Trong hai năm đầu, chiến thuật của Hitler là nói chuyện hòa bình, bí mật chuẩn bị chiến tranh, thực hiện chính sách ngoại giao cẩn trọng, âm thầm tái vũ trang nhằm tránh các nước Đồng Minh viện dẫn Hòa ước Versailles mà chống Đức bằng quân sự.
Hitler sẩy chân một cách tệ hại với việc Quốc xã hạ sát Thủ tướng Áo Dollfuss. Trưa ngày 25 tháng 7 năm 1934, một toán S.S. mặc quân phục Quân đội Áo xông vào Phủ Thủ tướng và bắn ông. Cách đấy ít dãy phố, một toán Quốc xã khác chiếm đài phát thanh và loan báo Dollfuss đã từ chức. Hitler nhận được tin trong khi dự Lễ hội Wagner ở Baureuth. Ông cảm thấy kích động khi nhận được tin. Friedelind Wagner, cháu nội của nhà soạn nhạc Richard Wagner, là nhân chứng cho việc này. Sau này cô kể lại, hai phụ tá tên Schaub và Brueckner nhận tin tức từ Vienna qua điện thoại rồi thì thầm với Hitler.
Sau buổi diễn, Lãnh tụ ra rất kích động. Sự kích động càng tăng khi ông kể cho chúng tôi nghe tin khủng khiếp... Dù khó che giấu vẻ vui mừng trên nét mặt, Hitler vẫn cẩn thận gọi thức ăn trong nhà hàng như lệ thường.
Ông ấy nói: “Tôi muốn đi trong một giờ, kẻo không người ta nói tôi có can dự vào chuyện đó.1
Người ta hẳn đoán không lầm. Ta còn nhớ trong đoạn đầu của quyển Mein Kampf (xem Chương 4), Hitler viết là sự thống nhất của Áo và Đức là “nhiệm vụ phải theo đuổi bằng mọi cách trong suốt cuộc đời chúng ta”. Chẳng bao lâu sau khi nắm chức vụ Thủ tướng, Hitler thiết lập cơ sở Đảng Quốc xã ở Áo và phát động chiến dịch tuyên truyền hô hào những đồng chí của mình ở Vienna triệt hạ Dollfuss. Trong nhiều tháng trước vụ ám sát, Quốc xã Áo – với vũ khí và chất nổ do Đức cung cấp – thi hành chế độ khủng bố, cho nổ tung đường sắt, trạm biến thế, tòa nhà chính phủ, và sát hại những người ủng hộ Dollfuss. Cuối cùng, Hitler chấp thuận việc thành lập Binh đoàn Áo với vài nghìn quân, đóng dọc biên giới Áo và Bavaria, sẵn sàng tiến qua chiếm đóng Áo khi có lệnh.
Dollfuss qua đời do vết thương lúc 6 giờ chiều, nhưng cuộc binh biến của Quốc xã thất bại. Những lực lượng của Chính phủ dưới quyền TS. Kurt von Schuschnigg nhanh chóng giành lại quyền kiểm soát, nhóm phản loạn bị bắt và 13 người bị treo cổ. Riêng Mussolini, chỉ mới tháng trước được Hitler hứa sẽ để yên cho Áo, bây giờ khiến cho Đức lo lắng khi vội vã huy động 4 sư đoàn vùng biên giới.
Hitler nhanh chóng thối lui. Trước đó, hãng thông tấn chính thức của Đức DNB đã soạn sẵn một bản tin cho báo chí bày tỏ vui mừng với việc lật đổ Dollfuss và tuyên cáo một nước Đức lớn hơn. Bây giờ, DNB vội vã thu hồi bản tin, thay thế bằng một phiên bản khác bày tỏ lấy làm tiếc với vụ “ám sát tàn nhẫn” và cho biết đây là vụ việc trong nội bộ của Áo. Hitler phái Papen đi làm công sứ tại Áo và chỉ thị cho ông này phục hồi “mối quan hệ bình thường và hữu nghị”.
Niềm vui sướng ban đầu của Hitler nhường chỗ cho nỗi sợ hãi.
Khi gặp Papen về việc làm thế nào vượt qua cơn khủng hoảng, Hitler la lên: “Ta đối mặt với một Sarajevo mới!”2
Lãnh tụ đã lĩnh hội một bài học. Vụ bạo loạn của Quốc xã ở Vienna đã quá nóng vội, giống như vụ Bạo loạn Nhà hàng Bia ở Munich năm 1923. Đức chưa có tiềm lực quân sự đủ mạnh để hậu thuẫn cho cuộc phiêu lưu bằng vũ lực như thế. Ngay cả phát-xít Ý cũng cùng với Anh và Pháp đòi hỏi duy trì nền độc lập cho Áo. Hơn nữa, lần đầu tiên Liên Xô tỏ lộ mối quan tâm khi cùng với phương Tây ký Hiệp ước Đông Locarno khiến cho Đức khó có hành động gì ở phía Đông. Vào mùa thu, Liên Xô gia nhập Hội Quốc liên. Suốt năm 1934, Đức khó làm gì được để chia rẽ các siêu cường Đồng Minh. Hitler đành phải hô hào hòa bình, cùng lúc tiến hành việc tái vũ trang bí mật, rồi trông chờ cơ hội.
Ngoài Nghị viện, Hitler còn có một kênh thông tin khác để tuyên truyền ra thế giới bên ngoài: báo chí nước ngoài, mà các biên tập viên và thông tín viên liên tục xin phỏng vấn ông. Có Ward Price, người Anh mang kính một tròng, và tờ báo của anh, Daily Mail ở London, sẵn sàng chờ gợi ý để chiều lòng nhà độc tài Đức.
Thế nên vào tháng 8 năm 1934, trong một buổi phỏng vấn như thế, Hitler nói với Price và độc giả của anh ta:
Chiến tranh sẽ không trở lại... Đức có ấn tượng sâu sắc hơn bất cứ nước nào khác về hệ lụy của chiến tranh... không thể giải quyết vấn nạn của Đức qua chiến tranh.3
Đến mùa thu, Hitler nhắc lại ngôn từ dịu dàng như thế với Jean Goy, một thủ lĩnh cựu chiến binh người Pháp, chuyển lời Hitler qua một bài báo trên tờ Le Martin ở Paris.4
Vi phạm Hòa ước Versailles
Trong lúc này, Hitler theo đuổi một cách không mệt mỏi chương trình tái vũ trang. Quân đội nhận lệnh tăng quân số lên gấp ba – từ 100.000 lên 300.000 quân tính đến ngày 1 tháng 10 năm 1934. Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Ludwig Beck được thông báo rằng vào ngày 1 tháng 4 năm sau, Lãnh tụ sẽ ban hành lệnh động viên và công khai từ bỏ hạn chế quân sự của Hòa ước Versailles.5 Từ đây cho đến ngày ấy, phải giữ bí mật tuyệt đối mọi việc. Goebbels được nhắc nhở không bao giờ cho phép cụm từ “Bộ Tư lệnh” xuất hiện trên báo chí, vì Hòa ước Versailles cấm sự hiện diện của cơ quan này. Từ năm 1932, Quân đội Đức ngừng công bố danh sách sĩ quan hằng năm để tránh công khai hóa tình hình.
Ngay vào ngày 22 tháng 5 năm 1933, Tướng Keitel, Chủ tịch Ban Thường vụ của Hội đồng Quốc phòng Đế chế, đã dặn dò thuộc hạ:
Không được đánh mất tài liệu, kẻo kẻ thù sẽ lợi dụng để tuyên truyền. Câu chuyện trao đổi bằng miệng thì không thể minh chứng, mà còn có thể phủ nhận.6
Hải quân cũng nhận lệnh phải giữ kín kẽ. Tháng 3 năm 1934, Raeder có cuộc trao đổi lâu với Hitler và ghi lại:
Chỉ thị của Lãnh tụ: không nói gì đến trọng tải 25-26.000 tấn, chỉ có cải thiện tàu 10.000 tấn... Lãnh tụ ra lệnh giữ bí mật hoàn toàn việc đóng tàu ngầm.7
Vì lẽ, Hải quân đã bắt đầu đóng hai chiếc tàu thiết giáp 26.000 tấn (Hòa ước Versailles hạn định tối đa 10.000 tấn) sau này được đặt tên là Scharnhorst và Gneisenau. Việc đóng tàu ngầm – mà Hòa ước Versailles ngăn cấm – được tiến hành bí mật ở Phần Lan, Hà Lan và Tây Ban Nha dưới thời Cộng hòa. Vào tháng 11 năm 1934, Đô đốc Raeder xin phép lắp ráp thêm 6 chiếc “để dùng cho tình trạng khẩn cấp trong quý I năm 1935” (hẳn ông biết Lãnh tụ đã định làm gì trong thời gian ấy), nhưng Lãnh tụ chỉ trả lời rằng “ông ấy sẽ cho tôi biết khi nào tình hình đòi hỏi việc lắp ráp”.8
Trong cuộc họp ấy, Raeder cũng nêu ra rằng chương trình đóng tàu (chưa kể tăng quân số Hải quân lên gấp ba) sẽ cần nhiều tiền, nhưng Hitler bảo ông này đừng lo. “Khi cần, ông ấy sẽ ra lệnh cho TS. Ley rút 120-150 triệu từ Mặt trận Lao động để giao cho Hải quân, vì số tiền ấy vẫn làm lợi cho công nhân.”9 Vì thế, chương trình đóng tàu Hải quân lạm dụng tiền đoàn viên của công nhân.
Goering cũng tất bật trong hai năm này để lo gây dựng Không quân. Với tư cách là Bộ trưởng Hàng không – được hiểu là Hàng không Dân dụng – ông đặt hàng cho những cơ xưởng thiết kế máy bay chiến đấu. Việc đào tạo phi công quân sự được bắt đầu ngay dưới lốt ngụy trang Liên đoàn Bay Thể thao.
Hoạt động tái vũ trang diễn ra tất bật ở các vùng công nghiệp Ruhr và Rhineland, đặc biệt là hoạt động của Krupp, nhà sản xuất súng đạn chính yếu của Đức, và I. G. Farben, tổ hợp công nghiệp hóa chất. Dù Krupp bị Đồng Minh cấm tiếp tục sản xuất vũ khí sau 1919, công ty này vẫn không ngơi nghỉ. Vào năm 1942 khi quân Đức đã chiếm đóng hầu hết Châu Âu, hãng Krupp khoe khoang rằng nguyên tắc cơ bản cho việc tái vũ trang và thiết kế tháp pháo cho xe tăng đã được thực hiện vào năm 1926... Trong số các loại đại bác dùng trong thời gian 1939-41, những loại quan trọng nhất đã được hoàn thiện trong năm 1933.
Sau khi nguồn nitrat từ Chile bị cắt do Anh phong tỏa, các nhà khoa học của Farben đã cứu Đức khỏi thảm họa đầu Thế chiến I bằng cách tổng hợp nitrat từ không khí. Bây giờ dưới chế độ Hitler, tổ hợp Farben đang nỗ lực giúp cho Đức tự túc hai nguyên vật liệu không thể thiếu trong chiến tranh hiện đại: nhiên liệu và cao su, mà Đức đang phải nhập khẩu. Các nhà khoa học của công ty đã giải quyết việc sản xuất xăng tổng hợp từ than đá trong những năm 1920. Chính quyền Quốc xã ra lệnh cho công ty I. G. Farben nâng mức sản xuất xăng tổng hợp lên 300.000 tấn mỗi năm vào năm 1937. Vào thời gian này, công ty tìm cách sản xuất cao su nhân tạo từ than đá và những sản phẩm khác đủ nhu cầu của Đức.
Đầu năm 1934, Ban Thường vụ của Hội đồng Quốc phòng Đế chế chấp thuận kế hoạch huy động khoảng 240.000 nhà máy để nhận đơn đặt hàng chiến tranh. Vào cuối năm này, việc tái vũ trang trở nên quá rầm rộ nên không thể che giấu các cường quốc áp đặt Hòa ước Versailles được nữa.
Các cường quốc này, dẫn đầu là Anh, đang có ý nghĩ là nên chấp nhận chuyện đã rồi. Họ sẽ nhìn nhận Đức được bình đẳng về quân sự và đổi lại, Đức sẽ tham gia Hiệp ước Đông Locarno nhằm tạo sự ổn định cho các nước phía Đông (đặc biệt là Nga, Ba Lan và Tiệp Khắc) ngang bằng với sự ổn định cho các nước phía Tây do Hiệp ước Locarno mang lại. Vào tháng 5 năm 1934, ngoại trưởng Anh Sir John Simon – vốn không hiểu gì về tâm tư của Hitler – đề nghị bình đẳng về quân sự cho Đức. Pháp cực lực phản đối.
Ngày 13 tháng 1 năm 1935, cư dân vùng Saar bỏ phiếu với tỷ lệ áp đảo trả lại vùng đất nhiều mỏ than này cho Đức. Nhân cơ hội này, Hitler công khai tuyên bố Đức không còn có đòi hỏi lãnh thổ gì đối với Pháp, có nghĩa là Đức từ bỏ yêu sách về các vùng Alsace và Lorraine. Trong không khí lạc quan và hòa hoãn như thế, đầu tháng 2 năm 1935, Anh và Pháp chính thức đề xuất việc hòa giải tổng thể bao gồm bình đẳng quân sự và Hiệp ước Đông Locarno.
Câu trả lời của Hitler ngày 14 tháng 2 có phần mơ hồ. Ông hoan nghênh kế hoạch cho phép Đức tự do tái vũ trang. Nhưng ông né tránh việc ký kết Hiệp ước Đông Locarno, vì như thế có nghĩa là hạn chế hành động của ông ở vùng đất liên quan đến không gian sinh sống của Đức. Liệu có thể tách Anh ra khỏi việc này vì họ không quan tâm lắm đến an ninh phía Đông như Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc và Rumania? Hitler hẳn cũng nghĩ thế, vì trong câu trả lời cẩn trọng, ông đề nghị đàm phán song phương trước và mời Anh đến để thảo luận sơ bộ.
Ngoại trưởng Anh John Simon đồng ý, và hai bên định gặp nhau ở Berlin. Nhưng khi Anh công bố Sách Trắng gây phẫn nộ ở Đức, Hitler tỏ ra giận dữ. Phía Đức đề nghị hoãn cuộc họp với lý do Hitler bị cảm.
Dù bị cảm thật sự hay không, chắc chắn là đầu óc Hitler quay cuồng. Nếu có Simon và Eden ở gần thì ông sẽ bị bối rối khi có động thái táo bạo. Ông nghĩ mình đã tìm lý do để giáng cho Versailles một đòn chí tử. Chính phủ Pháp vừa trình ra một dự luật nhằm kéo dài thời gian nghĩa vụ quân sự từ 18 tháng lên 2 năm. Ngày 10 tháng 3 năm 1935, Đức thả bong bóng thăm dò bản lĩnh phía Đồng Minh. Goering mời anh nhà báo Ward Price dễ tính đến để phỏng vấn mình, chính thức thông báo điều mà cả thế giới đã biết: Đức có Không lực. Hitler tự tin chờ đợi phản ứng phía Anh đối với việc bãi bỏ đơn phương ấy. Đúng như ông nghĩ: Sir John Simon tuyên bố trước Nghị viện Anh rằng ông vẫn sẽ đi Berlin.
Ngày Thứ Bảy kinh ngạc
Hitler dành phần lớn quyết định gây kinh ngạc của mình cho các ngày Thứ Bảy. Ngày Thứ Bảy 16 tháng 3 năm 1935 cũng thế: ông ban hành một nghị định thiết lập nghĩa vụ quân sự và một quân đội thời bình gồm có 12 quân đoàn và 36 sư đoàn – khoảng nửa triệu người. Đó là cáo chung của giới hạn quân sự mà Hòa ước Versailles áp đặt – trừ phi Pháp và Anh có động thái. Đúng như Hitler đoán: hai nước chỉ lên tiếng phản đối nhưng chẳng có động thái nào khác. Trái lại, Chính phủ Anh vội hỏi liệu Hitler có chịu gặp Ngoại trưởng Anh hay không, và Hitler trả lời đồng ý.
Chủ Nhật 17 tháng 3 năm 1935 là ngày sướng thỏa và ăn mừng ở Đức. Xiềng xích Versailles – biểu tượng của chiến bại và nỗi nhục nhã của Đức – được tháo bỏ. Dù cho người Đức nào có ác cảm với Hitler và với chế độ bạo tàn, họ vẫn phải nhìn nhận rằng ông đã làm được điều mà không Chính phủ Cộng hòa nào dám làm. Đối với đa số người Đức, danh dự quốc gia đã được cứu vãn. Chủ Nhật này cũng là Heldengedenktag– Ngày Tưởng niệm Liệt sĩ. Tôi đi đến dự buổi lễ được tổ chức ở Nhà hát Quốc gia, và ở đây tôi được chứng kiến một cảnh tượng chưa từng thấy kể từ năm 1914. Cả tầng dưới là một biển người trong quân phục – quân phục màu xám và mũ nồi chóp nhọn của Quân đội Đế chế ngày xưa trộn lẫn với đồng phục của Quân đội mới, kể cả đồng phục màu xanh da trời của Không quân mà ít người trông thấy trước đây. Bên cạnh Hitler là Thống chế von Mackensen – vị Thống chế còn sống cuối cùng của đế chế trước – lộng lẫy trong bộ lễ phục đầy màu sắc. Ánh sáng mạnh chiếu lên khán đài, nơi đội sĩ quan trẻ đứng nghiêm như những pho tượng cẩm thạch, giương lên cờ chiến. Phía sau họ, trên tấm màn treo một dấu hiệu Chữ thập Sắt khổng lồ. Bề ngoài là lễ tưởng niệm liệt sĩ Đức, nhưng buổi lễ biến thành việc ăn mừng cái chết của Hòa ước Versailles và sự hồi sinh của Quân đội Đức.
Các tướng lĩnh tỏ ra cực kỳ vui sướng, như có thể nhận thấy trên vẻ mặt của họ. Giống như bất kỳ ai khác, họ đều kinh ngạc. Hitler chẳng màng bàn bạc trước với họ. Theo lời khai của von Manstein ở Tòa án Nuremberg, ông và Tướng Tư lệnh Quân khu III von Witzbelen lần đầu tiên nghe quyết định của Hitler qua đài phát thanh ngày 16 tháng 3. Bộ Tổng Tham mưu muốn bắt đầu bằng quân đội nhỏ hơn. Manstein khaiA:
Chú thích:
A Cần ghi nhận là vào ngày 16 tháng 3 năm 1935, khi Hitler quyết định con số 36 sư đoàn, Manstein đang giữ chức vụ thấp, đến ngày 1 tháng 7 năm 1935 ông mới được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Hành quân Bộ Tư lệnh Lục quân – vẫn còn tương đối thấp. Vì thế, hẳn ông khó nắm được chi tiết về việc đi đến quyết định này và cũng không thể phát biểu thay mặt cho Bộ Tổng tham mưu. Riêng Irving trong quyển Hitler’s war and the war path (2002) cho biết nhật ký của Goebbels ghi Hitler bàn luận với Blomberg về việc này. (ND)
Nếu được hỏi ý kiến, đáng lẽ Bộ Tổng Tham mưu đã đề nghị 21 sư đoàn... Con số 36 sư đoàn là quyết định ngẫu hứng của Hitler.10
Bây giờ, các cường quốc có một số động thái rỗng tuếch để cảnh cáo Hitler. Anh, Pháp và Ý hội họp với nhau rồi lên án hành động của Đức và tái xác nhận việc ủng hộ nền độc lập của Áo và Hiệp ước Locarno. Hội Quốc liên cũng tỏ ý bất bình và lập một ủy ban để đề xuất biện pháp ngăn chặn Hitler lần kế tiếp. Nhận thấy Đức sẽ không bao giờ ký Hiệp ước Đông Locarno, Pháp vội ký hiệp ước trợ giúp hỗ tương với Liên Xô, và Liên Xô ký hiệp ước tương tự với Tiệp Khắc.
Sự kiện các cường quốc hợp lực với nhau tỏ ý chống Đức xem chừng đáng ngại, và khiến một số người trong Bộ Ngoại giao và Quân đội Đức lo lắng. Nhưng Hitler có vẻ vẫn an tâm. Xét cho cùng, trong ván bài liều này, ông đã đạt mục đích. Nhưng lúc này chưa nên tự mãn. Hitler quyết định đây chính là lúc khẳng định lần nữa lòng yêu chuộng hòa bình và để xem có thể lũng đoạn tình đoàn kết của các nước đang chống lại mình hay không.
Ngày 21 tháng 5 năm 1935, Hitler bí mật ban hành Luật Bảo vệ Đế chế, bổ nhiệm TS. Schacht làm Bộ trưởng Đặc mệnh Toàn quyền Kinh tế Chiến tranh và tổ chức lại quân lực; Bộ Quốc phòng đổi thành Bộ Chiến tranh. Quân đội Đức từ danh hiệu Reichswehr (có nghĩa: Quân Phòng vệ Đế chế) dưới thời Cộng hòa bây giờ được chuyển thành Wehrmacht (có nghĩa: Lực lượng Phòng vệ). Hitler kiêm thêm Tư lệnh Tối cao Quân lực, Blomberg được chỉ định làm Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực – vị tướng duy nhất của Đức từng giữ chức vụ này. Ba quân chủng có tư lệnh và bộ tư lệnh riêng. Tướng Beck nhận chức Tham mưu trưởng Lục quân.
Buổi tối hôm ấy, Hitler đọc một bài “Diễn văn Hòa bình” nữa ở Nghị việnA – có lẽ là bài diễn văn hùng hồn nhất. Chắc chắn đó là một trong những bài phát biểu có tính chất khôn ranh nhất và lọc lừa nhất mà tác giả từng nghe ông ta đọc. Hitler có tư thái thư giãn và toát lên tinh thần chẳng những tự tin mà còn khoan dung và hòa hoãn khiến cho người nghe phải kinh ngạc. Không có thái độ oán giận hoặc thách thức đối với những quốc gia đã kết án ông vi phạm các điều khoản quân sự của Hòa ước Versailles.
Chú thích:
A Xem Chương 7: bài “Diễn văn Hòa bình” trước là vào ngày 17 tháng 5 năm 1933, trong đó Hitler đề xuất các nước cùng Đức giải trừ quân bị, ký kết hiệp ước bất tương xâm... (ND)
Thay vào đó, có lời trấn an rằng tất cả những gì ông muốn chỉ là hòa bình và cảm thông dựa trên sự bình đẳng cho mọi bên. Ông bác bỏ ý tưởng chiến tranh; đó là vô nghĩa, vô ích, cũng là điều kinh hoàng.
Những cuộc đổ máu trên lục địa Châu Âu trong ba trăm năm qua không cho thấy có sự thay đổi tương xứng. Rốt cuộc Pháp vẫn là Pháp, Đức là Đức, Ba Lan là Ba Lan, Ý vẫn là Ý. Tính tự cao của vương triều, nỗi đam mê chính trị và sự mù quáng ái quốc chẳng đạt được gì nhiều qua những thay đổi chính trị sâu xa với máu chảy thành sông... Những tố chất cơ bản của họ vẫn không đổi. Nếu các quốc gia này chỉ cần mang một phần hy sinh nhỏ nhoi để phục vụ mục đích khôn ngoan hơn, thì thành công sẽ to tát hơn và trường cửu hơn.
Hitler tuyên bố là Đức không hề có ý định thôn tính những dân tộc khác:
Chủ thuyết chủng tộc của chúng tôi xem mọi cuộc chiến nhằm khuất phục và chế ngự một dân tộc nước ngoài là quá trình chẳng chóng thì chầy sẽ thay đổi và làm suy yếu từ bên trong nước chiến thắng, và rốt cuộc mang đến chiến bại cho họ... Vì lẽ chẳng còn đất trống ở Châu Âu, mỗi chiến thắng... cùng lắm chỉ giúp dân số của quốc gia tăng lên. Nhưng nếu các quốc gia xem điều ấy là quan trọng, họ có thể đạt được qua cách thức đơn giản hơn và tự nhiên hơn mà không phải nhỏ nước mắt – bằng chính sách xã hội đúng đắn, bằng cách giúp nhân dân họ sinh đẻ thêm.
Không! Nước Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa mong mỏi hòa bình vì sự tin tưởng cơ bản như thế. Và Đức mong mỏi hòa bình cũng vì nhận thức được điều sơ đẳng nhất là không có cuộc chiến tranh nào có thể thay đổi khổ đau ở Châu Âu... Hậu quả chủ yếu của mỗi cuộc chiến tranh là hủy hoại tinh hoa của đất nước.
Nước Đức cần hòa bình và đòi hỏi hòa bình!
Hitler luôn khẳng định điểm này. Cuối cùng, ông đưa ra 13 đề xuất cụ thể nhằm duy trì hòa bình, tạo ấn tượng sâu đậm đối với nước Đức và cả Châu Âu. Ông rào đón với lời nhắc nhở:
Đức long trọng nhìn nhận và đảm bảo với Pháp đường biên giới như đã xác định sau cuộc trưng cầu dân ý Saar... Theo đó, chúng tôi từ bỏ đòi hỏi về vùng Alsace-Lorraine, vùng đất mà vì chúng, chúng tôi đã đấu tranh trong hai cuộc đại chiến... Bỏ qua quá khứ, Đức đã ký kết hiệp ước bất tương xâm với Ba Lan... Chúng tôi sẽ tôn trọng vô điều kiện hiệp ước này... Chúng tôi nhìn nhận Ba Lan là ngôi nhà của một dân tộc vĩ đại và có lòng ái quốc cao độ.
Và đối với Áo:
Đức không có ý định và cũng không mong muốn can thiệp vào nội bộ của Áo, sáp nhập Áo vào Đức, hoặc thống nhất Áo và Đức...
Mười ba điểm của Hitler khá bao quát. Nếu Hội Quốc liên tách ra khỏi Hòa ước Versailles và mọi quốc gia được bình đẳng với nhau, Hitler ngụ ý Đức sẽ tái gia nhập Hội Quốc liên. Tuy nhiên, Đức sẽ “tôn trọng vô điều kiện” những điều khoản của Hòa ước Versailles không liên quan đến quân sự “kể cả những điều khoản về lãnh thổ. Đặc biệt, Đức sẽ ủng hộ và thực thi mọi nghĩa vụ của Hiệp ước Locarno”. Mặc dù đồng ý tham dự “bất cứ lúc nào” vào hệ thống an ninh tập thể, Đức mong muốn những hiệp ước song phương và sẵn sàng thực hiện hiệp ước bất tương xâm với các nước láng giềng.
Về việc giải trừ quân bị, Hitler sẵn sàng đi đến mức giới hạn:
Chính phủ Đức sẵn sàng đồng ý bất cứ giới hạn nào nhằm xóa bỏ vũ khí hạng nặng, đặc biệt thích hợp để tấn công, như đại bác hạng nặng và xe tăng hạng nặng... Đức tuyên bố sẵn sàng đồng ý bất cứ giới hạn nào về khẩu độ của pháo, tàu thiết giáp, tàu tuần dương và tàu ngư lôi. Tương tự, Chính phủ Đức sẵn sàng đồng ý bất cứ giới hạn nào về trọng tải tàu ngầm, hoặc xóa bỏ tất cả tàu ngầm...
Trong việc này, Hitler giăng miếng mồi ra nhử nước Anh. Ông sẵn sàng giới hạn Hải quân Đức mới ở mức 35% tổng tải trọng lực lượng Hải quân Anh; và ông thêm, như thế vẫn còn khiến cho Đức 15% thấp hơn so với tổng tải trọng của Hải quân Pháp. Đáp lại sự phản đối ở nước ngoài rằng đây chỉ là những yêu sách bước đầu của Đức, Hitler trả lời: “Đối với Đức, yêu cầu này là cuối cùng và có tính ràng buộc.”
Khoảng sau 10 giờ tối, Hitler đi đến đoạn kết:
Bất kỳ ai thổi bùng ngọn lửa chiến tranh ở Châu Âu chỉ có thể trông mong sự hỗn loạn. Tuy nhiên, chúng ta sống trong niềm tin vững chắc rằng vào thời đại của chúng ta phương Tây sẽ không xuống dốc mà là hồi sinh. Chúng ta có niềm hy vọng trong tự hào và lòng tin không hề lay chuyển là nước Đức có thể đóng góp một phần lâu dài vào sự nghiệp vĩ đại này.11
Đó là ngôn từ tẩm mật ngọt của hòa bình, lý lẽ và hòa giải. Trong những chế độ dân chủ Tây Âu, nơi mà người dân và Chính phủ mong mỏi hòa bình trên bất kỳ cơ sở hợp lý nào – hầu như trên mọi cơ sở – ngôn từ như thế dễ tạo niềm tin. Nhật báo có tầm ảnh hưởng rộng nhất nước Anh, tờ Times, hoan nghênh đến mức gần như cuồng nhiệt:
... Bài diễn văn hóa ra đúng lý, thẳng thắn và toàn vẹn. Những ai công tâm đều tin rằng chính sách do ông Hitler đưa ra có thể tạo nên một tiền đề tốt để đạt thỏa thuận trọn vẹn với Đức – một nước Đức tự do, bình đẳng và mạnh mẽ thay vì một nước Đức kiệt quệ bị áp đặt hòa bình mười sáu năm trước...
Hy vọng rằng bài diễn văn sẽ được mọi phía chấp nhận, là lời phát biểu chân thành và có suy xét, thể hiện chính xác những gì đã trình bày.12
Tờ báo nổi danh này, một trong những vinh quang chính trong ngành báo chí ở Anh, lại đóng vai trò giống như Chính phủ Chamberlain trong việc xoa dịu Hitler. Nhưng ít nhất đối với tác giả, họ có ít lý do để biện minh hơn, vì qua thông tín viên Norman Ebbutt cho đến khi ông này bị trục xuất ngày 16 tháng 8 năm 1937, tờ báo có nguồn tin về hành động và mục đích của Hitler. Dù tờ Times không đăng tải nhiều bài ông viết từ BerlinA, ban biên tập của tờ Times đáng lẽ phải đọc tất cả các bài gửi về và vì thế hẳn phải biết những gì thật sự đang xảy ra ở Đức và phải biết lời hứa to tát của Hitler là rỗng tuếch như thế nào.
Chú thích:
A Ngày 23 tháng 5 năm 1937 Geoffrey Dawson, chủ bút báo Times, viết cho H. G. Daniels – thông tín viên ở Geneva – người đi trước Ebbutt ở Berlin: “Đêm này qua đêm khác tôi nỗ lực giữ cho tờ báo không đăng tin gì có thể phạm vào tính nhạy cảm [của Đức]. Tôi thật sự không thể nghĩ ra điều gì đã được in trong vài tháng qua mà có thể bị xem như không công bằng.” (John Evelyn Wrench, Geoffrey Dawson and Our Times.) (TG)
Chẳng kém tờ Times, Chính phủ Anh sẵn sàng và nôn nóng chấp nhận những đề xuất của Hitler là “chân thành” và “có suy xét” – đặc biệt là đề xuất giới hạn Hải quân Đức ở mức 35% của Hải quân Anh.
Trước đó, khi Ngoại trưởng Anh John Simon và Eden đến gặp vào cuối tháng 3 năm 1935, Hitler đã khôn ngoan ngụ ý là có thể dễ dàng đi đến hiệp ước Hải quân nhằm đảm bảo ưu thế cho Anh. Bây giờ, ông đưa ra đề xuất công khai và cụ thể – hạm đội Đức bằng 35% tải trọng của hạm đội Anh. Ông nói: “Đức không có ý định hoặc thấy cần thiết hoặc có phương tiện để tham gia vào cuộc ganh đua Hải quân mới.” Lời bóng gió, mà phía Anh hiểu ra, nhắc đến thời kỳ trước năm 1914, khi Đức cố gây dựng một hạm đội cho ngang bằng với Anh.
Hitler tiếp:
Chính phủ Đức công nhận tầm quan trọng, và qua đó biện minh, của việc phòng vệ Đế quốc Anh trên đại dương... Chính phủ Đức có ý muốn thẳng thắn để tìm kiếm và duy trì mối bang giao với dân tộc và đất nước Anh nhằm mọi lúc ngăn chặn hai nước tái diễn tranh chấp.
Hitler phát biểu ý tương tự trong quyển Mein Kampf, khi ông nhấn mạnh một trong những lỗi lầm lớn nhất của Hoàng đế Đức là thái độ thù địch với Anh và nỗ lực phi lý nhằm chạy đua vũ trang với Hải quân Anh.
Chính phủ Anh rơi vào bẫy của Hitler một cách ngây thơ và nhanh chóng đến mức khó tin. Vốn bây giờ chỉ là người sai vặt cho Hitler về ngoại giao, Ribbentrop được mời đến London để đàm phán về hải quân. Rỗng tuếch và thiếu tế nhị, ông này bảo phía Anh rằng đề xuất của Hitler là không thể đem ra đàm phán; phía Anh phải chấp nhận hoặc từ chối.
Phía Anh chấp nhận, mà họ nghĩ sẽ có lợi riêng cho Anh. Chẳng hội ý các đồng minh Pháp và Ý, vốn cũng là hai cường quốc hải quân và đang lo lắng về việc Đức tái vũ trang, thậm chí chẳng thông báo cho Hội Quốc liên là cơ quan bảo trợ các hòa ước 1919, Anh nông nổi tiến hành xóa bỏ mọi hạn chế hải quân ghi trong Hòa ước Versailles.
Vì lẽ, một đầu óc giản đơn nhất ở Berlin vẫn nhận ra rằng đồng ý cho Đức gây dựng Hải quân bằng 1/3 Hải quân Anh tức là cho phép Hitler tự do đóng tàu cho hạm đội càng nhanh càng tốt theo khả năng có thể – ngang bằng khả năng huy động tối đa các xưởng đóng tàu và nhà máy thép trong 10 năm. Vì thế, đây không phải là giới hạn tái vũ trang của Đức mà là khuyến khích bành trướng Hải quân nhanh chóng theo khả năng của Đức.
Như xát thêm muối vào vết thương, Chính phủ Anh cũng từ chối thông báo cho Pháp – là đồng minh thân cận nhất – về loại và số lượng tàu mà Anh đồng ý Đức có thể đóng, ngoại trừ trọng tải của đội tàu ngầm Đức bằng 60% đội tàu ngầm Anh và trong trường hợp đặc biệt có thể lên đến 100%.13 Nên nhớ là Hòa ước Versailles triệt để cấm Đức đóng tàu ngầm. Cụ thể: hiệp ước Anh-Đức cho phép Đức đóng 5 tàu thiết giáp, với tải trọng và đại pháo lớn hơn bất cứ loại tàu nào Anh đang có, lại thêm việc Đức ngụy tạo mọi con số chính thức để đánh lừa bên Anh nhằm đóng 21 tàu tuần dương và 64 tàu khu trục. Khi chiến tranh bùng nổ, không phải tất cả đều được hoàn tất nhưng Đức hoàn tất khá đủ, cộng thêm tàu ngầm, để gây cho Anh nhiều thiệt hại trong những năm đầu của cuộc chiến.
Mussolini theo dõi sát sao các diễn biến. Hai quốc gia có thể cùng chơi trò xoa dịu với Hitler. Hơn nữa, thái độ của Anh trong việc phớt lờ Hòa ước Versailles còn khiến cho Mussolini tin rằng Anh cũng chẳng quan tâm đến việc tuân thủ Thỏa ước của Hội Quốc liên.
Ngày 4 tháng 10 năm 1935, trong thái độ thách thức Thỏa ước, Quân đội Ý xâm lăng Abyssinia. Hội Quốc liên, cầm đầu là Anh và được Pháp ủng hộ một cách miễn cưỡng, biểu quyết khiển trách, nhưng việc áp dụng hình phạt chỉ là sơ sài. Họ không thể ngăn chặn Ý chiếm Abyssinia nhưng họ lại phá vỡ tình thân hữu giữa phát-xít với Anh và Pháp.
Ai hưởng lợi từ chuỗi sự kiện này ngoại trừ Hitler? Phía Đức phân tích tình hình và vui sướng.
Hoặc Mussolini... sẽ suy yếu ở Châu Âu do đó Hitler có thể chiếm lấy Áo vốn từ trước đến giờ được Ý bảo vệ; hoặc ông ấy sẽ thắng và thách thức Pháp lẫn Anh do đó có thể liên minh với Đức chống lại các nước dân chủ phương Tây. Đằng nào thì Hitler cũng hưởng lợi.14
Chẳng bao lâu ta sẽ thấy bằng chứng.
Đòn táo bạo ở Rhineland
Trong bài “Diễn văn Hòa bình” ngày 21 tháng 5 năm 1935 gây ấn tượng tốt đẹp cho thế giới và nhất là Anh, Hitler đề cập đến “một yếu tố thiếu ổn định về mặt pháp lý” đã được đưa vào Hiệp ước Locarno do kết quả của Hiệp ước Nga-Pháp, nhưng đến cuối năm vẫn chưa được Quốc hội Pháp chuẩn y. Bộ Ngoại giao Đức chính thức kêu gọi Pháp chú ý đến “yếu tố” này.
Sau buổi hội kiến với Hitler ngày 21 tháng 11 năm 1935, Đại sứ Pháp François-Poncet báo cáo về Paris là Hitler định viện cớ Hiệp ước Nga- Pháp để chiếm lấy vùng phi quân sự Rhineland. Ông thêm: “Hitler chỉ còn lưỡng lự về thời điểm thích hợp để hành động.”15
François-Poncet có lẽ là đại sứ nước ngoài hiểu rõ Đức nhất, nhưng ông vẫn không biết rằng trước khi Hitler đọc bài diễn văn cam kết tôn trọng Hiệp ước Locarno và những điều khoản Hòa ước Versailles không liên quan đến quân sự, Tướng von Blomberg đã chỉ thị Quân đội chuẩn bị kế hoạch tái chiếm Rhineland. Chiến dịch sẽ “được thực hiện bằng đòn bất ngờ với tốc độ sấm sét”, và việc lên kế hoạch nằm trong vòng bí mật đến nỗi “chỉ một số nhỏ nhất sĩ quan được thông báo”. Để đảm bảo bí mật, Blomberg tự viết tay chỉ thị này.16
Kế hoạch được thảo luận ngày 16 tháng 6 trong buổi họp Ban Thường vụ của Hội đồng Quốc phòng Đế chế, trong đó Đại tá Chủ nhiệm Cục Dân phòng Alfred Jodl báo cáo về kế hoạch và nhấn mạnh yếu tố bí mật tuyệt đối. Ông yêu cầu không nên viết gì ra giấy nếu không tối cần thiết, và thêm rằng “tất cả tài liệu như thế phải được giữ trong tủ sắt.”17
Suốt mùa đông 1935-1936, Hitler nhẫn nại chờ đợi. Pháp và Anh vẫn lo ngăn chặn tính hiếu chiến của Ý ở Abyssinia nhưng Ý vẫn phớt lờ. Dù cho bao lệnh trừng phạt được phổ biến rộng rãi, Hội Quốc liên vẫn tỏ ra bất lực. Ngày 27 tháng 2 năm 1936, Quốc hội Pháp phê chuẩn Hiệp ước Nga-Pháp. Hai ngày sau, Hitler đi đến quyết định khiến cho giới tướng lĩnh cảm thấy bất an, tin rằng Pháp có thể đánh tan tác các lực lượng nhỏ của Đức được điều động để chiếm Rhineland. Tuy thế, Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Blomberg vẫn tuân theo chỉ thị của Hitler, ngày hôm sau ban hành lệnh chiếm đóng Rhineland, tin rằng đó là “cuộc hành quân yên bình”, hoặc nếu Pháp chống trả thì Blomberg “có quyền quyết định cho bất cứ cuộc phản công quân sự nào”.18
Thật ra, theo những gì tôi biết được sáu ngày sau và được các tướng lĩnh xác nhận trước Tòa án Nuremberg, Blomberg quyết định sẽ rút quân nếu Pháp chống cự! Nhưng nước Pháp chẳng biết điều này, và cũng đang bị tê liệt do xung đột nội bộ và người dân có tư tưởng chủ hòa.
Sáng 7 tháng 3 năm 1936, một lực lượng nhỏ của Đức đi qua các cầu Sông Rhine và tiến vào khu phi quân sự Rhineland. Theo lời khai của Jodl trước Tòa án Nuremberg, chỉ có 3 tiểu đoàn vượt Sông Rhine và chỉ một sư đoàn được huy động để chiếm cả vùng. Quân báo của Đồng Minh ước lượng Đức có 35.000 quân, hoặc khoảng 3 sư đoàn. Sau đó, Hitler cho biết mình chỉ có 4 lữ đoàn.19
Lúc 10 giờ sáng, Bộ trưởng Ngoại giao ngoan ngoãn Neurath cho mời các Đại sứ Pháp, Anh và Ý đến, thông báo tin tức về vùng Rhineland, trao cho họ một bản tuyên bố chính thức phản đối Hiệp ước Locarno – mà Hitler vừa mới xé bỏ – và đề xuất kế hoạch hòa bình mới! François-Poncet châm biếm nhận xét:
Hitler đấm đối thủ vào mặt rồi tuyên bố: ‘Tôi mang đến cho anh đề xuất về hòa bình!’20
Hai giờ sau, Hitler đứng trên diễn đàn của Nghị viện trước một cử tọa cuồng nhiệt, diễn giải ý muốn của mình về hòa bình và đưa ra những đề xuất mới nhất để duy trì hòa bình. Tôi đi đến Nhà hát Kroll để xem quang cảnh vừa lạ lùng vừa kinh khủng mà tôi sẽ không bao giờ quên.
Sau một hồi công kích những điều tệ hại của Hòa ước Versailles và mối đe dọa của bôn-sê-vích, Hitler tuyên bố một cách điềm tĩnh rằng Hiệp ước Nga-Pháp khiến cho Hiệp ước Locarno – mà Đức đã tự nguyện ký kết – trở nên mất hiệu lực. Hitler nói:
Đức chẳng còn cảm thấy bị trói buộc vào Hòa ước Locarno. Thể theo lợi ích của cư dân dọc biên giới phải có quyền cơ bản về an ninh và quyền tự vệ, bắt đầu từ hôm nay Chính phủ Đức tái lập chủ quyền tuyệt đối và toàn vẹn của Đế chế trong vùng phi quân sự.
Bây giờ 600 đại biểu, tất cả đều do Hitler chỉ định, những con người thấp kém với cơ thể to lớn, cổ bạnh, tóc cắt ngắn, bụng phệ, đồng phục nâu và giày bốt nặng nề... nhảy dựng lên như là người máy, cánh tay phải giơ thẳng lên theo kiểu chào của Quốc xã và hô to “Heils”...
Hitler đưa tay ra dấu yêu cầu im lặng... Ông nói với giọng sâu lắng, ngân vang trong không khí im lặng như tờ:
Đại biểu của Nghị viện Đức! Trong thời khắc lịch sử này, ở các tỉnh miền Tây của Đế chế, khi binh sĩ Đức vào phút này đang đi vào doanh trại thời bình của họ trong tương lai, tất cả chúng ta đều nhất trí với hai lời nguyền thiêng liêng.
Ông không thể nói tiếp được. Binh sĩ Đức đã tiến vào Rhineland là tin vui đối với đám hỗn tạp ở “Nghị viện”. Tất cả tinh thần quân phiệt trong dòng máu Đức sục sôi đến đỉnh đầu. Họ nhảy nhót, la ó, gào thét... Tay họ cất lên chào, gương mặt họ méo mó vì điên loạn, miệng mở to, la hét và la hét, mắt rực lửa vì cuồng tín, dán chặt vào Hitler bây giờ đối với họ như thể Thượng Đế mới, Đấng Cứu thế mới... Và Đấng Cứu thế đóng vai trò của mình một cách kiệt xuất. Đầu ông cúi xuống như thể do tất cả khiêm tốn, chờ cho tiếng ồn ào lắng xuống.
Rồi với lời nói vẫn nhỏ nhẹ, nhưng nghẹn ngào vì cảm xúc, Hitler thốt lên hai lời nguyền:
Thứ nhất, chúng ta nguyền không nhượng bộ bất cứ sức mạnh nào trong việc phục hồi danh dự của nhân dân ta... Thứ hai, chúng ta cam kết rằng bây giờ, hơn lúc nào hết, chúng ta sẽ nỗ lực đạt đến sự cảm thông giữa các dân tộc Châu Âu, đặc biệt là với các quốc gia láng giềng phương Tây... Chúng ta không đòi hỏi lãnh thổ ở Châu Âu!... Đức sẽ không bao giờ phá vỡ hòa bình!
Tiếng hoan hô vang lên một hồi lâu mới dứt... Vài tướng lĩnh tìm đường bước ra ngoài. Tuy nhiên, phía sau nụ cười của họ, ta không khỏi nhận ra nét âu lo... Tôi chạm trán với Tướng von Blomberg... Gương mặt của ông tái đi, hai bên má giật giật.21
Các tướng lĩnh có lý do chính đáng. Bộ trưởng Quốc phòng, người tự viết tay lệnh tiến quân năm ngày trước, bây giờ tỏ ra mất tinh thần. Ngày hôm sau, tôi được biết ông đã ra lệnh cho binh sĩ Đức rút về qua Sông Rhine nếu quân Pháp có động thái ngăn cản họ.
Nhưng Pháp không hề làm gì cả. Trước đó, khi François-Poncet gửi báo cáo về vào tháng 11 năm 1935, Bộ Tổng Tham mưu Pháp hỏi Chính phủ sẽ phải làm gì nếu lời cảnh báo của vị đại sứ là đúng. Chính phủ Pháp nói sẽ trình vụ việc đến Hội Quốc liên. Dù François-Poncet đã đánh động vào mùa thu năm trước, Chính phủ và Quân đội hai nước Pháp-Anh vẫn bị bất ngờ hoàn toàn khi Đức tiến quân.22 Thực ra, khi Đức tiến quân, Chính phủ Pháp muốn hành động nhưng Bộ Tổng Tham mưu Pháp lại muốn kiềm chế. François-Poncet cho biết Thống chế Tổng Tham mưu trưởng Gamelin đã “tuyên bố rằng một hành động chiến tranh, dù cho có giới hạn, vẫn dẫn đến nhiều rủi ro khó lường trước và không nên thực hiện nếu không ban hành lệnh tổng động viên”.23 Thống chế Gamelin lo tập trung 13 sư đoàn gần biên giới Đức, nhưng chỉ để tăng cường cho Phòng tuyến Maginot.
Tuy vậy, như thế cũng đủ cho Bộ Tổng Tham mưu Đức hốt hoảng. Blomberg, với Jodl và phần lớn sĩ quan cấp cao ủng hộ, muốn rút về 3 tiểu đoàn đã đi qua Sông Rhine. Như Jodl khai trước Tòa án Nuremberg:
Xét qua tình thế mà chúng tôi dấn thân vào, lực lượng Pháp đang hiện diện trong vùng có thể bắn chúng tôi tan tành.24
Nếu Quân đội Pháp làm thế, hầu như chắc chắn đấy sẽ là dấu chấm hết cho Hitler, sau đó đáng lẽ lịch sử đã đi theo một chiều hướng khác sáng sủa hơn, vì nhà độc tài hẳn không thể tồn tại sau thảm họa ấy.
Chính Hitler sau này cũng công nhận: “Nếu Quân đội ta rút lui thì hẳn đã có thể dẫn đến sụp đổ.”25 Chỉ có tinh thần thép của Hitler mới cứu vãn tình thế, khiến cho các tướng lĩnh đang lưỡng lự phải hoang mang, và ông đạt tới thành công. Trong nhiều cuộc khủng hoảng về sau, tinh thần thép của Hitler cũng thể hiện như thế.
Paul Schmidt, thông dịch viên cho Hitler, sau này nghe Hitler kể:
48 giờ đồng hồ sau khi đưa quân vào Rhineland là khoảng thời gian căng thẳng nhất trong đời tôi. Nếu quân Pháp tiến vào Rhineland, ta có thể cắp đuôi mà chạy, vì nguồn lực quân sự của ta hoàn hoàn yếu kém, ngay cả cho sức kháng cự vừa phải.26
Tự tin rằng Pháp sẽ không động binh, Hitler thẳng thừng từ chối mọi đề nghị rút lui của Bộ Tổng Tham mưu Đức lúc ấy còn đang lưỡng lự. Tướng Tham mưu trưởng Beck muốn Lãnh tụ ít nhất làm dịu tình hình bằng cách tuyên bố rằng ông sẽ không củng cố vị trí vùng phía tây Sông Rhine. Sau này Jodl khai: “Lãnh tụ từ chối rất thẳng thừng” – vì những lý do hiển nhiên như ta sẽ thấy.27 Sau này, Hitler nói với Tướng von Rundstedt: đề nghị rút lui của Blomberg không khác gì hành vi hèn nhát.28
Buổi tối 27 tháng 3 năm 1942, khi hội họp với các phụ tá ở tổng hành dinh và nhắc lại vụ Rhineland, Hitler khoe khoang:
Điều gì đã xảy ra nếu người khác chứ không phải tôi lãnh đạo Đế chế! Bất cứ ai khác mà bạn có thể kể tên đều mất tinh thần. Tôi bắt buộc phải nói dối, và ta thoát được là nhờ tính can trường không gì lay chuyển và sự khôn khéo đáng ngạc nhiên của tôi.29
Sự thật đúng như thế, nhưng cũng nên ghi nhận thêm là Hitler dám đánh ván bài liều là do Pháp lưỡng lự và Anh mềm yếu. Ngoại trưởng Pháp Pierre Étienne Flandin bay đến London ngày 11 tháng 3 năm 1936 và van nài Chính phủ Anh ủng hộ Pháp trong cuộc phản công bằng quân sự ở Rhineland. Lời khẩn cầu của ông không thành công. Anh không muốn chịu rủi ro chiến tranh cho dù lực lượng của Đồng Minh vượt trội hẳn so với Đức. Như Lord Lothian đã nói: “Suy cho cùng, người Đức chỉ quay lại sân sau của họ thôi.”A Anthony Eden, tân Ngoại trưởng Anh từ tháng 12 năm 1934, phát biểu trước Nghị viện Anh: “May mắn là chúng ta không có lý do để cho rằng động thái hiện giờ của Đức có tính thù địch.”30
Chú thích:
A Ý nói Đức lấy lại lãnh thổ trước đây thuộc Đế quốc Đức nhưng bị Hòa ước Versailles tách ra. (ND)
Tuy thế, theo các điều khoản của Hiệp ước Locarno, Pháp có quyền dùng vũ lực để chống lại sự hiện diện của Đức trong vùng phi quân sự, và Anh bị ràng buộc với hiệp ước ấy để hỗ trợ Pháp bằng quân sự. Nhưng thái độ của Anh cho thấy trong ván bài liều này Hitler đã thắng.
Anh chẳng những quay mặt tránh rủi ro chiến tranh, mà một lần nữa lại quan tâm đến đề xuất “hòa bình” của Hitler. Trong công hàm trao cho ba đại sứ ngày 7 tháng 3 năm 1936 và trong diễn văn đọc trước Nghị viện, Hitler đề xuất các điểm: ký một hiệp ước bất tương xâm với Bỉ và Pháp trong 25 năm được Anh và Ý bảo trợ; đàm phán hiệp ước tương tự với các nước ở phía Đông; phi quân sự hóa cả hai bên biên giới Pháp-Đức; và cuối cùng, quay lại Hội Quốc liên. Sự thành tâm của Hitler có thể được minh chứng trong đề xuất của ông nhằm phi quân sự hóa cả hai bên biên giới Pháp-Đức, bởi vì điều này có nghĩa Pháp phải dẹp bỏ Phòng tuyến Maginot – là biện pháp chống đỡ cuối cùng nếu Đức tấn công bất ngờ.
Ở London, tờ báo Times được trọng vọng trách cứ hành động nông nổi của Hitler khi xâm chiếm Rhineland, đặt tiêu đề cho bài xã luận chính là “Một cơ hội để xây dựng lại.”
Khi xem xét lại vụ việc, ta dễ nhận ra là ván bài thành công của Hitler ở Rhineland mang đến cho ông một thắng lợi to tát hơn và có tính quyết định hơn là những gì ta hiểu lúc đầu. Trong nước, Hitler củng cố vị thế và quyền lực, đưa ông lên tầm cao chưa có nhà lãnh đạo Đức nào trong quá khứ đạt được. Ngày 7 tháng 3 năm 1936, Hitler giải tán Nghị viện, tổ chức kỳ “bầu cử” mới và trưng cầu dân ý về việc Đức chiếm Rhineland. Theo số liệu chính thức, 99% cử tri đi bỏ phiếu trưng cầu dân ý, và 98,8% chấp thuận hành động của Hitler. Thông tín viên nước ngoài khám phá vài vụ việc bất thường trong kỳ bỏ phiếu, và chắc chắn là người Đức e sợ Mật vụ tìm ra người bỏ phiếu phản đối nên đành phải bỏ phiếu thuận tuy không muốn. Tuy thế, sau khi quan sát nhiều điểm bỏ phiếu khắp nước Đức, tác giả tin rằng có tỷ lệ áp đảo ủng hộ Hitler. TS. Hugo Eckener cho tác giả biết rằng trên chiếc khinh khí cầu HindenburgA mà Goebbels ra lệnh bay vòng trên các thành phố Đức đế tuyên truyền, số phiếu thuận là 42 so với 2 phiếu chống.
Chú thích:
A Chiếc khinh khí cầu có động cơ nổi tiếng với chiều dài 245 m, sau khi bay 10 chuyến vượt Đại Tây Dương, đến ngày 6 tháng 5 năm 1937 bị bốc cháy khi đáp xuống Lakehurst, Bang New Jersey ở Mỹ, trước nhiều ống kính nhiếp ảnh và quay phim, khiến cho 35 trong tổng số 97 hành khách thiệt mạng, thêm một nhân viên trên mặt đất tử vong. (https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3m_h%E1%BB%8Da_Hindenburg) (ND)
Thắng lợi đảm bảo cho Hitler vượt lên trên tướng lĩnh, những người đã lưỡng lự và nhụt chí vào thời điểm khủng hoảng trong khi ông vẫn kiên quyết. Thắng lợi cũng cho Hitler thấy trong chính sách ngoại giao và ngay cả trong sự vụ quân bị, Hitler có óc phán đoán cao hơn tướng lĩnh. Họ đã lo sợ Pháp sẽ chống trả; Hitler thì biết rõ hơn. Cuối cùng và trên tất cả, tuy chỉ là một chiến dịch quân sự nhỏ, việc chiếm đóng Rhineland mở ra nhiều cơ hội khác cho Đức ở Châu Âu. Vị thế chiến lược của mỗi bên thay đổi hẳn sau khi ba tiểu đoàn của Đức đi qua các cầu Sông Rhine mà các sư đoàn của Pháp không có động thái gì.
Về bên kia, khi xem xét vụ việc ta cũng dễ nhận ra là việc Pháp không đẩy lùi các tiểu đoàn Đức còn Anh không ủng hộ Pháp có hậu quả tai hại cho phương Tây, sau này dẫn đến hệ lụy còn trầm trọng hơn. Hai nước dân chủ phương Tây đã có cơ hội cuối cùng mà không bị rủi ro lắm để ngăn chặn đường tiến của một nước Đức quân phiệt, hiếu chiến, độc tài và đúng ra – như ta đã thấy Hitler nhìn nhận – phải khiến cho Hitler cùng cả chế độ của ông ta phải lật nhào. Họ đã để vuột mất cơ hội.
Về phía Pháp, đó là bước khởi đầu cho hồi kết cục. Các đồng minh của Pháp ở phía Đông – Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumania và Nam Tư – bỗng nhiên đối diện với thực tế là Pháp không muốn chống lại tính hiếu chiến của Đức để duy trì hệ thống an ninh mà Pháp đã dày công xây đắp. Nhưng còn hơn thế nữa. Các đồng minh ở phía Đông bắt đầu nhận ra rằng ngay cả khi Pháp tỏ ra cứng cỏi, chẳng bao lâu Pháp sẽ không đủ mạnh để hỗ trợ họ: Đức đang tất bật xây dựng Bức tường Tây phía sau biên giới Pháp-Đức. Với bức tường này, khó mà trông mong quân Pháp chặn đánh quân Đức cố thủ trong lô cốt khi mà các sư đoàn Pháp đã không dám đánh 3 tiểu đoàn Đức vượt sông Rhine. Nhưng ngay cả khi Pháp có làm gì thì đấy chỉ là vô vọng: từ nay về sau, Pháp chỉ có thể cầm chân một phần nhỏ quân Đức, phần lớn còn lại tha hồ đánh phá các đồng minh của Pháp.
Đại sứ William C. Bullitt của Mỹ tại Pháp hiểu ra giá trị của các công sự Rhineland trong chiến lược của Hitler khi đến yết kiến Ngoại trưởng Đức. Ông báo cáo về Bộ Ngoại giao Mỹ:
Von Neurath nói chính sách của Chính phủ Đức là không có động thái ngoại giao tích cực nào cho đến khi vấn đề Rhineland đã êm xuôi. Ông ấy nói ý ông là trong khi xây các công sự dọc biên giới Pháp-Đức và Bỉ-Đức, Chính phủ Đức sẽ làm hết sức mình để ngăn chặn Quốc xã gây hấn ở Áo và sẽ có chính sách êm thấm với Tiệp Khắc. Ông ấy nói: “Khi các công sự đã hoàn tất và các quốc gia Trung Âu nhận ra Pháp không thể tự do xâm nhập lãnh thổ Đức, tất cả các quốc gia ấy sẽ cảm nhận theo cách khác về chính sách ngoại giao của họ...”31
Tiến trình này đã bắt đầu.
TS. Schuschnigg kể lại trong hồi ký:
Khi đứng bên phần mộ của người tiền nhiệm của tôi [Thủ tướng Dollfuss bị sát hại], tôi biết rằng để bảo vệ nền độc lập của Áo, tôi phải có đường lối hòa dịu... Phải tránh mọi cách tạo lý do cho Đức lợi dụng để can thiệp, và phải làm mọi việc để đảm bảo Hitler chấp nhận giữ nguyên tình trạng hiện tại.32
Vị tân Thủ tướng trẻ trung của Áo cảm thấy phấn khởi khi Hitler công khai tuyên bố trước Nghị viện Đức:
Đức không có ý định và cũng không mong muốn can thiệp vào nội bộ của Áo, sáp nhập Áo vào Đức, hoặc thống nhất Áo và Đức.
Ý, Pháp và Anh cũng cam kết với ông bảo vệ nền độc lập của Áo. Thế rồi Ý, nước bảo trợ chính cho Áo, bị sa lầy ở Abyssinia và đã rời xa Pháp-Anh.
Khi quân Đức tiến vào Rhineland, TS. Schuschnigg nhận ra là Áo cần xoa dịu Hitler. Ông bắt đầu đàm phán một hiệp định mới với vị Công sứ Papen quỷ quyệt. Dù Quốc xã suýt giết ông trong vụ thanh trừng đẫm máu cuối mùa hè 1934 và đã giết cựu Thủ tướng Áo Dollfuss, Papen vẫn muốn lũng đoạn nền độc lập của Áo và chiếm lấy sinh quán Áo cho Hitler. Ngày 27 tháng 7 năm 1935, ông báo cáo cho Hitler về một năm làm việc của mình ở Vienna, “Quốc xã phải và sẽ trấn áp hệ tư tưởng mới của Áo.”33
Văn bản Hiệp định Áo-Đức ngày 11 tháng 7 năm 1936 được công bố cho thấy Hitler tỏ thái độ rộng lượng và khoan dung một cách bất thường. Đức tái xác nhận nền tự chủ của Áo và cam kết không can thiệp vào nội bộ của Áo, còn Áo cam kết luôn hành xử theo nguyên tắc như là “một bang của Đức”.
Nhưng có những điều khoản bí mật trong hiệp định34: Schuschnigg có những nhượng bộ dẫn đến kết cục của ông – và của nước Áo. Ông bí mật đồng ý ân xá cho tù nhân chính trị ở Áo và bổ nhiệm đại diện của cái gọi là “phe Đối lập Quốc gia” – thật ra là Quốc xã hoặc cảm tình viên của Quốc xã – vào chức vụ “với trọng trách chính trị”. Việc này giống như cho phép Hitler đưa một con ngựa thành Troy vào Áo: gài người của Quốc xã vào nội bộ của Áo, trong số người này có Seyss- Inquart, một luật sư ở Vienna.
Dù Papen đã xin Hitler chấp thuận trước nội dung của hiệp định, ông vẫn bị Hitler trách mắng. Ông kể:
Phản ứng của Hitler khiến cho tôi ngạc nhiên. Thay vì tỏ lời cảm ơn, ông ấy lại la mắng tôi. Ông bảo tôi đã tham mưu sai lạc cho ông để nhượng bộ quá nhiều. Cả vụ việc chỉ là một cái bẫy.35
Như những gì xảy ra tiếp theo cho thấy, cái bẫy là dành cho Schuschnigg, không phải cho Hitler.
Hiệp định Áo-Đức cho thấy Mussolini đã mất ảnh hưởng ở Áo. Người ta hẳn nghĩ quan hệ giữa hai nhà độc tài phát-xít sẽ tồi tệ hơn. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra: những biến cố trong năm 1936 rơi vào vòng kiểm soát của Hitler.
Ngày 2 tháng 5 năm 1936, lực lượng Ý tiến vào thủ đô Addis Ababa của Abyssinia. Hai tuần sau, Franco chỉ huy cuộc nổi dậy ở Tây Ban Nha và nội chiến bùng nổ.
Tối 22 tháng 7, một doanh nhân Đức mang đến bức thư khẩn của Franco yêu cầu cung cấp máy bay và những hỗ trợ khác. Đức quyết định ủng hộ quân nổi dậy ở Tây Ban Nha.
Theo thói quen vào lúc này trong năm, Hitler đang tham dự Lễ hội Wagner ở Bayreuth. Vào đêm 22 tháng 7, sau khi ông rời nhà hát, một doanh nhân người Đức từ Morocco, có một chỉ huy Quốc xã địa phương đi cùng, mang đến Bareuth một thư khẩn của Franco. Nhà lãnh đạo phản loại cần máy bay và những hỗ trợ khác. Hitler lặp tức gọi Goering và Tướng von Blomberg đến, bởi vì cả hai đang ở tại Bayreuth. Đêm ấy, một quyết định được đưa ra nhằm hỗ trợ cuộc phản loạn Tây Ban Nha.36
Viện trợ của Đức cho Franco kém hơn của Ý nhưng vẫn đáng kể. Sau này, Đức ước lượng đã chi nửa tỉ mác37 ngoài việc cung cấp máy bay, xe tăng, kỹ thuật viên và một đơn vị không quân. So với chi phí tái vũ trang khổng lồ thì khoản viện trợ này chẳng đáng gì, lại sinh lợi đáng kể cho Hitler.
Bây giờ nước Pháp có một cường quốc phát-xít kém thân thiện thứ ba nằm dọc biên giới. Trên hết, Anh và Pháp không còn có thể hòa hoãn với Ý, vì thế đẩy Mussolini vào vòng tay của Hitler.
Từ lúc đầu, Hitler đã có chính sách khôn ngoan, tính toán và biết nhìn xa trông rộng về Tây Ban Nha. Tài liệu của Đức bị tịch thu cho thấy một trong những mục đích của Hitler là kéo dài cuộc nội chiến Tây Ban Nha nhằm gây chia rẽ giữa các nước dân chủ phương Tây và Ý cũng như lôi kéo Mussolini về phía Đức. Hơn một năm sau, Hitler nói chuyện với Ngoại trưởng và tướng lĩnh Đức:
Chiến thắng một trăm phần trăm cho Franco là không thỏa đáng theo quan điểm của Đức. Thay vào đó, ta muốn kéo dài cuộc chiến và duy trì tình trạng căng thẳng ở Địa Trung Hải.38
Đầu tháng 12 năm 1936, Đại sứ Ulrich von Hassell của Đức tại Ý báo cáo về nước:
Sự tranh giành ảnh hưởng chính trị ở Tây Ban Nha khiến cho Ý và Pháp kình chống lẫn nhau; cùng lúc Ý cũng kèn cựa với Anh ở phía tây Địa Trung Hải. Hơn nữa, Ý sẽ nhận ra cần phải sát cánh với Đức để đối đầu với các cường quốc phương Tây.39
Trong những tình huống như thế mà Phe Trục Ý-Đức ra đời.
Ngày 24 tháng 10, sau khi hội đàm với Neurath ở Berlin, Bá tước Galeazzo Ciano – con rể của Mussolini và cũng là Ngoại trưởng – gặp Hitler lúc này đang có tâm trạng thân thiện và cởi mở. Hitler tuyên bố Mussolini là “chính khách hàng đầu trên thế giới mà không ai sánh được”. Cùng nhau, Ý và Đức có thể thôn tính chẳng những bọn “Bôn-sê-vích” mà còn cả phương Tây. Kể cả nước Anh! Hitler nghĩ Anh rốt cuộc sẽ tìm cách thỏa hiệp, nếu không Ý và Đức có thể hợp sức với nhau để loại Anh. Hitler nhắc nhở Ciano:
Chương trình tái vũ trang ở Đức và Ý nhanh hơn nhiều so với Anh... Trong ba năm, Đức sẽ sẵn sàng.40
Thời gian này là chi tiết đáng chú ý. Ba năm kể từ ngày này sẽ là mùa thu 1939, thời điểm Thế chiến II bùng nổ.
Ngày 21 tháng 10 năm 1936, Ciano và Neurath ký một nghị định thư bí mật vạch ra một chính sách chung cho Đức và Ý về ngoại giao. Trong bài diễn văn ở Milan ngày 1 tháng 11, Mussolini công khai nói đến nghị định thư này nhưng không tiết lộ nội dung, chỉ nói là thỏa thuận lập nên một “Trục” – quanh đấy những cường quốc Châu Âu khác có thể “làm việc với nhau”. Từ “Trục” sẽ trở nên nổi tiếng, và là một từ chết người cho Mussolini.
Sau khi lôi kéo được Mussolini về phe mình, Hitler chuyển hướng chú ý nơi khác. Tháng 8 năm 1936, Hitler bổ nhiệm Ribbentrop làm Đại sứ Đức tại Anh trong nỗ lực tìm kiếm hòa giải với Anh – theo những điều kiện của Hitler. Thiếu năng lực mà lại lười biếng, vừa rỗng tuếch vừa kiêu ngạo, Ribbentrop là chọn lựa tồi tệ nhất cho chức vụ này, như Goering nhận ra. Ông kể lại:
Khi tôi phê bình năng lực của Ribbentrop quá kém so với nhiệm vụ này, Lãnh tụ giải thích rằng Ribbentrop có quen biết “Ngài này” và “Bộ trưởng kia”. Tôi trả lời: “Vâng, nhưng khó khăn là ở chỗ họ biết rõ Ribbentrop.”41
Tuy là con người kém hấp dẫn, Ribbentrop có bạn bè có thế lực ở London. Nhưng công việc của Ribbentrop không đạt kết quả. Tháng 11 năm 1936, ông trở về Berlin để nhận công tác khác.
Ngày 25 tháng 11 năm 1936, Ribbentrop ký với Nhật Hiệp ước Chống Đệ tam Quốc tế, mà ông điềm nhiên giải thích với các ký giả (kể cả tác giả cuốn sách này) rằng Đức và Nhật đã nắm tay nhau để bảo vệ nền văn minh phương Tây. Theo bề ngoài, hiệp ước này có vẻ như là tiểu xảo tuyên truyền, qua đó Đức và Nhật có thể tranh thủ sự ủng hộ của thế giới bằng cách khai thác ác cảm với chủ nghĩa Cộng sản và mối nghi ngại đối với Đệ tam Quốc tế.
Nhưng hiệp ước cũng có điều khoản bí mật, đặc biệt hướng đến Liên Xô. Trong trường hợp Liên Xô tấn công Đức hoặc Nhật, hai quốc gia sẽ hội ý với nhau về những biện pháp cần thiết “nhằm bảo vệ quyền lợi chung” và cũng “không thực hiện biện pháp nào làm lợi cho Liên Xô”. Hai nước cũng đồng ý sẽ không ký với Liên Xô hiệp ước nào trái với tinh thần của hiệp ước này mà không có sự đồng thuận.42
Chẳng bao lâu sau, Đức vi phạm hiệp ước này và tố cáo Nhật đã không tuân thủ hiệp ước. Nhưng hiệp ước có công dụng tuyên truyền trong thế giới cả tin, và tập họp ba quốc gia nghèo khó nhưng hiếu chiến: Ý ký kết vào năm sau.
Ngày 30 tháng 1 năm 1937, Hitler đọc diễn văn trước Nghị viện, tuyên bố “rút chữ ký của Đức” ra khỏi Hòa ước Versailles. Đây là hành động rỗng tuếch nhưng đặc trưng của Hitler, vì bản thân hòa ước này đã bị khai tử từ lâu. Hitler cũng ôn lại với niềm hãnh diện 4 năm cầm quyền. Ta có thể chấp nhận niềm hãnh diện của Hitler, vì những thành tựu đầy ấn tượng trong công tác đối nội và đối ngoại. Ông đã xóa nạn thất nghiệp, mang lại kinh doanh phồn thịnh, gây dựng Lục quân, Hải quân và Không quân hùng mạnh, được trang bị khí tài đáng kể và hứa hẹn còn mạnh thêm nữa trên diện rộng. Ông đã đơn phương xé bỏ Hòa ước Versailles và đánh ván bài liều để chiếm đóng Rhineland. Khi bị cô lập hoàn toàn lúc đầu, ông đã tìm được một đồng minh trung thành là Mussolini nước Ý và một đồng minh khác là Franco nước Tây Ban Nha. Có lẽ quan trọng nhất, ông đã giải phóng năng lượng sinh động của người Đức, đánh thức sự tự tin của họ đối với đất nước, và ý thức về nhiệm vụ như là một cường quốc lớn và đang mở rộng trên thế giới.
Mọi người có thể thấy sự tương phản giữa nước Đức phồn vinh, hùng dũng, quả cảm so với những nền dân chủ suy đồi của phương Tây, với thái độ hoang mang và dao động xem chừng tăng thêm theo thời gian.
Dù lo sợ, Anh và Pháp không hề có động thái nào để ngăn chặn Hitler vi phạm hòa ước khi Đức tái vũ trang và tái chiếm Rhineland. Họ cũng không thể ngăn chặn Ý ở Abyssinia. Và bây giờ, khi năm 1937 bắt đầu, họ lại không thể ngăn chặn Đức và Ý quyết định kết quả của cuộc Nội chiến Tây Ban Nha. Mọi người đều biết Ý và Đức đang làm gì ở Tây Ban Nha để đảm bảo Franco chiến thắng. Tuy thế, trong nhiều năm cả Anh và Pháp đều tiến hành đàm phán ngoại giao với Đức và Ý nhằm đảm bảo việc “không can thiệp” ở Tây Ban Nha. Đó là tấn trò hẳn khiến cho Hitler lấy làm thích thú và càng thêm khinh thường những nhà lãnh đạo chính trị Pháp-Anh – những người ông ta cho là “sâu bọ”A và sắp bị ông ta làm nhục lần nữa.
Chú thích:
A Xem trang 705.
Vào đầu năm 1937, cả nhà nước và nhân dân Anh-Pháp, và cả đa số người Đức dường như không nhận ra rằng tất cả những gì Hitler thực hiện trong 4 năm đầu tiên cầm quyền là chuẩn bị cho chiến tranh. Qua quan sát cá nhân cho đến ngày 1 tháng 9 năm 1939 (khi Đức tiến quân qua Ba Lan), tác giả có thể minh chứng là dân Đức tin rằng Hitler luôn đạt được điều mà ông muốn – cũng là điều mà họ muốn – mà chẳng cần đến chiến tranh. Nhưng một số người ưu tú đang điều hành nước Đức hoặc đang giữ những chức vụ chủ chốt thì biết rất rõ mục đích của Hitler.
Khi thời gian cầm quyền của Quốc xã sắp tròn 4 năm, Goering thẳng thừng xác định những gì sắp đến, trong một bài diễn văn bí mật trước giới công nghiệp và quan chức cao cấp:
Cuộc chiến mà ta đang đến gần đòi hỏi năng lực sản xuất khổng lồ. Không thể đặt mức giới hạn nào cho việc tái vũ trang. Chỉ có chọn lựa giữa chiến thắng hoặc hủy diệt... Ta sống vào thời khoảng mà cuộc chiến cuối cùng đang ló rạng. Ta đã đến ngưỡng tổng động viên và ta đang ở trong tình trạng chiến tranh. Chỉ còn thiếu việc nổ súng thật sự.43
Goering thốt ra lời cảnh cáo ngày 17 tháng 12 năm 1936. Trong vòng 11 tháng, Hitler ra quyết định chẳng gì thay đổi được: đi đến chiến tranh.
1937: “Không có chuyện ngạc nhiên”
Trong diễn văn đọc trước những đại biểu bù nhìn ở Nghị viện ngày 30 tháng 1 năm 1937 (kỷ niệm tròn 4 năm Hitler cầm quyền), Hitler tuyên bố: “Thời gian cho những cái gọi là ngạc nhiên đã chấm dứt.”
Đúng thế, trong năm 1937 không có chuyện ngạc nhiên nào vào ngày Thứ Bảy. Quan chức Đức hay đùa với nhau là Hitler thích tạo ngạc nhiên vào những ngày Thứ Bảy vì ông được biết quan chức Anh hay đi nghỉ ở miền quê vào dịp cuối tuần. Trong năm 1937, Đức lo củng cố và chuẩn bị thêm cho những mục tiêu mà Lãnh tụ đã phác thảo cho một nhóm nhỏ nhân vật cao cấp nhất. Đây là năm dồn nỗ lực vào việc thúc đẩy hơn nữa tái vũ trang, huấn luyện binh sĩ, thử nghiệm không quân mới ở Tây Ban Nha, phát triển xăng nhân tạo và cao su nhân tạo, củng cố Trục Ý-Đức, và rình rập để phát hiện thêm điểm yếu của Pháp, Anh và Áo.
Trong lời khai trước Tòa án Nuremberg, Goering hãnh diện nói về những cơ hội mà cuộc Nội chiến Tây Ban Nha tạo ra:
... để thử nghiệm Không quân mới của tôi. Với sự đồng ý của Lãnh tụ, tôi gửi một lượng lớn máy bay vận tải và một số phi đội máy bay chiến đấu; và theo cách này tôi có cơ hội thử nghiệm trong điều kiện tác chiến... Để binh sĩ học hỏi kinh nghiệm..., tôi liên tục luân phiên gửi người mới và gọi người cũ trở về.44
Năm 1937, Hitler cũng chú trọng vào việc củng cố mối liên minh giữa Đức và Ý. Mussolini nhận lời mời của Hitler đến Đức ngày 25 tháng 9 năm 1937, mặc bộ đồng phục mới may cho chuyến đi. Được Hitler và các cộng sự chiều đãi và tâng bốc, lúc ấy Mussolini không biết chuyến đi này có tính định mệnh như thế nào. Mục đích của Hitler chẳng phải là trao đổi thêm, mà là tạo ấn tượng về sức mạnh quân sự của Đức, qua đó gây thêm ám ảnh cho Mussolini là phải về phe với kẻ mạnh. Mussolini được dẫn đi từ đầu này đến đầu kia của nước Đức: dự những buổi diễu hành của lực lượng S.S. và Quân đội, tham quan từ cuộc tập trận ở Mecklenburg cho đến những nhà máy tái vũ trang ở Ruhr.
Chuyến viếng thăm đạt đỉnh điểm bằng một lễ ăn mừng gây ấn tượng mạnh ở Berlin ngày 28 tháng 9. Một đám đông khổng lồ gồm 1 triệu người tụ tập để nghe hai nhà độc tài phát-xít phát biểu. Mussolini bị lôi cuốn vì tiếng vỗ tay nhức óc và cũng vì lời lẽ tâng bốc của Hitler. Ngày hôm sau, sau khi duyệt qua các đội Lục quân, Hải quân và Không quân, ông trở về nước và tin chắc rằng tương lai của mình ở bên cạnh Hitler.
Thế thì chẳng có gì là ngạc nhiên khi, một tháng sau, Ribbentrop đi đến Rome để nhận chữ ký của Mussolini cho Hiệp ước Chống Đệ tam Quốc tế, ông nghe nói Mussolini lúc này chẳng còn quan tâm đến nền độc lập của Áo nữa: “Hãy để các biến cố [ở Áo] đi theo bước đường tự nhiên.” Đó là dấu hiệu Hitler đang chờ đợi: Đức có thể tự do hành động.
Một nhà lãnh đạo khác có ấn tượng với sức mạnh đang lên của Đức Quốc xã. Khi Hitler phá vỡ Hiệp ước Locarno, chiếm đóng Rhineland, đặt Quân đội Đức sát biên giới Bỉ, Vua Leopold của Bỉ rút ra khỏi Hiệp ước Locarno và khỏi liên minh với Anh và Pháp, tuyên bố từ bây giờ trở đi Bỉ sẽ hoàn toàn đi theo con đường trung lập. Đây là điều tai hại cho hệ thống bảo vệ tập thể của phương Tây, nhưng Anh và Pháp chấp thuận. Chẳng bao lâu, cả ba nước phải trả giá cho hành động của họ.
Cuối tháng 5 năm 1937, Neville Chamberlain nhậm chức Thủ tướng Anh. Phía Quốc xã vui mừng khi biết rằng Chamberlain sẽ theo đuổi chính sách ngoại giao tích cực hơn người tiền nhiệm, và ông có ý muốn đạt thỏa hiệp với Đức. Kiểu thỏa hiệp nào là chấp nhận được đối với Hitler được phác thảo trong một bản ghi nhớ mật ngày 10 tháng 11, soạn thảo bởi Nam tước von Weizsaecker, lúc này là Cục trưởng Cục Chính trị của Bộ Ngoại giao Đức
Chúng ta muốn từ nước Anh những thuộc địa và tự do hành động ở phí Đông... Còn nước Anh rất mong mỏi hòa bình. Nên tìm hiểu Anh sẽ nhân nhượng đến đâu cho nền hòa bình này.45
Cơ hội tìm hiểu Anh muốn ngã giá thế nào xảy ra vào tháng 11 năm 1937, khi Lord Halifax với sự chấp thuận nồng nhiệt của Chamberlain đi đến Berchtesgaden để gặp Hitler. Trong một bản ghi nhớ mật do Bộ Ngoại giao Đức soạn46, ba điểm hiện ra: Chamberlain thiết tha muốn đạt thỏa thuận với Đức và đề nghị hai bên thảo luận với nhau ở cấp nội các; Anh muốn một thỏa thuận chung về Châu Âu, đáp lại Anh sẵn sàng nhượng bộ Hitler về những lãnh thổ ở Đông Âu; vào lúc này Hitler không quan tâm lắm đến một thỏa thuận Anh-Đức.
Tuy buổi thảo luận không đạt kết quả, điều làm cho phía Đức ngạc nhiên là người Anh có vẻ như phấn khởi.A Phía Anh còn có thể ngạc nhiên hơn nếu họ được biết về một buổi họp mật giữa Hitler với các chỉ huy Quân đội và Ngoại trưởng đúng 14 ngày trước khi ông tiếp kiến Lord Halifax.
Chú thích:
A Chamberlain ghi vào nhật ký của ông: ”Theo quan điểm của tôi, chuyến thăm Đức [của Halifax] là thành công lớn vì đạt được mục đích, đó là tạo bầu không khí nhằm thảo luận với Đức những vấn đề thực dụng liên quan đến một thỏa thuận cho Châu Âu.” (Keith Feiling, The Life of Neville Chamberlain, tr. 332.) Có vẻ như bản thân Halifax bị Hitler thu hút. Trong một bản báo cáo cho Bộ Ngoại giao, ông viết: “Thủ tướng Đức và những người khác tạo ấn tượng cho thấy họ không muốn phiêu lưu vũ lực hoặc ít nhất chiến tranh.” Theo Charles C. Tansill, Halifax báo cáo cho Chamberlain rằng Hitler “không thiên về phiêu lưu, phần vì không có lợi, phần vì ông ấy đang bận bịu xây dựng nước Đức từ bên trong... Goering đã trấn an ông ấy rằng sẽ không có giọt máu Đức đổ trên Châu Âu trừ phi Đức bị tuyệt đối bắt buộc phải làm thế. Người Đức cho ông ấy [Halifax] ấn tượng về việc thực hiện những mục tiêu của họ theo cách trật tự.” (Tansill, Back Door to War, tr. 365-66.)
Nước cờ định mệnh ngày 5 tháng 11 năm 1937
Ngày 24 tháng 6 năm 1937, Thống chế von Blomberg gửi một chỉ thị ghi “Tối mật” và chỉ có 4 bản.47 Vị Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực thông báo với tư lệnh ba quân chủng rằng “Tình hình chính trị tổng quát biện minh cho giả định là Đức không cần xem xét sự tấn công từ bất cứ phe nào.” Cả phương Tây lẫn Liên Xô đều không muốn chiến tranh, và cũng không chuẩn bị cho chiến tranh.
Chỉ thị tiếp tục:
Tuy thế, tình hình chính trị thế giới luôn thay đổi tuy không báo trước biến cố đáng ngạc nhiên, đòi hỏi quân lực Đức phải liên tục ở trong tình trạng chuẩn bị cho chiến tranh... hầu có thể khai thác thuận lợi khi cơ hội xảy ra. Việc chuẩn bị quân lực cho cuộc chiến có thể bùng nổ trong giai đoạn tổng động viên 1937-1938 phải theo chiều hướng này.
Vì lẽ Đức không cần phải sợ bị tấn công “từ bất cứ phe nào”, thế thì cuộc chiến nào “có thể xảy ra”? Blomberg đưa ra hai kịch bản chiến tranh (Kriegsfalle) “theo đó từng phương án đang được soạn ra”:
I. Chiến tranh ở hai mặt trận, chủ yếu ở phía Tây (Phương án “Màu Đỏ”). Giả định cho kịch bản này là Pháp bất ngờ tấn công Đức, vì thế Đức sẽ sử dụng quân chủ lực ở phía Tây. Cuộc hành quân này mang mật mã “Đỏ”.A
II. Chiến tranh ở hai mặt trận, chủ yếu ở phía Đông-Nam (Phương án “Màu Lục”). Trong kịch bản này:
Chiến tranh bùng nổ ở phía Đông khi Đức bất ngờ đánh Tiệp Khắc để ngăn chặn liên minh mạnh hơn của kẻ thù. Phải tạo ra trước điều kiện cần thiết nhằm biện minh về chính trị và về công pháp quốc tế cho hành động như thế.
Chú thích:
A Đây là mật mã đầu tiên trong số nhiều mật mã cho các phương án quân sự của Đức mà chúng ta sẽ thấy về sau. Đức dùng từ Fall, ta thường dùng “Phương án”: Fall Rot là Phương án Đỏ hành quân phía Tây, Fall Gruen là Phương án Lục chống Tiệp Khắc. Theo lời khai của tướng lĩnh Đức ở Nuremberg, lúc đầu đấy chỉ là do các chỉ huy quân sự dùng để chỉ tình huống giả định. Nhưng dần dà những mật mã đó chỉ hành động xâm lăng. Có lẽ từ “Chiến dịch” có nghĩa đúng hơn là “Phương án”. Tuy nhiên, tác giả vẫn dùng “Phương án” cho tiện lợi. (TG)
Chỉ thị khẳng định: phải đập tan Tiệp Khắc ngay từ đầu rồi chiếm đóng luôn.
Cũng có ba phương án cần sự “chuẩn bị đặc biệt”:
I. Can thiệp quân sự vào Áo (Phương án đặc biệt “Otto”).
II. Xung đột giống chiến tranh với phe Đỏ ở Tây Ban Nha (Phương án đặc biệt “Richard”).
III. Anh, Ba Lan, Lithuania cùng gây chiến chống ta (Phương án đặc biệt “Đỏ/Lục”).
Phương án Otto là mật mã sẽ xuất hiện thường xuyên trong những trang này. Chỉ thị của Blomberg tóm tắt Phương án Otto:
Nhiệm vụ của cuộc hành quân này – Can thiệp quân sự vào Áo trong trường hợp Áo phục hồi vương quyền – là sử dụng vũ lực để uy hiếp Áo từ bỏ ý định.
Lợi dụng sự bất mãn trong dân chúng để tiến quân về hướng Vienna, và phải đập tan bất kỳ sự kháng cự nào.
Có một ý cảnh giác, gần như là tuyệt vọng, chen vào tài liệu này. Không nên có ảo tưởng về nước Anh. “Anh sẽ sử dụng mọi nguồn lực sẵn có về kinh tế và quân sự để chống lại ta.” Nếu Anh bắt tay với Ba Lan và Lithuania, “vị thế quân sự của ta sẽ trở nên tồi tệ đến mức không chấp nhận được, thậm chí vô vọng. Vì thế, các nhà lãnh đạo chính trị cần làm tất cả mọi việc để giữ cho các nước này trung lập, nhất là Anh.” Dù Chỉ thị mang chữ ký của Blomberg, rõ ràng là nó xuất phát từ văn phòng Thủ tướng Đế chế.
Buổi chiều 05 tháng 11 năm 1937, có 6 người đến văn phòng này ở khu Wilhelmstrasse để nghe Lãnh tụ trình bày thêm chi tiết: Thống chế von Blomberg (Bộ trưởng Chiến tranh kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân lực), Đại tướng cấp Cao von Fritsch (Tư lệnh Lục quân), Đô đốc Raeder (Tư lệnh Hải quân), Đại tướng cấp Cao Goering (Tư lệnh Không quân), Nam tước von Neurath (Ngoại trưởng), và Đại tá Hossbach (Tùy viên Quân sự của Hitler). Hossbach không phải là cái tên quen thuộc trong giai đoạn này, nhưng vị đại tá trẻ tuổi có vai trò quan trọng. Ông ghi chép lời của Hitler và năm ngày sau viết ra thành bản ghi nhớ tối mật, vì thế ghi lại lịch sử – được trình ra trước Tòa án Nuremberg trong số các tài liệu tịch thu được48 – là điểm ngoặt định mệnh của Đế chế Thứ Ba. A
Chú thích:
A Khi nhắc đến sự kiện này, các sử gia thường gọi “Hội nghị Hossbach” hoặc “Bản ghi nhớ Hossbach”. (ND)
Buổi họp bắt đầu lúc 4 giờ 15 chiều và kéo dài đến 8 giờ 30 tối, với Hitler phát biểu là chính. Ông bắt đầu với điều muốn nói là kết quả của “sự suy nghĩ cặn kẽ và bốn năm rưỡi cầm quyền”. Những gì ông sắp nói có tầm quan trọng, đến nỗi trong trường hợp ông qua đời đó phải được xem là di chúc cuối cùng:
Mục đích của chính sách nước Đức là bảo vệ và duy trì cộng đồng chủng tộc rồi mở rộng cộng đồng này. Vì thế, đây là vấn đề của không gian sinh sống [Lebensraum]. Người Đức có quyền hưởng một không gian sinh sống rộng hơn những chủng tộc khác... Vì thế, tương lai của Đức tùy thuộc hoàn toàn vào việc giải quyết nhu cầu của không gian sinh sống.
Ở đâu? Không ở quá xa như những quần cư ở Châu Phi hoặc Châu Á, mà ngay ở Châu Âu “kế cận với Đế chế”. Vấn đề đối với Đức là: Có thể chiếm lấy nhiều nhất mà thiệt hại ít nhất ở đâu?
Lịch sử của mọi thời đại – Đế quốc La Mã và Đế quốc Anh – đều chứng tỏ rằng chỉ có thể bành trướng bằng cách đập tan sự kháng cự và chịu rủi ro; vài bất lợi là không tránh khỏi. Chưa bao giờ có không gian sống mà chẳng có chủ, ngày nay cũng thế; bên tấn công luôn luôn đối chọi với người làm chủ.
Hitler tuyên bố rằng hai quốc gia “có ác cảm” ngáng trở Đức: Anh và Pháp. Cả hai chống lại “bất kỳ sự củng cố nào cho vị thế của Đức”. Lãnh tụ không tin Đế quốc Anh là “không thể lay chuyển được”. Trái lại, ông nhìn ra nhiều điểm yếu: mâu thuẫn với Ireland và Ấn Độ, sự kèn cựa với Nhật ở vùng Viễn Đông và với Ý ở vùng Địa Trung Hải. Ông nghĩ vị thế của Pháp “thuận lợi hơn Anh... nhưng Pháp phải đối mặt với khó khăn về chính trị nội bộ”. Tuy thế, phải xem Anh, Pháp và Nga là những “yếu tố cường quốc” trong “tính toán chính trị của ta”.
Vì thế:
Chỉ có thể giải quyết vấn nạn của Đức bằng vũ lực, và việc này luôn phải chịu rủi ro... Chỉ cần phải trả lời các câu hỏi “khi nào” và “ở đâu”. Có ba phương án phải đối phó:
Phương án I : Thời kỳ 1943-1945
Sau ngày này thì chỉ có thay đổi theo chiều hướng xấu đi, theo quan điểm của ta. Việc trang bị cho Lục quân, Hải quân và Không quân... gần hoàn tất. Khí tài đều hiện đại, nếu chần chừ sẽ trở nên lỗi thời. Không thể giữ mãi bí mật về “vũ khí đặc biệt”... Sức mạnh của ta sẽ giảm so với việc tái vũ trang... của những nước còn lại trên thế giới. Hơn nữa, thế giới trông chờ ta tấn công và năm này sang năm khác đang tăng cường những biện pháp đối phó. Chính vào lúc những nước còn lại trên thế giới vẫn còn đang tăng cường phòng bị mà ta bắt buộc phải tấn công.
Chẳng một ai ngày hôm nay biết tình hình vào những năm 1943-1945 sẽ như thế nào. Có một điều chắc chắn là: ta không thể chờ đợi lâu thêm nữa.
Nếu Lãnh tụ còn sống, ông sẽ quyết tâm giải quyết vấn nạn về không gian sinh sống chậm nhất là vào những năm 1943-1945. Nhu cầu phải hành động trước 1943-1945 xảy ra trong các Phương án II và III.
Phương án II
Nếu sự xung đột nội bộ ở Pháp phát triển thành cuộc khủng hoảng quốc gia đến nỗi cuốn hút hoàn toàn Quân đội Pháp khiến cho họ không thể chống cự lại Đức, thì đã đến lúc hành động chống Tiệp Khắc.
Phương án III
Nếu Pháp bị vướng vào chiến tranh với một nước khác khiến họ không thể chống ta...
Mục tiêu đầu tiên... phải là cùng một lúc lật đổ Tiệp Khắc và Áo để dẹp bỏ mối đe dọa bên sườn của ta trong chiến dịch chống phương Tây... Nếu Tiệp Khắc bị lật đổ và một biên giới chung Đức-Hungary được hoàn thiện, có thể trông cậy vào thái độ trung lập của Ba Lan trong trường hợp có xung đột Pháp-Đức.
Nhưng Pháp, Anh, Ý và Liên Xô sẽ làm gì? Hitler đi vào khá nhiều chi tiết để trả lời câu hỏi này. Ông tin rằng hầu như chắc chắn Anh, và có lẽ Pháp, đã ngầm bỏ rơi Tiệp Khắc. Khó khăn nội bộ và viễn cảnh một lần nữa vướng vào chiến tranh Châu Âu dằng dai khiến cho Anh không muốn tham dự vào một cuộc chiến chống Đức. Thái độ của Anh chắc chắn có ảnh hưởng đến Pháp. Pháp khó mà tấn công nếu không có Anh hỗ trợ, nhất là viễn cảnh các công sự phía Tây của ta khiến cho mũi tấn công bị bế tắc... Cũng như Pháp khó mà hành quân xuyên qua Bỉ và Hà Lan nếu Anh không hỗ trợ... Dĩ nhiên là cần thiết phải duy trì sự phòng vệ vững chắc dọc biên giới phía Tây trong khi tiến hành tấn công Tiệp Khắc và Áo.
Rồi Hitler vạch ra vài lợi ích trong việc “sáp nhập Tiệp Khắc và Áo”: đường biên giới chiến lược tốt hơn cho Đức; các lực lượng quân sự được rảnh tay cho “những mục đích khác”, có thêm lương thực cho 5 đến 6 triệu người trong Đế chế, và có nguồn nhân lực cho 12 sư đoàn lục quân mới.
Hitler nghĩ Liên Xô sẽ không chen vào, “xét qua thái độ của Nhật”. Ý sẽ không chống lại việc “loại trừ Tiệp Khắc” nhưng họ sẽ làm gì nếu Áo cũng bị chiếm thì còn là dấu hỏi. Việc này phụ thuộc “chủ yếu vào việc liệu vị Duce [Mussolini] có còn sống hay không”.
Giả thuyết của Hitler về Phương án III là Pháp có thể vướng vào cuộc chiến với Ý – và ông mong việc này xảy ra. Ông giải thích, đó là lý do cho chính sách kéo dài cuộc Nội chiến Tây Ban Nha, khiến cho Ý phải xung đột với Pháp và Anh. Hitler thấy một cuộc chiến giữa họ “chắc chắn đang đến gần”. Ông tin chắc rằng Ý, với chút giúp đỡ của Đức về nguyên vật liệu, có thể cầm cự Anh và Pháp.
Nếu Đức muốn lợi dụng cuộc chiến này để giải quyết các vấn đề Tiệp Khắc và Áo, thì phải giả dụ Anh quyết định không hành động chống Đức. Nếu không có Anh hỗ trợ, Pháp cũng sẽ không chống Đức.
Thời điểm cho ta tiến công Tiệp Khắc và Áo phải tùy thuộc vào tiến triển của cuộc chiến giữa Anh-Pháp và Ý... Tình hình thuận lợi như thế... sẽ chẳng xảy ra lần thứ hai... Sẽ đánh qua Tiệp Khắc với “tốc độ sấm sét”.
Thế là mọi việc được định đoạt vào buổi tối mùa thu âm u ấy ở Berlin. Hitler thông báo quyết định chẳng gì lay chuyển được: tiến hành chiến tranh. Đối với một số ít người, việc tiến hành cuộc chiến là chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Nhà Lãnh tụ đề cập về việc này 10 năm trước trong quyển Mein Kampf: Đức cần có không gian sinh sống ở phía Đông và phải sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục đích đó. Nhưng lúc ấy, Hitler chỉ là một kẻ thích sách động còn trong bóng tối. Lúc ấy, quyển sách của ông ta – như Thống chế von Blomberg sau này nói – bị binh sĩ và nhiều người khác xem là “một mảng tuyên truyền” có “số lưu hành cao nhờ việc ép buộc phải mua”.
Nhưng bây giờ, các tư lệnh và vị Ngoại trưởng đối mặt với những thời điểm cụ thể để thật sự tấn công hai nước láng giềng – hành động mà họ tin chắc sẽ dẫn đến chiến tranh toàn Châu Âu. Họ phải sẵn sàng vào năm 1938, và chậm nhất là 1943-1945.
Họ đều cảm thấy choáng váng. Đó chẳng phải là do yếu tố đạo lý mà vì lý do thực tế hơn: nước Đức vẫn chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến lớn; nếu khiêu chiến bây giờ thì sẽ có nguy cơ gặp thảm họa.
Dựa trên những lý do ấy, Blomberg, Fritsch và Neurath mới dám cất lên tiếng nói và cật vấn lý lẽ của Lãnh tụ. Trong vòng 3 tháng, cả ba người đều mất chức. Chẳng còn bị ai chống đối – sự chống đối công khai dưới chế độ Đế chế Thứ Ba – Hitler chuẩn bị tiến bước trên con đường thôn tính. Khởi đầu, đó là con đường dễ dàng hơn là ông – hoặc bất cứ ai – đã dự kiến.