Ngang đường thấy sự bất bằng chẳng tha
Sáng tháng Ba năm 1945 ảm đạm.
Trên trời máy bay Mỹ ầm ầm vút qua, tới ném bom xuống các vị trí quân Nhật đóng trong thành phố Nam Định. Dưới đất, đám năm, đám ba người đói bước thất thểu, vật vờ trên đường.
Đê Hữu Bị lộng gió Đông Nam, bãi đang bạt ngàn xanh mướt lả lướt mỗi khi có làn gió mạnh tràn qua. Nước sông Hồng nhận nắng le lói ánh lên màu nâu đỏ. Thỉnh thoảng xác người chết trương lũng lẵng giạt vào bờ, vật vờ cố bám lấy đám cỏ rạp trên mặt nước, nhưng không được, lại lúc lắc trôi xuôi. Người chết đói nhiều quá, chôn không kịp, bọn Cẩm thả lẳng xác chết xuống sông. Nhiều trường hợp không do cẩu thả mà vì "lực bất tòng tâm", người ta đói quá không còn sức làm việc thiện nữa, đành làm phúc bằng cách thủy táng.
Trần Quý Lê ngồi trên vạt cỏ ven đê dưới gốc cây bồ kết cành lá xum xuê gai chĩa tua tủa, âu sầu ngắm cảnh xác người bập bềnh theo làn sóng. Quân Nhật bắt dân phá ngô khoai để trồng đay lấy vật liệu phục vụ chiến tranh; nông dân mất phương tiện sống bị cuốn vào dòng xoáy thiếu đói, bất lực trước cảnh ngộ đen tối; Chính phủ chẳng tìm cách khắc phục giúp dân lại xử sự như con sói háu ăn hằm hè trước con thỏ bị thương... Anh là học sinh giỏi của trường Trung học Sanh Tô-ma, nhưng giỏi mà làm gì khi vẫn bất lực trước những thân phận bi thương bồng bềnh kia! Tâm trạng anh bộc lộ lời than:
- Chẳng thể thê thảm hơn! Chẳng thể vô lý hơn!
Gió vẫn thổi. Dòng sông Hồng vẫn thản nhiên đưa xác người chết oan ra biển Đông. Bãi đang xanh mướt vẫn nhởn nhơ lả lướt. Chỉ tâm trạng chàng thiếu niên là không yên ổn. Những lời chú An – cán bộ Việt Minh nói với cha lại văng vẳng bên tai Lê như điều nhắc nhở, như sự thúc giục:
- Phá ngô khoai để trồng đay khiến dân chết đói là tội trời không tha, đất không dung.
- Nhật hất cẳng Pháp ở Đông Dương để củng cố hậu phương chứng tỏ Tôjôhideki[1] đang đi tới bước đường cùng; trùm phát xít Mútxônili[2] bị bắt giam. Chính phủ mới ở ý tuyên bố rút khỏi phe trục phát xít; trục tam cường Đức – ý – Nhật bị quân Đồng Minh bẻ gãy từng đoạn. Thời cơ giải phóng Việt Nam đang vận động tới.
[1] Thủ tướng kiêm Đại tướng lục quân Nhật thời kỳ 1941 – 1944. Trùm phát xít Nhật.
[2] Thủ tướng ý thời kỳ 1922 – 1943. Trùm phát xít ý.
- Hãy tự cứu lấy mình!
- Hãy nắm tay nhau tập hợp dưới ngọn cờ Việt Minh!
- Việt Minh là chính nghĩa!
Phải, hãy đứng vào hàng ngũ những người bảo vệ chính nghĩa!
Bỗng vang lên tiếng "ới, ới" và hơi thở đứt quãng từ phía sau ập tới cắt ngang dòng hồi tưởng của Quý Lê.
Quý Lê ngẩng đầu nhìn xéo lên. Đó là Duy Quyền, người cùng làng, cùng học một lớp với Lê. Anh vừa kéo tay bạn ngồi xuống vừa hỏi:
- Có chuyện gì mà hớt hải thế?
Duy Quyền giằng tay bạn, không chịu ngồi; anh hít một hơi dài để trấn tĩnh:
- Đằng kia có ba xác người chết đói, ba mẹ con! Thảm lắm!
Nghe có người gặp nạn, không hỏi han đôi hồi mất thời gian, Quý Lê cùng bạn chạy gần đến chỗ người xấu số trút nợ trần ai.
Ba xác người rũ rượi ở góc ruộng, dưới những thân cây đang trụi lá. Người mẹ co quắp, tay đặt lên lưng đứa con nhỏ, cánh tay chị như hai ống nứa khô chắp lại, cẳng chân cũng chẳng hơn gì. Thằng con lớn nằm ngửa, bụng dúm bẹp nhâm nhi miếng bánh đa nhúng nước, mồm há hốc chứa đầy lá đay, có cả phần đầu con cào cào, mắt mở trừng trừng nhìn trời xanh. Hẳn vì gia cảnh túng đói quá chị mới phải dắt díu con rời bỏ làng quê đi tìm đường sống, nhưng đường sống lại chật hẹp, gập ghềnh và bất trắc, cuối cùng đi vào cõi chết, chết thảm thương.
Quý Lê nói trong tiếng hấm hức:
- Khổ thân mẹ con chị ta quá!
Duy Quyền hỏi bạn:
- Làm thế nào bây giờ?
Quý Lê phẩy tay bảo:
- Chúng ta về làng tìm cuốc xẻng!
Duy Quyền biết ý định của bạn, chỉ nhắc thêm:
- Cố kiếm lấy manh chiếu!
Quý Lê gật đầu:
- Ừ! Chôn trần thì tội nghiệp lắm!
Nửa giờ sau, đôi bạn giàu lòng từ thiện đã vác cuốc xẻng, ôm chiếu ra bờ đê. Họ chọn vạt đất cao ráo, phong quang làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người thiệt phận. Quý Lê lẩm bẩm khấn:
- Bố em bảo con người "sống có nhà, chết có mồ", chúng em chỉ biết chăm sóc mẹ con chị bằng cách tạo dựng nơi ở mới của chị thật tươm tất.
Họ đào một huyệt rộng, trải chiếu xuống dưới, cẩn thận khiêng người mẹ xuống đặt chính giữa, chỉnh sửa tư thế, quần áo cho chị vừa kể lể vừa thanh minh:
- Về gặp ông bà mà chị sơ sài quá, nhưng bọn em không thể làm gì hơn. Làng em cũng đói rách lắm.
Nhẹ nhàng đặt hai đứa bé bên mẹ, khéo léo gập hai bên mép chiếu phủ kín ba thi thể, họ nói như dặn dò người thân:
- Xuống đó các em đừng đi đâu xa, hãy quấn quít bên mẹ! Trên này cá lớn nuốt cá bé, mẹ không chu toàn được con, cõi u minh, là nơi nghiêm trị tội hà hiếp bất công, mẹ em lại săn sóc các em.
Đôi bạn đắp một ngôi mộ vuông vức, chăm chút tỉa tót như làm đồ thủ công.
Lo toan việc từ thiện nên trong lòng chỉ thấy phấn chấn, làm xong, sự mệt mỏi mới ập đến.
Duy Quyền lia xẻng, ngồi bệt xuống đất vừa bóp chặt bụng vừa nói:
- Tớ đói quặn ruột rồi!
Quý Lê sực nhớ từ sáng đến giờ mình cũng chưa được ăn gì. Anh kéo bạn ngồi xuống vệ cỏ, móc túi lấy ra một gói to bằng nắm tay, hí hoáy mở lá khoai ngứa bọc ngoài.
Trông thấy thứ ở bên trong, Duy Quyền hớn hở reo như bắt được vàng:
- Khoai ngô bung!
Quý Lê bẻ đôi nắm khoai, đưa cho bạn một nửa. Ngó bạn ăn nghiến ngấu như cả đời chưa từng được ăn, anh cảm thấy xót xa, liền bẻ đôi phần của mình đưa cho bạn một nửa nữa.
Duy Quyền nhận phần thêm, mắt lóng lánh như có thần, anh vừa ăn vừa kể:
- Từ sáng đến giờ chưa có gì vào bụng. Tớ đói quá!
Quý Lê cũng đói. Gia đình Lê thuộc diện thiếu đói, nhờ mấy chum khoai lang khô mà cầm cự được, tuy vất vưởng nhưng không quỵ đổ. Nắm khoai bung này là suất ăn cả ngày của anh. Đang sức ăn mà chỉ được một nắm bằng quả na thì bõ bèn gì. Anh hỏi bạn với nét mặt lo lắng:
- Nhà cậu hết gạo rồi à?
Duy Quyền ăn nốt miếng cuối cùng, liếm những vụn nhỏ còn vương trên ngón tay, thở dài đánh thượt, đáp:
- Hết hai hôm rồi! Mẹ mình sang nhà ngoại bên Thái Bình xin ngô nhưng chưa về.
Quý Lê phỏng đoán:
- Nghe chú An nói bên ấy cũng đang đói! – Anh nhặt mảnh lá khoai ngứa gấp gọn, vất ra xa, phủi những bột khoai khô vụn bám ở tay, rồi nói tiếp: - Nhà mình cũng sắp ăn tới chum cuối cùng. Nhưng..., tối nay mình sẽ "thủ" cho cậu một bọc.
Duy Quyền khẳng khái nhận lời:
- Vậy thì tốt cho nhà mình lắm!
Quý Lê bàn "kế lâu dài" với bạn:
- Ruộng khoai lang của lão chánh tổng Kiển ở khúc ngoẹo gần đình tốt nhất làng, lão đang cho bới. Mình quen mấy anh làm thuê cho nhà ấy, mình bảo họ để sót. Tối tối cậu ra đó mót, mình sẽ giúp một tay.
Duy Quyền hưởng ứng lòng tốt của bạn một cách vô tư:
- Hay đấy! Như thế nhà mình có thể trụ tới ngày gặt.
*
Chị Huê người cùng xóm với Quý Lê chạy như ma đuổi dưới vệ đê, gặp Lê chị dừng lại, chống nạnh hông thở hổn hển, muốn nói mà nói không thành lời.
Ngắm nét mặt tái xanh tái xám của chị Huê, Quý Lê đoán chị vừa trải qua một chuyện khá hiểm nghèo, liền hỏi:
- Việc gì vậy hở chị?
Chị Huê thở dốc một hơi dài, thế mà vẫn nói đứt quãng:
- Tây Biđô... đuổi... vác...
Quý Lê đấm mạnh tay xuống đất khi biết rõ sự việc xảy ra. Anh gằn từng tiếng:
- Lại thằng Biđô!
Chị Huê ra bãi nhặt cỏ cho thửa ngô, đang làm bắp, đang đi trên đê Hữu Bị thì bị thằng Biđô chặn lại, chẳng nói chẳng rằng, nó vác thốc chị lên vai chạy xuống ruộng đay. Thằng khốn nạn muốn giở trò khốn nạn, nhưng bị phản ứng mạnh quá, chị lại đánh một cú rất "ác" khiến thằng Tây co dúm người mà kêu. Thừa cơ chị Huê chạy thoát thân.
Biđô là đại úy phòng nhì. Thời Pháp chưa bị Nhật hất cẳng, nhiều cán bộ Việt Minh, cơ sở bí mật của cách mạng ở vùng này bị bắt, phá đều do hắn chỉ lối dẫn đường. Nhật đảo chính, tất cả người Pháp ở Nam Định đều bị lùa vào trại giam, riêng Biđô được sử dụng vì hắn biết nhiều bí mật của hội kín ở trong vùng. Hắn dẫn Hiến binh Nhật đi "tảo thanh" cộng sản khá hung hãn, nhiều cán bộ Việt Minh và phần tử cách mạng trung kiên bị chết bởi tay Biđô. Nhờ công lao chó săn ấy hắn được Nhật cho thoải mái phóng túng. Biết Biđô làm hại nhiều cô gái trẻ, bọn Nhật vẫn làm ngơ. Được thể, Biđô càng càn rỡ. Chiều nào hắn cũng lảng vảng qua mạn Tân Đệ, Trung Trang... để tìm gái. Hắn thường xuống Hữu Bị nhất vì nơi này vắng vẻ lại có nhiều bãi đay cao ngút đầu người dễ bề cho con quỉ râu xanh làm điều xằng bậy.
Quý Lê nhắc nạn nhân:
- Chị về ngay đi kẻo nó đuổi tới thì nguy!
Chị Huê gật đầu, nhưng lại bảo:
- Có chú, chị không sợ.
Quý Lê nhận lời khích lệ của chị Huê mà bừng tỉnh tính trách nhiệm của một con người sống trên đời. Dù vậy, anh vẫn không dám coi mình là nhất, lĩnh vực nào cũng có giới hạn, giới hạn của anh là con thỏ dũng cảm, khôn lanh đến đâu cũng không để đối mặt đương đầu với con ác thú háu ăn. Anh giục:
- Cẩn thận vẫn hơn. Chị về đi!
*
Tinh thần phản kháng của chị Huê động viên lòng dũng cảm của Quý Lê. Anh tự nhủ:
- Bị hà hiếp mà cam chịu là hèn!
Sau khi xác định quyết tâm, Quý Lê đứng dậy đi tìm Duy Quyền.
Duy Quyền không phải là nhân vật cương cường "ngang đường thấy sự bất bằng chẳng tha", nhưng là người ủng hộ nhiệt tình việc làm nghĩa hiệp nên khi nghe bạn kể rõ đầu đuôi câu chuyện liền hỏi:
- Bọn mình có thể làm gì?
Quý Lê khích lệ bạn:
- Chó ở nơi khác tới cửa nhà mình cắn bậy, phải đập cho què cẳng.
Duy Quyền phân vân:
- Lý thì thế, nhưng nó có súng.
Tính không cam chịu cảnh bất công, dám đương đầu với hiểm nguy để bảo vệ chính nghĩa của tổ tiên đã di truyền tới thế hệ anh học sinh giỏi của thành Nam này. Quý Lê phẩy tay coi khinh nguy hiểm:
- Nó có súng, chúng ta có bãi đay um tùm che kín suốt bờ sông...
Duy Quyền cắt ngang:
- Bãi đay thì liên quan gì đến súng đạn. Còn gà con kê, suốt ruột lắm. Cậu nói vào chuyện xem nào!
Quý Lê hích hông bạn, cười hỏi:
- Giả ngô giả ngọng hả?
Duy Quyền:
- Cậu nói mình Ngô đầu Sở, thánh chẳng đoán nổi nữa là mình.
Quý Lê nắm tay bạn kéo lại gần mình, giải thích ý định:
- Nó có súng làm bằng sắt, chúng ta có súng bằng dây cao su. Sao không dùng súng chun bắn quạ "chơi" thằng Biđô? Bắn xong, lủi vào ruộng đay, tài trời cũng không mò ra được.
Duy Quyền rút tay khỏi tay bạn, nhíu mày đánh giá:
- Một viên sỏi... nước mẹ gì?
Quý Lê làm ra vẻ quan trọng:
- Bắn viên sỏi vào người chỉ đau chốc lát, nếu bắn trúng mắt thì thằng ấy tàn phế suốt đời.
Duy Quyền lắc đầu, giải pháp bắn mắt người thật khó chấp nhận, đích bắn nhỏ quá.
- Bắn mắt không dễ đâu!
Quý Lê đoán biết ý nghĩ sâu kín của bạn, anh giải thích đồng thời khuyến khích:
- Có khó mới tỏ tài cao!
Duy Quyền nhắc lại:
- Bắn mắt không dễ đâu!
Quý Lê không thay đổi quyết tâm:
- Chúng ta từng hạ nhiều chim di, chim sẻ... Chúng ta sẽ tập để bắn mục tiêu nhỏ hơn.
Quả là giải pháp nên theo, Duy Quyền chấp nhận.
- Ừ, cứ phải thử xem sao!
Quý Lê phân công luôn:
- Tớ làm hình nhân, cậu làm hai súng cao su.
*
Hành động càn rỡ của Biđô đã khiến đê Hữu Bị vắng các cô gái trẻ qua lại.
Các cô khuyên nhau:
- Muốn giữ thân thì tốt nhất không lên đê Hữu Bị.
Các bà mẹ lo lắng:
- Cỏ dại mọc tốt hơn cả ngô mà bọn nó không chịu ra đó làm, giao phó công việc cho mấy bà già khẳng khiu thì... mất ăn là cái chắc.
Các ông bố lo lắng, nhưng vô kế khả thi. Một ông táo tợn đề xuất:
- Tìm cách đập chết con chó dại!
Đa số phản đối:
- Không nên tạo cớ cho bọn Nhật tàn hại xóm làng.
Anh cán bộ hoạt động bí mật nhắn lời:
- Chớ manh động! Hãy để chúng tôi tìm cách khắc phục. Làm không kín kẽ thì lợi chẳng bõ hại.
Anh Việt Minh An chưa tìm được giải pháp trừ nạn cho các cô gái thì việc muốn xảy ra đã xảy ra.
*
Con quỷ háo sắc Biđô có nhiều địa bàn tác yêu tác quái nhưng nó chuộng vùng đê Hữu Bị hơn. Không gian rộng rãi, bãi đang bạt ngàn, lại có gió mát từ sông Hồng tạt lên. Nhưng đường có chó dữ chạy rông, kẻ nhát gan nào chẳng trợn. Vắng người qua lại hắn cũng không bỏ cuộc, có ngày hắn đứng hàng giờ rình gái hớ hênh.
Biđô có tính kiên trì của con cáo tinh khôn ma mãnh, đứng trên đê chán lại xuống vệ đê để đón lõng.
Thói nhày nhụa của kẻ trụy lạc và tính hám mồi của tên mật thám lì lợm đã trở thành thói quen, thói quen ấy đã làm hại hắn.
Trong lúc Biđô đang bồn chồn, nghe ngóng động tĩnh thì hai viên sỏi vù vù lao tới, một viên trúng mắt, một viên trúng mũi. Hắn rú lên, ngồi thụp xuống, một tay ôm mắt, một tay ôm mũi, con mắt còn lại chẳng giúp gì cho tên mật thám quan sát kẻ vừa hại mình.
Biđô dù đau vẫn không dám lần chần, hắn đứng dậy bưng bên mắt bị thương thất thểu trở về thành phố, vào Sở Hiến binh.
Bộ dạng Biđô thật thảm hại. Mặt, tóc bệt máu và đất, cái mũi lõ vẹo vọ trông như bị bẻ, một bên mắt lòi khỏi tròng, con mắt còn lại màu xanh biến thành màu xám đục, mồm mấp máy như khóc lại như muốn mách chủ, quần áo xộc xệch như vừa đánh vật với ai bị thua phải chạy về tìm đồng bọn.
Viên sĩ quan Hiến binh Nhật vốn coi trọng sự quy củ, nền nếp... thấy bộ dạng Biđô xộc xệch, nhơ nhớp mà phát ghét. Gã đoán thằng Tây lại đi săn gái bị trai làng đánh. Tuy vậy, gã vẫn ôn tồn hỏi:
- Ngã hả?
Biđô lắc đầu, đáp:
- Tôi bị ném đá! Bọn Việt Minh đánh dằn mặt tôi.
Viên sĩ quan Nhật chửi thầm trong bụng: "Chó sủa càn lại toan cắn bậy". Cuộc đời làm Hiến binh của gã đã từng gặp nhiều trường hợp "mượn dao giết người" tương tự. Quân Đồng Minh đã mở mặt trận thứ hai; quân Thiên Hoàng lâm vào thế cô, đạo quân Quan Đông cột trụ của nước Nhật bị sa lầy ở Mãn Châu, đế quốc Nhật không còn dọc ngang như thế chẻ tre như trước; việc an ninh ở cái xứ có quá nhiều nắng gió trở nên bề bộn, thời gian đâu làm cái việc báo thù vặt. Gã muốn phủi tay:
- Ra nhà thuốc!
Biđô méo xệch mồm, hắn muốn trả thù:
- Ngài phải đòi nợ cho thuộc hạ của ngài!
Mang trong lòng thứ tâm trạng thù hận bức bách, gã Tây lai đã dùng một từ mạnh đối với cấp trên.
Quả thật, viên sĩ quan Nhật vấp đúng từ "phải" như vấp hòn đá tảng. Thằng khốn nạn dám ra lệnh cho ta à. Tuy thế, gã vẫn gật đầu cho xong chuyện:
- Được! Xuống băng bó đi!
Biđô hí hửng được cấp trên trả thù hộ. Hắn bưng mắt xuống nhà thuốc.
Thầy thuốc khám vết thương xong, bảo:
- Mũi bị gẫy vẫn có thể chữa lành nhưng khó trở lại hình dạng cũ, có thể hơi vẹo một chút – Thầy thuốc ngập ngừng giây lát rồi hạ "án tử hình": - Phải khoét bỏ mắt!
Biđô giơ nốt tay kia ôm lấy con mắt bị thương như sợ ai cướp mất.
- Không khoét... tôi không muốn thành thằng chột.
Thầy thuốc đóng nắp bút, gạt đơn thuốc ra bên:
- Tùy... không muốn khoét thì ra bảo y tá băng bó.
Một lúc sau, bác sĩ trưởng và bác sĩ điều trị đang trao đổi về trường hợp Biđô thì y tá sang, theo sau là Biđô.
Y tá nói với bác sĩ:
- Tròng mắt bị vỡ nát, tôi e...
Bác sĩ điều trị khoát tay muốn xua đuổi cả hai:
- Bệnh nhân không muốn khoét bỏ chỗ hư hỏng.
Bác sĩ trưởng không nỡ để con bệnh ngu ngốc chết oan, nên khuyên:
- Phương Tây có câu ngạn ngữ "một hòn sỏi làm bật chiếc đinh tán móng sắt, chiếc móng sắt rơi làm hỏng chân ngựa, chân bị què khiến con ngựa vấp ngã xuống vực lôi theo cả kỵ sĩ" - Ông ta chém chém ngón tay về phía Biđô nói tiếp: - Con mắt của anh bị vỡ nát không khoét bỏ thì hiển nhiên sẽ dẫn đến chứng hoại thư. Mang bệnh hoại thư thì chỉ Đức Chúa của anh may mới cứu được anh khỏi chết.
Biđô lắp bắp:
- Tôi... tôi...
- Giữa hai khả năng sống và chết, tùy anh lựa chọn.
Bác sĩ trưởng nói đoạn bỏ đi ngay.
Biđô ngỡ tình trạng vết thương của hắn là xoàng không thể ngờ lại nguy nan đến thế. Hắn muốn bảo vệ mạng sống hơn bảo vệ mắt nên đồng ý làm phẫu thuật.
Hơn một tháng sau, Biđô được thiên hạ gọi là "Biđô chột", người ghét hắn thì miệt thị "thằng Tây chột", "con chó chột".
*
Anh An Việt Minh biết việc làm của hai chàng thiếu niên hăng hái Quý Lê và Duy Quyền liền dìu dắt họ vào đoàn thể Việt Minh. Quý Lê dũng cảm, sắc sảo nên được phân công làm liên lạc viên.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 của ta thành công, Biđô chột được Chính phủ Việt Nam ân xá, chỉ nhắc nhở yên phận sống đời kiều dân, chờ dịp hồi hương.
Quý Lê xung phong vào Tự vệ thành Nam Định; Duy Quyền ghi tên vào Vệ Quốc Đoàn. Từ đó đôi bạn "nắm khoai bẻ đôi" xa nhau, rồi xa mãi mãi.
Theo vết xe đổ
Biđô không chịu an phận. Trong thời gian được là kiều dân tự do, hắn thường cưỡi chiếc xe đạp tòng tọc thong dong đây đó, làm như nhàn tản; thực ra hắn đi dò la, thu thập tin tức, chờ ngày quân viễn chinh Pháp trở lại; hắn muốn liên lạc với Alếchxăngdri – tên bại tướng Pháp dẫn tàn quân trốn sang Vân Nam – Trung Quốc khi phát xít Nhật bất ngờ nổ súng đoạt quyền của Pháp trên cõi Đông Dương; nhưng hắn ở thế ngựa què chân, chim gẫy cánh, chẳng thể làm gì.
Năm 1946, Cao ủy Đácgiăngliơ và Đại tướng Lơcléc dẫn quân viễn chinh đổ bộ vào Việt Nam mưu toan tái lập chế độ thực dân lỗi thời.
Quân Pháp chiếm Hà Nội và tràn xuống thành phố Nam Định, bọn chỉ huy ban lệnh tìm kiếm, chiêu mộ những Pháp kiều quen biết tình hình trong vùng.
Biđô chợt có đất dụng võ. Hiểu biết tình hình nhiều phương diện trong vùng khiến tên chột được Bộ Tư lệnh Pháp ở Nam Định tin dùng. Hắn được phong thiếu tá rồi trung tá chỉ huy trưởng Hiến binh.
Trở thành kẻ có thế có quyền, thói ham gái ở Biđô càng trở nên buông thả càn rỡ. Hắn như con ngựa bất kham không bị đóng yên cương.
Biđô chột đến "nhà chứa chui" gần bến Đò Quan, bất ngờ gặp một ả rất vừa ý: thân hình bốc lửa, hai mắt như hai cục nam châm... Sau khúc dạo đầu mỹ mãn, hắn hỏi:
- Tên em là gì?
Ả nhà thổ ỏn ẻn đáp:
- Nguyễn Thị Nhâm!
Nhâm là cô gái mới nhập làng chơi, nhưng rất thạo khoa vuốt ve, mơn trớn. Ả nịnh thằng chột:
- Anh là người đàn ông thứ hai em bắt buộc phải tiếp. Với anh thì... em cảm thấy bị bắt buộc là điều may.
Ả to nhỏ than thở với gã chột mua dâm về thân phận mình. Tất nhiên là thứ thân phận bày đặt.
Biđô hí hửng được làm tình với cô gái nông thôn xinh đẹp, đáng thương vì lý do không may mà bị lùa vào lầu xanh. Quả chẳng thể chỉ qua đò với thân hình bốc lửa, cặp mắt như hai thỏi nam châm này. Hắn ngỏ ý muốn lấy ả gái điếm làm vợ.
Nhâm chẳng thể mơ ước được hơn, nhưng ả muốn có danh giá với làng xóm nên đòi có cưới xin hẳn hoi. ả rót nước đường vào tai gã hám gái:
- Được anh thương thì cuộc đời đã chết của em lại tái sinh. Nhưng...
Đã có biết cơ man nào cô gái đi qua đường đời Biđô, nhưng chẳng ả nào gây ấn tượng mạnh bằng Nhâm. Hắn ôm nghiến ả làng chơi, hỏi:
- Em muốn gì?
Nhâm lúng liếng mắt, đáp:
- Em muốn chúng ta lấy nhau theo tục lệ Việt Nam.
Biđô nịnh:
- Chiều Nhâm là bổn phận của anh!
Nhâm lại lúng liếng mắt, đường sắt của hai hòn bi nam châm chồm lên cặp mắt xanh khiến màu xanh ánh lên lấp lánh như ngọc bích được mặt trời chiếu. ả ma quái làm cho gã si tình mê hồn rồi mới thỏ thẻ:
- Vậy thì chiều em đi!
Biđô chợt hỏi lại:
- Làng quê nào?
- Vụ Bản!
Biđô hỏi:
- Thuộc vùng phe nào kiểm soát?
Nhâm đáp:
- Vùng ảnh hưởng, nhưng ưu thế thuộc về quân đội Pháp.
Biđô chợt bảo:
- Vậy thì... Nhâm về quê nói trước để bố mẹ Nhâm khỏi bất ngờ.
Biđô chột phòng xa rất đúng. Cả nhà đều bất bình, thà làm gái điếm còn hơn lấy Tây chống lại đất nước của ông bà.
Nhâm nhơn nhơn:
- Người ta lấy Tây đầy ra đấy. Chẳng lẽ ai lấy Tây cũng đều là phạm tội phản quốc! Mà con gái của bố mẹ ngọc ngà báu giá gì cho cam.
Bố mẹ biết con gái chịu thua thiệt đủ đường rồi nên không nỡ nặng lời. Nhưng, Nguyễn Tiến Tạo lại khác. Anh là Trung đội trưởng bộ đội địa phương nên chính kiến rõ ràng.
- Thấy người ta ăn cướp, làm Việt gian thì mình cũng có thể đi ăn cướp, làm Việt gian hay sao? Em có còn là cái Nhâm của bố mẹ, của anh Tạo này không?
Nhâm quyết không thay đổi ý định:
- Cái Nhâm xinh tươi, ngoan ngoãn ấy chết từ lâu rồi. Bây giờ chỉ còn cái Nhâm thua đơn thiệt kép thôi.
Nói xong ả bưng mặt khóc, cứ như bị oan ức lắm.
Tiến Tạo dịu giọng:
- Không ai ngăn cấm em lấy chồng, nhưng lấy Tây thì...
Nhâm giơ cánh tay áo quệt ngang mắt:
- Em lấy Tây thì sao? Biết đâu có lúc bác phải nhờ em... - ả cố vớt vát thể diện: - Đời em đã bị thằng Tây đen phá, đành lấy thằng Tây chột cho xong.
Chuyện cô gái đẹp nhất nhì làng khuất thân lấy Tây chẳng mấy chốc lan truyền khắp vùng. Ai cũng dè bỉu.
Bà Hoạt hàng xén nổi tiếng chanh chua nhất chợ Thiên Bản nói trống không với bà hàng trầu cau ngồi bán hàng bên cạnh mình:
- Vụ Bản chết tiệt đàn ông đâu mà con Nhâm ưỡn ẹo lên tỉnh hết làm nhà thổ lại mơn Tây.
Bà hàng trầu cau không ưa thói "xía" vào đời tư của người khác, nhất là sợ bị vạ mồm liền mắng át đi:
- "Có mồm thì cắp, có nắp thì đậy".
Bà cắp rổ rá ngồi chọn mua trầu cau, góp chuyện:
- Biết đâu Nam Định nảy nòi cô Hồng tân thời[3]. Bố mẹ, anh em được núp dưới váy đầm An Nam ắt có phen vinh thân phì gia như cô Cố Hồng.
[3] Một gái chơi hạng sang có danh giá một thời.
Thế là ả nhà thổ được lấy quan nhà binh Tây, dù phải muối mặt nghe lời cay đắng cũng chẳng sao.
*
Biđô chột thi hành công vụ có kết quả nhờ tích lũy kinh nghiệm của thời làm Phòng Nhì.
Bộ Tư lệnh Pháp ở Nam Định phái hắn bí mật ra Phát Diệm, giúp các cha cố coi trọng Đạo hơn Tổ quốc, kể cả những kẻ dùng đạo làm cầu thang bước lên đài danh lợi.
Biđô chột mua cho vợ một căn nhà hai tầng ở gần hồ Lakét[4] rồi lên đường.
[4] Nay là hồ Vị Xuyên.
*
Cấp trên phát hiện Trần Quý Lê có năng khiếu trinh sát hình sự nên điều động anh về Ty Công an Ninh Bình.
Sau thời gian công tác phá án có kết quả, Ty Công an Ninh Bình cử Trần Quý Lê xuống công tác tại huyện Kim Sơn. Ban chỉ huy Công an huyện Kim Sơn phái anh vào Phát Diệm gây cơ sở.
*
Nhân là hàng xóm và là bạn của Thục. Nhân thường cùng Thục đi họp thanh niên. Trong cuộc họp thanh niên, Nhân gặp Quý Lê - anh cán bộ Công an được cử xuống bám sát cơ sở và Đởm – một thanh niên nhanh nhẹn, người cùng thị trấn.
Nhân là cô gái mới lớn, ăn diện nổi trội hơn tất cả bạn gái trong khu phố nửa tỉnh nửa quê. Cô ưa hơn người và ham thích điều mới lạ. Đởm yêu Nhân, cô biết và lấy làm hãnh diện, nhưng cô lại phải lòng Quý Lê, một chàng trai cao to, đi đứng đàng hoàng, nói năng đâu ra đó. Tình cảm ở cô gái này lạ lắm, đã yêu là yêu đắm đuối, nhưng khi khiến cô ta ghét thì hãy coi chừng. Nọc người bằng mười nọc rắn.
Quý Lê là người có tinh thần trách nhiệm cao, anh mới đến địa bàn, nên phải dồn sức vào việc tìm hiểu tình hình nhiều mặt, không còn tâm trí nghĩ đến chuyện ngoài nhiệm vụ. Đôi lúc Nhân nửa thật nửa giả buông lời khêu gợi trăng gió và có những hành vi săn sóc hơn mức thường, Quý Lê vẫn không đoán ra mình lọt vào tầm ngắm của cô ả có cặp mắt lá dăm đong đưa và đi đứng õng ẹo vào bậc nhất thị trấn. Anh là người chững chạc và vô tư. Thời kỳ này, yêu đương là yêu đương chân chính, chứ hoa lá lơ mơ liền bị kỷ luật ngay, chí ít cũng bị dư luận phỉ nhổ: "Đồ hủ hóa", "Phường mèo mả gà đồng". Quý Lê không nguội lạnh với tình yêu nam nữ, nhưng anh đặt bổn phận, danh dự chiến sĩ công an lên hàng đầu.
Anh đề ra câu hỏi để tự vấn mình và cũng là tự răn mình:
- Cậu tham gia công an đã làm được gì cho ngành? Nhiệm vụ theo dõi hành tung của bọn phản động, gian ác làm đến đâu? Tất cả đều chẳng quan trọng bằng theo bóng một cô gái phải không?
Nhân là cô gái lẳng lơ nhưng vẫn e sợ tai tiếng. Gặp Quý Lê ở chỗ đông người cô tỏ ra kênh kiệu, lạnh nhạt, không vồn vã bằng lời mà thầm vập bằng ánh mắt đong đưa và thường dùng lời nói, hành vi giả giả thật thật rất khó lường. Cô mong tìm được cơ hội vắng vẻ để tấn công tình cảm Quý Lê.
Dịp mong đợi đã tới. ấy là hôm Nhân bất ngờ gặp Quý Lê trên Cầu Ngói, hai người đi ngược chiều nhau. Cô chặn Quý Lê lại, bảo:
- Em có chuyện muốn thảo luận với anh.
Nghe danh từ "thảo luận" Quý Lê cho là việc quan trọng đáng nghe nên tạt ra bên đường, vui vẻ đáp ứng:
- Có việc gì vậy cô Nhân?
Hai người đứng tựa lan can cầu nhìn những con thuyền xuôi ngược trên sông.
Tình yêu khiến người ta tao nhã và biết dùng những lời bóng gió đẹp đẽ. Nhân là vậy, giọng cô tròn và thanh rất dễ nghe:
- Dòng nước trôi xuôi ra biển, tan biến trong biển; ngày tháng qua đi và đi mất, lá xanh vàng héo cũng không xanh tươi trở lại...
Quý Lê mới nghe cách mở đầu đã thấy nản. Mà... anh đã đọc những loại văn này ở đâu đó, có vẻ như ở tạp chí Tiểu thuyết Thứ Bảy, anh không bằng lòng nhưng vẫn cười hỏi:
- Cô Nhân học đến lớp mấy rồi?
Nhân liếc ngang một cái rồi mới đáp:
- Em chưa học hết Đệ Lục. Nhưng, anh hỏi chuyện ấy là vì cớ gì vậy?
Quý Lê lại cười:
- Vì Nhân nói nghe hay quá!
Nhân ngỡ Quý Lê khen thật và đã khen thì chắc chắn có sự thân mến trong đó, để triển khai phương pháp mở thông cửa sang nhà hàng xóm, cô mạnh dạn mở đầu:
- Em muốn đi thoát ly như anh có được không?
Quý Lê đáp theo tình thế:
- Đã có nhiều chị em thoát ly tham gia kháng chiến.
Nhân là cô gái khôn lanh, các hành vi, lời nói đều xuất phát từ mục đích cụ thể. Cô có ý định thoát ly không phải vì thích thoát ly mà muốn có điều kiện kề cận mục tiêu đã nhằm sẵn. Đấy chính là động cơ thúc đẩy cô miệt mài. Cô muốn thắt buộc đối tượng nên nhắc lại:
- Anh giúp em được không?
Quý Lê không thông thạo quy chế tuyển người, nhất là không biết tâm trạng người đối thoại, nên đáp:
- Phải ra xã hay lên huyện ghi tên...
Nhân bồn chồn ngắt lời, giọng ráo riết hơn:
- Anh giới thiệu em chẳng được à?
Quý Lê thành thật đáp:
- Mình chưa từng làm việc này. Muốn biết đường hướng thế nào phải hỏi mới biết.
Nhân làm như trách cứ mà thực ra là nói khích:
- Tham gia kháng chiến mà khó thế kia à?
Quý Lê thực sự không hiểu Nhân muốn gì. Anh không thể lường ra tình yêu dẫn con người ta đến những nẻo đường ngoắt ngoéo. Anh trỏ mấy con thuyền dưới sông, kéo dài thời gian để kịp suy nghĩ nông sâu, thật giả. Nhân có ý định thoát ly đi công tác thật hay chỉ kiếm cớ? Anh từng biết nhiều thanh niên nam nữ xung phong đi bộ đội, cán bộ... nhưng anh chưa từng thấy cô nào thích làm đỏm, ham ăn chơi dám rời xa gia đình, rời xa nơi đô hội. Anh tự nhủ: Ai muốn thực hiện bổn phận đối với Tổ quốc đều được hoan nghênh, nhưng lần theo bậc đá để đến chỗ thông thoáng hơn lại là chuyện phải quan tâm. Làm cầu cho cô ta đi là làm khó cho người khác!
Quý Lê từ chối khéo:
- Người nào tự nguyện tham gia kháng chiến cũng được tiếp nhận, nhưng muốn vào nhà đều nên đánh tiếng với gia chủ. Tôi phải hỏi bộ phận tuyển người mới có thể trả lời.
Nhân cảm thấy thất vọng. Cô cho rằng, do Quý Lê xin thì cô sẽ được nhận vào đơn vị Quý Lê, vì như thế mới đạt được mục đích thoát ly của cô. Chứ... thoát ly mà ở đơn vị khác thì thà ở nhà.
Sau đó, có dịp thuận tiện Nhân lại đề cập vấn đề "Em muốn đi thoát ly. Anh hỏi đơn vị anh chưa?". Thật tình là Quý Lê không còn giải pháp ứng cứu tình thế. Anh chỉ ư hừ lấy lệ. Vì dần dần Quý Lê đã nắm được thóp cô gái. Anh có công việc của anh, nhiều và cần thiết, nên không thể phân tâm vì những chuyện chẳng đâu vào đâu.
Nhân không rời bỏ mục tiêu, cô săn đón, tranh thủ từng cơ hội tiếp cận, mưa dầm ướt áo, lửa gần rơm không bén mới là sự lạ. Nhưng thấy Quý Lê lần lữa mãi không có câu trả lời cụ thể, Nhân nói như than:
- Đây có phải là anh Quý Lê đó không?
Quý Lê không nỡ nói thẳng băng, anh hy vọng thời gian sẽ giúp Nhân tĩnh trí, nên thoái thác khéo:
- Nhân thông cảm! Tôi bận quá! Đấy, từ bấy đến giờ có dứt được việc ra mà về cơ quan đâu.
Nhân cố bấu víu:
- Anh vì chuyện anh, em vì chuyện em, hai chuyện chẳng ăn nhập... Em vẫn chờ!
Thế rồi, cái kim giấu trong bọc cũng có ngày lòi đầu ra. Đầu kim này chích thẳng vào Đởm. Ghen là thuộc tính của tình yêu. Mặc dù, tình yêu của Đởm là tình yêu đơn phương, dù đơn phương vẫn cứ là tình yêu. Tình yêu bị từ chối càng trở nên mãnh liệt. Đởm nhìn Quý Lê bằng con mắt hận thù, anh ta ngày càng thấy rõ cách đi đứng, ăn nói của Quý Lê đều đáng ghét.
Đởm gặp Nhân, kiếm cớ lân la tình cảm:
- Chợ Vọi bán nhiều vải đẹp lắm, nhất là lụa Hà Đông, người mua đông như tép nhảy. Ngày mai phiên chợ, Nhân đi mua kẻo hết!
Nhân cười nhạt:
- Em lấy tiền đâu ra mà lụa với là.
Đởm sốt sắng:
- Anh cho Nhân vay!
Nhân lừ mắt đáp:
- Vay rồi lấy đâu trả!
Đởm nửa nạc nửa mỡ:
- Không trả bằng tiền thì trả bằng tình.
Nhân nguýt dài, bảo:
- Đừng có ẫm ờ ăn người!
Đởm hạ giọng:
- Đởm yêu Nhân thật lòng!
Nhân đối lại:
- Tôi cũng thật lòng chưa muốn yêu ai cả.
Đởm không tin lời từ chối ấy, anh ta hơi sẵng giọng:
- Đàng này có gì không bằng thằng Quý Lê?
Nhân là cô gái khôn ngoan, nên chẳng dại gì mà gây oán hận một cách không cần thiết:
- Sao anh Đởm lại nói thế. Chẳng hóa ra anh đổ diệt cho em cái tiếng lẳng lơ. Bố mẹ em biết thì khổ em đấy!
Đởm cắm cúi ra về. Bụng hậm hực: "Chỉ tại thằng Quý Lê. Nó ở phương nào lù lù dẫn xác đến cản đường ta đi".
Nhân nhìn theo dáng đi giật giật "bần tiện" của Đởm, thầm nghĩ: Anh biết điều gì trong lòng anh, nhưng anh không biết điều gì trong lòng tôi. Cô thốt ra lời:
"Mảnh sành còn chẳng ăn ai
Lọ là mảnh chĩnh ném ngoài bờ ao".
Ngựa hư chạy càn
Đởm không phải hạng người dễ dàng từ bỏ dục vọng, càng bị lảng tránh hắn càng sán gần và tìm mọi thủ đoạn để đạt cho được mục tiêu của mình, hắn gầy đi trông thấy vì mưu toan đa đoan mà vẫn chẳng đâu vào đâu.
Đởm thất thểu về nhà.
Ông Hoan – bố Đởm ngồi trên hè, tay cầm xe điếu, tay xoay xoay chiếc điếu bát, mắt nhìn con với vẻ nhạc nhiên.
Đởm lên tiếng chào rồi ngồi xuống đối diện với bố.
Ông Hoan thấy con hốc hác, có lúc như thằng mất hồn liền gõ gõ xe điếu xuống bát điếu, hỏi:
- Con đang lo nghĩ chuyện gì phải không?
Đởm miễn cưỡng đáp:
- Vâng!
Ông Hoan không muốn con buồn, nên bảo:
- Nói cho bọ nghe xem nào?
Đởm nhăn mày, phẩy tay:
- Bọ biết cũng chẳng giúp được con đâu!
Ông Hoan lừ mắt, tay nhặt xe điếu, miệng mắng:
- A men! Có đời nào trứng khôn hơn rận. Bọ từng ngần ngày tuổi trên đầu, chuyện này mà bọ không trải qua. Có biết bọ mới nghĩ cách giúp con chứ!
Đởm ấp úng:
- Con... con không nói được.
Ông Hoan chống xe điếu xuống bát điếu, nói giọng ngậm ngùi:
- Lạy Chúa lòng thành! Thằng này... Con mà coi bọ như người ngoài.
Đởm đành tiếng to tiếng nhỏ, kể đoạn được đoạn mất... Tuy vậy ông bố cũng hiểu ra con trai đang trồng cây si trên bãi cát.
Ông Hoan ngượng nghịu thú nhận:
- Ờ... Chuyện đó... Bọ đụt lắm!
Đởm mê Nhân nhưng không tìm được cách chinh phục, lại không có bạn trai cùng trang lứa trải qua cùng cảnh ngộ để vấn kế. Làm thế nào để làm chủ được ả mỹ miều kia? Cứ xắn lăn vào người ta mà chẳng ra ngô ra khoai thì vừa bẽ vừa dơ, chỉ còn cách cuối cùng là dựa vào lối đi của người đi trước. Anh ta tợn tạo khai thác:
- Ngày xưa bọ với mẹ...
Ông Hoan gõ xe điếu vào đầu con ngắt lời:
- Cái thằng! Ngày xưa a? Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy...
Đởm vồ luôn cơ hội:
- Vậy bọ sang hỏi cái Nhân cho con!
Ông Hoan gò xe điếu xuống bát điếu như cầm nhịp cho lời nói:
- Hấp tấp, xô bồ thì không nên chuyện. Cheo hỏi, cưới xin thì phải qua mối lái. Thôi được, để bọ bàn bạc với mẹ con rồi tính.
Đởm giục bằng giọng nôn nóng:
- Bọ phải nhanh lên kẻo có đứa tranh của con đấy!
Ông Hoan lừ mắt.
- Mua con cá, mớ rau hay sao mà sợ đi chợ muộn! Vả lại hỏi vợ chứ đâu phải chữa cháy mà hộc tốc. Các cụ ta bảo "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên tương diện bất tương phùng".
Đởm gãi gáy, tròn mắt hỏi:
- Thế là thế nào hả bọ?
Lời ông Hoan nói nhằm an ủi con hơn là giải thích:
- Nói thì dài dòng, nhưng có thể tóm tắt là ăn nhau ở cái duyên số. Có duyên dù trắc trở cũng nên duyên.
Đởm được lời mà cởi tấm lòng. Hắn giật xe điếu từ tay bố, lôi bát điếu về phía mình, vê thuốc, châm đóm, ngậm xe điếu hít một hơi dài, tiếng điếu kêu tọc tọc như pháo tép nổ. Hắn ấn xe điếu vào tay bố, hoan hỉ nhắc từng đoạn:
- Hữu duyên... thế mà bảo... bọ đụt lắm.
Đởm cảm thấy bố mách nước cho mình cách chinh phục Nhân nên săn đón Nhân như thợ săn vào rừng đón lõng muông thú. Trơ, lỳ và gian giảo là thủ đoạn của Đởm.
Một hôm, Đởm lang thang trên đê Trì Chính nghĩ mung lung về lời bố mách nước thì bất chợt trông thấy Nhân từ xa, hắn te tái chạy tới, thở không ra hơi mà vẫn phô cả hàm răng ám khói thuốc lào. Hắn muốn nhắc lại toàn bộ cả câu thơ triết lý rất hay mà hắn đinh ninh là nói về duyên phận, nhưng không nhớ cũng không sao chắp nối những từ rời rạc thành câu, hắn ấp úng:
- Tôi... hữu duyên... Nhân...
Ngó bộ dạng thiểu não, lúng túng của Đởm, Nhân phát ghét. Không có tình yêu thì mọi lời nói, hành vi đều đáng ghét. Cô biết anh ta nói chuyện yêu đương, nhưng cô không thấy yêu đương mà chỉ thấy tởm lợm. Cô sẵng giọng hỏi:
- Cái gì mà đầu Ngô mình Sở thế anh Đởm?
Đởm không tài nào nhớ được câu thơ châm ngôn mà bọ hắn mớm cho hắn. Túng thế, hắn đọc câu ca dao mẹ hắn thường hát một mình:
"Ta về ta tắm ao ta
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".
Nhân cười tươi như hoa nhưng là cười mỉa:
- Ao nhà anh có nhiều đỉa, em sợ lắm!
Nụ cười và lời nói của cô gái xinh đẹp khiến Đởm thêm mê mẩn và điếng người. Và vì thế mà trong tình yêu của hắn có chứa nọc độc hận thù. Nọc độc hận thù ấy hắn trút cả vào Quý Lê.
Đởm bi bô trong quán nước đầu phố, hạ nhục cả người tình mà hắn đang yêu:
- Con Nhân tằng tịu với thằng Quý Lê. Đúng đêm cử hành lễ Misa, hai đứa rủ nhau ra bờ đê, mải mê tới khuya cũng chẳng thấy về.
Dư luận bay tới tai Thục. Thục nổi gai ốc, bụng bảo dạ:
- Không ngờ Quý Lê là anh cán bộ hư hỏng!
Thục gặp Thuần phàn nàn:
- Chúng ta tin nhầm quỉ sứ rồi!
Thuần ngạc nhiên hỏi:
- Chuyện gì mà nghiêm trọng vậy?
Thục thuật lại những lời tai nghe:
- Tối cử hành lễ Misa, Quý Lê rủ con Nhân ra bờ đê, mải mê tới khuya cũng chẳng thấy về.
Thuần phàn nàn với Khuyến:
- Tối hôm cử hành lễ Misa, chị sang bên ngoại nên không biết. Nhưng nghe nói anh Quý Lê với cái Nhân ra bờ đê, khuya mới về.
Khuyến sửng cồ:
- Quỷ sa tăng nào đặt điều ấy. Cả ngày và đêm hôm lễ Misa em bị cảm nắng phải nằm nhà. Chính anh Quý Lê đánh cảm và sắc thuốc cho em uống. Hai anh em nằm một giường, nói chuyện suốt đêm.
Thuần làm dấu thánh:
- Lạy Chúa! Việc này chứng tỏ có kẻ ghen ăn tức uống hoặc gieo rắc dư luận bôi nhọ cán bộ.
Khuyến đoán:
- Ở đây có tâm địa ấy chỉ... – Anh toan nói lời phạm đức tin nên đành nói chệch đi, tuy không đúng đích danh chúa quỷ sa tăng nhưng cũng đúng loại quỷ con – thằng Đởm.
Thuần chớp chớp mắt, cô cảm thấy trút được gánh nặng:
- Có nhẽ đấy! Đởm đang theo đuổi Nhân. Nó đánh ghen! Rõ dơ! Em nên lánh xa đừng kết bạn với loại người ấy.
Khuyên vê giọng nói chắc như đinh đóng cột:
- Có các vàng em cũng thèm vào!
Khuyến không yên tâm vì người bạn tốt bị mang tiếng xấu, anh "mở cuộc điều tra".
Bà hàng nước đầu phố ngấm nguýt to nhỏ:
- Nhà anh Đởm nói chứ ai biết đâu ma ăn cỗ!
Khuyến thanh minh hộ anh cán bộ công an:
- Thằng xỏ lá ấy nói láo đấy. Chính đêm lễ thánh Misa cháu bị cảm nắng phải nằm nhà. Anh Quý Lê đánh cảm, sắc thuốc, trò chuyện với cháu suốt đêm.
Bà hàng nước ớ người.
- Không có cậu thì tôi cứ ấm ức mãi trong lòng. Thì ra, tôi đã nghi oan một cán bộ tốt.
Khuyến gặp Đởm, không nếp tẻ, mắng luôn:
- Mày vấy bẩn sang người lành, mày không phải con chiên của Chúa.
Lời mắng này nặng lắm. Đởm tức mà chẳng dám ho hoe, hắn sợ ông Chánh trương Kiến. Lôi thôi, ông Chánh thưa với cha thì khốn.
Thấy Đởm im lặng, Khuyến dịu giọng:
- Anh ta đến đây có làm hại ai đâu.
Ngỡ thế là đủ xoa dịu được Đởm, nào ngờ hắn găm mối oán hận này trong lòng.
Ít ngày sau, Đởm bí mật gặp cha Quỳnh xin tham gia Đoàn vệ sĩ bảo vệ Thánh đường. Khi Phát Diệm trở thành vùng chiếm đóng của Pháp, Đởm được chọn về làm việc tại Phòng Nhì Tổng bộ Phát Diệm.
*
Quân Pháp mở rộng phạm vi kiểm soát xuống miền duyên hải phía nam Bắc Bộ. Phát Diệm trở thành trung tâm chính trị, quân sự của cả vùng.
Biđô chột được Bộ chỉ huy Pháp ở Nam Định cử làm chỉ huy quân viễn chinh Pháp đồn trú Kim Sơn và khu vực phía Nam tỉnh Nam Định. Biđô chột đón vợ ra Phát Diệm.
Nhâm từ một con nhà thổ trở thành bà lớn ngự trong ngôi biệt thự khang trang giữa thị trấn Phát Diệm sầm uất, ngày ngày chỉ lo son phấn, quát tháo bọn quân hầu, nằm ườn xem báo khỏa thân và chờ nghe tiếng còi xe Jép chở Tư lệnh Biđô chột từ ngoài cổng vọng vào.
Một hôm, Nhâm đang tơ tưởng đến thằng Tây đen hùng hục phá hoại đời con gái của mình và mỉm cười tự nhủ: "Thằng mọi đen khiếp đến thế"... thì người nhà từ Vụ Bản sang báo tin:
- Anh Tiến Tạo bị Pháp bắt giam ở nhà pha Phòng Nhì. Nguy lắm!
Nhâm biết anh mình là Việt Minh. Việt Minh bị Phòng Nhì bắt thì chẳng chết vì viên đạn cũng chết vì dùi cui. Đòn tra tấn của Phòng Nhì đâu phải thường. Nhưng, muốn cứu nạn nhân phải biết nạn nhân phạm tội nặng nhẹ ra sao rồi mới tùy cơ ứng biến. ả hỏi:
- Chị kể cụ thể, đừng giấu giếm. Anh Tiến bị bắt tại trận hay trong trường hợp nào.
Người đưa tin đáp:
- Bị bắt khi cải trang vào thành Nam Định trinh sát!
Nhâm nôn nóng hỏi:
- Anh ấy khai báo những gì?
Người đưa tin lắc đầu, đáp:
- Chẳng ai biết được chuyện đó. Theo suy đoán thì trước mắt anh ấy chưa khai gì cả, có em gái lấy Tây cũng dễ biến báo, nhưng để lâu thì không lại được với Phòng Nhì.
Nhâm bảo người đưa tin:
- Chị cứ về đi! Em sẽ thúc thằng chột sang Nam Định ngay sáng mai.
Tối ấy Nhâm hành thằng Tây háu gái đủ vành đủ vẻ. ả dọa sẽ tự tử nếu không cứu được người con trai độc nhất của chi họ Nguyễn Tiến.
Biđô chột nhận lời. Hắn xuất thân từ Phòng Nhì nên biết cách gỡ tội cho anh vợ, lại quen thân nhiều quan chức Phòng Nhì nên công việc dễ mát mái xuôi chèo.
Sau khi thăm hỏi xã giao các quan chức có quyền có thế ở Phòng Nhì, Biđô chột đàng hoàng đến nhà giam gặp người bị bắt.
Biđô chột chưa biết mặt anh vợ, nhưng không sao, bọn lính canh nhà giam sẵn sàng giúp "Ngài Tư lệnh" biệt khu Phát Diệm.
Biđô chột là gã mật thám có nghề nên quen đề phòng sự bất ngờ. Khi ngồi đối diện ở phòng tiếp phạm nhân, hắn hỏi:
- Tên họ là gì?
Nguyễn Tiến Tạo chưa từng gặp mặt thằng em rể bất đắc dĩ, chỉ biết hắn chột một mắt phải che lấp bằng một mắt kính đen và mũi bị vẹo. Anh ta vừa thấy khuôn mặt của Biđô chột đã nảy linh cảm yên lành nên không duy trì thái độ bất hợp tác mà bình thản đáp:
- Nguyễn Tiến Tạo!
Biđô chột lại hỏi:
- Quê quán?
Tiến Tạo đáp, giọng không thay đổi:
- Vụ Bản!
Biđô chột hỏi tiếp:
- Có ai thân thích phục vụ quân đội Pháp không?
Tiến Tạo đáp:
- Em gái tôi tên là Nhâm, lấy chồng người Pháp tên là Biđô...
Biđô chột cười, chìa tay bắt tay anh rể:
- Tôi là Biđô đây! Biđô chột chính hiệu!
Qua sông phải lụy đò, Tiến Tạo cố tạo ra nụ cười niềm nở:
- Anh em gặp nhau, hân hạnh vô cùng!
Biđô chột tìm hiểu sự tình:
- Anh đã khai những gì, cứ nói sự thật. Có nói thật tôi mới cứu nổi anh.
Tiến Tạo đáp:
- Tôi khai bất mãn với Việt Minh nên "dinh tê", đang lớ ngớ tìm việc làm để sinh sống thì bị bắt.
Biđô chột cười, nói nhỏ:
- Anh là bộ đội Việt Minh, tôi lạ gì. Nhưng, chẳng sao: Anh khai thế là càng dễ cho tôi.
Tiến Tạo ngơ ngác hỏi:
- Dễ cái gì?
Biđô chột:
- Dễ xin bảo lãnh! Nhưng ra ngoài anh sẽ đi đâu?
Tiến Tạo:
- Về quê hương bản quán!
Biđô chột xua tay:
- Không được! – Hắn nghiêng mình nói nhỏ: - Để dễ bề vọt ra với bộ đội Việt Minh à?
Tiến Tạo làm phách:
- Hoài nghi thì cứ để tôi cho cánh Phòng Nhì làm việc.
Biđô chột phẩy tay:
- Không được! Tôi đã hứa với Nhâm cứu bằng được anh. Về phần anh, anh phải hứa nghe theo sự sắp xếp của tôi, tôi mới cứu anh.
Tiến Tạo đáp lấy lệ:
- Bức bách nhau quá!
Biđô chột nhún vai:
- Bức bách hả? Không thiệt cho anh đâu – Hắn nói nhỏ: - Anh là Trung đội trưởng của Việt Minh, tôi sẽ tìm cách cất nhắc anh lên cấp thiếu úy. Đánh rơi cục bạc lại nhặt được thỏi vàng. Hãy so sánh mới thấy em rể anh biết lo toan cho người thân.
Tiến Tạo đành nắm bắt lấy cái có thể. Anh ta gật đầu nói câu khách sáo:
- Không thể từ chối lòng tốt của người nhà.
Biđô chột có thế có quyền làm như lời nói.
Mấy tháng sau, Nguyễn Tiến Tạo nghiễm nhiên trở thành ngài thiếu úy giang tuần kiêm đồn trưởng đồn Kim Đài, lúc nào cũng đội mũ kêpi, mặc trang phục hải tuần trắng toát.
Nguyễn Tiến Tạo đối đầu với đồng đội cũ, anh ta đã phạm tội gì với nhân dân? Chẳng ai biết cả. Chỉ biết, anh ta cần mẫn dẫn quân đi tuần tiễu, hoặc ngồi canô lướt xuôi bơi ngược trên dòng sông Vạc khiến chẳng ít người dân tay không tấc sắt lo ngại.
Anh ta dõng dạc tuyên bố:
- "Nước Chúa" cần những người như ta!
Anh ta huênh hoang như là chiến sĩ Thánh chiến sẵn sàng tử vì đạo dù anh ta không phải là con chiên dưới bàn tay chăn dắt của đấng chăn chiên - đầy tớ của Chúa nhân từ.
Ông chánh trương yêu đời đẹp đạo
Năm nay Juse Kiến tròn năm mươi tuổi, cái tuổi đã từng trải và chín chắn. Ông là một giáo dân thong dong mọi sự, luôn luôn tâm niệm sống yên lành cho tới ngày được về chầu hầu bên Chúa. Ông hằng dạy bảo con và khuyên răn xóm đạo:
- Điều gì Đức Chúa đã răn dạy con người không được đơn sai.
- Chúng ta là kẻ có tội, ngày đêm sám hối để ăn mày nơi Mẹ một niềm xót thương.
...
Vì lòng thành kính Chúa và đức nhẫn nhịn mà Juse Kiến được giáo dân tin mến cử làm Chánh trương giúp linh mục Quy cai quản công việc trong xứ đạo.
Bà Kiến được thánh Phêrô dẫn lên thiên đàng chầu hầu bên chân Chúa hồi mới ba mươi tuổi, để lại cho ông một trai một gái. Ơn Chúa! Hai đứa đều hiền lành, yêu đời và mến đạo.
Những ngày người Pháp chiếm đóng Phát Diệm, linh mục Quỳnh dùng những lời thống thiết kêu gọi thanh niên nhập đội ngũ vệ sĩ để giữ gìn nước của Chúa và bảo vệ đức tin. Ngoài dụ dỗ, mua chuộc, Quỳnh áp dụng thêm biện pháp khủng bố:
- Nước Chúa trong sạch không phải là nơi chứa những con chiên ghẻ.
Khuyến – con trai ông Kiến hoang mang giữa tính chân thật và thói giả dối, anh không chấp nhận cảnh kẻ ngoại bang đè đầu cưỡi cổ mình, nhưng cảnh "cá chậu chim lồng" anh có thể làm gì, đành hỏi bố:
- Bọ nghĩ giùm con nên thế nào?
Chánh trương Kiến lúng túng. Đời và Đạo, Pháp và ta thế nào đó có vẻ như vội vã, chưa rõ ràng... Ông đáp chung chung:
- Con hãy làm như lời Chúa nhắc nhở!
Khuyến không phải là linh mục nên không được Chúa trực tiếp nhắc nhở điều nên điều chớ, lại không được sự hướng dẫn cách thoát ra vùng kháng chiến, đành tạm thời giữ thân bằng cách chạy theo trào lưu.
- Vậy thì con đi làm vệ sĩ!
Chánh trương Kiến ngỡ đó là việc làm bình thường làng xóm có tuần đinh ngăn ngừa trộm cắp thì nhà thờ có vệ sĩ để bảo vệ nước Chúa thiêng liêng.
Ngày một ngày hai sự việc diễn biến khác với ý nghĩ sơ khai, càng khác xa lời khuyến dụ ban đầu. Kẻ xấu trà trộn với những người lạc hậu, nhẹ dạ cả tin... lung lạc họ, dắt dẫn họ làm những việc trái ý Chúa lòng lành. Cha Quỳnh cởi bỏ áo choàng đen, mặc quân phục màu cứt ngựa, đeo lon đại úy, dẫn vệ sĩ đi càn hết trận này đến trận khác, có trận phối hợp với lính Pháp, nhiều trận độc lập ra quân. Lính vệ sĩ đa phần xuất thân nghèo khổ, được đi càn là được vơ vét, nhặt từ cái váy rách đến nồi cá kho. Cha Quỳnh nổi tiếng là con hổ xám giết người không chút ghê tay.
Chánh trương Kiến giật mình khi biết hành động man rợ của những kẻ núp dưới danh Chúa lòng lành. Ông nghĩ mung lung, dĩ nhiên ông muốn Chúa cao cả bao dung nên đến nhà thờ xưng tội với linh mục Quy.
- Con là kẻ có tội... những việc xảy ra... con lo sợ... con ngờ vực... Con là kẻ có tội! Người tu hành...
Linh mục Quy không rửa tội cho kẻ có tội mà giải đáp:
- Tu hành là làm rạng danh Chúa, chăn dắt việc đời, chấn hưng sự đạo – Linh mục nhấn mạnh – Tu hành không phải là một tội; kẻ mượn danh Chúa để làm điều trái ý Chúa mới là kẻ có tội. Lạy chúa tôi lòng lành!
Thuần – con gái Chánh trương Kiến là cô gái hiền thục, mồ côi mẹ từ năm mười tuổi, mới mười hai mà Thuần đã tần tảo, quán xuyến mọi việc trong nhà. Ngoài hai mươi tuổi cô vẫn chẳng chịu lấy chồng. Cô muốn cùng bố chăm lo cho em trai nên người. Thuần năng đi nhà thờ và siêng làm điều thiện; bạn bè rủ cô vào Hội đồng ca giúp lòng mình hớn hở lại được tiếng kính Chúa, cô mượn cớ vì việc nhà bận rộn chẳng thể lưa cho ai để từ chối. Nhưng không được. Con gái cụ Chánh trương mà chểnh mảng việc nhà Chúa là có tội. Nhờ vào Hội đồng ca được cùng bạn bè hát thánh lễ mà cô được nghe truyền tai khá nhiều chuyện. Nhất là các việc làm trái đạo của cha Quỳnh và các vệ sĩ dưới quyền chỉ huy của cha.
Thuần ngồi đối diện với bọ than thở về việc làm của đại úy Quỳnh và lo lắng "Em Khuyến nhà ta" bị sa ngã vào con đường u ám. Cô thì thào:
- Cha Khâm ở xứ đạo Trùng Phương tợn tạo không kém cha Quỳnh ở xứ đạo ta.
Chánh trương Kiến bán tin bán nghi:
- Cả đời con không ra khỏi đất Phát Diệm cớ sao con biết chuyện ở nơi xa xôi ấy?
Thuần đáp:
- Bạn con có chị gái lấy chồng ở bên đó. Nó mới đi thăm chị gái sinh con đầu lòng về hôm qua. Cha Khâm bên ấy giết người tợn lắm, giết xong quẳng xác người xuống Ngòi Cau.
Chánh trương Kiến giơ tay làm dấu:
- Lạy Chúa! Lòng con bối rối... Con là kẻ có tội dám manh lòng nghi ngờ đức phẩm của những bậc bề tôi của Chúa, những bậc thay Chúa chăn dắt con chiên. Chúa ôi, nước nào cũng có phản đồ Juda làm hoen ố danh Chúa!
Thuần cố nén tiếng "hừ" khổ bật ra trước khi nói nên lời:
- Gần mực thì đen gần đèn thì rạng, con lo em Khuyến nhà mình...
Chánh trương Kiến xua xua tay như xua con nhặng vo ve ám ảnh mình:
- Khuyến nhà ta lòng lành! Lạy Chúa! Xin Chúa hãy thương xót con chiên bơ vơ của Chúa.
Thuần lại nén tiếng thở dài.
- Con vẫn lo Khuyến nhà ta không vững lòng.
Ông già từng trải không tin ở đời có việc khó không thể làm được.
- Ờ, để bọ lựa lời răn bảo nó.
Hôm Khuyến về nhà chơ, ông Kiến nhìn con trai mặc quần áo loang lổ đã thấy gờn gợn trong lòng.
- Bổn phận của người có đạo là phải làm rạng danh Chúa, con phải giữ mình để được Chúa cao cả đoái thương.
Vệ sĩ Khuyến bộc bạch tình cảnh:
- Con của bọ là con của bọ. Nhưng con phải khôn khéo lắm mới tránh được những cặp mắt soi mói. Dù con không phải là loại con chiên ghẻ, cũng phải giữ khỏi lạc đàn. Nếu con hớ hênh thì dù là vệ sĩ ngoan đạo cha Quỳnh cũng chẳng tha.
Chánh trương thở dài:
- Lạy Chúa! Khó cho con ta quá!
Thuần dùng lời xa xôi để nhắc nhở em:
- Chị chỉ mong giữ gìn sao cho tới kỳ về chầu hầu bên Chúa không bị thánh Phêrô xua khỏi cửa Thiên đàng.
Chánh trương Kiến bỗng nhăn mặt, đưa cả bàn tay day day hàm răng. Nỗi đau linh hồn xô đẩy sự đau thể xác.
Khuyến tỏ vẻ xót xa:
- Chiếc răng sâu vẫn còn đau hả bọ?
Ông Kiến đáp:
- Ừ! Hay đau về đêm...
Thuần xót xa thay cho bố:
- Thứ nhất đau mắt thứ nhì giắt răng... Con đã hỏi... bên xóm Thượng có lá thuốc chữa sâu răng hay lắm, mai con đi mua về cho bọ.
Ông Kiến muốn làm yên lòng hai con:
- Nỗi đau phần hồn khốn khổ hơn nỗi đau phần xác. Đau răng của bọ là chuyện vặt, bọ chỉ mong Chúa che chở hai con sống yên lành qua tao đoạn nhiễu nhương này.
Khuyến nói với giọng không vui:
- Phát Diệm ta bây giờ như ốc đảo. Bề trên đã ra lệnh "ngăn người ra cấm người vào", ai vi phạm đều bị bắn ngay.
Thuần phản ứng:
- Đất của Chúa chứ đâu phải của mấy người đó.
Ông Chánh trương chép miệng:
- Biết làm thế nào? Quyền trong tay bề trên.
Thuần thở dài, buông lửng câu hỏi:
- Biết đến bao giờ?