thế được phép muốn làm gì thì làm tùy thích, thì có lẽ cô chị có khả năng biến mình thành một nhà trí thức. Và cô tỏ ra đủ khiêm tốn để nhìn nhận là nếu mình có ngoại hình khá hơn thì có lẽ hẳn đã biếng nhác hơn trong khi theo đuổi kiến thức. Chỉ có mấy khác biệt nhỏ như vậy mà quyết định chiều hướng của đời người.

Maria thường nêu lên những chủ đề trong trường đại học - cô đã hai mươi tuổi và bắt đầu nhận ra nếu không vào đại học ngay thì là điều đáng xấu hổ. Nhưng gia đình cô cho biết họ cần cô ở nhà, và chứng tỏ việc này bằng cách bắt cô tham gia vào tất cả sự việc trong nhà. Bà mẹ hỏi ý kiến cô về hầu hết mọi chuyện của gia đình, mà bà cho rằng mình không kham nổi. (Maria hỏi một cách hùng hồn: "Thế thì mẹ làm gì khi con còn nhỏ?") Người cha cũng mang chuyện của mình ra hỏi con gái.

Đối với Susannah, cô này quàng hai cánh tay qua cổ chị và than van rằng mình không thể sống mà thiếu chị. Dĩ nhiên, có thể là Susannah thiếu can đảm để thoát ly khỏi Caulfield. Cô đã băn khoăn về điều này, nhưng cứ bận tâm mãi lại đâm ra ngã lòng, thế nên khi có nguy cơ phải suy nghĩ thì cô vớ lấy một tờ báo khác và gạt ý nghĩ sang một bên. Hơn nữa, nếu mùa thu này cô đi học đại học, cô hẳn đã không có mặt ở nhà để hỗ trợ gia đình trong thời gian thử thách này. Mẹ cô ra vẻ cứng cỏi, nhưng đôi mắt bà tỏ lộ lo lắng - ngoài mặt là về việc lo thu xếp cho hai người xa lạ ở nhờ trong nhà, nhưng trong lòng là về tên hung thủ giỏi trốn lánh trong vùng hoang vu.

Trong hai ngày, Maria đã tìm cách nói chuyện riêng với người cha để hỏi han về vụ việc, nhưng mãi đến tối nay cô mới có cơ hội. Cô tự tin là ông sẽ chia sẻ cảm nghĩ với mình, và tha thiết muốn thảo luận những giả thuyết của riêng mình. Nhưng sau khi hai nhân viên Công ty đã đi ngủ, gương mặt của ông hầu như xám hẳn đi vì mệt mỏi, tuy thường ngày vẫn không được hồng hào lắm. Đôi mắt ông lõm sâu, cánh mũi vươn cao hơn bao giờ.

Cô chỉ biết vòng hai cánh tay ôm lấy ông: "Pa-pa ạ, đừng lo, chẳng bao lâu vụ việc sẽ được xử lý xong xuôi rồi chỉ còn là hoài niệm."

"Mamie, cha hy vọng là thế."

Trong thâm tâm, Maria thích được gọi bằng cái tên này - một tên riêng từ thuở cô còn nhỏ mà tuyệt đối không ai khác được phép dùng.

"Họ sẽ lưu lại đây bao lâu?"

"Cha đoán cho đến khi nào họ thẩm vấn xong những người họ muốn thẩm vấn. Họ định chờ cho đến khi Francis Ross trở về."

"Francis Ross à? Thật vậy sao?" Francis nhỏ hơn cô ba tuổi và vì thế cô vẫn nghĩ về anh ta như là một cậu bé lầm lì, đẹp trai, thích cười khúc khích về các cô gái ở trường trung học cấp ba. "À, họ không cần phải ở với chúng ta. Họ có thể đến nhà Scott. Con nghĩ Công ty họ chi trả được."

"Cha tin chắc thế. Làm thế nào mẹ con và Susannah thích ứng với tình hình này?"

Maria ngập ngừng để suy nghĩ nghiêm túc: "Nếu không có khách thì Ma-man thích hơn."

"À..."

"Còn Susannah thì ổn. Thay đổi nếp sống hàng ngày kể cũng hào hứng. Tuy rằng hôm nay con bắt gặp nó suýt kể cho anh Moody nghe chuyện về các chị họ của chúng con, và con gần nổi giận. Con không hiểu tại sao. Anh ấy không dính dáng gì đến chuyện này, phải không?" Ngừng một chốc, cô thêm, tuy cảm thấy xấu hổ một tí: "Con nghĩ nó muốn tạo ấn tượng đối với anh ấy. Nhưng nó không cần phải nỗ lực."

Người cha mỉm cười: "Cha cũng nghĩ vậy. Chỉ có điều nó không có nhiều cơ hội được người ta trọng vọng."

Maria cười: "Cha có ý gì? Theo con thấy thì nó chẳng có gì cho người ta trọng vọng."

"Mamie à, đúng là theo một khía cạnh nó được ngưỡng mộ, nhưng không được người ta quan tâm theo cách họ quan tâm đến con, pha một ít kính sợ."

Ông nhìn con gái. Maria mỉm cười, cảm thấy đôi má nóng bừng. Cô thích ý nghĩ mình được quan tâm pha kính sợ.

"Cha không có ý tâng bốc con."

"Đừng lo, con không cảm thấy được tâng bốc nếu so với Thác Niagara(13) hoặc Heights of Abraham(14).

"À, khi nào mà cha không..."

Maria nhìn người cha bước lên thang lầu - bước chân cứng nhắc, có nghĩa là các khớp của ông vẫn còn đau nhức. Quả là khổ sở khi thấy ông đã già và biết rằng các cơn đau yếu ngày một nặng thêm, cho đến lúc ông suy sụp hẳn. Maria đã có cái nhìn khá tiêu cực về cuộc đời, có lẽ vì cô có một cô em đẹp. Người đã có sức thu hút thiếu chín chắn như tự bao giờ đối với anh Moody.

Maria quan tâm đến anh không phải vì chính mình. Hoàn toàn không phải thế. Nhưng, đôi lúc kể cũng tốt nếu cô còn có cơ hội.

***

Tôi nhận ra rõ ràng rằng mình phải làm việc gì đấy. Sau khi Mackinley kiếu từ, tôi đi đi lại lại trong gian bếp cho đến khi Angus trở về, và tôi không cần phải nói cho anh biết rằng Francis vẫn chưa về nhà. Tôi nói với anh các cần câu vẫn còn ở nhà, và tôi đã giấu đi một cần. Bây giờ anh lộ vẻ bất an.

Tôi nói: "Anh phải đi tìm nó."

"Chưa đến ba ngày. Nó không phải là đứa con nít."

"Nó có thể bị tai nạn. Trời đang lạnh. Nó không mang theo tấm chăn nào."

Angus suy nghĩ, rồi nói ngày mai anh sẽ đi Hồ Swallow. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và ôm lấy anh, nhưng anh chỉ đáp lại bằng thái độ xơ cứng và không khoan nhượng. Anh chỉ chờ cho tôi buông anh ra, rồi quay đi như thể không có chuyện gì xảy ra.

Cuộc hôn nhân của chúng tôi vẫn tốt lành khi nào mà tôi không nghĩ về vấn đề ấy. Bây giờ thì tôi không rõ, tôi càng quan ngại về người khác thì họ lại càng không thích. Khi chỉ nghĩ đến mình thì tôi chỉ việc búng ngón tay, thế là các ông sẵn lòng làm theo bất kỳ việc gì tôi muốn. Rồi tôi cố trở thành người tốt hơn và hãy nhìn kết quả: chồng tôi quay người đi và không muốn nhìn vào mặt tôi. Hoặc có lẽ không có vấn đề gì, mà chỉ là do tuổi tác - khi người phụ nữ già đi thì mất sức thu hút và thuyết phục, thế nên họ không làm gì được.

Tôi nói: "Em đi với anh."

"Đừng có ngốc."

"Em không chịu nổi khi chờ đợi. Nếu có chuyện gì... xảy ra thì sao?"

Angus thở dài, hai bờ vai chùng xuống trông như ông cụ già. "Rhu(15) ơi..." Anh thì thào ngôn từ âu yếm ngày xưa, khiến cho tôi khẽ rung động. "Anh tin nó sẽ ổn thôi. Nó sẽ sớm trở về."

Tôi gật đầu, cảm thấy xúc động vì ngôn từ có tình cảm. Thật ra, tôi bám víu lấy ngôn từ này như là sợi dây cứu hộ - dù rằng khi nghĩ lại, nếu tôi thật sự vẫn là người anh yêu mến, tại sao anh không nhìn đến tôi khi chuyện trò?

Khi ánh sáng lịm tắt, tôi cất bước đi dạo, hai túi của chiếc váy phồng lên. Ít nhất tôi nói với Angus như thế; không thể nào biết được anh tin tôi hay không. Vào giờ này trong ngày, mọi người ở Sông Dove đều ngồi dùng bữa, theo đúng giờ giấc như một đàn bò, thế nên không ai đi ra khỏi nhà. Không ai ngoại trừ tôi.

Cả ngày tôi đã nghĩ về việc này, rồi quyết định rằng buổi tối là thời gian thích hợp nhất. Tôi có thể đợi đến hừng đông, nhưng không muốn chần chừ thêm nữa. Nước sông chảy cuồn cuộn và dâng cao - đã có mưa ở phía bắc. Nhưng tảng đá nơi Doc Wade giã biệt cuộc đời vẫn khô - chỉ có cơn lũ mùa xuân mới làm ngập.

Nhưng dù vậy, có một dấu chân trên đấy. Một dấu sẫm màu và ướt. Ngay cả trong bóng tối nhá nhem tôi vẫn trông thấy được. Có lẽ cuối cùng thì Knox đã sắp xếp người canh gác - nhưng người này đã cảm thấy buồn chán và đi chèo thuyền. Thoạt đầu tôi không tin thế, nên tôi đi nhè nhẹ xuống dọc ngôi nhà gỗ để khuất dạng mà tránh khung cửa trước. Khung cảnh hoàn toàn im ắng. Có lẽ tôi chỉ tưởng tượng - tôi không còn trông thấy hòn đá. Tôi đã mang theo một con dao trong túi, mà bây giờ tôi cầm trên tay, nắm chặt hơn mức cần thiết. Tôi thực sự không nghĩ hung thủ sẽ quay trở lại - để làm gì? - nhưng tôi vẫn len lén đi tới, một tay vịn trên tường ngôi nhà, cho đến lúc tôi có thể nghe được âm thanh từ bên trong vọng ra qua khung cửa sổ. Tôi đứng đấy hồi lâu đến mức hai chân tê dại hẳn đi, và tôi không nghe tiếng động nào dù là tiếng muỗi kêu. Tôi bước đến cánh cửa lúc ấy vẫn còn đóng kín nhờ được cột dây kẽm, lấy ra cây kềm và cậy cái chốt. Bên trong tối lờ mờ nhưng tôi vẫn khép cánh cửa lại để phòng xa.

Ngôi nhà gỗ vẫn y nguyên theo những gì tôi còn nhớ, ngoại trừ là chiếc giường bây giờ trống trơn. Vẫn còn có mùi khó chịu bốc lên từ tấm thảm và các tấm chăn đang được cuộn sát bức tường. Tôi thắc mắc ai sẽ giặt các tấm chăn này - hoặc chỉ việc mang đi đốt? Bà mẹ già của anh hẳn không muốn nhận các món này.

Tôi đi lên tầng trên. Có vẻ như Jammet ít khi lên đây - có những hộp và thùng chất lên nhau dựa chân tường, mọi thứ đều phủ bụi, cho thấy dấu chân những người đi lên ngày hôm qua, chân của họ chà xát những khoảnh nhỏ khi họ dừng lại và xem xét cái gì đấy. Tôi đặt cái đèn xuống và bắt đầu lục lọi trong chiếc hộp gần nhất chứa những bộ quần áo tốt nhất của anh - một áo choàng đen kiểu cổ và quần dài, mà tôi có thể nói quá nhỏ đối với anh. Liệu quần áo này là của anh khi còn nhỏ, hoặc của cha anh? Tôi lục lọi qua các thùng khác: có thêm quần áo, vài giấy tờ từ Công ty Vịnh Hudson, chủ yếu liên quan đến chế độ nghỉ hưu sau "một tai nạn xảy ra trong khi thi hành nhiệm vụ".

Vài món hé lộ cuộc đời của Jammet trước khi anh đến Sông Dove. Tôi cố không nghĩ nhiều đến vài món: ví dụ một cánh hoa bằng lụa ép, đã phai màu theo thời gian - biểu tượng cho tình yêu của một phụ nữ, hoặc biểu tượng anh định trao nhưng đã không trao? Tôi thắc mắc về người phụ nữ vô hình trong cuộc đời của anh. Và đây là một vật hiếm hoi - một tấm ảnh cho thấy Jammet lúc còn là trai trẻ, miệng nở nụ cười khiến người ta dễ cười theo. Cùng hiện diện trong tấm ảnh là vài người đàn ông mà tôi đoán là nhân viên tải hàng, tất cả đều mang khăn quàng cổ, mặc áo choàng có mũ trùm đầu, mắt hấp háy trong tia nắng, đứng xúm xít quanh một núi những thùng và ca nô, nhưng chỉ có anh là giữ nụ cười được lâu đến thế. Vào dịp nào đáng giá đến mức cần chụp ảnh? Có lẽ họ vừa phá một kỷ lục cho một chuyến tải hàng gian khổ. Người đi buôn lấy làm hãnh diện đối với mấy việc như thế.

Sau khi đã xem xét qua các chiếc hộp, tôi đẩy chúng ra xa khỏi chân tường. Tôi không chắc mình có thể tìm được gì ở đây, vì chỉ có bụi bặm và phân chuột, thêm những mảnh vỏ khô của ong vò vẽ.

Tôi bước xuống tầng dưới mà cảm thấy chán nản. Tôi không biết mình đi tìm cái gì, mà chỉ là cái gì đấy nhằm xác định Francis không có dính dáng trong vụ này, mà dĩ nhiên là tôi đã biết như thế. Tôi không thể mường tượng ra điều gì khác.

Tôi nhận ra rằng mình đang thở dốc khi xem qua các món thực phẩm của anh. Mùi thực phẩm lan tỏa cả ngôi nhà, còn tệ hại hơn là khi anh còn sống ở đây. Để tìm hiểu cặn kẽ hầu không bị dằn vặt trong đêm và phải trở về, tôi chọc bàn tay vào các hũ ngũ cốc và bột, và đấy là khi tôi tìm ra nó. Trong hũ bột, tay tôi chạm phải cái gì đấy khiến cho tôi giật tay lại và thốt lên một tiếng trước khi tôi dừng lại được, ném bột tứ tung khắp nơi. Đấy là một mẩu giấy được xé ra từ một miếng giấy to hơn, có những con số và chữ cái: "61HBKW". Không có gì khác. Tôi không thể mường tượng ra thứ gì vô dụng hơn. Tại sao phải giấu một mẩu giấy trong một hũ bột nếu nó có hàng chữ vô nghĩa? Tôi đặt mẩu giấy vào trong túi mình rồi mới nghĩ ra rằng có thể nó rơi vào hũ bột do tình cờ. Nếu đúng thế, nó cũng có thể rơi vào bột ở bất kỳ nơi nào khác; ví dụ như trong kho chứa hàng của Scott. Dù cho nếu Jammet cố tình cất giấu, thì nó khó có thể giúp tôi xác định kẻ đã giết anh.

Cho đến lúc này tôi đã tránh khu vực chung quanh chiếc giường, và không muốn đặt tay lên. Đáng lẽ tôi nên mang găng tay, nhưng đấy là một món mà tôi đã không nghĩ ra. Tôi nhìn vào bên trong lò sưởi khi suy nghĩ về chuyện này. Thế rồi có cái gì đấy xảy ra khiến cho tôi gần ngất đi vì bị sốc: có tiếng gõ cửa.

Trong vài giây đồng hồ tôi hoàn toàn bất động, nhưng giả vờ mình không hiện diện ở đây là điều ngu xuẩn, với ánh sáng ngọn đèn bão đang chiếu qua cửa sổ mờ đục. Trong vài giây đồng hồ kế tiếp tôi cố nghĩ ra lý do chính đáng cho việc mình đang ở đây, nhưng vẫn chưa nghĩ được thì cánh cửa mở ra, và tôi đối diện với một người đàn ông mình chưa gặp trước đây bao giờ.

***

Ít lâu sau tuổi trưởng thành, Donald phải nhìn nhận rằng mình khó nhìn rõ ở khoảng cách xa. Bất kỳ thứ gì xa khỏi tầm tay anh đều mờ nhòe; anh không thể thấy vật nhỏ, còn người thì trở nên vô danh. Anh không còn nhận ra bạn bè hoặc thậm chí người trong gia đình mình, và anh thôi ra dấu cho người ở khoảng cách xa vì không biết họ là ai. Anh kể cho bà mẹ về chuyện phiền toái này và được cấp một cặp kính gọng kẽm mang thiếu thoải mái. Đấy là phép lạ đầu tiên trong đời anh - cách thức mà cặp kính mang anh trở lại vào thế giới.

Phép lạ thứ hai diễn ra vào một buổi tối chẳng bao lâu sau đó. Đấy là tháng Mười một, vào một đêm trời trong khác thường, và anh đang trên đường đi bộ từ trường về nhà. Anh nhìn lên và đứng sững lại trong nỗi kinh ngạc. Vầng trăng tròn treo thấp vành vạnh trước mắt anh, đổ bóng người anh dài trên mặt đường. Nhưng điều khiến cho anh há hốc miệng là vầng trăng trông thật sắc nét. Anh đã ngỡ (mà không nghĩ ngợi gì nhiều) rằng đối với mọi người thì vầng trăng phải là một đĩa tròn mờ đục. Nhưng ở đây nó rất sắc nét, hiện rõ mọi chi tiết - bề mặt nhăn nheo, lỗ chỗ, những bình nguyên sáng sủa và những hố sâu tăm tối. Tầm nhìn mới của anh không chỉ vươn đến phía bên kia đường, mà còn lan xa vô số dặm trong không gian. Ngừng thở, anh tháo cặp kính ra - vầng trăng trông mềm mại hơn, lớn hơn, có phần ở gần hơn. Khung cảnh chung quanh thu gần lại, thân mật hơn nhưng cũng có vẻ đe dọa hơn. Anh lại mang vào cặp kính, và khung cảnh đàng xa lại hiện lên rõ mồn một.

Đêm ấy, anh đi về nhà với nỗi sướng thỏa vô bờ. Anh cất tiếng cười vang khiến cho những người đi đường phải ngạc nhiên. Anh muốn hét với họ và nói cho họ biết khám phá của mình. Anh biết điều này không có ý nghĩ gì với họ, vốn đã có thị lực tốt từ lâu. Nhưng anh thấy tiếc cho họ, vì đã không biết đánh giá cao một món quà quý giá như thị lực đã được phục hồi sau khi bị tổn hại.

Từ lúc ấy, đã bao lần anh lấy lại niềm vui sướng tuyệt vời như thế? Sự thực là không có lần nào cả.

Donald nằm trên chiếc giường hẹp, thiếu thoải mái mà nhìn lên vầng trăng phía trên Caulfield. Anh tháo cặp kính ra rồi đặt lại trên mắt, để sống lại cảm giác xuất thần của sự khám phá. Anh nhớ chắc chắn mình đã nhìn thoáng qua cái gì đấy báo hiệu điềm gở, tuy không biết ý nghĩa là gì. Giờ đây, dường như nó không có ý nghĩa gì nhiều. Nhưng anh đã quen với việc nhìn sự vật từ khoảng cách xa, hầu nhìn được rõ nét. Có lẽ vì vậy mà anh hướng tới công việc với các con số, bị thu hút bởi tính giản đơn thầm lặng của các con số này. Con số lúc nào vẫn chỉ là con số. Nếu các sự vật được quy về con số thì chúng có thể được sắp xếp có thứ tự và được cân đối. Hãy xem xét cộng đồng những gia đình người bản địa sống bên kia vực núi của Pháo đài Edgar, và luôn gây đau đầu cho các nhà quản trị. Số người làm nghề tải hàng tăng nhanh chóng, càng lúc càng tạo thêm miệng ăn mà Công ty phải lo nuôi nấng. Đã có nhiều lời than phiền về lượng thực phẩm và dịch vụ y tế cung ứng cho họ, thế nên Donald phải lo xem xét những công việc mà phụ nữ làm được cho Pháo đài. Anh liệt kê mấy công việc giặt giũ, trồng rau, thuộc da, làm giày đi trên tuyết... và định tiền công cho mỗi việc, để chứng tỏ là Công ty đang hưởng lợi từ người bản địa ngang bằng người bản địa hưởng lợi từ Công ty. Anh lấy làm tự hào về thành tựu này, càng vui hơn khi có cơ hội làm quen với vợ và các con của Jacob - hai đứa con gái cứ nhìn chăm chăm người bạn da trắng của cha với đôi mắt nâu mở to. Những đứa trẻ này - với ánh mắt tin tưởng và những cái tên khó hiểu - được so sánh đối chiếu với các loại lông thú mà Công ty buôn bán, dù nói thật ra, ai cũng biết bên nào quan trọng hơn.

Khi lần đầu tiên đến Pháo đài Edgar, anh được người thủ kho tên Bell dẫn đi một vòng quanh thương điếm. Donald nhìn thấy những văn phòng, khu cư xá đông đúc, quầy giao dịch, ngôi làng người Da Đỏ bên kia vực núi (cách xa một khoảng thích hợp), nhà thờ xây bằng gỗ súc, nghĩa trang... và cuối cùng là phòng trữ lạnh khổng lồ nơi các tấm lông thú được chất lên nhau, sẵn sàng cho chuyến đi hào hùng đến London để Công ty thu tiền. Bell lén lút nhìn qua lại rồi mở một bành lông thú ra, và từng tấm da sống bóng loáng tuôn xuống nền nhà dơ bẩn.

Anh nói trong ngữ âm miền Edinburgh(16): "Này, đây là những gì cốt yếu. Bao nhiêu đây sẽ có giá vài đồng guinea(17) ở London. Xem nào..." Anh lấy tay xoa một tấm da. Đây là loài chồn marten(18). Anh có thể thấy tại sao chúng ta không muốn họ bắn con thú - bẫy chỉ để lại một vết khó nhận ra, xem đây!"

Anh nắm chân của cái xác con vật vẫy vẫy về phía Donald. Cái đầu con vật vẫn còn dính vào tấm da - mặt nhỏ, nhọn với đôi mắt nhắm nghiền, như thể nó không muốn nhớ chuyện gì đã xảy ra cho nó.

Bell đặt cái xác xuống và chọc tay vào các tấm lông, nhanh chóng lôi ra từng tấm cho Donald xem như động tác của một nhà ảo thuật: "Các loại này ít giá trị hơn, của hải ly, chó sói, gấu; tuy có phần hữu dụng - để gói bên ngoài các loại lông khác. Hãy sờ xem lông nhám như thế nào..."

Tấm da sống bóng loáng gợn sóng trên tay Bell, các cẳng chân được gấp lại phía dưới tấm da. Donald nhận lấy tấm da và ngạc nhiên vì cảm giác trên bàn tay. Trước đó, anh đã cảm thấy ghê tởm về nhà kho chứa mấy xác chết thú rừng, nhưng khi lùa bàn tay vào giữa các lớp lông mát dịu, anh có cảm giác muốn đưa lên môi. Dĩ nhiên là anh kiềm chế, nhưng hiểu ra tại sao phụ nữ muốn có vật như thế quấn quanh cổ, và rồi chỉ khẽ nghiêng đầu là lớp lông quét trên gò má.

Bell vẫn cất tiếng giảng giải, hầu như là độc thoại: "Nhưng sản phẩm quý nhất... à, đây là chồn bạc - thứ này có giá cao như vàng". Đôi mắt anh sáng rỡ trong ánh sáng tù mù.

Donald đưa tay muốn nắm lấy, và Bell gần như ngần ngại. Lớp lông có màu xám, trắng và đen, xen kẽ với nhau thành một lớp óng ánh như bạc, dày và mềm mại, trông như dòng nước chảy. Donald rút tay lại, trong khi Bell có vẻ như không muốn buông ra.

"Chỉ có một thứ quý hơn là chồn đen - cũng sống xa về miền bắc, nhưng rất hiếm. Bộ lông này có giá đến một trăm guinea ở London."

Donal lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên. Trong khi Bell bắt đầu đặt các tấm da vào cái khuôn gỗ rồi nhẹ nhàng đặt tấm da cáo trắng ở giữa, Donald cảm thấy ngượng nghịu như thể mình đang tham gia trò giải trí bí mật cho dù Bell cố giấu diếm.

Donald cố hướng tâm trí trở về thực tại. Anh muốn suy nghĩ về cuộc trao đổi với Jacob, để tổng kết các dữ kiện trước khi đi đến một giải pháp thông minh hầu giúp mọi việc được thông suốt, nhưng anh không có đủ dữ kiện. Một người đàn ông bị giết nhưng không ai biết tại sao, lại càng không biết ai là hung thủ. Nếu họ có thể dò xét cuộc đời của Jammet từ lúc lìa trần ngược về quá khứ, nếu có thể biết được mọi chi tiết về anh ấy, thì liệu họ sẽ phăng ra được sự thật không? Anh thấy đó là ý nghĩ vẩn vơ; anh không thể hình dung Công ty chịu bỏ ra nhiều ngày công và thời giờ để tìm ra. Nhất là đối với một nhà buôn hành nghề tự do.

Tâm trí anh lại hướng tới Susannah. Anh đã ngồi với cô ở tiền sảnh trong nhiều phút mà không có khoảng thời gian im lặng ngượng ngập; và có vẻ như cô thấy thú vị đối với anh, cô muốn kể với anh nhiều chuyện và muốn nghe anh chuyện trò. Anh đã quá lo âu nên không cảm thấy thoải mái, nhưng ở đây có điều gì đó gần như là hạnh phúc, dần hé lộ như chồi non sau mùa đông Canada. Anh gấp lại cặp kính, và vì không có bàn ngủ nên phải đặt nó lên sàn nhà kề bên mình, hy vọng sáng mai khi thức dậy sẽ không dẫm lên nó.

***

Sau cơn sốc lúc đầu, tôi nhận ra rằng mình không gặp nguy hiểm tức thời. Người đàn ông đứng ở khung cửa ít nhất cũng đến sáu mươi tuổi, dáng vẻ như người thích sách vở, và điều quan trọng nhất là không mang vũ khí. Ông trông đạo mạo, với mái tóc bạc mềm mại được chải ngược vầng trán cao, khuôn mặt thanh mảnh, sống mũi nhọn. Thái độ của ông dưới mắt tôi có vẻ như tử tế. Thật ra, đối với một người ở tuổi này thì ông trông đẹp lão (tôi lấy làm lạ về từ ngữ này, nhưng đúng thế).

Tôi đã có thói quen đáng chê trách, ở đây là khi không còn có thể xét người qua ngữ âm được nữa, đấy là rà soát một số đặc tính của một người lạ. Mỗi khi gặp người mới quen, tôi liếc nhìn qua đôi khuy măng sét, giày, móng tay, và đại loại như thế, nhằm xác định vị thế trong cuộc đời và mức ổn định về tài chính. Người đàn ông này mặc chiếc một áo choàng lòe loẹt, được may cắt chỉnh tề nhưng đã cũ, và tuy ông trông đứng đắn, râu tóc cạo tề chỉnh, đôi giày lại mòn trông đáng hổ thẹn.

Trong khoảnh khắc cho tôi đi đến những kết luận này, tôi nhận thấy ông cũng đang đánh giá tôi theo cùng cách thức, vì thế có lẽ ông đã kết luận tôi là vợ của một nông dân khá giả. Tôi không thể nói liệu ông đi xa hơn hay không mà nghĩ rằng sắc đẹp của tôi đã tàn tạ.

"Xin lỗi..." Giọng ông nghe dễ chịu, có ngữ âm của người Mỹ. Tim tôi đập chậm lại.

"Ông làm cho tôi sợ chết khiếp." Tôi nói một cách nghiêm chỉnh, nhận biết có bột trên áo tôi và có lẽ cũng ở trên tóc tôi. "Ông tìm Jammet phải không?"

"Không. Tôi nghe..." Ông chỉ về phía chiếc giường và các tấm chăn vấy máu: "Một chuyện kinh khủng... một cảnh thê lương khiếp đảm. Xin lỗi bà, tôi không được biết tên bà."

Ông mỉm cười một cách trang trọng, và tôi thấy mình có cảm tình với ông. Tôi không đánh giá cao cử chỉ đẹp, đặc biệt khi có người hạch hỏi sự hiện diện của tôi ở hiện trường vụ án.

"Tôi là Bà Ross. Láng giềng của anh ấy. Tôi đến để sắp xếp đồ đạc." Tôi mỉm cười trong nỗi nuối tiếc, cho thấy công việc là không dễ chịu chút nào. Đấy là tôi tưởng tượng, hoặc ông nhanh nhẩu khi nghe nói đến đồ đạc của Jammet?

"À, Bà Ross, tôi xin lỗi đã làm phiền bà. Tên tôi là Thomas Sturrock, ở Toronto. Tôi làm luật sư."

Ông chìa bàn tay ra, và tôi bắt lấy. Ông cúi đầu.

"Ông đến đây để xem xét gia sản của anh ấy phải không?" Theo kinh nghiệm của tôi, luật sư không ngẫu nhiên xuất hiện, tìm kiếm quanh quất trong đêm tối, tay chân lấm bẩn. Họ cũng không có khuy măng sét sờn và giày thủng lỗ.

"Không. Tôi không có công việc gì ở đây."

Chân thật. Không phải đặc tính biểu trưng của luật sư.

"Đây là một việc cá nhân. Tôi không rõ mình phải tiếp xúc với ai trong hoàn cảnh này, nhưng, bà biết không, Monsieur(19) Jammet sở hữu một vật có tầm quan trọng đối với một nghiên cứu của tôi. Anh ấy đã định gửi nó cho tôi."

Ông ngưng lại, thăm dò phản ứng của tôi, trong khi tôi cảm thấy thích thú. Sau khi đã lục lọi căn nhà khắp nơi, tôi không thể nghĩ ra có cái gì khiến cho bất kỳ ai chú tâm đến, đặc biệt đối với một người đàn ông như thế này. Nếu Jammet có vật nào như thế thì anh ấy hẳn đã bán nó rồi.

Ông thêm: "Nó không có giá trị, mà chỉ là mối quan tâm hàn lâm."

Tôi tiếp tục im lặng.

Với một nụ cười khiêm tốn, ông nói: "Tôi nghĩ cần thành thật với bà. Bà không có cách nào biết được tôi nói thật hay không, nên tôi sẽ kể hết cho bà. Monsieur Jammet có một mẫu xương hoặc ngà, lớn ngần này..." Ông chỉ vào lòng bàn tay: "Với dấu khắc trên đó. Vật này có thể quan trọng về mặt khảo cổ học."

"Ông nói ông là luật sư...?"

"Luật sư là theo nghề nghiệp. Còn khảo cổ học là mối quan tâm."

Ông giang rộng hai bàn tay. Tôi hoang mang, nhưng ông trông chân thành: "Tôi phải thú nhận là mình không quen thân với anh ấy, tuy rằng tôi lấy làm tiếc cho cái chết của anh. Tôi được nghe rằng vụ việc xảy ra... bất ngờ."

Tôi nghĩ "bất ngờ" là một cách diễn tả.

"Có vẻ như tôi quá tham lam khi đi tìm vật ấy ngay sau khi anh qua đời, nhưng tôi thực sự tin nó có tầm quan trọng. Nhìn nó thì không thấy gì, nên nếu người ta vì không thấy mà vứt bỏ nó thì thật là tiếc. Vậy thì bà đã biết - tại sao tôi đến đây."

Ông có cách nhìn tôi làm cho tôi an tâm - cởi mở và thiếu tự tin về mình. Ngay cả nếu ông nói dối, tôi vẫn không thể nghĩ ra ông làm hại tôi ra sao.

Tôi bắt đầu: "À, ông Sturrock, tôi không..."

Tôi chợt im bặt, vì vừa nghe một cái gì đấy - tiếng sỏi kêu lạo xạo trên con đường mòn phía sau ngôi nhà. Lập tức tôi nắm lấy cây đèn bão trên lò sưởi.

"Ông Sturrock, tôi sẽ giúp ông, nếu ông giúp tôi và làm theo lời tôi nói. Đi ra ngoài ẩn mình trong bụi rậm gần bờ sông. Đừng nói gì. Nếu ông làm thế và không bị phát hiện, tôi sẽ nói cho ông những gì tôi biết."

Ông há hốc miệng vì ngạc nhiên, nhưng rồi quày quả đi với tốc độ đầy ấn tượng đối với tuổi tác của ông: một giây đồng hồ sau khi tôi nói, ông đã đến ngạch cửa. Tôi thổi tắt ngọn đèn bão và khép cánh cửa, vặn sợi dây kẽm để giữ chặt nó rồi lẻn ra khu vườn rậm rạp của Jammet. Tôi thầm cảm ơn Jammet vì anh không lấy làm hãnh diện về thuật trồng hoa cảnh; khu vườn của anh có thể che giấu cả chục người như tôi.

Tôi cố hòa mình vào trong lùm bụi, nhận ra rằng một bàn chân tôi đang chìm xuống cái gì đấy mềm và ướt. Tiếng bước chân đến gần thêm, rồi ánh sáng một ngọn đèn bão trong tay của một bóng người.

Tôi kinh hãi tột cùng: đấy là chồng tôi.

Anh giơ ngọn đèn bão lên, mở cánh cửa và đi vào trong. Tôi chờ một hồi lâu, cảm thấy lạnh hơn, giày thấm sũng nước, tự hỏi khi nào Sturrock sẽ chán nản mà bước ra để nói chuyện với anh thay vì với một phụ nữ điên rồ. Rồi Angus lại đi ra, khép cánh cửa lại sau lưng. Anh không nhìn quanh quất mà biến mất trên con đường mòn, rồi chẳng bao lâu ánh sáng ngọn đèn của anh cũng mất hút khỏi tầm mắt.

Bây giờ trời đã khá tối. Tôi đứng dậy một cách cứng nhắc, các khớp xương kêu lạch cạch, và kéo chân khỏi vũng bùn. Đôi bít tất sũng nước. Tôi tìm hộp diêm và với ít khó khăn đốt lại ngọn đèn bão.

Tôi cất tiếng kêu: "Ông Sturrock." Một ít lâu sau, ông bước ra vùng ánh sáng của ngọn đèn, gạt những chiếc lá khỏi áo choàng luộm thuộm.

Ông mỉm cười với tôi: "À, quả là một cuộc phiêu lưu. Ông ấy là ai mà chúng ta phải lẩn trốn?"

"Tôi không biết. Trời tối quá nên không thấy rõ. Ông Sturrock, tôi xin lỗi vì hành vi của tôi, ông hẳn nghĩ tôi là con người kỳ quặc. Tôi sẽ chân thực với ông, vì ông đã chân thực với tôi, và hẳn là chúng ta có thể giúp đỡ lẫn nhau."

Tôi mở cánh cửa trong khi trả lời, và mùi hương ấy lại đập vào tôi. Nếu Sturrock không nhận ra, chồng tôi đã giấu mùi hương ấy rất giỏi.

Khi người vợ ra đi vào lúc chập tối và trở về lúc đêm khuya với một người đàn ông thì ít có ông chồng nào tỏ ra hòa nhã như Angus. Đấy là một trong những lý do mà tôi chịu cưới anh. Thoạt đầu, đấy là do anh tin tưởng nơi tôi; bây giờ thì tôi không biết, có lẽ anh không còn tin tôi có mãnh lực khơi dậy tình cảm thiếu trong sáng, hoặc đơn giản là anh không màng đến. Hiếm có người hoàn toàn xa lạ ở Sông Dove; thường thường họ là lý do để ăn mừng, nhưng Angus chỉ nhìn lên và trầm tĩnh gật đầu. Nhưng rồi, có lẽ anh đã trông thấy ông ấy ở ngôi nhà gỗ.

Sturrock nói ít về cá nhân mình, nhưng trong khi dùng bữa tôi tạo dựng một hình ảnh. Hình ảnh của một người mang giày thủng lỗ và thích hút loại thuốc lá thơm. Một người ăn món thịt heo và khoai tây như thể cả tuần chưa được bữa ăn ngon. Một người có dáng vẻ tinh tế và thông minh, và có lẽ cũng thất vọng. Và một vẻ gì khác - tham vọng. Vì ông rất khao khát tìm được mảnh xương ấy, cho dù nó là cái gì chăng nữa.

Chúng tôi kể cho ông nghe về Francis. Người ta đều biết những trường hợp con trẻ đi lạc trong rừng. Chẳng đặng đừng mà chúng tôi nói đến trường hợp các cô gái nhà Seton. Cũng như mọi người sống dọc theo Biên giới, ông biết các cô này. Sturrock chỉ ra những khác biệt giữa các cô gái nhà Seton và Francis. Tôi công nhận Francis không giống như một đứa con gái yếu đuối, nhưng phải nói rằng như thế vẫn chưa làm tôi yên tâm lắm.

Đôi lúc, bạn nhìn đến rừng cây theo cách khác nhau. Có lúc đấy đơn thuần là những cây cho gỗ xây nhà và củi đốt, che lấp mặt đất trơ trụi, và bạn lấy làm vui về điều này. Nhưng cũng có lúc, như tối nay, đấy là một khoảng tối mênh mông mà bạn không thể nhìn đến chốn tận cùng; nó không chỉ có chiều dài và chiều rộng khiến cho bạn đi lạc trong đó, mà còn có chiều sâu vô tận, hoặc một cái gì đấy hoàn toàn khác.

Và có lúc, bạn thấy mình nhìn qua anh chồng và băn khoăn: đấy có phải là người đàn ông cởi mở mà bạn nghĩ mình thấu hiểu - người trụ cột, người bạn trên đường đời, người kể chuyện vô vị nhưng vẫn làm bạn cười - hoặc liệu anh có những chiều sâu mà bạn chưa từng thấy? Liệu anh ấy không làm được việc gì?

***

Trong đêm, nhiệt độ hạ thấp. Tuyết rơi nhẹ đón chào Donald khi anh chà lớp băng đóng phía sau kính cửa sổ và nhìn ra ngoài. Anh thắc mắc Jacob đã ngủ trong nhà kho hay không. Jacob quen chịu lạnh. Mùa đông rồi - mùa đông đầu tiên của Donald trên đất nước - trời không lạnh lắm, nhưng anh vẫn bị sốc. Cái lạnh buổi sáng thấu xương chỉ là màn khởi đầu.

Knox đã thu xếp cho một người địa phương đi theo Mackinley để truy tìm thương nhân người Pháp. Một người tầm thường để Mackinley không phải chia sẻ vinh quang với anh này... Rồi Donald thấy ý nghĩ như thế là nghiệt ngã. Trong thời gian này, càng ngày anh càng có ý nghĩ nghiệt ngã. Trước khi rời Scotland, anh không nghĩ sẽ như thế - mảnh đất rộng cô đơn có vẻ như hứa hẹn sự thuần khiết, nơi khí hậu khắc nghiệt và cuộc sống giản đơn tạo lòng can đảm cho con người và gột rửa những lầm lỗi vụn vặt. Nhưng không hẳn thế - hoặc có lẽ chính anh có lỗi, không tự gột rửa được. Có lẽ trước tiên là do anh không có đủ tố chất đạo đức.

Sau khi Mackinley đã ra đi, lầm lì và cáu giận, Donald kéo dài thời gian với cốc cà phê để mong gặp Susannah. Dĩ nhiên đó cũng là niềm vui khi ngồi bên chiếc bàn phủ vải trắng và chiêm ngưỡng những bức họa trên tường, được một phụ nữ da trắng phục vụ - dù đó là phụ nữ Ireland - và đăm chiêu nhìn ngọn lửa mà không phải chịu đựng trò đùa cợt nhắm đến mình. Cuối cùng, lòng kiên nhẫn của anh được tưởng thưởng: hai cô gái bước vào và ngồi xuống.

Maria nói: "À, anh Moody, thế là anh đang bảo vệ cho chúng tôi an toàn trong khi những người khác truy tìm các nghi can."

Quả là khác thường khi trong một câu nói Maria có thể khiến anh có cảm tưởng mình là kẻ hèn nhát. Anh cố không ra vẻ tự bào chữa ra mình: "Chúng tôi đang chờ Francis Ross. Nếu anh ấy không trở về hôm nay thì chúng tôi sẽ đi tìm."

Susannah nhíu mày nhìn anh một cách duyên dáng: "Anh không nghĩ anh ấy làm chuyện đó chứ?"

"Tôi không biết gì về anh ấy. Cô nghĩ sao?"

"Tôi nghĩ anh ấy là đứa con trai mười bảy tuổi. Khá đẹp trai." Với câu nói này, Maria tinh nghịch nhìn anh.

Hướng mắt xuống mặt bàn, Susannah nói: "Anh ấy dễ mến. Nhút nhát. Không có nhiều bạn."

Maria khịt mũi, ra điệu bộ mỉa mai. Donald nghĩ bất kỳ anh trai trẻ nào cũng phải nhút nhát và ngượng ngập trước tính chua cay của Maria và vẻ đẹp của Susannah.

Maria thêm: "Chúng tôi không quen biết anh ấy lắm. Tôi không rõ ai là bạn thân với anh ấy. Chỉ có điều là anh ấy luôn có vẻ như con gái. Anh không đi săn hoặc làm những việc mà đa số những anh con trai làm."

"Những anh con trai khác làm gì?" Donald cố gắng tách rời giữa hiện tại và tuổi mười bảy của mình, lúc ấy anh không đi săn và chắc chắn sẽ bị các cô này gọi là giống như con gái.

"À, anh biết không, họ đi chung với nhau, quậy phá, say xỉn... Mấy chuyện điên rồ như vậy."

"Cô nghĩ người không làm mấy chuyện đó thì không phạm tội giết người, hay sao?"

"Không..." Maria ra vẻ đăm chiêu một khoảnh khắc. "Có vẻ như lúc nào anh ấy cũng ủ rũ và... à, như là có cái gì đó đang diễn ra dưới bề mặt."

Nét mặt sáng lên, Susannah nói: "Tôi nhớ rồi, có một lần. Tôi nghĩ lúc anh ấy mười bốn tuổi, và một đứa con trai khác, có phải đó là George Pretty...? Không, không, đó là Matthew Fox. Hoặc là..." Cô bỏ lửng câu nói, nhíu mày. Chị cô nhìn qua em gái.

"À, Matthew, hay ai đó, cố quay cóp bài làm của anh ấy rồi khoe khoang về việc này, anh biết không, cố tình cho mấy đứa bạn thấy... rồi thình lình Francis nhận ra và nổi lên một cơn giận dữ kinh hãi. Tôi chưa từng thấy ai nổi giận như vậy, nhưng anh ấy là như thế đó - mặt anh trắng bệch, trong khi bình thường da anh có màu đồng, anh biết không...? Hừm, dù sao đi nữa, anh ấy xông đến đánh Matthew như thể muốn giết chết anh này. Anh ấy cơ hồ như nổi điên; ông Clarke và một anh khác phải kéo anh ra. Trông thật là đáng sợ."

Cô nhìn qua Donald, đôi mắt nâu mở to: "Đã từ lâu tôi không nghĩ đến chuyện này. Anh có giả định...?"

"Đây không phải là tấn công trong cơn điên cuồng, có phải vậy không hả anh Moody?" Maria vẫn giữ vẻ điềm tĩnh trong khi Susannah trở nên kích xúc.

"Chúng tôi không thể loại ra bất kỳ việc gì."

"Ông Mackinley nghĩ hung thủ là một nhà buôn người Pháp,

phải không? Chính vì vậy mà ông ấy truy lùng ông kia. Hoặc có lẽ ông ấy chỉ muốn kết tội nhà buôn người Pháp. Ở Công ty, họ không thích các nhà buôn hành nghề tự do, phải không hả anh Moody?"

"Dĩ nhiên là Công ty muốn bảo vệ lợi ích của mình, nhưng cũng có lợi nếu người đặt bẫy nhận được giá cố định khi mang da đến bán; Công ty phải chăm lo đời sống cho nhiều người, trong khi người đặt bẫy biết cần đi đâu và cuộc sống của họ thì... ổn định. Khi có cạnh tranh thì giá cả lên xuống, và các nhà buôn hành nghề tự do không chăm lo cho gia đình họ. Đó là điều khác biệt giữa... trật tự và rối loạn." Donald nghe giọng điệu kẻ cả trong câu nói của mình và thầm ngượng ngùng.

"Nhưng các nhà buôn hành nghề tự do trả giá cao hơn so với Công ty, thế nên người đặt bẫy có quyền nhận giá này, phải không? Rồi sau đó anh ấy có thể chăm lo cho gia đình mình."

"Dĩ nhiên là anh ấy được quyền làm thế. Nhưng rồi anh ấy phải chịu rủi ro là nhà buôn hành nghề tự do đó có thể không có mặt năm sau - anh ấy không thể dựa vào người kia theo cách anh dựa vào Công ty."

Maria vẫn khăng khăng: "Nhưng Công ty khuyến khích người Da Đỏ làm ăn với họ chịu lệ thuộc vào rượu và giữ độc quyền bán rượu để họ luôn quay lại, đúng vậy không?"

Donald cảm thấy máu dồn lên cổ nóng bừng. Giọng anh nghe có vẻ khá tức giận: "Công ty không khuyến khích chuyện gì như vậy. Người đặt bẫy muốn làm gì tùy thích, họ không bị ép buộc làm gì cả."

Susannah quay qua cô chị: "Đó là lời kết án kinh khủng. Hơn nữa, không phải là lỗi của anh Moody nếu có chuyện này."

Maria nhún vai, tỏ vẻ không được thuyết phục.

Donald bước ra ngoài, để không khí làm nguội mặt mình. Anh sẽ cố tìm gặp một mình Susannah sau - không thể nào trò chuyện với sự hiện diện của cái cô Maria khó chịu. Anh châm lửa dọc tẩu để trấn tĩnh, và thấy Jacob trong nhà kho, đang nói chuyện với con ngựa của anh ta trong thứ ngôn ngữ vô nghĩa.

"Chào anh Moody."

"Chào. Anh ngủ ngon không?"

Jacob lộ vẻ khó hiểu, như anh vẫn thường lộ vẻ như vậy đối với câu hỏi này. Anh đã ngủ - còn chuyện gì khác để nói nữa? Anh cũng nằm thao thức, nghĩ về người bị hại và cái chết của người chiến binh mà anh đã thấy ở quê nhà, trên chiếc giường của ông này. Tuy thế, anh gật đầu để làm cho Donald vui.

"Jacob, anh có thích làm việc cho Công ty không?"

Lại thêm một câu hỏi kỳ khôi.

"Có."

"Anh không thích làm việc cho người khác - như là nhà buôn hành nghề tự do - phải không?"

Jacob nhún vai: "Bây giờ thì không - với gia đình tôi. Khi đi vắng, tôi biết họ an lành và không bị bỏ đói. Còn hàng hóa của Công ty thì rẻ - rẻ hơn nhiều so với bên ngoài."

"Thế thì làm việc cho Công ty là tốt, phải không?"

"Tôi nghĩ vậy. Mà này, anh muốn đi hả?"

Donald cười lớn, lắc đầu, rồi tự hỏi tại sao chính mình chưa từng mang ý nghĩ này. Bởi vì anh không có chỗ nào khác?

Có lẽ cũng không có chỗ nào khác cho Jacob - cha anh là một nhân viên Công ty, người tải hàng, và Jacob bắt đầu làm việc lúc mười bốn tuổi. Cha anh qua đời sớm. Bây giờ anh thắc mắc có phải ông ấy bị tai nạn hay không, nhưng giống như nhiều khía cạnh khác trong đời Jacob, anh không thể tìm ra cơ hội thuận tiện để hỏi.

Lý do Donald trở nên bất an là vì Maria đúng lý khi nói Công ty luôn muốn giữ thế độc quyền - nhưng họ có lý do khi sợ bị cạnh tranh. Do chán ngán hàng thế kỷ chịu sự độc quyền trong những vùng hoang dã, một số nhà buôn lông thú độc lập - chủ yếu là người Pháp và người Mỹ - đang cố phá thế độc quyền của Công ty. Đã có những nhóm đối thủ nhỏ, nhưng Công ty đều trấn áp hoặc dập tắt tất cả bọn họ. Nhưng liên minh mới này, có tên Công ty Bắc Mỹ, khiến cho các nhà quản trị lo lắng. Nhờ có nhiều túi tiền rủng rỉnh tài trợ, họ phớt lờ các quy định (ý nói là các quy định của Công ty). Các nhà buôn trả giá cao cho người đặt bẫy và bắt những người này cam kết sẽ không bán sản phẩm cho Công ty nữa. Có lẽ họ vừa hối lộ vừa đe dọa - hơn là có lẽ, bởi vì chính Công ty cũng làm theo cả hai cách. Vì thế mà cả nền mậu dịch và lợi nhuận đều sụt giảm.

Nhiều lần Mackinley đã thảo luận căng thẳng với Donald về bản chất xảo quyệt của các nhà buôn hành nghề tự do, và sự cần thiết phải trói buộc dân bản địa vào Công ty bằng rượu, súng đạn và thực phẩm. Đấy là chuyện khiến cho máu dồn lên mặt của Donald - lời kết án của Maria là khá chính xác. Nhưng nó không tệ hại hơn so với những gì người Mỹ đang làm. Đáng lẽ anh phải kể cho Maria nghe về ngôi làng người Da Đỏ nhờ có Pháo đài mà có thực phẩm và sự bảo vệ. Đáng lẽ anh phải kể cho cô nghe về vợ và hai con của Jacob với đôi mắt toát lên niềm tin tưởng, nhưng, như mọi khi, anh không nghĩ ra những chuyện này vào thời điểm thích hợp.

Chính trong một cuộc trao đổi với Mackinley mà Donald nghĩ ra: có lẽ vấn nạn giảm lợi nhuận bắt nguồn từ một nguyên nhân cơ bản hơn là từ lòng tham của người Mỹ. Việc đặt bẫy bắt thú rừng đã diễn ra hơn hai trăm năm, và đã gây tổn hại. Khi Công ty thiết lập những thương điếm đầu tiên, thú rừng sinh sống sung túc trong các vùng chung quanh, nhưng lòng tham về lợi nhuận càng ngày càng đẩy thú rừng vào chốn hoang dã hơn. Từ khi tham quan nhà kho lông thú cùng với Bell, Donald chưa từng thấy con chồn bạc thứ hai, và cũng chưa từng thấy chồn đen. Không ai mang đến đây bán.

Donald thúc ngựa chạy cho kịp với Jacob. Họ đang phi qua một vùng rừng cây nơi mà những chiếc lá cuối cùng đã đổi màu sáng sủa hơn, với lớp băng giá đóng ngoài mặt. Nếu Susannah không màng đến phương cách của Công ty, tại sao anh lại băn khoăn? Dù gì chăng nữa, trong vấn đề này thì trật tự vẫn tốt hơn là rối loạn. Đây là điều mà anh cần nhớ.

Họ để cho hai con ngựa gặm cỏ bên bờ sông rồi bước đến ngôi nhà gỗ. Donald có cảm giác nhẹ nhõm khi thấy ngôi nhà bây giờ đã trống. Anh đã cố không tỏ vẻ ngượng ngập khi đối diện với thi hài, nhưng đấy là kinh nghiệm mà anh không vội lặp lại. Trong khoảnh cỏ chung quanh ngôi nhà, Jacob cúi xuống để quan sát. Ngay cả Donald cũng nhận ra những dấu chân lộn xộn.

Jacob chỉ tay xuống nền đất dưới bụi rậm: "Đây là từ đêm qua. Xem này, có ai đó ẩn nấp ở đây."

"Có thể là mấy đứa con trai trong làng không?"

Jacob chỉ ra rằng dường như có các loại dấu chân khác nhau.

"Nhìn xem, đây là... giày ủng của đàn ông; dưới kia là dấu chân có hình thù khác - vậy thì có hai người. Người có chân to hơn đi đến đây trước. Nhưng người sau cùng rời khỏi nơi đây thì có dấu chân này - nhỏ hơn, có lẽ là một đứa trẻ... hoặc một phụ nữ."

"Một phụ nữ hả? Anh có chắc đó không phải là dấu chân từ hôm qua chứ? Đó có thể là người phụ nữ lo thu gom thi hài không?"

Jacob lắc đầu.

Donald cảm nhận niềm vui chiến thắng khi khám phá ngăn kệ đựng bột bị lệch ra từ khoảng trống phía dưới, nhưng chính Jacob là người tìm thấy chỗ cất giấu dưới vài hòn đá. Bí ẩn về gia sản của Jammet được giải đáp - trong một cái thùng lót lớp chì có ba khẩu súng trường Mỹ, một ít đồng tiền vàng và một xấp đô la Mỹ được gói trong vải dầu. Jacob thốt lên một tiếng kinh ngạc. Donald suy tính phải làm gì với các thứ này, và quyết định giấu về chỗ cũ cho đến khi họ có thể quay lại với một chiếc xe cút kít. Họ xếp đặt lại các hòn đá rồi Jacob lấy lá cây rải lên để chỗ cất giấu trông như tự nhiên. Một ý nghĩ nghi kỵ thoáng qua trong đầu và anh tự trách mình vì nghi Jacob có thể dấy lên lòng tham đối với gia sản này, vốn cao hơn khoản tiền anh này kiếm được trong mười năm. Donald nhận ra rằng mình không thể suy đoán từ vẻ mặt của Jacob như anh tin mình suy đoán được từ người da trắng. Anh mong Jacob không nhận biết anh thiếu tin tưởng qua nét mặt của mình.

***

Ann Pretty ngạc nhiên vì gặp lại tôi nhanh đến thế sau khi đã vay cà phê của tôi, và thái độ của chị trở nên dè dặt, mặc dù tôi đến không phải để đòi lại khoản vay mượn. Ida đang ngồi bên bếp, lầm lì lật qua các trang giấy. Nó ngước nhìn lên, khuôn mặt nhợt nhạt như bị ma ám. Cô bé lên mười lăm tuổi và tôi thấy thú vị nơi nó, có lẽ là vì nó ở tuổi bằng với Olivia lúc trước. Cũng bởi vì nó thiếu hòa hợp với gia đình Pretty, như con quạ trong một đàn gà đang chạy trốn - nó người mảnh khảnh, có nước da ngăm đen, sống theo nội tâm, và theo lời người ta nói thì nó sáng dạ. Cô bé vừa khóc.

Ann nói vang lên tuy đang đứng gần tôi: "Chị Ross! Chị có tin tức gì về con trai không?"

"Angus đã đi tìm nó."

Bây giờ, ở đây tôi không chắc mình giữ được mãi vẻ bề ngoài bình thản. Nếu Angus không nói chuyện với tôi thì tôi biết trò chuyện cùng ai?

"À, con cái hay làm khổ thế đó." Chị liếc tia nhìn nghiêm khắc về phía Ida. Cô bé cắm cúi trên tấm vải, đang làm việc thêu may với những đường móc nhỏ sát nhau.

"Chồng tôi không được vui khi ra đi, nên tôi không hỏi anh đi đâu. Và khi trở lại, anh sẽ bối rối vì chuyện Jammet. Dù cho chị có nói gì về anh ấy, anh vẫn là người tốt. Anh tử tế đối với Jammet."

"Quả là lúc gay go. Có Trời mà biết chúng ta rồi sẽ ra sao."

Ida buông tiếng thở dài nhẹ. Đầu cô bé nghiêng xuống nên tôi không thấy khuôn mặt, nhưng tôi biết nó lại khóc.

Ann cũng thở dài, giọng sắc lẻm: "Này đứa con gái, tôi không biết tại sao cô lại khóc. Cô đâu có quen thân với anh ấy."

Ida khụt khịt mà không nói gì.

Ann quay sang phía tôi, lắc đầu: "Tôi tội nghiệp cho mẹ của Jammet. Theo tôi được biết, bà ấy không có ai khác. Chị có biết hai tháng trước anh ấy đi Chicago không? Xin hỏi chị, một người như anh ấy đi Chicago để làm gì?"

"Tôi ước gì họ đi Chicago chứ đừng bận tâm về Francis nữa; cứ tiếp tục truy lùng nó mãi là vô lý."

"À ra thế."

Ida lại nấc lên một tiếng, và bây giờ bờ vai cô bé rung lên.

"Ida, thôi đi có được không? Đi lên lầu chứ đừng ngồi đó mà sụt sùi. Chúa tôi..."

Ida đứng dậy bước đi mà không nhìn hai chúng tôi.

"Cái đứa con gái đó, nó làm cho tôi điên lên. Chị phải vui vì không có con gái..." Khi vừa nói đến đây, chị nhớ đến Olivia, và tôi tin chị muốn tỏ lời xin lỗi, nhưng rồi loại bỏ ý nghĩ điên rồ này ra khỏi đầu óc. "Nhưng chị đã thử với đứa kia."

Tôi nhìn nhận rằng đúng.

"Đó là dòng máu trong người phát tiết ra. Chị không làm gì được. Chị không hề biết cha mẹ của nó là ai, đúng không? Ai biết được họ không phải là trộm đạo và dân du thủ du thực? Đó là chất Ireland trong con người của nó. Không tin tưởng họ được. Khi còn ở Kitchener(20), có một đám người Ireland, mình để hở một chút là họ ra tay ăn trộm. Ý tôi không phải nói về Francis của chị, xin chị nhớ cho, nhưng bản chất bọn họ là vậy. Bản chất là vậy, nên chị phải trông chừng."

Tôi tin chị ấy cố tỏ ra tử tế, cho dù thốt lên lời lẽ xúc phạm; chỉ vì chị không biết phải làm gì khác.

"Ida có chuyện gì thế? Chị không nên quá khắt khe với nó, chị cần nhớ mình ra sao ở tuổi nó."

Ann khịt mũi: "Tôi không bao giờ ở tuổi đó. Từ lúc lên mười tôi đã trông nom nhà cửa, không có thời giờ rảnh rỗi mà ngồi than thở." Chị liếc mắt nhìn tôi, ánh mắt ranh mãnh khôi hài thường theo sau là câu đùa cợt xói vào tôi: "Chị biết tôi nghĩ gì không? Tôi cho là nó yêu Francis của chị. Nó không nói ra, nhưng tôi nghĩ tôi biết."

Tôi kinh ngạc đến mức gần như phá lên cười: "Ida?" Khó mà tin được; nó chỉ là một đứa con gái gầy trơ xương chứ không là gì khác. Và tôi không bao giờ nghĩ nhà Petty có nhiều thời giờ mà để ý đến Francis. Có một chuyến đi cắm trại với kết quả thất bại toàn diện mà Angus và Jimmy nài ép hai đứa con trai đi cùng, rồi Francis chịu đi với George và Emlyn. Hai ngày sau, họ trở về và Francis không nói một lời về chuyện này. Sau vụ đó, tôi không còn muốn khuyến khích nó giao du với họ nữa.

"Chúng nó thân nhau ở trường, trước khi thằng bé ra đi."

"Để tôi nói chuyện với cô ấy. Tôi còn nhớ mình ra sao ở tuổi chị. Chị biết không, tôi luôn nghĩ cô bé nhắc cho tôi nhớ lại chính mình khi còn trẻ." Tôi mỉm cười với Ann, thích thú với ý nghĩ là nếu con gái chị thật sự giống tôi thì đấy là cơn ác mộng tồi tệ nhất của chị.

Tôi dò theo tiếng nức nở để tìm thấy Ida trong phòng ngủ chật hẹp, đang nhìn ra khung cửa sổ. Ít nhất, tôi chắc chắn cô bé đang đăm đăm nhìn ra khung cửa sổ, cho dù cô đang nghiêng người.

"Mẹ cháu nói lúc này cháu thích đi học."

Ida nhìn lên với đôi mắt đỏ hoe và làn môi cong cớn: "Thích hả? Không đúng."

"Francis vẫn nói cháu là người sáng dạ."

"Thật vậy sao?" Trong một chốc, nét mặt cô bé dịu đi. Thế là có lẽ Ann đã nói đúng.

"Nó bảo cháu giống như một học giả. Có lẽ cháu sẽ tiếp tục học được ở trường Coppermine - cháu đã nghĩ đến việc này chưa?"

"Hừm. Không biết Ma-ma và Pa-pa có cho không."

"À, đã có đủ con trai trông nom nhà cửa rồi, đúng không?"

"Cháu nghĩ vậy."

Tôi mỉm cười với cô bé, và nó gần như mỉm cười lại. Cô bé có khuôn mặt thon nhỏ, xương xẩu, với những vết nhám dưới hai con mắt. Không ai nghĩ nó đẹp.

"Bà Ross ạ, bà có được đi học nhiều không?"

"Có. Việc đi học là rất đáng giá."

Gần như thế. Chắc chắn tôi đã học đến nơi đến chốn, nếu trong thời gian ấy tôi không ở trong bệnh viện tâm thần. Bây giờ cô bé nhìn tôi với vẻ ngưỡng mộ, và tôi ước ao mình là con người như trong ý nghĩ của nó. Tôi có thể là người dạy dỗ cho nó - trước đây tôi chưa từng có ý tưởng này, nhưng đấy là một ý tưởng vui vui. Có lẽ đấy là một phần bù đắp khi người ta có tuổi.

"Francis cần tiếp tục đi học. Anh ấy thật sự thông minh." Má nó ửng đỏ khi không quen nói ra ý kiến cá nhân.

"À, có lẽ đúng. Thời gian gần đây nó không trò chuyện với tôi. Cháu sẽ hiểu ra: khi cháu làm mẹ, con cái cháu không muốn nghe cháu."

"Cháu sẽ không kết hôn. Không bao giờ."

Nét mặt cô bé lại thay đổi - trở lại vẻ u tối.

"Lúc trước tôi cũng đã từng nói như thế, cháu biết không? Nhưng sự đời không phải lúc nào cũng diễn ra như cháu nghĩ."

Vì lý do nào đó, tôi đang mất cô bé. Lệ lại trào lên khóe mắt nó.

"Ida... Tôi không rõ Francis có nói gì với cháu trước khi nó đi không? Về việc nó đi đâu, hoặc đại khái như thế?"

Cô bé lắc đầu. Khi nó ngước mặt lên, tôi kinh ngạc thấy đôi mắt nó lộ nỗi đau khổ. Buồn rầu pha một vẻ gì đấy - tức giận chăng? Vẻ gì đấy đối với Francis.

"Không, anh ấy không nói gì."

Tôi trở về nhà mà cảm thấy tồi tệ hơn so với lúc ra đi. Tôi thật sự không trông mong Angus sẽ trở về cùng với Francis, nên trong đêm khuya khi anh về một mình, tôi không lấy làm ngạc nhiên. Da dẻ anh nhăn nheo vì mệt nhọc và anh nói chuyện mà không nhìn đến tôi.

"Anh đi đến Hồ Swallow. Thấy dấu vết của ai đó - hơn một người, rõ như ban ngày. Nhưng nó không có ở đấy. Không có ai câu cá ở đó, anh thề mà nói thế. Nhưng vẫn tiếp tục tìm kiếm. Nếu Francis có đi qua đó thì nó đang chạy trốn."

Tôi nghĩ thầm: Còn anh thì trở về. Anh quay bước về nhà. Tôi muốn đương đầu. Tôi đã quyết định mà mình không muốn suy nghĩ gì nữa.

"Thế thì em sẽ đi tìm nó."

Anh không cười nhạo như phần lớn các ông chồng khác. Tôi không biết liệu mình thầm mong anh ngăn cản tôi không, ít nhất là tranh cãi và van xin tôi đừng đi, đừng làm việc gì ngu xuẩn và can đảm và nguy hiểm như thế. Dù sao chăng nữa, anh không làm gì cả. Tôi nghĩ về các nhân viên Công ty ở Caulfield - họ sẽ đến đây nhanh, để xem Francis đã về chưa. Nhìn tận bộ mặt ranh mãnh của chúng tôi để xem chúng tôi đang sợ hãi đến đâu. Tôi không còn sức lực nào mà giả vờ. Tôi sẽ nhìn thẳng vào họ và cho họ thấy tôi đang sợ hãi.

Tôi đang sợ đến chết khiếp.

***

Gần giữa trưa, Donald và Jacob quay lại Caulfield, và Donald đã kiếm được một chiếc xe cút kít để thu giữ gia sản được cất giấu của Jammet. Cảm thấy ngượng vì ý nghĩ của mình lúc trước, anh phái Jacob đi một mình để mang cái thùng về. Anh thấy nhẹ người vì việc này, và thêm lợi điểm là có thời gian dùng bữa trưa với bà Knox và hai cô con gái. Nhưng họ vừa bắt đầu với món thịt heo khi anh đặt chân đến nhà họ.

Anh bắt đầu một cách tự nhiên: "Tôi đang thắc mắc gặp được ông Sturrock ở đây hay không khi quay lại. Tôi nghĩ ông ấy đã quen biết chồng bà từ lâu."

Bà Knox nhìn anh với vẻ bị đánh động: "Ông Sturrock...? Thomas Sturrock...?" Hai cô gái nhanh chóng trao đổi nhau tia nhìn có ý nghĩa.

"À, tôi chỉ biết họ chứ không biết tên ông ấy, nhưng... tôi nghe nói ông ấy quen với chồng bà... Xin lỗi... tôi có lắm lời không...?"

Đúng là Bà Knox tái mặt đi, nhưng giọng nói vẫn cố trấn tĩnh: "Không sao, anh Moody à, tôi chỉ ngạc nhiên, thế thôi. Trong một thời gian dài tôi không nghe đến tên ông ấy."

Donald nhìn xuống đĩa thức ăn của mình, bối rối và ngượng nghịu. Susannah đang chăm chăm nhìn chị cô.

Maria đằng hắng rồi nói: "Anh Moody à, tôi muốn giải thích là chúng tôi có hai chị họ, Amy và Eve, đi chơi trong rừng rồi mất tích hẳn. Bác Charles dẫn vài người cố sức đi tìm, và ông Sturrock ở trong nhóm này. Ông ấy được biết tiếng là Người Dò tìm - anh biết chứ, là người chuyên đi tìm trẻ con bị dân Da Đỏ bắt cóc. Ông ấy đi tìm một thời gian, nhưng không hề thấy gì."

Susannah nhanh nhẩu tiếp: "Ông ấy chi tiêu hết tiền của bác Charles, khiến cho bác chết trong đau khổ."

Maria nói với Donald: "Ông ấy lên cơn đột quy ."

Bà Knox im lặng quay mặt đi.

Donald kinh ngạc. Từ nét mặt của Susannah, anh hiểu rằng đó là chuyện mà ngày trước cô định kể cho anh nghe, mà không thêm thắt. Và cô đang phiền hà vì bị truất quyền kể chuyện.

Cuối cùng, anh nói: "Tôi lấy làm tiếc. Quả là một chuyện kinh khủng."

Bà Knox nói: "Đúng vậy. Cả chị tôi và chồng cô ấy đều không hồi phục được. Maria nói ông ấy lên cơn đột quy là đúng, nhưng ông ấy chỉ hưởng thọ được năm mươi hai tuổi. Vụ việc khiến cho ông ấy suy sụp."

Susannah ném ánh mắt trong niềm vui chiến thắng đến cô chị.

Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, âm thanh duy nhất là từ chiếc nĩa của Donald chạm vào đĩa thức ăn, và bất chợt anh cảm thấy mình thô lỗ khi cứ tiếp tục ăn, nên bàn tay cầm chiếc nĩa giơ lửng lơ trên cao. Ngay cả tiếng anh nhai thức ăn nghe ồn ào một cách kinh tởm, nhưng bây giờ khi miệng đang đầy anh không làm gì được.

Bà Knox mỉm nụ cười rắn rỏi: "Tôi mong anh vừa miệng với món thịt heo." Bà là người nội trợ luôn hãnh diện.

Donald nói nhỏ: "Ngon lắm." Anh nhận ra là bên tay phải mình, Susannah đã buông nĩa xuống.

Maria nói: "Chuyện đó xảy ra lâu lắm rồi. Mười bảy hoặc mười tám năm. Nhưng anh chưa nói cho biết Francis Ross đã về nhà chưa? Hay là ngày mai anh sẽ đi ra chốn lùm bụi?"

Donald thấy cảm kích đối với cô: "Vào lúc này, anh ấy chưa về. Cha mẹ anh ấy đang lo lắng."

"Họ có nghĩ anh ấy mất tích, giống như..." Susannah ngưng lại trước khi nói dứt câu.

"Francis Ross thích đi vào rừng. Anh ấy giống như người bản địa. Hẳn anh ấy biết rõ chốn hoang dã như trong lòng bàn tay."

"Dù sao chăng nữa, chúng ta sẽ biết rõ vụ việc khi tìm ra anh ấy. Jacob là người theo dõi dấu vết rất giỏi. Trễ một ít ngày thì đối với anh ấy vẫn không sao."

Bây giờ, sau bữa ăn trưa, Donald ngồi trong phòng đọc sách,

xem qua ghi chép của anh từ ngày hôm qua và thêm vào những sự kiện buổi sáng. Anh vừa quyết định đi tìm người mang tên Sturrock, thì Susannah bước vào mà không gõ cửa. Anh nhảy dựng lên, và điều khó tin xảy ra là khi vội vã anh đánh đổ chiếc ghế.

"Chết tiệt! Tôi xin lỗi, tôi..."

"Ôi, trời ơi..."

Susannah bước đến giúp anh nhấc lên chiếc ghế, hai người đứng sát nhau, cùng cười to, hai khuôn mặt cách nhau vài phân. Donald bước lùi ra sau, bỗng dưng cảm thấy kinh hãi là cô sẽ cảm nhận tim anh đang đập thình thịch.

Cô nói: "Tôi đến để xin lỗi. Chúng tôi đã không tiếp đãi anh đúng mức. Anh biết không, tôi đã mong chúng tôi sẽ đối xử với anh theo cách khác, khi gặp anh lần sau."

Vẻ mặt cô trông khá nghiêm túc, nhưng đôi má thoáng

ửng đỏ. Donald cảm thấy chấn động với niềm tin kỳ lạ là người con gái đẹp này yêu mến mình, và ý nghĩ này tràn ngập người anh như vừa nhấp một hớp rượu mạnh. Anh mong mình không nhe răng ra cười như một kẻ ngốc nghếch.

"Cô Knox à, cô không có gì phải xin lỗi."

"Xin anh gọi tôi là Susannah."

"Susannah."

Đây là lần đầu tiên anh gọi tên cô khi đối diện với cô, và việc này làm cho anh nở nụ cười. Cảm giác của tên cô trên làn môi, và thấy khuôn mặt cô đang ngước lên anh, khiến cho tim anh cháy bỏng.

"Cô là người tiếp chuyện quyến rũ nhất, và cô giúp làm vui trong... công việc này. Tôi... tôi thấy vui khi đến đây - ý tôi nói là vui vì Mackinley đã chọn tôi đi cùng."

"Nhưng tôi đoán ngày mai anh sẽ đi, rồi chúng tôi sẽ không gặp lại anh nữa."

"À... tôi nghĩ Công ty sẽ cần theo dõi các sự việc ở đây... Ai biết được, tôi có thể quay lại sớm hơn là cô nghĩ."

"À. Tôi hiểu."

Cô ra vẻ buồn rầu khiến cho anh có đủ can đảm để nói tiếp: "Nhưng, cô biết không, nếu... cô viết thư cho tôi thì thật là tuyệt, và... kể cho tôi nghe về những chuyện ở đây."

"Ý anh là, giống như một báo cáo?"

"À... đúng, dù rằng tôi cũng muốn biết... cô như thế nào. Tôi muốn viết thư cho cô, nếu cô không phiền."

"Anh mong viết thư cho tôi hả?" Giọng nói của cô tỏ vẻ ngạc nhiên một cách dễ mến.

"Tôi rất mong."

Một khoảnh khắc im lặng khi cả hai ngừng thở nhận biết ra họ đã nói những gì, và rồi Susannah mỉm cười đáp: "Tôi cũng mong."

Donald vui sướng một cách điên cuồng, cảm thấy người tràn đầy sinh lực mà từ lâu anh đã không nhận ra. Anh thầm cảm kích, rồi, không còn biết mình đang làm gì, chạy ra khỏi nhà, làm điều nghịch lý là muốn được một mình để vui mừng với niềm hạnh phúc trọn vẹn anh vừa tìm được. Anh đi đến cửa hàng của Scott, nghĩ rằng bất cứ chuyện gì diễn ra ở Caulfield thì John Scott hẳn phải biết. Anh đi nhanh qua khung cửa, cố giữ không nở nụ cười ngốc nghếch - dù sao chăng nữa thì một người đã chết - rồi thấy một phụ nữ có vóc người thanh mảnh, khuôn mặt bầu bĩnh, đang đứng sau quầy phục vụ. Bà nhìn lên khi nghe tiếng động ở ngạch cửa, thoạt đầu tỏ vẻ kinh hãi rồi nhanh chóng trấn tĩnh.

John Scott đi vắng, nhưng Bà Scott tỏ ra khá hữu ích. Donald nhận thấy bà có vẻ lơ đãng, và cố giữ tập trung khi cho anh biết rằng Ông Sturrock đang cư ngụ trong nhà bà, và có lẽ lúc này đang ở đấy; bà không chắc.

"Anh cứ tự nhiên đến gặp. Người giúp việc đang ở đó..." Bà Scott bỏ lửng câu nói, như thể vừa nhớ ra điều gì. "Không, để tôi cho người đi báo tin, như vậy hay hơn."

Bà đi qua cánh cửa sau. Qua khung cửa sổ, Donald nhìn lên đám mây trên bầu trời trông giống những mẩu phó mát, và nhớ lại làn môi dịu mềm của Susannah.

***

Thomas Sturrock có cung cách khiến cho Donald cảm thấy dễ gần - khi được nghe nói ông là Người Dò tìm, anh đã hình dung một người sống trong hoang dã với cử chỉ thô kệch và có tính khí khó chịu như anh đã từng chịu đựng ở Pháo đài, nhưng rồi anh ngạc nhiên và vui mừng thấy mình gặp một quý ông thanh lịch.

"Xin phép cho tôi được hỏi, làm thế nào ông đi đến việc làm cái nghề này?"

Hai người đang uống thứ cà phê đắng của Scott, ngồi trên hai chiếc ghế mà Bà Scott đặt gần bếp lò.

Sturrock nhìn vào chiếc cốc với vẻ thất vọng rồi mới trả lời: "Tôi đã từng làm qua nhiều việc, và đã từng viết về chủ đề nếp sống của người Da Đỏ, rồi có người biết được và yêu cầu tôi trợ giúp trong vụ một đứa bé bị bắt cóc. Tôi giúp được, thế là những người khác nhờ tôi giúp. Tôi không hề chuẩn bị làm nghề này, nó chỉ tự nhiên mà tới. Bây giờ thì tôi đã quá già với nghề này."

"Còn món vật mà ông đến tìm, ông có chứng cứ gì bằng văn tự cho biết Jammet muốn giao nó cho ông không?"

"Không. Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy thì anh không dự kiến mình sẽ bị giết."

"Ông không biết anh ấy có những kẻ thù nào sao?"

"Không. Anh ấy có thể đòi giá cao, nhưng đó không phải là động cơ để giết chết một người."

"Đúng, không thể nào."

"Lần đầu tiên anh ấy cho tôi xem mẩu xương, tôi xin phép chép lại chữ khắc ghi trên đó, khiến cho anh ấy biết tôi quan tâm nên anh từ chối, và nói sẽ bán mẩu xương cho tôi."

"Nhưng lúc ấy ông không mua nó à?"

"Không. Anh thấy đó, tôi không có tiền. Nhưng anh ấy đồng ý giữ nó cho đến khi tôi có thể trả tiền. Bây giờ tôi có tiền, nhưng, dĩ nhiên là..." - ông giang tay trong dáng điệu thất vọng - "tôi không biết nó ở đâu."

"Tôi sẽ trao đổi với Ông Knox về chuyện này. Chúng tôi chưa tìm ra di chúc. Nếu Ông Knox đồng ý, tôi dám nói là ông ấy sẽ bán nó cho ông. Đấy là, giả dụ chúng tôi tìm ra được nó."

Thình lình Donald nghĩ ra mà thầm hỏi liệu có phải Sturrock đã đi tìm mẩu xương ấy hay không. Anh nhớ lại những dấu chân bên ngoài ngôi nhà gỗ. Ba loại dấu chân. Ba người đã đến ngôi nhà gỗ đêm qua.

"Anh Moody à, anh thật là rộng lượng. Tôi cảm ơn."

"Vật đó là loại gì? Nó là thứ gì đó từ La Mã hay Ai Cập hở?"

"Tôi không biết chắc đó là cái gì. Có vẻ như không giống cái gì như vậy, vì lý do đó mà tôi muốn mua - tôi định mang nó đến người làm việc ở bảo tàng có kiến thức về những thứ như vậy."

Donald gật đầu, tuy vẫn không hiểu rõ tại sao Sturrock quan tâm đến món này. Nhưng anh biết chắc một điều là nếu có người quan tâm đặc biệt đến một món vật, thì cần phải cảnh giác tìm hiểu. Liệu có phải Sturrock đã tìm đến và Jammet từ chối bán mẩu xương, nên Sturrock giết anh ấy? Hoặc liệu Sturrock đã bán mẩu xương cho ai khác? Dù là trong tình huống nào thì có vẻ như Sturrock không phải là kẻ sát nhân. Nhưng đúng là ông không tìm ra mẩu xương, vốn rõ ràng là có giá. Thế thì, bây giờ ai đang giữ mẩu xương này?

Donald rời cửa hàng sau khi Sturrock cho biết ông sẽ lưu lại Caulfield trong vài ngày tới. Anh tự hỏi tại sao mình không nhớ ra mà hỏi ông về hai đứa con gái nhà Seton - có lẽ vì anh thấy khó tin là con người có cử chỉ lịch thiệp này lại là người lừa đảo như nhà Knox mô tả. Anh tự hỏi - không phải là lần thứ nhất - có phải vì thiếu kinh nghiệm mà mình có ấn tượng tốt quá nhanh hay không. Anh có nên đặt nghi vấn thêm, giống như Mackinley, vốn phán xét con người dựa trên nguyên tắc, cho rằng chẳng sớm thì muộn họ sẽ làm ông thất vọng - và điều này thường là đúng, hay không?

Trên đường, anh gặp Maria đang mang một chiếc giỏ. Anh nhấc mũ chào, và cô mỉm cười nhẹ. Có vẻ như cô tỏ ra thân thiện hơn hồi sáng, nhưng anh không muốn bắt chuyện với cô nếu cô không lên tiếng trước.

"Chào anh Moody. Cuộc điều tra diễn tiến ra sao?"

"À, tiến triển chậm, cám ơn cô."

Cô im lặng, như thể chờ cho anh nói tiếp, nên anh nói: "Tôi vừa trao đổi với Ông Sturrock."

Cô không tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ gật đầu như thể đã đoán trước: "Rồi thì sao?"

"Tôi nghĩ ông ấy là người dễ mến. Có học, nhạy cảm... không giống như những gì tôi hình dung lúc đầu."

"Tôi nghĩ ông ấy phải có vẻ dễ mến mới lừa đảo hết tiền của bác tôi - số tiền khá lớn, tôi tin là vậy."

Donald hẳn phải nhíu mày suy nghĩ, bởi vì cô nói tiếp: "Tôi biết bác tôi vì quá tha thiết nên sẵn sàng làm bất cứ việc gì, nhưng người có danh dự đáng lẽ phải nói cho ông ấy hiểu là không có hy vọng tìm ra hai đứa con gái, vì vậy nên từ chối lấy tiền. Đáng lẽ về sau này cần phải tỏ ra tử tế hơn. Chứ cuối cùng, bác tôi vừa mất con cái vừa mất cả tiền bạc cho cuộc sống, và ông ấy... à, tuồng như đã tự hủy hoại đời mình. Đó là sau khi bác gái tôi qua đời. Tôi nghĩ nói ra chuyện này thì nghe kinh khiếp, nhưng... tôi vẫn đoán hai đứa trẻ đã bị chó sói ăn thịt. Những người khác cũng nói thế, và tôi nghĩ họ nói đúng. Nhưng hai ông bà bác của tôi không bao giờ chấp nhận chuyện đó."

"Làm thế nào họ chấp nhận cho được?"

"Như vậy có tồi tệ hơn nhiều so với điều họ nghĩ hay không?"

"Tôi nghĩ cuộc sống, với bất kỳ giá nào... vẫn tốt hơn là cái chết."

Maria nhìn anh với đôi mắt dò xét - như một nông dân đang đánh giá một con ngựa. Anh nghĩ cô sẽ không bao giờ tìm được một người chồng nếu đánh giá đàn ông như thế.

"Có lẽ đàn sói mang tới một số phận tồi tệ hơn là cái chết." Câu nói sáo rỗng phát ra từ cửa miệng cô nghe như lời đùa cợt xấu xa.

"Thực sự chắc cô không nghĩ như vậy." Anh cảm thấy ngạc nhiên vì mình đã có can đảm đối nghịch với cô.

Maria nhún vai: "Vài năm trước, có hai đứa trẻ chết đuối trong vịnh. Đó là một tai nạn kinh hoàng. Dĩ nhiên là cha mẹ chúng than khóc, nhưng vẫn sống tiếp. Bây giờ họ có vẻ hạnh phúc - cũng hạnh phúc như bất kỳ ai trong chúng ta."

"Có lẽ vì không biết chắc đã xảy ra chuyện gì nên người ta khó chịu đựng được."

"Như vậy lại khiến cho kẻ vô liêm sỉ lợi dụng niềm hy vọng, cho đến khi vơ vét hết sạch."

Donald lại ngạc nhiên về lý lẽ của cô. Anh mơ màng nhớ lại lời của người cha, nói trong giọng điệu giảng giải: "Ý muốn gây sốc là tính trẻ con, rồi sẽ mất đi khi trưởng thành." Tuy vậy, Maria không có vẻ gì là thiếu trưởng thành. Anh tự nhủ rằng mình không còn cần phải đồng ý với người cha nữa; hai người đã cách xa nhau qua hai lục địa.

Donald nói như chống chế: "Ông Sturrock không có vẻ như người giàu có."

Maria nhìn qua phía sau Donald xuống con đường, rồi nhìn đến anh với nụ cười. Đôi mắt cô màu xanh, không giống như đôi mắt Susannah. "Chỉ vì anh thích ai đó nhưng không có nghĩa là anh tin tưởng được họ." Rồi khẽ nghiêng đầu - như cách chế giễu phép lịch sự - cô bước đi xa khỏi anh.

Suốt cả buổi chiều còn lại và buổi tối, Donald xem xét qua mấy món sự sản của Jammet, nhưng cũng như những người trước, anh không thể tìm ra món gì liên quan đến cái chết của Jammet. Tất cả sự sản của Jammet được gom vào một chỗ khô ráo trong nhà kho, Jacob đã giám sát việc tom góp ở ngôi nhà gỗ vì lý do bảo vệ, và anh cùng Jacob xếp lại các món trong các thùng và hộp. Tất cả cộng lại thành tài sản nhỏ nhoi đến mức đáng ngạc nhiên. Donald cố không nghĩ đến việc tài sản của mình sẽ nhỏ nhoi ra sao khi các đồng nghiệp của anh sắp xếp nếu anh thình lình xa lìa cõi trần ai này. Chẳng hạn so với tình cảm sâu đậm anh dành cho Susannah thì mớ tài sản đó chẳng là gì cả. Anh dặn lòng mình phải viết thư cho cô ngay sau khi rời Caulfield - là chuyện phi lý, vì hai người vẫn còn ở chung mái nhà, và vì Donald đã quyết định chờ cho đến khi Mackinley và Knox quay về, thế thì anh còn lưu lại đây một hoặc hai ngày nữa.

Anh sẽ xin một tấm ảnh của cô, để lưu giữ. Dĩ nhiên, không phải là anh dự trù mình sẽ bị giết. Chỉ dự phòng thôi.

***

Khi tôi còn là đứa con gái nhỏ, khi cha mẹ tôi còn sống, tôi thường bị khổ sở bởi những sự kiện mà người ta gọi là "có vấn đề". Tôi có nỗi sợ hãi đến tê liệt cả người khiến cho tôi không thể cử động được, thậm chí cũng không nói được gì. Tôi có cảm tưởng như đất đang dần trôi đi, và dường như tôi không thể tin cậy nơi mặt đất dưới chân mình - quả là một cảm giác đáng sợ. Các bác sĩ đo nhịp mạch cho tôi và nhìn vào mắt tôi rồi nói với tôi rằng cái chứng gì đó sẽ biến mất khi tôi trưởng thành (tôi nghĩ họ có ý nói đến hôn nhân). Tuy nhiên, trước khi có thể kiểm chứng giả thuyết này, mẹ tôi qua đời trong tình huống mù mờ. Tôi tin rằng bà tự tử, dù cha tôi bảo không phải. Bà đã dùng thuốc laudanum(21) quá liều, dù có chủ đích hay không. Tôi càng thêm khổ sở với các cơn sợ hãi cho đến lúc cha tôi không chịu được nữa mà đưa tôi vào - không cần quanh co về điểm này - bệnh viện tâm thần, dù cho nó có một cái tên lạ lùng chỉ bệnh viện chữa trị người bị suy nhược. Rồi cha tôi cũng qua đời, để lại tôi cho một người giám hộ thiếu tận tâm, thế là tôi được đưa vào một bệnh viện tâm thần công - đấy là tôi trung thực nói ra bản chất đích thực của bệnh viện này.

Trong bệnh viện tâm thần công, laudanum được sử dụng rộng rãi. Ban đầu người ta cấp thứ thuốc này cho các cơn hoảng loạn đến dại người, rồi cuộc sống tôi phải tùy thuộc vào nó, thay cho cha mẹ và bạn bè mình. Thuốc được dùng để trấn áp bệnh nhân gây rối, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng tôi thích được tự mình dùng thuốc, nên tôi dùng mưu mẹo để tìm cách lấy được thuốc. Tôi thấy dễ thuyết phục các nhân viên nam cấp thuốc cho mình, và vị Giám đốc - một anh trai trẻ duy tâm có tên Watson - tôi có thể nắm thóp anh ta. Một khi bạn đã quen làm việc gì thì bạn thường quên tại sao khởi đầu bạn làm việc ấy.

Sau đó, khi chồng tôi nghĩ thói quen của tôi là rào cản cho tình thân quen giữa hai chúng tôi thì tôi không dùng thuốc nữa. Hay nói đúng hơn, anh ném đi phần thuốc laudanum của tôi, khiến cho tôi phải chịu đựng mà không có thuốc. Anh là người duy nhất nghĩ rằng cần phải trải qua sự phiền hà đó. Đấy giống như là tỉnh táo lại sau cơn say xỉn dài, và trong một thời gian tôi cảm thấy tuyệt vời. Nhưng trong cơn tỉnh táo, bạn nhớ lại những gì mà bạn đã quên - chẳng hạn tại sao ban đầu bạn cần đến loại thuốc ấy. Trong những năm về sau, khi gặp chuyện khó khăn, tôi biết rõ tại sao mình đã bị nghiện thuốc, thế nên trong mấy ngày qua tôi đã nghĩ đến laudanum thường xuyên như là tôi nghĩ đến Francis. Tôi biết rằng mình có thể đi đến hiệu thuốc để mua. Tôi nghĩ đến việc này cả ngày lẫn đêm. Lý do duy nhất ngăn cản tôi là vì tôi là chỗ dựa duy nhất trên đời cho Francis. Và cho đến lúc này tôi chẳng giúp gì được cho nó cả.

Năm ngày sau khi Francis rời khỏi nhà, trong khi đang đi bộ dọc theo con đường mòn dẫn đến ngôi nhà gỗ của Jammet, tôi nghe một tiếng động phía trước. Một con chó chạy băng ngang đường tôi đi kêu ăng ẳng; một con chó tôi chưa từng biết, to lớn, lông bờm xờm, có vẻ hoang dại - loại chó kéo xe trượt tuyết. Tôi dừng lại: có ai đấy ở trong ngôi nhà gỗ.

Trên khoảnh đất cao phía sau ngôi nhà, tôi lẻn vào một lùm bụi để ẩn núp. Một con côn trùng cắn vào cổ tay tôi. Cuối cùng, một người đàn ông đi ra khỏi ngôi nhà gỗ và huýt sáo. Hai con chó chạy đến bên ông, kể cả con chó tôi đã trông thấy trên con đường mòn lúc trước. Tôi nín thở nơi ẩn núp, và khi gương mặt ông quay về phía mình, tôi cảm thấy ớn lạnh cả sống lưng. So với người Da Đỏ thì người này cao lớn, lực lưỡng hơn, mặc áo choàng màu lam có mũ trùm đầu, và quần may bằng da thú. Nhưng chính gương mặt của ông khiến cho tôi nghĩ đến người nhân tạo. Ông có vầng trán thấp và rộng, hai gò má nhô cao, sống mũi và miệng chúc xuống giống như mỏ chim ưng, tạo dáng dấp hoang dã và tàn bạo. Những nếp nhăn hằn sâu dưới làn da màu đồng hai bên miệng. Tóc đen và bù xù. Tôi chưa từng thấy người nào xấu xí đến thế - khuôn mặt như thể được một chiếc rìu cùn tạc từ một thớt gỗ. Nếu Cô Shelley(22) cần có một hình mẫu cho quái vật kinh khiếp, thì con người này hẳn sẽ là nguồn cảm ứng hoàn chỉnh.

Tôi chờ đợi, không dám thở mạnh cho đến khi ông ta quay vào ngôi nhà gỗ, rồi tôi rón rén đi ra khỏi chỗ ẩn núp. Trong một chốc, tôi suy tính phải làm gì - đi về tìm Angus và kể cho anh nghe, hoặc phóng đến Caulfield mà báo cho Knox? Hôm nay tôi quyết định không đối diện với người này, bởi vì tôi lập luận rằng hắn là con người nguy hiểm. Dù nghĩ gì chăng nữa, tôi thấy khó mà tin rằng người có bộ mặt như thế lại không có tính chất dữ dằn và tàn bạo. Cuối cùng, tôi trở về và thấy Angus đang ở nhà. Anh im lặng nghe tôi kể, rồi cầm lấy khẩu súng trường đi xuống con đường mòn.

Sau này, tôi biết được rằng anh đã đi đến ngôi nhà gỗ và bước thẳng vào bên trong. Angus gọi ông, và với lời lẽ mà tôi tin chắc là lễ độ nói rằng anh sẽ đưa ông đến Caulfield, vì đây là hiện trường một vụ án mà ông ta không có quyền hiện diện nơi đó. Người đàn ông lưỡng lự nhưng không chống cự. Ông nhấc khẩu súng trường của mình rồi đi trước anh, qua gần năm kilômét để đến Vịnh. Angus dẫn ông đến tận cửa sau nhà Knox. Trong khi cả hai chờ đợi, người đàn ông lạ mặt nhìn ra Vịnh với thái độ kiêu hãnh, xa cách, như thể không màng người ta sẽ đối xử với mình ra sao. Đến khi Angus quay về nhà, người lạ mặt đã bị bắt giữ. Angus lấy làm tội nghiệp cho hai con chó mà Knox không muốn cho vào sân vườn ông, nên anh dẫn chúng về nhà, cho rằng chúng không làm phiền gì cả. Tôi nghĩ hẳn anh có cảm tình với người lạ mặt nên mới chịu khó như thế.

***

Andrew Knox ngồi đối diện Mackinley, hút dọc tẩu. Ngọn lửa trong lò sưởi soi rọi một ánh sáng màu cam ấm áp lên khuôn mặt hai người - ngay cả khuôn mặt Mackinley cũng bớt tái đi. Knox không thể chia sẻ niềm thỏa mãn hiển nhiên của Knox. Họ thẩm vấn người lạ mặt trong một tiếng đồng hồ mà không thu lượm được thông tin gì quan trọng ngoại trừ tên ông này, William Parker, là người đặt bẫy thú rừng cùng với Jammet trước đây. Ông khai mình không biết Jammet đã chết, mà chỉ đi ngang qua, ghé thăm anh ấy và thấy ngôi nhà gỗ trống trơn. Ông đã lục soát ngôi nhà để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Mackinley phá tan bầu im lặng: "Ông bảo kẻ sát nhân không quay lại hiện trường vụ án. Nhưng nếu ông ta muốn có các khẩu súng hoặc đại loại như thế, mà lần đầu tiên không tìm được, thì hẳn ông ta có thể chờ cho đến khi tình hình lắng dịu rồi quay lại để tìm kiếm lần nữa."

Knox nhìn nhận sự thật này.

"Hoặc có lẽ ông ta đã bỏ quên vật gì đó và quay lại để tìm."

"Chúng ta đã không tìm thấy món gì lúc trước không có ở đó."

"Có lẽ chúng ta đã sai sót."

Hai hàm răng Knox cắn lấy đường rãnh mòn trên cái dọc tẩu; đấy là cảm giác dễ chịu - hàm răng và cán ăn khớp hoàn toàn với nhau sau thời gian dài sử dụng. Mackinley đã quá vội kết án người đặt bẫy thú rừng, muốn giải quyết vấn đề dựa theo sự kiện thay vì ngược lại. Knox muốn vạch ra điểm này nhưng không nỡ xúc phạm niềm tự hào của Mackinley - dù gì đi nữa, Mackinley vẫn là người chủ trì.

"Có khả năng là ông ấy đúng như lời anh nói: chỉ là người đặt bẫy có quen biết với Jammet, và không biết anh kia đã chết."

"Nhưng ai lại rình mò quanh một ngôi nhà hoang chứ?"

"Đó không phải là hành vi phạm tội - mà cũng không phải bất thường."

"Hành vi không phạm tội nhưng khả nghi. Chúng ta phải suy diễn theo cách đúng nhất theo những gì ta có."

"Chúng ta không có gì cả. Tôi không chắc ta có đủ cơ sở để bắt giữ ông ấy hay không."

Knox khăng khăng cho rằng người đàn ông không phải là tù nhân nên phải được đối xử tử tế. Ông đã sai Adam mang một khay thức ăn đến kho chứa hàng nơi ông ấy bị cầm giữ, và đốt một đống lửa. Ông ghét phải yêu cầu Scott cho một đặc ân khác, nhưng cũng không thể cho phép giam giữ người đàn ông trong một căn phòng, dù là căn phòng được khóa kín, trong cùng ngôi nhà của người vợ và hai con gái. Dù cho người đàn ông đã giải thích, vẫn có nét gì đó trên gương mặt ông ta khiến tạo ra ý nghĩ đen tối và kinh hoàng. Nó gợi cho ông nhớ đến những gương mặt trong các cuộc chiến tranh với người Da Đỏ: những gương mặt được sơn màu vằn vện, phạm thánh, xa lạ.

Lần thứ hai họ mở khóa cửa kho chứa hàng, giơ cao ngọn đèn bão, để soi rọi người đàn ông ngồi bất động gần đống lửa. Ông không quay mặt lại khi cánh cửa mở ra.

Knox gọi: "Ông Parker ạ, chúng tôi muốn trao đổi với ông thêm."

Họ ngồi trên những chiếc ghế đã được mang vào từ trước cho mục đích này. Parker không nói gì mà cũng không quay lại để đối diện với họ. Chỉ có hơi thở ông, được ngưng tụ thành lớp hơi nước mờ nhạt trên mặt, cho thấy đó là một người còn sống.

Mackinley hỏi: "Làm thế nào ông mang tên Parker?" Giọng điệu của ông nghe xúc phạm, như thể ông kết tội người đàn ông đã dối trá về tung tích của mình.

"Cha tôi là công dân Anh, Samuel Parker. Ông nội tôi cũng là người Anh."

"Cha ông có phải là nhân viên Công ty không?"

"Suốt đời ông ấy làm việc cho Công ty."

"Nhưng ông thì không."

"Tôi thì không."

Mackinley đang nghiêng người về phía trước, việc nhắc đến Công ty thu hút ông như là thỏi nam châm. "Ông đã từng làm việc cho họ chứ?"

"Tôi học việc. Bây giờ tôi làm nghề đặt bẫy."

"Và anh giao dịch với Jammet?"

"Đúng."

"Bao lâu rồi?"

"Nhiều năm rồi."

"Tại sao ông rời Công ty?"

"Để không phải mang ơn ai."

"Ông có biết Laurent Jammet đã là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ không?"

Người đàn ông nhìn Mackinley, có phần thích thú. Knox liếc qua nhìn Mackinley - liệu Mackinley biết chuyện ấy qua người Pháp kia không?

"Tôi không giao dịch với công ty nào; tôi giao dịch với Jammet."

"Ông có phải là nhân viên của Công ty Bắc Mỹ không?"

Lần này Parker cười lên khô khan: "Tôi không phải là nhân viên của công ty nào hết. Tôi đặt bẫy rồi bán lông thú, thế thôi."

"Nhưng hiện giờ ông không có lông thú gì cả."

"Hiện giờ là mùa thu."

Knox đặt một bàn tay cảnh báo lên cánh tay của Mackinley, cố giữ giọng thân thiện và đúng lý: "Ông cần hiểu tại sao chúng tôi đưa ra những câu hỏi này - Anh Jammet gặp phải một cái chết tàn bạo. Có thể cần tìm hiểu những gì liên quan đến anh ấy, nhằm đưa hung thủ ra trước công lý."

"Anh ấy là bạn tôi."

Knox thở dài. Trước khi ông có thể nói thêm gì khác, Mackinley lại hỏi: "Vào ngày và đêm mười bốn tháng Mười một - sáu ngày trước - ông ở đâu?"

"Tôi đã nói với ông rồi. Tôi đang đi từ Nhà Sydney về miền nam."

"Có ai trông thấy ông không?"

"Tôi đi một mình."

"Ông rời Nhà Sydney lúc nào?"

Lần đầu tiên người đàn ông ngập ngừng: "Tôi không ở tại Nhà Sydney, mà chỉ đi về hướng đó."

"Nhưng ông đã nói là ông đang đi từ Nhà Sydney."

"Tôi nói Nhà Sydney để các ông biết tôi đã ở đâu. Đó là hướng tôi xuất phát. Tôi đi trong rừng."

"Ông đang làm gì ở đó?"

"Săn thú."

"Nhưng ông đã nói bây giờ không phải là mùa lông thú."

"Săn thú lấy thịt."

Mackinley nhìn qua Knox và nhíu mày: "Đấy là việc bình thường vào mùa này trong năm hay sao?"

Parker nhún vai: "Bình thường vào bất kỳ mùa nào trong năm."

Knox hắng giọng: "Cám ơn, Ông Parker. À... bây giờ chỉ có thế." Ông cảm thấy ngượng ngùng về giọng nói của mình, nghe như giọng của một người già, cầu kỳ, cũng giống như đàn bà.

Hai người đứng dậy chuẩn bị ra về, rồi Mackinley quay lại người đàn ông ngồi bên đống lửa. Ông cầm cốc nước của mình từ chiếc khay rồi rót nước dập tắt đống lửa.

"Đưa cho tôi túi thuốc của ông."

Parker nhìn Mackinley; ông này không chớp mắt. Đôi mắt của Parker mờ đục trong ánh đèn bão. Ông ra vẻ như muốn giết chết Mackinley ngay tại chỗ. Ông tháo chầm chậm chiếc túi từ cổ mình rồi trao cho Mackinley. Mackinley đưa tay đón nhận nhưng Parker không muốn buông tay ra.

"Làm thế nào tôi biết mình sẽ được nhận lại?"

Knox bước đến, nóng lòng muốn giải tỏa không khí căng thẳng: "Ông sẽ được nhận lại. Đích thân tôi sẽ lo việc này."

Parker buông tay ra. Hai người bước ra ngoài, mang theo ngọn đèn bão và để cho người bị cầm giữ ở lại trong bóng tối và khí lạnh. Knox hé mắt nhìn lại khi đóng cánh cửa, nhìn thấy - hoặc ông chỉ tưởng tượng ra? - người mang hai dòng máu như là nét tối đen trong khoảng không tối đen.

Khi hai người quay về thị trấn im lìm, Knox hỏi: "Tại sao ông làm vậy?"

"Ông muốn hắn ta phóng lửa đốt chỗ ấy rồi tẩu thoát hay sao? Tôi biết rõ hạng người này. Họ không bứt rứt gì cả. Ông có thấy cách hắn nhìn tôi không? Như thể hắn muốn lột da đầu tôi ngay lúc đó."

Ông giơ cao túi thuốc trước cây đèn bão - một chiếc túi nhỏ bằng da, được trang trí đẹp đẽ bằng hoa văn thêu. Bên trong là mọi thứ cần thiết cho người đàn ông sinh tồn - đá lửa, bùi nhùi, thuốc lá sợi, vài mẩu thịt khô. Nếu không có những thứ này trong hoang dã thì ông ta sẽ chết.

Mackinley hồ hởi: "Này, ông thấy thế nào? Ông ta đổi tình tiết để chúng ta không thể kiểm chứng nơi ông ta đã đi qua. Ông ta có thể đã ở Sông Dove tuần trước mà không ai biết được."

Knox không nghĩ ra được điều gì để trả lời. Ông cũng cảm thấy có nhiều chuyện khả nghi vì Parker đã ngập ngừng - một khoảng hở đã hé lộ trong thái độ tự tin của người đàn ông; nhưng ông không biết phải nói gì.

Cuối cùng, ông nói: "Điều này không phải là bằng chứng."

"Điều này chỉ lé lộ một phần. Ông thiên về giả thuyết là anh con trai làm việc đó hay sao?"

Knox thở dài, cảm thấy rất mệt mỏi, nhưng chưa đủ mệt nên không muốn về hùa: "Chuyện về Công ty Bắc Mỹ là như thế nào? Tôi chưa từng nghe."

"Đó không phải là một công ty chính thức, nhưng có thể trở thành chính thức. André bảo tôi là Jammet có liên can. Ông ấy cũng thế. Các nhà buôn Canada gốc Pháp đang bàn bạc việc thành lập một công ty để đối nghịch với chúng ta. Họ được Mỹ hỗ trợ; thậm chí một số người Anh cũng có lợi ích trong chuyện này."

Nét mặt Mackinley trở nên căng thẳng. Ông là người có tư tưởng trung thành giản đơn; ý nghĩ về người Canada gốc Anh chống lại Công ty khiến cho ông đau xót. Đối với Knox thì chuyện này không đáng ngạc nhiên lắm. Công ty luôn được những người giàu có ở London điều hành, phái các đại diện (mà họ gọi là gia nhân) đi thuộc địa để bòn rút tài nguyên. Đối với những người sinh tại Canada thì đấy là quyền lực từ nước ngoài, lo vơ vét cho đến khi mảnh đất cạn kiệt, chỉ ban phát lại chút cơm thừa cá cặn.

Ông chọn lựa ngôn từ một cách thận trọng: "Thế thì Jammet có thể bị xem là kẻ thù của Công ty Vịnh Hudson phải không?"

"Nếu ông có ý nói một nhân viên Công ty có thể giết anh ấy... thì tôi xin ông tin chắc rằng không bao giờ có chuyện đó."

"Tôi không có ý nói gì cả. Nhưng nếu đúng như vậy thì chúng ta không thể làm ngơ. Jammet quan hệ mật thiết ra sao với Công ty Bắc Mỹ đó?"

"Ông ta không biết. Chỉ biết trước kia Jammet đề cập chuyện này."

"Có chắc là André đang ở Sault khi Jammet bị giết?"

"Theo bà chủ nhà thì ông ấy nằm trong một góc bar, không biết trời trăng gì. Ông ấy không thể nào giết Jammet ở Sông Dove cùng lúc đó."

Knox cảm thấy bứt rứt dồn dập vì những sự kiện diễn ra trong buổi tối. Vì thái độ nhiễu sự và cả quyết của Mackinley, vì sự hiện diện quê kệch và mạnh mẽ của người bị cầm giữ, thậm chí vì anh chàng Jammet bất hạnh và cái chết nhếch nhác của anh này. Cộng đồng non trẻ ở Caulfield vẫn luôn an bình, không có nhà tù và chưa bao giờ cần đến nhà tù. Bây giờ, trong ít ngày qua, ở đâu ông cũng nhìn thấy bạo lực và nỗi chua cay.

Vợ ông vẫn còn thức khi ông đi lên lầu. Ngay cả khi người đàn ông tên Parker đã mất dạng, ông này vẫn còn làm vướng bận tâm trí mọi người. Tên sát nhân có thể đang lảng vảng trong thị trấn, chỉ ngăn cách với họ bởi mấy bức tường bằng ván gỗ mỏng. Người đàn ông ấy có vẻ gì đó khiến cho người ta dễ dàng tin rằng ông có tội. Dĩ nhiên là ông ấy không thể làm gì với dung mạo của mình, và không nên bị phán xét theo bề ngoài. Liệu ông có đang làm thế hay không?

Trong khi thay quần áo, ông nhận xét: "Có người dễ làm cho ta thấy khó ưa."

"Anh đang nói đến người bị cầm giữ, hay là Ông Mackinley?"

Knox cố ghìm giữ nụ cười. Ông nhìn vợ và thấy bà có vẻ mệt mỏi: "Em ổn chứ?"

Ông thích mái tóc bà gợn sóng được thả lỏng, cũng có màu nâu bóng như khi họ cưới nhau. Bà lấy làm hãnh diện với mái tóc mình, mỗi đêm đều dành năm phút để chải cho đến khi tóc gẫy và bám vào chiếc lược.

"Em định hỏi anh cùng câu hỏi ấy."

"Anh ổn. Anh mong chuyện này chóng xong xuôi. Anh yêu thích Caulfield khi nó an bình và nhàm chán."

Bà nhích vào trong khi ông nằm lên giường giữa hai tấm chăn: "Anh có nghe tin tức gì khác không?"

Qua giọng bà, ông có thể đoán ra rằng đấy không phải là tin vui. "Tin tức khác à? Tin gì thế?"

Bà thở dài: "Sturrock đang ở đây."

"Sturrock Người Dò tìm hở? Ở Caulfield?"

"Vâng. Anh Moody đã gặp ông ấy. Có vẻ như ông ấy quen biết Jammet."

"Trời đất!" Ông không bao giờ thôi ngạc nhiên bởi những gì bà vợ nghe qua từ lời đồn đại. Ông nhỏ nhẹ lặp lại: "Trời đất!" Ông nằm xuống, bao nỗi hồ nghi vẫn đọng đầy trong trí óc. Ai lại nghĩ Jammet có nhiều mối quan hệ vô hình như thế? Một mãnh lực kỳ lạ lan rộng từ ngôi nhà gỗ trống trơn, lôi kéo những người khó tin và khó ưa đến Caulfield để tìm kiếm cái gì không ai biết. Trong mười năm ông chưa gặp lại Thomas Sturrock, kể từ một thời gian ngắn trước khi Charles qua đời. Ông đã cố quên lần gặp gỡ ấy. Bây giờ ông không thể nào nghĩ đến một lý do vô thưởng vô phạt khiến cho Sturrock hiện diện ở đây.

"Anh có nghĩ ông ấy là kẻ giết người không?"

"Ai?" Trong một khoảnh khắc, ông không nhớ bà đang nói đến ai.

"Còn ai nữa! Dĩ nhiên là người bị cầm giữ. Anh có nghĩ ông ấy đã làm điều đó không?"

Knox nói: "Em ngủ đi". Rồi ông hôn bà.

***

Vào ngày trước khi họ ra về, Donald dành thời giờ quý báu để xem qua cửa hàng của Scott nhằm tìm một món quà cho Susannah. Anh định mua cho cô một cây bút mực; tuy nó là món quà chia tay thích hợp, nhưng có thể cô thấy đó là lời nhắc nhở lộ liễu về lời hứa sẽ viết thư cho anh. Không có nhiều thứ để lựa chọn, cuối cùng anh mua một chiếc khăn tay thêu, bỏ qua ngụ ý rằng anh nghĩ cô sẽ khóc khi xa anh - có lẽ cô sẽ không nghĩ đến điều này.

Chiều hôm ấy, Susannah thơ thẩn nhiều tiếng đồng hồ trong phòng đọc sách của gia đình, chờ cho Donald gặp cô do tình cờ, trong khi lật qua một quyển sách. Cô có cơ hội đọc xong cả quyển sách cho đến lúc anh nhận biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng cô không đọc xong; phần lớn các tiểu thuyết trong phòng đều gây nhàm chán, được chọn lựa bởi cha cô khi còn trẻ, hoặc bởi Maria vốn có sở thích lạ kỳ. Donald nghe tiếng ho của cô, và rón rén mở cánh cửa, giữ một tay sau lưng.

"Chúng tôi sẽ ra về ngày mai, trước khi trời sáng, nên chúng tôi không thể từ giã cô lúc đó."

Cô vội đặt xuống quyển sách về đề tài câu cá và nghiêng người nhìn Donald: "Không có anh thì ở đây sẽ buồn tẻ."

Donald mỉm cười, quả tim muốn nổi loạn trong lồng ngực: "Tôi mong cô không cho là tôi quá tự tiện, nhưng tôi mua cho cô món này. Tôi muốn tặng cô món gì đó trước khi ra về."

Anh giơ ra một chiếc hộp nhỏ, được gói trong giấy dầu của cửa hàng và được cột lại bằng ruy băng.

Susannah mỉm cười, tháo chiếc hộp, mở ra chiếc khăn tay: "Ôi, đẹp quá! Anh Moody, anh thật là tử tế."

"Xin gọi tôi là Donald."

"Ôi, Donald. Cảm ơn anh nhiều. Tôi sẽ giữ nó luôn bên mình."

"Tôi thấy không có vinh dự nào lớn hơn."

Anh suýt nói ra rằng anh ghen tị biết bao với chiếc khăn tay, nhưng anh mất tự tin, có lẽ như thế là điều may. Anh không biết Susannah đã có một chiếc khăn tay giống như thế, mua ở cùng cửa hàng, được một anh trai trẻ tặng năm trước. Nhưng bây giờ Susannah đang ửng hồng đôi má, trông như cô đang rạng rỡ từ bên trong.

"Bây giờ tôi thấy ngượng vì không có gì tặng anh để đáp lại."

"Tôi không mong được đáp lại gì cả." Anh suýt dám nói ra rằng mình muốn có một nụ hôn, nhưng lại không đủ can đảm. "Chỉ cần thỉnh thoảng cô biên thư cho tôi, nếu cô không quá bận."

"À vâng, tôi sẽ viết thư cho anh. Và có lẽ, nếu không quá bận, anh có thể thỉnh thoảng gửi thư cho tôi."

"Mỗi ngày!" Anh đã nói ra một cách khinh suất.

"Ôi, tôi nghĩ anh sẽ quá bận. Tôi chỉ mong việc này sẽ không... nguy hiểm."

Những phút còn lại trong phòng đọc sách trôi qua trong không khí mê mẩn ngọt ngào. Donald không biết nói gì thêm, nhưng nhận ra rằng quả bóng đang ở bên phần sân mình, và cuối cùng anh thu hết can đảm để nắm lấy bàn tay cô. Rồi có ai đó đánh lên tiếng kẻng trong tiền sảnh - hiệu báo giờ dùng bữa tối - và cô thu bàn tay về, nếu không thì ai biết được chuyện gì kế tiếp sẽ diễn ra. Chỉ nghĩ đến đó là anh đã cảm thấy quay cuồng.

Chỉ có hai con đường rời khỏi Sông Dove: hướng nam đi về vịnh, hoặc hướng bắc dọc theo con sông qua khu rừng. Jacob chọn con đường mòn vượt quá trang trại Price. Angus Ross đã bảo họ ông thấy những dấu hiệu là Francis đã đi qua Hồ Swallow, và Jacob chỉ dừng lại để xem xét dấu vết xem đó có phải là dấu vết của Francis hay không. Con đường mòn thoáng đãng; họ bước nhanh, đi qua hồ nước sau giữa trưa. Jacob quỳ xuống để xem xét gần hơn.

"Dấu vết đã cũ vài ngày, nhưng có hơn một người đàn ông đi qua đây."

"Cùng lúc hay sao?"

Jacob nhún vai.

"Có thể là nhà buôn người Pháp đó. Ông ta đi qua đây phải không?"

"Hơn một người đàn ông đi theo hướng này: hai loại dấu chân, kích thước khác nhau."

Họ đi thêm vài dặm theo dấu chân. Đến một nhánh sông hợp lưu với hồ nước, dấu mòn rẽ về hướng tây và nối tiếp theo đó, qua vùng đất đá không có dấu chân người. Donald bước theo Jacob vì nghĩ anh này biết phải làm gì, rồi nhẹ nhõm khi thấy một khoảnh đất gần dòng nước, nơi các dấu chân ép lá cây và rêu xuống mặt bùn.

"Người này đã đi bộ cả sáu, bảy ngày. Đã mệt mỏi và đói. Tôi nghĩ ta nên đi nhanh hơn. Ta có thể bắt kịp."

"Nhưng hắn đi đâu? Đường này dẫn đến đâu?"

Jacob không biết. Dấu mòn vẫn nối dài, ngoằn nghoèo qua rừng cây dọc con sông, luôn dốc cao lên, nhưng không có dấu hiệu cho thấy nó dẫn đến đâu ngoại trừ đi vào vùng hoang dã mênh mông.

Họ dừng lại để nghỉ trong khi còn ánh nắng. Jacob chỉ cho Donald cách chặt cành cây để làm chỗ trú. Dù đã sống ở Canada hơn một năm, đây là lần đầu tiên Donald nếm trải cuộc sống bản địa, và anh vui vì bao điều mới lạ. Anh đang xóa đi quá khứ và vỏ bọc mọt sách, cầu kỳ, để cuối cùng trở thành con người của hành động, con người gian truân vùng biên cương, nhà Phiêu lưu đích thực của Công ty. Anh thích thú nghĩ đến lúc kể lại kinh nghiệm của mình cho đám đàn ông ở Pháo đài Edgar.

Sau khi họ dựng chỗ trú rồi đốt đống lửa và Jacob dọn món cháo bắp nấu với thịt, Donald ngồi gập người bên đống lửa, lấy giấy bút ra biên thư cho Susannah. Anh chưa nghĩ đến việc gửi lá thư cho cô bằng cách nào, nhưng đoán có cư dân sống dọc đường để nhờ gửi đi. Anh viết "Susannah thân mến" rồi dừng lại. Liệu anh có nên mô tả dấu mòn hôm nay, khu rừng với tán lá xanh đậm và vàng chói, những tảng đá màu tím nhạt dưới lớp rêu sáng loáng, cách thu xếp chỗ ngủ? Anh bác bỏ các chi tiết này vì e cô sẽ thấy chán ngắt, rồi viết "Quả là điều thú vị nhất...", rồi không hiểu sao sức nóng của ngọn lửa khiến anh ngã ra bất tỉnh, đến nỗi Jacob phải xốc anh lên cho tỉnh lại và đặt anh ngồi dưới mái lá bulô, nhưng anh lại ngã ra trên các cành cây linh sam. Cơn kiệt sức ập đến người anh như búa bổ, và anh quá mệt nên không thấy vầng trăng đang soi rọi tạo những bóng tối thần tiên trên cành cây kẽ lá. Chắc chắn là anh quá mệt nên không thấy Jacob đang quan sát những tinh thể băng sáng lòa chung quanh, và nhíu mày suy tư.

***

Qua nhiều năm tôi đã gầy dựng được một bộ sưu tập sách hay tuy rằng gò bó về chủ đề, và tôi đã cho Ida mượn một số sách. Không như bà mẹ, cô bé lấy làm cảm kích và có vẻ như cảm động vì tôi đã tin tưởng cô mà cho mượn những thứ quý giá như thế. Nhưng bây giờ, dường như đầu sách quý giá nhất vẫn không quan trọng. Một trong những quyển sách tôi cho cô bé mượn là từ điển, quyển sách mà tôi quý trọng cả hai mươi năm. Tôi đã giữ quyển từ điển này bên mình khi ở trong bệnh viện tâm thần để bù lại phần giáo dục bị dở dang, nhưng Ida đặc biệt xin mượn vì nhà Pretty chưa hề trông thấy quyển sách nào như thế.

Mẹ tôi cho tôi quyển từ điển ấy một thời gian ngắn trước khi bà qua đời, như là để đền bù cho nỗi mất mát diễn ra sau đấy. Bạn có thể nghĩ đây chỉ là phần đền bù nhỏ bé, nhưng nó không phải hoàn toàn vô dụng. Tôi ghét gặp phải những từ ngữ trong sách mà mình không hiểu rõ nghĩa nên vẫn kiên trì tra cứu những từ này: "trong trẻo", "lắm điều", "được hàm ý"(23). Tôi tra cứu từ "tự tử" sau khi mẹ tôi qua đời. Tôi nghĩ việc này có thể giúp tôi hiểu được tại sao bà làm thế. Định nghĩa là chuẩn xác và súc tích, là hai tố chất mà bà không có. "Hành động tự hủy diệt" nghe như là cố tình và quá khích, trong khi mẹ tôi có tính mơ mộng và hiền hòa, thường đãng trí. Tôi hỏi cha tôi, để xem ông có thể giải thích được không - tôi đoán ông hiểu rõ bà trong khi tôi còn hoang mang. Ông quát tháo và huyên thuyên rằng đấy là việc càn bậy - mẹ tôi hẳn không bao giờ làm thế, thậm chí mới nghĩ đến việc này đã là tội lỗi. Thế rồi, ông khóc, khiến cho tôi bối rối cùng cực. Tôi vòng tay ông lấy ông, cố an ủi trong khi ông nức nở. Sau một hoặc hai phút, hai cha con đứng bên nhau trong trạng thái vờ vịt của tình phụ tử vốn không tạo bất kỳ sự khác biệt nào - một hoặc hai phút mà tưởng chừng kéo dài cả giờ - rồi tôi buông ông ra mà bước khỏi phòng. Có vẻ như ông không để ý.

Tôi nghĩ cả hai cha con tôi đều không hiểu nhiều về bà.

Sau này, tôi nhận ra rằng cha tôi tức giận bởi vì tôi đã đoán ra sự thật. Giờ đây, gần đến tuổi của mẹ tôi khi bà qua đời, tôi không biết mình đã thành công trên đường đời ra sao: đứa con độc nhất của tôi đã bỏ nhà ra đi trong những tình huống kinh khủng, và rõ ràng là tôi không thể đổ lỗi mọi chuyện cho dòng máu Ireland của nó. Tôi đã dự phần trong số mệnh của nó, mà tôi chưa biết sẽ tổn hại ra sao.

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi trò chuyện cùng Ida. Hôm nay, cô bé tươi vui hơn; lại thêm hương vị ngồi lê đôi mách về người đàn ông bị cầm giữ trong kho chứa hàng. Ida nhại lại thái độ mặt sưng mày xỉa của Scott khi cho phép sử dụng một phần bất động sản quý giá của ông cho mục đích như thế. Cô bé cũng dậm thêm một ít chi tiết thú vị - các anh cô đã tìm thấy dấu hiệu cho biết người đàn ông này đã đi ngang trang trại của họ trên đường đến ngôi nhà gỗ của Jammet, như thế có nghĩa là ông đã đi từ hướng bắc. Nghĩa là có thể ông đã gặp Francis. Nghĩa là tôi nên đi dọ hỏi ông, cho dù ông là kẻ giết người chăng nữa.

Cô bé cũng nhắc đến Thomas Sturrock, người đang ngụ trong nhà Scott. Liệu tôi có biết rằng ông này là Người Dò tìm nổi tiếng nhưng đã thất bại trong vụ hai cô con gái nhà Seton? Cả thị trấn đang kháo nhau về ông. Tôi gật đầu một cách mập mờ, và nói tôi chưa từng nghe gì cả. Tôi thắc mắc tại sao ông không nhắc đến vụ kia khi chúng tôi trao đổi với nhau về vụ án mạng ở đây. Lại thêm một trường hợp mà tôi là người biết sau cùng.

Tôi đã đoán trước Knox sẽ kiếm chuyện rầy rà vì tôi muốn tiếp xúc người bị cầm giữ. Ông cho rằng tôi sẽ không thu lượm được gì, rằng họ đã cật vấn ông ta, rằng việc này gây bất lợi, rằng việc này là không phù hợp, và cuối cùng, rằng việc này là nguy hiểm. Tôi vẫn giữ thái độ đúng lý. Tôi biết nếu mình kiên trì thì ông sẽ nhượng bộ, và đúng là ông nhượng bộ sau nhiều cái lắc đầu và nhiều tiếng thở dài. Tôi trấn an ông là tôi không sợ ông ấy, dù cho ông ấy trông dễ sợ đến đâu - ông ấy sẽ chịu thiệt nếu có thái độ không hay (ngoại trừ khi đã bị kết tội, khi tôi đoán ông bị kết tội trong bao nhiêu vụ án mạng thì vẫn thế, nhưng tôi không nói ra suy nghĩ này). Dù sao chăng nữa, Knox kiên quyết phái gia nhân của ông đi với tôi, với lời căn dặn phải ngồi ở cửa kho chứa hàng và để mắt trông chừng mọi việc.

Adam mở khóa cửa kho chứa hàng; lúc này một ít hàng hóa khô bên trong đã được thu dọn đi để người bị giam giữ có nhiều khoảng trống. Có hai cửa sổ gần trần nhà tạo cơ hội trốn thoát nhỏ nhoi, nhưng ông ngồi gục đầu trên một tấm nâng hàng và không quan tâm khi cửa mở. Có lẽ ông đang ngủ - chỉ cựa mình khi Adam gọi ông, rồi chậm chạp ngồi lên, kéo một tấm chăn mỏng quanh người. Không có lửa sưởi ấm; có vẻ như bên trong lạnh khắc nghiệt hơn và thấm sâu hơn so với bên ngoài.

Tôi quay qua Adam: "Các anh định để cho ông ấy chết cóng hay sao?"

Adam lẩm bẩm - nghe như là việc đốt trụi tất cả chúng tôi - và tôi ra lệnh cho anh đi tìm ít viên đá nóng để hơ chân, và ít cà phê. Adam ngạc nhiên nhìn tôi: "Tôi không được phép rời khỏi bà."

"Đi tìm ngay. Đừng có nhố nhăng; chúng tôi không thể ngồi nói chuyện ở đây trong cái lạnh như thế này. Tôi chắc chắc sẽ ổn cho đến khi anh quay lại". Tôi trừng mắt nhìn anh một cách nghiêm khắc cho đến khi anh quay đi, luống cuống khóa lại cánh cửa sau khi bước ra ngoài.

Người bị giam giữ không nhìn đến tôi, mà ngồi như tượng đá. Tôi kéo một chiếc ghế đến gần tấm nâng hàng và ngồi xuống. Tôi lo lắng nhưng cố không lộ trên nét mặt. Nếu muốn ông giúp thì tôi nên ra vẻ như mình tin cậy nơi ông. Rốt cuộc, tôi đã suy nghĩ phải ăn nói ra sao với ông.

"Ông Parker ạ, tên tôi là Bà Ross. Tôi đến đây để nhờ ông giúp đỡ. Tôi xin lỗi đã lợi dụng việc ông bị... cầm giữ."

Ông không nhìn tôi mà cũng không tỏ vẻ rằng tôi đang hiện diện ở đấy. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ ông lảng tai.

Tôi tiếp tục, lần này nói lớn hơn: "Ông Parker, tôi được biết ông đi từ phía bắc, ngang qua Hồ Swallow, phải không?"

Sau một chốc, ông nói nhỏ nhẹ: "Chuyện này liên quan tới bà ra sao?"

"Chuyện là thế này: tôi có một đứa con trai, Francis. Bảy ngày trước nó đi khỏi nhà. Tôi nghĩ nó đi về hướng bắc. Nó không quen biết ai ở đấy. Tôi đang lo lắng. Tôi muốn hỏi ông đã trông thấy dấu hiệu nào...? Nó chỉ mười bảy tuổi. Nó có... tóc đen. Người hơi mảnh khảnh."

Chỉ có thế. Không thể nói cách nào khác, và dù sao chăng nữa tôi thấy cổ họng mình thắt nghẹn đến mức tôi không chắc mình nói được thông suốt.

Có vẻ như Parker đang suy tư: khuôn mặt ông không còn trông lạnh lùng như trước, và đôi mắt đen của ông nhìn thẳng vào mắt tôi: "Bảy ngày trước hả?"

Tôi có thể tự trách mình. Đáng lẽ tôi phải nói tám. Hoặc chín. Tôi gật đầu.

"Và người ta tìm thấy Jammet sáu ngày trước."

"Ông Parker ạ, con tôi không giết ông ấy."

"Làm sao bà biết được?"

Tôi cảm thấy cơn giận dữ dâng trào với lời lẽ hạch sách của ông. Dĩ nhiên là tôi biết. Tôi là mẹ của nó mà. "Tôi còn giống như là bạn thân thiết của nó."

Lúc ấy, Parker có thái độ bất ngờ: ông bật cười. Giống như giọng nói, tiếng cười của ông trầm trầm và khô khan, nhưng không phải khó chịu. "Tôi cũng là bạn thân thiết của Jammet. Tuy vậy, có vẻ như Ông Knox và Ông Mackinley nghĩ tôi giết anh ấy."

Tôi bị lùi vào thế thụ động vì câu nói này. "À... tôi đoán họ không hiểu rõ ông. Nhưng tôi nghĩ một người vô tội sẽ làm hết sức mình để giúp đỡ một phụ nữ trong hoàn cảnh của tôi. Việc làm này sẽ xác định người ấy có tư cách tốt."

Liệu tôi đang tưởng tượng, hoặc đúng thực là ông đang mỉm cười? Đôi môi ông xoắn lại một tí: "Thế thì nếu tôi giúp bà, bà nghĩ Ông Mackinley sẽ thả tôi ra hay không?"

Tôi không thể nói ông đang mỉa mai hay không. "Ông Parker ạ, việc này tùy thuộc vào những tình huống mà tôi không biết gì hết, chẳng hạn như ông có phạm tội hay không."

"Tôi không phạm tội. Bà có phạm tội không?"

"Tôi..." Tôi không biết nói gì cho thông suốt. "Tôi tìm thấy anh ấy. Tôi trông thấy những gì đã gây ra cho anh ấy."

Bây giờ, ông có vẻ thực sự ngạc nhiên. Tôi có cảm tưởng xác đáng rằng ông muốn biết tôi đã trông thấy những gì. Và, tôi nghĩ nhanh trong đầu, nếu ông muốn biết, thì có lý do cho rằng ông không phải là hung thủ.

"Bà tìm thấy anh ấy hả? Họ không cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào."

Nếu ông nói dối, thì quả thực ông đóng kịch rất tài tình. Ông nghiêng người về phía trước. Tôi cố gắng không nghiêng người tránh ra xa, nhưng khuôn mặt của ông trông kinh khiếp. Tôi có thể cảm nhận cơn giận dữ toát ra từ ông.

"Kể cho tôi bà đã trông thấy những gì. Rồi tôi có thể giúp bà."

"Tôi không làm thế được. Tôi không thể mặc cả với ông."

"Vậy thì tại sao tôi phải giúp bà?"

"Tại sao ông không chịu giúp?

Thình lình ông đứng dậy, bước nhanh đến bức tường của kho chứa hàng - chỉ vài bước, nhưng tôi nao núng trước khi trấn tĩnh lại được. Ông thở dài. Có lẽ ông đã quá quen với việc người ta sợ ông. Tôi thắc mắc Adam đang ở đâu với cà phê - có vẻ như anh ta đã đi hàng tiếng đồng hồ.

"Tôi là đứa con hai dòng máu, bị kết tội giết một người da trắng. Bà có nghĩ họ quan tâm đến tình tiết tôi là bạn anh ấy không? Bà có nghĩ họ tin vào những lời tôi nói không?"

Parker đang đứng trong một vùng tối của kho chứa hàng, và tôi không thể nhìn rõ nét mặt ông. Rồi ông quay lại tấm nâng hàng: "Tôi mệt mỏi rồi. Tôi sẽ cố nhớ lại. Ngày mai bà hãy hỏi tôi."

Ông nằm xuống trên chiếc giường, kéo tấm chăn lên người, quay lưng về phía tôi.

"Ông Parker ạ, tôi xin ông suy nghĩ về chuyện này." Tôi không chắc mình biện luận có kết quả. "Ông Parker...?"

Khi Adam quay lại, tôi đang đứng chờ bên trong cánh cửa. Anh nhìn tôi với vẻ kinh ngạc, bình cà phê bốc hơi như là một núi lửa bé tí trong không khí ẩm ướt.

Tôi bảo anh: "Ông Parker và tôi đã trao đổi tạm xong. Nhưng anh cứ để cà phê lại đây."

Adam có vẻ không vui nhưng vẫn làm theo lời tôi, thận trọng đặt cái bình và chiếc cốc một khoảng cách xa khỏi ông.

Và có vẻ như mọi việc là thế.

***

Đôi lúc Andrew Knox ước gì mình không phải là người lớn tuổi danh giá trong cộng đồng. Khi nghỉ hành nghề luật sư, ông thoát khỏi mấy kẻ luôn nài nỉ ông lập lại trật tự cho cuộc sống rối rắm, lôi thôi của họ. Mấy kẻ dối trá và lừa đảo nhưng vẫn nghĩ rằng thế gian đang toa rập chống lại họ, rằng dù họ đã gây bất công cho người khác, những phiền lụy của họ không phải là do chính họ gây ra. Và như thể chưa đủ trong khi cả thị trấn đang xôn xao vì khả năng kẻ sát nhân đang lẩn khuất gần đâu đó, thì đến phiên John Scott tìm đến phòng đọc sách của Knox, yêu sách lấy lại kho chứa hàng, hoặc đòi phải được đền bù thỏa đáng vì đã dành tòa nhà để sử dụng cho lợi ích của thị trấn - theo cách ông nói - nếu không ông sẽ đưa vấn đề lên chính phủ. Knox chúc cho ông được may mắn. Và Mackinley không vội vã ra về - Knox nghi ông này muốn tự mình thu được lời thú tội hầu có thể mang phạm nhân đi diễu hành như là chiến lợi phẩm. Knox bị kẹt giữa mấy kẻ đầy tham vọng và không còn muốn dính dáng đến họ.

Và rồi còn có vụ việc liên quan đến Sturrock, mà ông không thể làm ngơ.

Mary gõ cửa, nói rằng Bà Ross muốn gặp ông - lần nữa. Người phụ nữ này không muốn để cho ông yên. Ông gật đầu và thầm thở dài - ông có cảm tưởng nặng trĩu là nếu bị từ chối, bà ta sẽ đứng chờ mãi bên ngoài hành lang hoặc thậm chí ở ngoài đường.

Bà bắt đầu trước khi kịp đóng lại cánh cửa: "Ông Knox..."

"Bà Ross, tôi tin cuộc trao đổi của bà có ích chứ?"

"Ông ấy không chịu trao đổi. Nhưng ông ấy biết chuyện nào đấy. Ngày mai tôi phải trở lại."

"Tôi không thể cho phép bà làm như thế, bà thấy..."

"Ông ấy không làm chuyện đó."

Giọng bà nghe chắc nịch đến nỗi ông trân trối nhìn bà, há hốc miệng, rồi mới nhớ ra mà ngậm miệng lại.

"Điều gì khiến cho bà tin chắc như vậy? Trực giác của phụ nữ hay sao?"

Bà mỉm cười với vẻ mỉa mai - thái độ khó chịu nơi một phụ nữ: "Ông ấy muốn biết Jammet chết như thế nào. Ông ấy không biết. Và tôi tin chắc ông ấy biết điều gì đấy về Francis. Nhưng ông ấy không tin tưởng Ông Mackinley sẽ công tâm đối với một người... có hai dòng máu."

Knox nghi là Parker cũng không tin mình, nhưng vì phép lịch sự mà bà không nói ra.

"Có lẽ bà cũng biết ông ấy đã làm gì ở ngôi nhà gỗ của Jammet chứ?"

"Tôi sẽ hỏi ông ấy."

Knox nhíu mày. Toàn bộ vụ việc đang vượt khỏi tầm kiểm soát. Ông quên rằng chỉ mới phút chốc trước ông đã muốn thoát ra khỏi các trách nhiệm, nhưng bây giờ vợ của một nông dân muốn tháo bỏ trách nhiệm cho ông thì vô lý hết sức.

"Tôi lấy làm tiếc, việc này là không được. Chúng tôi đang dự định chuyển người bị giam giữ đi nơi khác càng sớm càng tốt. Chúng tôi không thể để bất kỳ ai đến nói chuyện với hắn tùy thích."

"Ông Knox..." Bà bước một bước đến gần ông, gần như là (nếu bà là đàn ông) dọa nạt ông: "Con trai tôi đang ở trong rừng mà nhân viên Công ty có thể không truy tìm được. Nó có thể đi lạc đường. Nó có thể bị thương. Nó là đứa con trai và nếu ông ngăn chặn tôi tìm ra theo bất kỳ cách thức nào có thể được, có lẽ ông sẽ chịu trách nhiệm đối với cái chết của nó."

Knox phải cố gắng để không phải bước lùi lại. Có một vẻ gì đó nơi bà - hoặc có lẽ cảm nhận về sự yếu kém của mình mà người phụ nữ cao lớn này khơi gợi. Khi nhìn thấy đôi mắt sắt đá của bà - đôi mắt của màu xám kỳ lạ và tính cứng cỏi - ông nhận ra bà có ý chí mãnh liệt.

"Tôi vẫn nghĩ rằng ông, hơn cả mọi người khác, hiểu tình cảnh ra sao nếu mất một đứa con. Liệu ông sẽ từ chối giúp đỡ tôi dù cho có thể giúp đỡ hay sao?"

Knox thở dài, cảm thấy tức giận vì bà đã sử dụng thảm kịch nhà Seton để gây sức ép cho mình, nhưng ông cũng nhận ra rằng vì thế mà mình sẽ nhượng bộ. Chỉ cần anh con trai đi lạc thì hậu quả sẽ rắc rối đến nỗi ông không dám nghĩ tới. Và có lẽ Mackinley không cần phải biết. Nếu ông cẩn trọng thì không ai cần phải tìm hiểu.

Ông bảo bà quay lại sáng sớm hôm sau, rất sớm, khẩn cầu bà phải giữ kín, rồi thở dài khi bà ra về. Ông nghĩ một người mẹ hành động như thế để bảo vệ đứa con là lẽ tự nhiên; chỉ có điều nếu bà khóc lóc hoặc mềm mỏng hơn thì là tự nhiên hơn nữa (và ông sẽ lấy đó mà cảm thông hơn).

"Ông Knox!" Mackinley xông vào phòng đọc sách của ông mà không gõ cửa. Rõ ràng là càng ngày càng không ai chịu nổi cái ông này: cứ thong dong đi vào nhà người ta như là nhà mình. "Tôi nghĩ thêm một ngày là được, ông thấy sao?"

Knox nhìn Mackinley một cách mệt mỏi: "Được cái gì hở Ông Mackinley?"

"Được lời thú tội. Không ích gì mà vội vã."

"Nếu hắn ta không thú tội thì sao?"

"Úi chao, tôi nghĩ không thành vấn đề." Mackinley nở nụ cười xảo quyệt: "Cứ tước đi tự do với bọn này thì chẳng bao lâu họ sẽ quy lụy. Họ không chịu nổi việc cầm giữ, giống như thú vật."

Knox nhìn Mackinley với vẻ căm ghét.

Mackinley không nhận ra cử chỉ ấy: "Tôi nghĩ trước bữa ăn tối, tôi sẽ có một buổi làm việc nữa."

"Tôi có công việc giấy tờ khẩn. Việc kia gác lại được không?"

"Ông Knox ạ, tôi thấy không cần làm phiền đến ông. Tôi sẵn sàng thẩm vấn hắn một mình."

"Tôi nghĩ hai người chúng ta cùng hiện diện thì... tốt hơn."

"Tôi nghĩ mình sẽ không có nguy hiểm gì cả." Ông kéo vạt áo vét để cho thấy một khẩu súng lục giắt ở thắt lưng.

Knox cảm thấy ngập tràn tức giận: "Ông Mackinley à, tôi không nói đến sự an toàn của ông. Thật ra, đó là cần thiết phải có hơn một nhân chứng đối với bất kỳ lời khai nào."

"Thế thì tôi sẽ dẫn Adam đi theo, nếu ông lo điều đó. Xin vui lòng trao cho tôi chìa khóa."

Knox đành nén giận mà mở ngăn kéo chứa hai chìa khóa của kho chứa hàng. Ông tự hỏi mình có nên thay đổi ý kiến mà đi theo Mackinley hay không. Ông đã bắt đầu nghi Mackinley là hung thủ, nhưng dĩ nhiên ông này không phải thế, mà là một nhân viên được trọng vọng của Công ty.

Ông trao một chìa khóa và gắng gượng mỉm cười: "Adam đang ở trong bếp."

Sau khi Mackinley đã ra đi, Knox nghe tiếng nói trong phòng khách. Hai cô con gái của ông đang cãi vã nhau. Ông định can thiệp như đã từng làm khi hai đứa còn nhỏ, nhưng không đủ nghị lực. Hơn nữa, bây giờ hai đứa con đã là hai phụ nữ trưởng thành. Ông lắng nghe những tiếng nói quen thuộc: giọng của Susannah hòa vào nước mắt, tiếng nói của Maria theo cung cách thuyết giảng khiến cho ông cau mày, tiếng cánh cửa đóng sầm, rồi bước chân chạy lên thang lầu. Phụ nữ trưởng thành là như thế.

***

Sturrock đã trò chuyện với Bà Scott, và bà nhìn lên tôi với vẻ lo lắng thường nhật, có lẽ tương tự như trong trường hợp ông chồng đến để trách cứ. Tôi có cảm tưởng như họ đang trao đổi khá thân mật với nhau: khi tôi bước vào cửa hàng thì họ kín đáo rời xa nhau như thể cho thấy đã xong xuôi. Tôi cảm thấy bất bình; tôi đã nghĩ ông ấy về phe với mình. Dường như Ông Sturrock có thói quen thì thào trò chuyện với các bà vợ của thiên hạ.

Ông quay về phía tôi và mỉm cười, mái đầu bạc cúi xuống: "Bà Ross ạ, bà đã tìm ra một nơi chốn ấm áp nhất và tiếp đãi lịch sự nhất ở Caulfield vào cái ngày lạnh giá này."

Tôi gật đầu, hơi cứng nhắc. Vì lý do nào đấy, tôi không muốn ông ấy nhận ra mình.

"Bà Ross, tôi pha cho bà một cốc cà phê nhé! Cà phê dùng trong nhà." Có vẻ như bà đã có thêm can đảm vì sự hiện diện của Sturrock để tự chuyên với cà phê của ông chồng.

"Cảm ơn bà. Thế thì hay quá."

Tôi muốn uống một cốc cho dù phải trả cái giá cắt cổ. Tôi thấy lạnh tận xương tủy. Cái lạnh ở kho chứa hàng. Cái lạnh của vụ án mạng. Dù đã nói chắc với Knox, tôi vẫn không rõ Parker có phải là thủ phạm hay không. Ban đầu tôi đinh ninh là không phải, nhưng ngay khi Adam khóa lại cánh cửa kho chứa hàng thì sự tin tưởng này đã nhạt phai.

Để cho qua chuyện, tôi nói và ra vẻ mình không hờn dỗi: "Ông không nói cho tôi biết là ông quen biết với Ông Knox."

"Tôi không nhớ đã nói. Tôi xin lỗi."

"Đáng lẽ ông có thể đến gặp ông ấy mà hỏi về các vật dụng của Jammet. Ông không cần phải lẩn lút như kẻ trộm."

Giống như tôi. Tôi có cảm tưởng như bị phản bội. Tôi thích ông hơn khi ông hành động lẩn lút như tôi.

"Xưa kia tôi có quen biết Ông Knox. Tôi nghĩ bây giờ ông ấy không nhận ra tôi nữa."

"Ông ấy có biết ông hiện đang ở đây không?"

"Tôi nghĩ ông ấy khó mà không biết."

"Tôi không có ý tọc mạch. Tôi chỉ cảm thấy... có bất lợi."

Trong một khoảnh khắc, chúng tôi im lặng uống cà phê.

"Bà Ross ạ, tối hôm đó tôi không có ý đánh lừa bà, xin bà tin như vậy. Đôi lúc con người ta cảm thấy thất vọng vì vị thế của mình trong sự việc. Chúng ta luôn muốn làm người hùng, phải không? Hoặc là người hùng của câu chuyện hoặc... không là gì cả."

"Tôi tin chắc ông đã làm hết sức mình."

Ông thở dài. Tôi có phần tin nơi ông, nhưng nhận ra đấy là vì ông có sức thu hút chứ không phải do tôi nổi tiếng có tài phán xét gì cả.

"Nếu ông không tìm được ở đó, thì không thể làm gì khác được."

Ông mỉm cười: "Nhưng có người nói - mà tôi tin chắc bà đã nghe - rằng tôi đã tìm kiếm quá lâu, và rằng tôi vẫn còn nuôi hy vọng trong khi đáng lẽ nó phải bị vùi lấp."

"Nếu bậc cha mẹ muốn nuôi hy vọng thì không ai làm gì được để ngăn chặn họ."

Câu này nghe gay gắt hơn là ý tôi muốn nói, và Sturrock nhìn tôi với vẻ trắc ẩn hùng hồn mà tôi đã thấy lúc trước. Phần yếm thế trong tôi tự hỏi đã có bao nhiêu gia đình - đang khổ sở vì lo lắng - khi nhìn thấy dáng vẻ ấy mà cảm thấy được an ủi.

Dĩ nhiên là hoàn cảnh của tôi cần đến hành động chứ không thể chỉ có lòng trắc ẩn. Cái gì đó đã quay cuồng trong tôi, không tên nhưng đáng sợ, bây giờ thình lình kết tinh lại. Và tôi biết rằng mình không còn có thể trông cậy nơi ai được nữa, bất kỳ ai. Rốt cuộc rồi họ chỉ làm cho tôi thất vọng.

***

Knox đến gặp Sturrock nơi nhà Scott. Ông tự báo tin cho gia nhân, rồi Scott đi ra tiếp ông, nhìn ông với vẻ hiếu kỳ, nhưng ông không nói lý do tại sao mình đến đây. Chuyện này không liên quan gì tới họ, nên cứ để cho họ buôn chuyện (dù sao thì họ vẫn sẽ buôn chuyện, mặc ông cho phép hay không). Có lẽ họ sẽ nghĩ rằng Sturrock là một nghi phạm khác trong vụ án mạng.

Ông được đưa vào một gian phòng phía sau ngôi nhà mà gia đình Scott cho các doanh nhân hay đi lại thuê ngắn hạn. Gia nhân gõ cữa, và khi Sturrock trả lời, Knox bước vào.

Thomas Sturrock đã già đi kể từ lần cuối hai người gặp nhau. Nhưng đã mười năm qua rồi - và mười năm giữa hai cái tuổi năm mươi và sáu mươi có thể tạo sự khác biệt giữa thời đỉnh cao và thời lẩm cẩm. Knox băn khoăn tự hỏi mình có già đi như thế không.

Sturrock vẫn đứng thẳng người và thanh lịch như thuở nào, nhưng trông gầy hơn, khô khan hơn, yếu đuối hơn. Ông đứng dậy khi Knox bước vào, che giấu nỗi ngạc nhiên - hoặc bất kỳ cảm nhận nào - với nụ cười: "Ông Knox. Tôi nghĩ mình không nên thấy ngạc nhiên."

"Ông Sturrock." Hai người bắt tay nhau. "Tôi mong ông vẫn khỏe."

"Tôi vẫn có việc để bận bịu sau khi về hưu."

"Tốt. Tôi nghĩ ông biết tại sao tôi đến đây."

Sturrock nhún vai, có phần cường điệu. Dù cho khuy măng sét sờn và quần bị lấm lem, ông vẫn tạo cho người ta có cảm tưởng ông là người thích chưng diện. Đấy là điểm bất lợi cho ông.

Knox cảm thấy ngượng ngập. Ông đã quên đi ảnh hưởng từ sự hiện diện của Sturrock và gần như tự thuyết phục mình rằng lời đồn đại râm ran quanh Caulfield là đúng sự thật.

"Tôi lấy làm tiếc về... à, ông biết đó. Tôi biết người ta bàn tán ra sao. Chẳng dễ chịu gì cả."

Sturrock mỉm cười: "Tôi không muốn phản bác lại họ, nên ông cứ yên tâm về chuyện này."

Knox gật đầu, tỏ ra nhẹ nhõm: "Tôi chỉ lo về phần vợ tôi. Đó có thể là nguyên nhân khiến cho vợ tôi và hai con gái tôi khổ sở... Tôi nghĩ ông hiểu được."

"Vâng, đương nhiên."

Knox nhận ra là Sturrock không đồng tình; mình không tin nơi ông ta được. Ông ta muốn phục hồi danh dự.

"Dù sao đi nữa, chuyện gì khiến cho ông đến Caulfield? Tôi đã nghe mọi chuyện lạ lùng."

Với nụ cười, Sturrock đáp: "Tôi mong mọi chuyện đều đúng."

Ngay lúc đó, Knox nghe tiếng cọt kẹt bên ngoài căn phòng. Ông nhẹ nhàng đứng dậy và đến mở cánh cửa.

John Scott đang đứng đó với một chiếc khay, cố làm ra vẻ như vừa mới đi đến. Ông nói với sự chân thành thiếu thuyết phục: "Tôi nghĩ hai ông có thể muốn dùng một chút rượu."

Knox đón nhận chiếc khay với ánh mắt nghiêm khắc: "Cảm ơn. Ông chu đáo quá. Tôi tin là ông cần tôi viết báo cáo hậu thuẫn cho ông đòi tiền đền bù phải không?"

Scott trở nên mặt sưng mày sỉa và rồi, vì muốn giải tỏa tình thế, tỏ thái độ cùng mưu đồ bí ẩn. Hất hàm về phía Sturrock, ông thì thầm: "Ông ấy là một người lý thú".

Da mặt Scott đỏ hồng và bóng nhẫy một cách bất an dưới ngọn đèn. Bỗng dưng Knox liên tưởng đến một con heo trên trang trại của cha mẹ ông thường ụt ịt một cách điệu hạnh để tìm xin vài mẩu thức ăn, cái mõm hay chọc qua hàng rào ở cuối khu vườn. Ông ngạc nhiên vì các hình ảnh tương đồng đến nỗi ông chỉ gật đầu rồi đưa chân đóng lại cánh cửa.

Ông đặt chiếc khay lên mặt bàn. "Ông Scott không chỉ là người bán hàng tạp hóa, chủ nhà máy xay và doanh nhân, mà cũng là tờ công báo của địa phương." Ông rót một ly whisky cho Sturrock. "Trong khi ông ở đây, tôi giúp gì được không? Ngoại trừ cho ông một phòng trong nhà tôi, vì việc này sẽ... không hợp cách."

"Ông có lòng tử tế mà hỏi đến." Có vẻ như Sturrock suy nghĩ về vụ việc, trong khi không cần thiết phải suy nghĩ. Ông kể cho Knox nghe lý do mình đến đây, và Knox hứa sẽ làm hết sức mình tuy trong thâm tâm cảm thấy kỳ quặc về lời yêu cầu.

Mất thêm nửa giờ và mất vài đô la, Knox đi ra khỏi ngôi nhà, rồi thấy bước chân mình hướng đến kho chứa hàng, một tòa nhà lớn vươn cao, không có cửa sổ, tách biệt khỏi những ngôi nhà sáng đèn.

Ông dừng lại bên ngoài - hầu như không còn ánh sáng - lắng nghe tiếng động bên trong. Ông không nghe được gì cả, rồi rút ra chiếc chìa khóa, tin rằng Mackinley đã ra về.

Ngay cả trước khi đôi mắt ông làm quen được với khung cảnh tối tăm bên trong, ông đã nhận ra có cái gì đó đã thay đổi. Người tù không quay lại để đối diện với ông.

"Ông Parker? Tôi là Ông Knox."

Bây giờ, người đàn ông mới cử động và để lộ khuôn mặt. Trong một khoảnh khắc, trí não của Knox không hiểu được đôi mắt ông đã ghi nhận những gì - khuôn mặt xuất hiện, như lúc trước, giống như bản khắc của một khuôn mặt, chỉ có điều là bản khắc chưa hoàn chỉnh, hoặc bị hủy hoại bởi một con dao cùn. Knox rùng mình khi nhận ra đôi lông mày rậm, lưỡng quyền cao, và máu thắm đậm làn da.

"Trời ơi, chuyện gì đã xảy ra?" ông kêu lên, trước khi bộ não bắt kịp lời nói khiến cho ông ngừng bặt.

Giọng nói của người đàn ông nghe khàn khàn nhưng không có xúc cảm: "Đến lượt ông hả?"

"Ông ấy đã làm gì?" Đáng lẽ ông phải nhất quyết đi cùng Mackinley. Đáng lẽ ông phải lắng nghe nỗi nghi kỵ của mình. Chết tiệt cái tên đó! Hắn đã hủy hoại tất cả.

"Ông ta nghĩ có thể thúc ép tôi khai. Nhưng tôi không thể khai việc mà mình không làm."

Knox bước tới bước lui trong cơn kích động. Ông nhớ lại lời trấn an của Bà Ross rằng Parker vô tội, và có phần đồng ý với bà. Ông cảm thấy bấn loạn như là nghệ sĩ xiếc tung hứng thình lình thấy có quá nhiều quả bóng trong không trung, và nghĩ rằng những thảm kịch sắp diễn ra, theo đó là nỗi nhục nhã.

"Tôi sẽ... tìm cho anh cái gì đó cho việc này."

"Không có cái gì bị vỡ."

"Tôi... tôi xin lỗi. Việc này chưa từng xảy ra trước đây."

"Tôi muốn nói cho ông biết một chuyện mà tôi sẽ không nói cho ai khác."

Knox nhìn người đàn ông chăm chăm trong niềm hy vọng mông lung.

"Laurent có kẻ thù. Và những kẻ thù tệ hại nhất là nhân viên của Công ty. Nếu còn sống thì anh ấy là mối đe dọa cho họ. Chết rồi thì anh ấy không còn là mối đe dọa nữa."

"Đe dọa như thế nào?"

"Anh ấy là người thành lập Công ty Bắc Mỹ. Nhưng hơn thế nữa, anh ấy là đồng nghiệp trước đây của họ, giống như tôi. Công ty không ưa người quay lại chống lại họ."

"Những ai ở Công ty?"

Một sự im lặng kéo dài.

"Tôi không biết."

Knox cảm nhận một dòng mồ hôi chảy dài xuống ngực, bất chấp khí lạnh trong kho chứa hàng. Điều gì đó đã hiện ra trong trí ông, điều gì đó ngu xuẩn và khinh suất và khăng khăng, điều gì đó không giống như bất kỳ việc nào ông đã làm trước đây - và ông biết mình sẽ phải làm gì.

Trong suốt bữa ăn tối ấy, ông thấy Mackinley ba hoa do ảnh hưởng của rượu vang và sự quan tâm của phụ nữ. Mackinley cất tiếng oang oang cùng với màu đỏ trên gương mặt, dẫn giải đức tính của những nhân viên quan trọng trong Công ty mà ông từng biết. Ông thảo luận về việc một quản trị viên Công ty đã nổi danh nhờ dập tắt một cuộc cãi vã giữa hai bộ tộc người Da Đỏ khiến hai bên bị thiệt, và rồi một nhân viên tiền tiêu được ngưỡng mộ một cách đặc biệt, người không màng đi bộ hàng trăm dặm giữa mùa đông. Hiển nhiên là ngay cả người bản địa hành nghề hướng đạo cũng ngưỡng mộ tài năng của anh này trong việc định hướng và sinh tồn trong hoang dã, vì thế chứng tỏ người bản địa chẳng có kỹ năng thiên bẩm gì khá hơn người da trắng (đặc biệt là người da trắng gốc Scotland).

Knox nhìn Mackinley ba hoa, không góp chuyện nhưng cố che giấu nỗi kinh tởm. Sau đó, vợ ông hỏi ông ổn không. Ông mỉm cười nói mình chỉ mệt mỏi, nhưng không có gì đáng lo.

Từ lúc này, người ta sẽ buôn chuyện về ông; các lời đồn đại sẽ lan xa, kể rằng ông thiếu năng lực, không đạt tiêu chuẩn. May mắn là ông đã về hưu. Nếu thanh danh của ông là cái giá phải trả cho công lý, thì ông chẳng màng.

Trước đây ông đã ngậm miệng đối với sự thật. Ông có thể ngậm miệng lần nữa.