Đầu năm 1994, đang công tác tại Trung tâm Thông tin khoa học-kỹ thuật quân sự trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật (TCKT), tôi được giao nhiệm vụ tham gia nhóm biên soạn ấn phẩm “Thông tin phục vụ lãnh đạo” làm tài liệu tham khảo gửi tới lãnh đạo Bộ Quốc phòng và TCKT.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, ban biên soạn được phép tiếp cận lãnh đạo hai cơ quan để thu thập ý kiến phản hồi về những nội dung thông tin trong từng ấn phẩm, rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả phục vụ lãnh đạo.
Trong một lần gửi ấn phẩm tới tận tay Trung tướng Trương Khánh Châu, Chủ nhiệm TCKT thời gian đó và xin ý kiến phản hồi, tôi rất bất ngờ khi ông yêu cầu tôi ngồi nán lại vài phút tại văn phòng làm việc. Trước đó, qua các trợ lý thân quen ở cơ quan TCKT, tôi được biết mọi người thường gọi Trung tướng Trương Khánh Châu bằng cái tên thân mật là “anh Hai Châu”. Ấn tượng của tôi ngay trong lần đầu được tiếp xúc với Trung tướng Trương Khánh Châu đó là một người rất thân tình và niềm nở với giọng nói nhỏ nhẹ và cách giao tiếp cởi mở, gần gũi của người miền Tây Nam Bộ. Sau vài câu trao đổi về công việc, anh Hai Châu chuyển sang nói về ý định viết một cuốn sách bàn về đặc trưng công nghệ quân sự Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhân chuẩn bị kỷ niệm 20 năm thành lập TCKT (10-9-1974 / 10-9-1994) và giao cho tôi xây dựng đề cương, thực hiện bản thảo cuốn sách này.
Trung tướng Trương Khánh Châu tại triển lãm “Trưng bày sản phẩm công nghiệp hàng không Việt Nam”, tháng 2-2010.
Để tôi hiểu rõ hơn ý tưởng của mình, anh Hai Châu cho tôi biết suy nghĩ của anh về chủ đề cuốn sách. Anh nói, trong lịch sử quân sự thế giới, không có đội quân nào như Quân đội ta, ra đời ở một quốc gia đất không rộng, người không đông, với nền kinh tế xuất phát điểm sau khi tuyên bố độc lập năm 1945 là nghèo nàn và lạc hậu, hơn 90% dân số mù chữ. Vậy mà ta đã kiên cường, anh dũng và sáng tạo đánh bại hai thế lực xâm lược giàu mạnh, hiếu chiến nhất thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong đó, Quân đội ta sử dụng phần lớn và chủ yếu là vũ khí trang bị của Liên Xô và các nước XHCN khác viện trợ. Trong hoàn cảnh lịch sử đó đã hình thành nên một loại hình công nghệ quân sự đặc sắc Việt Nam. Đó là, khai thác sử dụng rất thành công, có hiệu quả rất cao các loại vũ khí mà ta chưa có điều kiện chế tạo được trong nước. Anh nhận định, hiện tại và trong tương lai, Quân đội ta vẫn còn phải sử dụng nhiều loại vũ khí trang bị của Liên Xô còn lại từ trước và một số nước khác, nên bài học kinh nghiệm về công nghệ khai thác sử dụng vũ khí nước ngoài vẫn có ý nghĩa chiến lược dài lâu và rất cấp thiết.
Liên quan tới câu chuyện này, anh Hai Châu kể về chuyến công tác đặc biệt của Thượng tướng Trần Sâm và đoàn công tác tháp tùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sang Liên Xô đề nghị nước bạn viện trợ vũ khí cho Việt Nam đánh Mỹ. Sau khi nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình, các đồng chí Liên Xô hoàn toàn bị thuyết phục và nhất trí với đề xuất của ta về số lượng, chủng loại vũ khí Việt Nam cần. Theo anh Hai Châu, để khai thác sử dụng vũ khí trang bị được Liên Xô viện trợ, Quân đội ta phải nghiên cứu cải tiến sao cho phù hợp với đối tượng tác chiến là quân đội Mỹ mà quân đội nước bạn chưa từng có kinh nghiệm phải đối mặt. Để làm chủ được công nghệ đó, Quân đội ta đã có được chí ít là 3 yếu tố cơ bản. Trước hết, phải có ý chí cách mạng tiến công, quyết tâm đánh và đánh thắng địch. Thứ đến là phải sáng tạo khoa học, trong đó cán bộ, chiến sĩ không chỉ phải biết sử dụng vũ khí trang bị để hoàn thành nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật do nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân đề ra mà còn phải sáng tạo ra cách đánh hoàn toàn mới để phát huy hiệu quả cao nhất của các loại vũ khí hoàn toàn mới trong trang bị. Ngoài ra, phải có đội ngũ cán bộ và nhân viên khoa học-kỹ thuật có đủ kiến thức để làm chủ các loại vũ khí mới, hiện đại. Vì thế mà ngay trong điều kiện chiến tranh ác liệt, Đảng ta vẫn chủ trương tiến hành cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật ở miền Bắc.
Trung tướng Trương Khánh Châu phát biểu tại Hội thảo “Lịch sử ngành kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam 1975-2005”, tháng 2-2011. Ảnh tư liệu
Anh Hai Châu còn lưu ý phải nghiên cứu thêm các yếu tố khác cấu thành công nghệ quân sự Việt Nam. Đó là tự nghiên cứu thiết kế chế tạo vũ khí. Anh cho biết, kể từ khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp tháng 12-1946 đến trước Chiến dịch Biên Giới năm 1950, Việt Nam bị thực dân Pháp bao vây và phong tỏa bốn bề. Trong điều kiện đó, hưởng ứng “Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”, quân và dân ta phải tự tạo ra các loại vũ khí vừa để bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, vừa đối phó với chiến thuật “tìm diệt” của thực dân Pháp. Thành tựu điển hình của Quân đội ta trong giai đoạn đầu kháng chiến chống thực dân Pháp là đã nghiên cứu chế tạo thành công súng chống tăng Bazooka có uy lực sát thương tương đương vũ khí cùng loại của Mỹ. Ngoài Bazooka, quân giới Việt Nam còn nghiên cứu chế tạo thành công súng không giật SKZ có sức công phá mạnh tương đương vũ khí cùng loại của nước ngoài. Bazooka và SKZ đã góp phần quan trọng trong việc hạn chế các phương tiện tăng thiết giáp, đánh sập các hệ thống hầm ngầm, lô cốt kiên cố, đánh chìm các đoàn tàu chiến của quân viễn chinh Pháp, làm thất bại chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh”, “chiến thuật giao thông”, “chiến thuật bình định” của đối phương. Anh Hai Châu đặc biệt lưu ý tới sự sáng tạo vô tận của người dân trong cả nước đã tạo ra một loại vũ khí đặc sắc của chiến tranh nhân dân Việt Nam, được gọi là “vũ khí tự tạo”. Đó là loại vũ khí đa dạng và phong phú về thể loại...
Qua câu chuyện ngắn gọn, súc tích, có tính khái quát rất cao của anh Hai Châu, tôi hình dung được toàn cảnh bức tranh công nghệ quân sự Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến. Tôi cũng nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa rất thiết thực khi biên soạn cuốn sách mà anh Hai Châu có ý định viết. Tôi vui vẻ nhận nhiệm vụ anh giao. Dường như lường trước những khó khăn tôi sẽ gặp phải khi thực hiện việc này, anh Hai Châu cho biết Văn phòng TCKT sẽ giới thiệu tôi tới các quân binh chủng và các cơ quan có liên quan trong Bộ Quốc phòng để nghiên cứu các tài liệu lưu trữ cần thiết. Về sau, anh Hai Châu đọc rất kỹ đề cương và bản thảo cuốn sách, chỉ rõ những nội dung cần sửa, bổ sung và điều chỉnh. Đó là những ý kiến rất quý báu, thể hiện tầm nhìn chiến lược của một người lãnh đạo ngành kỹ thuật của Quân đội ta.
Nhờ sự giúp đỡ rất tận tình của các cơ quan TCKT và các đơn vị kỹ thuật trong toàn quân, cuốn sách được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành với tên gọi do anh Hai Châu đặt là “Đặc trưng công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng” trước ngày kỷ niệm 20 năm truyền thống TCKT (10-9-1994). Năm 2014, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật tái bản cuốn sách này với tên gọi được rút gọn lại là “Đặc trưng công nghệ quân sự Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng” nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
LÊ THẾ MẪU